intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Địa danh tỉnh Tiền Giang dưới góc nhìn văn hóa học

Chia sẻ: ViLusaka2711 ViLusaka2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

38
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực rất quan trọng và cần thiết trong nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu khu vực. Bởi vì, địa danh là một dạng thức ngôn ngữ, về bản chất có những mối quan hệ gắn bó, những ảnh hưởng hay tác động qua lại với văn hóa, lịch sử, địa lý, dân cư nơi nó tồn tại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Địa danh tỉnh Tiền Giang dưới góc nhìn văn hóa học

An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ĐỊA DANH TỈNH TIỀN GIANG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC<br /> <br /> Võ Văn Sơn1<br /> 1<br /> Trường Đại học Tiền Giang<br /> <br /> Thông tin chung: ABSTRACT<br /> Ngày nhận bài: 03/04/2018<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt: Toponymy research is a crucial and necessary field in the study of culture<br /> 14/07/2018 and area. Because toponymy is a linguistic form, it has intrinsic<br /> Ngày chấp nhận đăng: relationships, influence, or interactions with the local culture, history,<br /> 08/2018 geography, and people. Hence, toponymy is "the eyes of culture" since it<br /> Title: reflects the particular characteristics of the place. From the cultural<br /> Toponomy of Tien Giang perspective, this paper focuses on highlighting the cultural marks of the<br /> province from the cultural toponymy in Tien Giang province as well as presents the cultural life of this<br /> perspective new area’s residents.<br /> Keywords:<br /> Toponymy, language, Tien TÓM TẮT<br /> Giang province, culture<br /> Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực rất quan trọng và cần thiết trong nghiên<br /> Từ khóa:<br /> cứu văn hóa và nghiên cứu khu vực. Bởi vì, địa danh là một dạng thức ngôn<br /> Địa danh, ngôn ngữ, tỉnh Tiền<br /> Giang, văn hóa ngữ, về bản chất có những mối quan hệ gắn bó, những ảnh hưởng hay tác<br /> động qua lại với văn hóa, lịch sử, địa lý, dân cư nơi nó tồn tại. Do đó, địa<br /> danh còn là “cửa sổ văn hóa” để tìm hiểu diện mạo của một vùng đất. Từ<br /> góc nhìn văn hóa học, bài viết tập trung phác họa làm rõ các dấu ấn văn hóa<br /> thể hiện qua các địa danh ở tỉnh Tiền Giang như chủ thể văn hóa, thời gian<br /> văn hóa, không gian văn hóa.<br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ gian văn hóa” (Võ Văn Sơn, 2017, trang 49). Vì<br /> Địa danh học là một ngành của Ngôn ngữ học, thế, địa danh và văn hóa còn có mối quan hệ chặt<br /> chuyên nghiên cứu nguồn gốc, ý nghĩa và đặc chẽ với nhau, thể hiện được khả năng tư duy<br /> điểm cấu tạo các tên gọi chỉ các đối tượng địa lý của người địa phương. Do đó, địa danh giống<br /> tự nhiên và nhân văn. Nghiên cứu địa danh có như “những tấm bia lịch sử - văn hóa của đất<br /> thể chỉ ra các phương thức, nguyên tắc tạo địa nước” (Lê Trung Hoa, 2006, trang 213).<br /> danh đặc thù gắn với mỗi vùng phương ngữ và Chính vì thế, vấn đề địa danh từ lâu đã được rất<br /> các khu vực khác nhau. Bên cạnh đó, địa danh nhiều nhà nghiên cứu ở nước ta quan tâm.<br /> còn cung cấp nguồn tư liệu quý cho nhiều ngành Nhiều công trình nghiên cứu về địa danh từ<br /> khoa học khác như Dân tộc học, Địa lý học, Lịch những góc độ khác nhau của các tác giả tiêu<br /> sử học, Khảo cổ học, Văn hóa học. Địa danh biểu như: Đinh Xuân Vịnh, Nguyễn Văn Âu,<br /> được sinh ra, phát triển cùng văn hoá và cũng là Hoàng Thị Châu, Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên<br /> một hiện tượng văn hóa. Bởi vì, ngôn ngữ là Trường, Từ Thu Mai... Tuy nhiên, tính đến hiện<br /> sản phẩm/thành phần của văn hóa. Chính vì thế, nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về địa<br /> “địa danh phản ánh nhiều khía cạnh của văn hóa danh, mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một cách định<br /> như chủ thể văn hóa, thời gian văn hóa, không nghĩa riêng tùy cách lập luận và hướng tiếp cận<br /> <br /> <br /> <br /> 67<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> của mình. Trong bài viết của mình, chúng tôi sử danh chợ ở Tiền Giang (2015) của Võ Văn<br /> dụng định nghĩa của tác giả Lê Trung Hoa: Sơn, Những đặc điểm của địa danh Tiền Giang<br /> “Địa danh là những từ hoặc ngữ được dùng làm (2011) của Nguyễn Thị Kiều Oanh… Vận dụng<br /> tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các công những lý thuyết về Ngôn ngữ học và Văn hóa<br /> trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, học, chúng tôi muốn khắc họa khái quát về bức<br /> các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ” (Lê tranh địa danh ở tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn<br /> Trung Hoa, 2006, trang 18). Văn hóa học. Trên cơ sở kế thừa những người<br /> Tiền Giang là vùng đất được khai phá sớm ở nghiên cứu trước, bài viết này góp phần tìm<br /> Nam bộ. Trong quá trình khai hoang và lập ấp, hiểu những đặc trưng về ngôn ngữ, văn hóa, xã<br /> nhân dân Tiền Giang đã tạo ra một hệ thống địa hội của vùng đất và con người Tiền Giang qua<br /> danh rất phong phú và đa dạng. Đó là địa danh các thời kỳ khác nhau.<br /> chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa 2. NỘI DUNG<br /> danh chỉ địa hình (bưng, cồn, láng, sông, rạch, 2.1 Khái quát kết quả thu thập và phân loại<br /> vàm, xẽo), địa danh chỉ công trình xây dựng<br /> địa danh ở tỉnh Tiền Giang<br /> (ao, cầu, đường, bến đò, chợ, cống), địa danh<br /> hành chính hay còn gọi là địa danh chỉ đơn vị Dựa vào đối tượng (hay loại hình), bài viết<br /> dân cư (ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn, phân loại địa danh ở tỉnh Tiền Giang theo tiêu<br /> huyện, thị, thành) và địa danh vùng. Theo quy chí tự nhiên và không tự nhiên. Chúng tôi thu<br /> luật tất yếu của cuộc sống, nhiều địa danh vẫn thập được 3.000 địa danh với 4 đối tượng (địa<br /> bền vững theo thời gian dẫu có bao thăng trầm danh chỉ địa hình tự nhiên, địa danh chỉ các công<br /> nhưng cũng có những địa danh dần dần ít được trình xây dựng, địa danh chỉ các đơn vị hành chính và<br /> nhắc đến rồi đi vào quên lãng.<br /> địa danh chỉ vùng). Kết quả thu thập địa danh ở<br /> Nhìn chung, các công trình viết về địa danh ở tỉnh Tiền Giang chủ yếu từ hai nguồn: nguồn<br /> Tiền Giang cũng không nhiều. Có thể kể ra một thứ nhất là theo các văn bản hành chính, bản đồ<br /> số tác phẩm sau đây: Phủ biên tạp lục (1776)<br /> các loại, các tài liệu lưu trữ tại địa phương, các<br /> của Lê Quý Đôn, Gia Định thành thông chí<br /> công trình viết về Tiền Giang; nguồn thứ hai từ<br /> (1820) của Trịnh Hoài Đức, Định Tường (Mỹ<br /> Tho) xưa (2001) của Huỳnh Minh, Địa chí Tiền kết quả điều tra điền dã theo sự tồn tại thực tế<br /> Giang (2005, 2007), Tìm hiểu nguồn gốc một số của các địa danh trong cộng đồng dân cư.<br /> địa danh tiêu biểu ở Tiền Giang (2010) và Địa<br /> Bảng 1. Thống kê kết quả phân loại địa danh ở tỉnh Tiền Giang theo đối tượng<br /> <br /> Số Tỷ lệ<br /> Stt Tiêu chí Đối tượng địa danh<br /> lượng (%)<br /> 1 Tự nhiên Địa danh chỉ địa hình tự nhiên 624 20,8<br /> Địa danh chỉ các công trình xây dựng 1.200 40,0<br /> 2 Không tự nhiên Địa danh chỉ các đơn vị hành chính 1.161 38,7<br /> Địa danh chỉ vùng 15 0,5<br /> Tổng cộng 3.000 100<br /> (Nguồn: Số liệu thống kê của tác giả năm 2018)<br /> - Địa danh chỉ địa hình tự nhiên: có 624 địa thể, sơn danh (gò, giồng) có 20 địa danh (ví<br /> danh chỉ địa hình, chiếm tỉ lệ 20,8%. Địa dụ như: gò Táo, gò Trâm Bầu - huyện Gò<br /> danh tự nhiên thường đứng sau những tiền Công Tây, giồng Tha La, giồng Kiến Định -<br /> từ như: ao, bãi, bàu, bưng, cồn, cù lao, láng, huyện Châu Thành, gò Đôi, giồng Cai Lậy,<br /> hóc, gò, giồng, sông, rạch, tắt, xẽo, vàm. Cụ giồng Quản Tú, giồng Bù Lu - huyện Cai<br /> <br /> <br /> 68<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> Lậy) chiếm 0,7%; thủy danh có 604 địa danh Phước, huyện Gò Công Đông); xóm Thủ,<br /> (ao, bãi, bàu, bưng, cồn, cù lao, láng, tắt, xóm Dừa (xã Bình Tân, huyện Gò Công<br /> rạch, sông, vàm, xẽo) chiếm tỉ lệ 20,1% (ví Tây).<br /> dụ như: ao Trường Đua - thị xã Gò Công, bàu 2.2 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn<br /> Giai Cạn - huyện Cái Bè, bến Tắm Ngựa - không gian, thời gian và chủ thể văn<br /> thành phố Mỹ Tho, cù lao Tân Thới - huyện hóa<br /> Tân Phú Đông, rạch Xoài Hột - huyện Châu<br /> 2.2.1 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn<br /> Thành, rạch Ban Chón - huyện Cai Lậy, vàm<br /> không gian văn hóa<br /> Kỳ Hôn - huyện Chợ Gạo).<br /> - Địa danh chỉ công trình xây dựng: có 1.200 - Địa hình: giống như các tỉnh khác của Đồng<br /> địa danh chỉ công trình xây dựng, chiếm tỷ bằng sông Cửu Long, Tiền Giang được đánh<br /> lệ 40% trong tổng số địa danh được thu thập, giá là vùng đất sở hữu nhiều sông ngòi,<br /> thường đứng sau các tiền từ như: bến đò, kênh rạch chằng chịt (sông, rạch, kênh, xẽo,<br /> bến xe, bùng binh, cảng cá, cầu, chợ, công khém, hóc…) cho nên có rất nhiều địa danh<br /> viên, cống, đập, đường, kênh, mương, lộ, ra đời phản ánh rất rõ tính chất, đặc điểm và<br /> nghĩa trang, mương, quãng trường, quốc lộ... diện mạo của miền sông nước gồm tên sông,<br /> Đó là các địa danh: bến xe Mỹ Tho, bùng binh tên rạch, tên kênh, tên xẽo, tên vàm…: sông<br /> Trung Lương, cảng Vàm Láng, cầu Rạch Miễu, Cửa Tiểu, sông Cửa Đại (huyện Gò Công<br /> công viên Lạc Hồng, đường Hùng Vương, ngã Đông); rạch Giao Miệng Lớn, rạch Giao<br /> ba Ông Văn, kênh Chợ Gạo, chợ Gạo, chợ Gò Miệng Nhỏ, rạch Cổ Cò (huyện Cái Bè);<br /> Công, quốc lộ 1A). Trong đó, công trình giao kênh Bắc Đông, vàm Bánh Tét (huyện Tân<br /> thông có 920 địa danh, chiếm tỉ lệ 31%; Phước). Do phù sa bồi đắp, Tiền Giang còn<br /> công trình xây dựng khác có 280 địa danh, có nhiều gò và giồng đất/cát lớn. Các gò và<br /> chiếm tỉ lệ 9,1%. giồng này có một ý nghĩa đặc biệt quan<br /> - Địa danh chỉ các đơn vị hành chính: Tiền trọng đối với đời sống của người dân như<br /> Giang có 1.161 địa danh hành chính, chiếm sinh sống, làm ăn, trồng hoa màu… cho nên<br /> tỉ lệ 38,7%, thường đứng sau các tiền từ như: những địa danh ra đời gắn liền với các con<br /> tổ, ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn, huyện, giồng đã phản ánh được một vùng đất giàu<br /> thị, thành, tỉnh. Ví dụ: ấp Bắc (xã Tân Phú, phù sa này. Tiêu biểu là địa danh Ba Giồng<br /> huyện Cai Lậy); xã Thới Sơn, phường Tân (chữ Hán gọi là Tam Phụ) là tên gọi chỉ<br /> Long (thành phố Mỹ Tho); thị trấn Cái Bè vùng đất từ phía Nam sông Vàm Cỏ Tây<br /> (huyện Cái Bè); thị xã Gò Công, huyện Gò đến sông Tiền: giồng Dứa, giồng Cát hay<br /> Công Đông, huyện Gò Công Tây… So với giồng Giữa, giồng Thuộc Nhiêu (huyện<br /> địa danh chỉ công trình xây dựng thì địa Châu Thành, huyện Cai Lậy). Ngoài ra, Tiền<br /> danh hành chính có số lượng ít hơn nhưng Giang còn có nhiều gò, giồng khác: giồng<br /> lại cao hơn số lượng địa danh chỉ địa hình Ông Huê, gò Lân (huyện Gò Công Đông);<br /> và địa danh chỉ vùng. giồng Mồ Côi (huyện Cai Lậy); giồng Tha<br /> - Địa danh chỉ vùng: Tiền Giang có 15 địa La (huyện Châu Thành); gò Cát (thành phố<br /> danh, chiếm tỉ lệ 0,5%, gồm các địa danh Mỹ Tho)…<br /> đứng sau các tiền từ như: khu, vùng, xóm. Ở - Động vật: địa danh chỉ các loại động vật ở tỉnh<br /> Tiền Giang địa danh vùng chiếm số lượng Tiền Giang khá phong phú và đa dạng. Đó là<br /> không nhiều. Ví dụ: xóm Vuông, xóm Chà những loài động vật quen thuộc và phổ biến<br /> Là (xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy); trong dân gian, gắn liền với cuộc sống lao<br /> xóm Giá Trên, xóm Giá Dưới (xã Kiểng động và sinh hoạt của con người: rồng, rắn,<br /> <br /> <br /> 69<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> hổ, ngựa, rùa, cá mắm, chim muông… Hiện Ngoài ra, một số địa danh gọi theo đặt điểm<br /> nay vẫn còn lưu lại dưới nhiều địa danh như: tính chất của đối tượng địa danh như: cầu<br /> cồn Rồng (thành phố Mỹ Tho); láng Chim, Nước Đục (xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè);<br /> tràm Cá Sặc (huyện Tân Phước); rạch Cả Rắn chợ Gò Công Cũ, chợ Gò Công Mới (thị xã<br /> (huyện Cai Lậy); ấp Cá, cầu Trâu (huyện Gò Công); rạch Giao Miệng Lớn (xã An<br /> Châu Thành); cầu Cựa Gà, rạch Kiến (huyện Hữu, huyện Cái Bè); cửa Tiểu, cửa Đại,<br /> Chợ Gạo); gò Rùa (thị xã Gò Công); bàu Sấu, kênh Rạch Lớn (xã Phước Trung, huyện Gò<br /> cầu Cá Thu, láng Lộc, trại Cá (huyện Gò Công Công Đông); cầu Sắt (xã Vĩnh Kim, huyện<br /> Đông); chợ Cá Chốt, rạch Cò (huyện Gò Châu Thành); cầu Vĩ (xã Mỹ Phong, thành<br /> Công Tây). phố Mỹ Tho).<br /> - Thực vật: lấy tên thực vật (cây cỏ, hoa lá) - Vị trí của đối tượng: ở tỉnh Tiền Giang, việc<br /> để đặt địa danh và nhân danh (tên người) là dựa vào đối tượng để đặt tên rất phổ biến và<br /> một hiện tượng rất phổ biến của người dân số lượng từ ngữ chỉ phương hướng, vị trí<br /> Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói được sử dụng tương đối khá làm tăng thêm<br /> riêng. Ví dụ như: cầu Cây Sung, rạch Cây tính đa dạng, phong phú của vùng đất này.<br /> Dông, rạch Cây Cam (huyện Cái Bè); bưng Ví dụ tên hành chính của các ấp, xã: ấp<br /> Bồn Bồn, rạch Mù U, chợ Ba Dừa, đường Đông, ấp Tây, ấp Bắc, ấp Thượng, ấp Hạ (thị<br /> Cây Trâm (huyện Cai Lậy); bàu Bèo, kênh trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây); xã An<br /> Tràm Mù (huyện Tân Phước); cống Cây Da, Thái Đông, xã An Thái Trung, xã Mỹ Đức<br /> rạch Xoài Mút, rạch Rau Răm, đường Bờ Đông, xã Mỹ Đức Tây (huyện Cái Bè);<br /> Cỏ Sả (huyện Châu Thành); giồng Lức, xã Tân Lý Tây, xã Tân Lý Đông (huyện<br /> giồng Nâu, gò Me, ấp Cây Bàng (huyện Gò Châu Thành); hay tên các công trình xây<br /> Công Đông). dựng (kênh, cầu, cống, đường,…): đường<br /> - Nguyên vật liệu: Tiền Giang không có nhiều Nam Tân Long, đường Bắc Tân Long (thành<br /> khoáng sản quý hiếm, chỉ có một số khoáng phố Mỹ Tho); kênh Chà Trên, kênh Chà<br /> sản phi kim loại như đất sét và cát, dùng để Dưới (xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè). Bên<br /> làm đồ gốm và vật liệu xây dựng. Nhiều địa cạnh địa danh Hán Việt, có các địa danh<br /> danh ở Tiền Giang đã dựa vào đặc trưng nổi Hán Việt kết hợp các số hoặc chữ cái nhằm<br /> bật trên của đối tượng để đặt tên như: cầu phân biệt chúng với nhau, chẳng hạn: ấp<br /> Đất Sét (xã Hậu Thành, huyện Cái Bè); Tân Bình 2A, ấp Tân Bình 2B (xã Tân<br /> láng Cát (xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước); Thuận Bình, huyện Chợ Gạo); xã Mỹ Lợi A,<br /> rạch Gò Cát (xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ xã Mỹ Lợi B (huyện Cái Bè); xã Tân Lập 1,<br /> Tho); giồng Cát (xã Bình Tân, huyện Gò xã Tân Lập 2 (huyện Tân Phước).<br /> Công Tây). 2.2.2 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn<br /> - Màu sắc, ánh sáng và tính chất của đối thời gian văn hóa<br /> tượng: màu sắc, ánh sáng và tính chất cũng<br /> Địa danh phản ánh các giai đoạn lịch sử: Mỗi<br /> là một đặc trưng để đặt tên cho địa danh ở<br /> địa danh ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử và<br /> Tiền Giang. Tuy nhiên, tên gọi phản ánh<br /> xã hội cụ thể. Theo nhà Ngôn ngữ học người<br /> màu sắc, ánh sáng ở vùng đất này không<br /> Pháp Rostaing (1965) thì địa danh trở thành<br /> nhiều lắm: cầu Trắng (xã Bình Phú, huyện<br /> “vật hóa thạch”, ghi lại những cái mốc quan<br /> Cai Lậy); ấp Cây Xanh (xã Thạnh Phú,<br /> trọng của lịch sử theo dòng thời gian như quá<br /> huyện Châu Thành); chợ Đèn Đỏ (xã Tân<br /> trình di cư, làm ăn và sinh sống của một tộc<br /> Thành, huyện Gò Công Đông); ấp Xóm<br /> người nào đó, hay qua địa danh, chúng ta biết<br /> Đen (xã Bình Ân, huyện Gò Công Đông).<br /> <br /> <br /> 70<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> về tiến trình lịch sử của một địa bàn, những vận” của Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa. Bên<br /> biến cố chính trị của vùng đất, những sự kiện cạnh đó, địa danh còn cho chúng ta thấy được<br /> lịch sử của dân tộc. Tác giả Lê Trung Hoa cho các di chỉ, các công trình xây dựng ra đời trong<br /> rằng địa danh là “những tấm bia lịch sử ghi lại, công cuộc chống ngoại xâm, cho dù theo thời<br /> nó ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý gian chúng còn tồn tại hay không tồn tại thì đó<br /> nhất định… nên địa danh mang dấu ấn của thời cũng là những chứng tích có giá trị cho các nhà<br /> đại mà nó chào đời” (Lê Trung Hoa, 2003, tr. khảo cổ học, lịch sử học nghiên cứu. Đó là các<br /> 213). Có thể nói địa danh như là “một nhân địa danh: gò Lũy, đường Bảy Liệt Sĩ (huyện<br /> chứng sống” tái hiện lịch sử của một vùng đất ở Châu Thành); kênh Kho Đạn (thành phố Mỹ<br /> mỗi thời kỳ. Tho); vịnh Đôi Ma, đầm Vạn Thắng (huyện Gò<br /> Một số địa danh tiêu biểu của Tiền Giang phản Công Đông); đập Ông Chưởng (huyện Gò<br /> ánh những chiến công kiên cường, oanh liệt của Công Tây); chợ Mãnh Ma (thị xã Gò Công);<br /> người dân. Đó là: Rạch Gầm - Xoài Mút (xã vàm Kỳ Hôn (huyện Chợ Gạo); kinh Kháng<br /> Kim Sơn, huyện Châu Thành) là tên hai con Chiến (huyện Cai Lậy); kênh Cặp Rằn Núi<br /> rạch đổ ra sông Tiền; cũng nơi đây dân và quân (huyện Tân Phước).<br /> Đàng Trong dưới sự chỉ huy của vua Quang Địa danh phản ánh các thay đổi về hành chính:<br /> Trung (Nguyễn Huệ) đánh tan 5 vạn quân Xiêm Qua nhiều lần thay đổi cơ cấu tổ chức hành<br /> vào ngày 19 và 20/1/1785. Lũy Pháo Đài (xã chính ở Tiền Giang theo từng chế độ, đến nay đã<br /> Phú Tân, huyện Tân Phú Đông) là một thành có rất nhiều tên gọi đơn vị hành chính khác<br /> đất được đắp từ thời Minh Mạng, để canh giữ nhau. Nhiều tên gọi được sử dụng trước kia đã<br /> vùng đất có tính chiến lược, vị trí quân sự quan không còn được sử dụng và bị chìm vào quên<br /> trọng của vùng cửa Tiểu. Lộ Ma (đường Thái lãng như: đạo, dinh, hạt, phủ, thành, tổng, quận,<br /> Sanh Hạnh ở thành phố Mỹ Tho ngày nay) là thôn, trại, trấn,… (đạo Trường Đồn, dinh/thành<br /> con đường trung tâm của thành Định Tường Trấn Định, trấn Định Tường, hạt thanh tra Mỹ<br /> xưa được triều Nguyễn xây dựng vào năm 1792 Tho, phủ Kiến An, tổng Phong Hòa, quận Sầm<br /> từng làm pháp trường xử bắn tội nhân. Đám Lá Giang). Qua việc đổi tên, thành lập một số địa<br /> Tối Trời (huyện Gò Công Đông) là căn cứ danh, chúng ta biết rõ được tình hình chính trị,<br /> kháng chiến chống thực dân Pháp của nghĩa những sự kiện lịch sử của tỉnh nhà.<br /> quân Trương Định trong những năm 1861 - Bên cạnh đó, phần lớn tên đường phố ở Tiền<br /> 1864 (Gò Công anh dũng tuyệt vời/ Ông Giang của thời kỳ trước 1954, đều được gọi<br /> Trương “Đám Lá Tối Trời” đánh Tây). Bến đò theo tên của người Pháp như: Alexandre De<br /> Phú Mỹ (quầy bán thịt người) là di tích lịch sử Rhodes (nay là Nguyễn Tri Phương), Albery<br /> cách mạng (huyện Tân Phước) ghi dấu tội ác Puissiers (nay là Lãnh Binh Cẩn), Delfosse (nay<br /> của thực dân Pháp đối với nhân dân ta vào là Lý Thường Kiệt), Delibes (nay là Thiên Hộ<br /> những năm 1945 - 1949; chúng đã dùng búa Dương), Boulevard Joffre (nay là Lý Tự<br /> chặt đầu những đồng chí, những người dân Trọng), Landes (nay là Lê Đại Hành), Pigneaux<br /> nghèo khó mà chúng tình nghi có quan hệ de Béhaine (nay là Lãnh Binh Cẩn), Pigneau de<br /> kháng chiến, rồi bêu trên các cọc tre và bày thịt Behaine (nay là đường Đốc Binh Kiều),<br /> người ở bờ kênh ép mọi người đi ngang qua Savorgnan de Brazza (nay là đường Học Lạc).<br /> phải mua. Đường Ấp Bắc đặt tên theo chiến Sau năm 1975, tên đường phố của Tiền Giang<br /> thắng Ấp Bắc (xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy) vào đều có xu hướng được nhà nước ta đặt theo tên<br /> ngày 2/1/1963 của quân và dân Tiền Giang các danh nhân có công lớn đối với quê hương,<br /> đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng, mang ý<br /> <br /> <br /> <br /> 71<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> nghĩa thiết thực trong việc giáo dục truyền Ngoài ra, các từ ngữ gốc Pháp đã được sử dụng<br /> thống cách mạng và lòng tự hào dân tộc. Phần trong ngôn ngữ hằng ngày cũng được dùng làm<br /> lớn, những tên đường, phố ở Tiền Giang tập địa danh ở Tiền Giang, như: ấp Ga (gare), kênh<br /> trung nhiều nhất ở khu vực thành phố Mỹ Tho, Xáng (chaland), cầu Bót (poste)... Ngoài ra,<br /> thị xã Gò Công và thị xã Cai Lậy như: 30 tháng một số địa danh khác nói lên nguồn gốc của<br /> 4 (trước là đường Ngô Tùng Châu), Huyện Toại nhiều cư dân đến từ các vùng khác như: xóm<br /> (trước là đường Trần Văn Trần), Trương Định Cà Mau (huyện Cai Lậy), xóm Huế (huyện Tân<br /> (trước là đường Đỗ Hữu), Nguyễn Văn Côn Phước), xóm Bắc (huyện Châu Thành).<br /> (trước là đường Joffre), Trương Định (trước là - Địa danh phản ánh tên người:<br /> đường Phạm Đăng Hưng), Võ Duy Linh (trước • Cũng giống các thành phố, tỉnh thành<br /> là đường Huyện Tri). khác ở Việt Nam, vùng đất Tiền Giang<br /> 2.2.3 Địa danh tỉnh Tiền Giang từ góc nhìn có nhiều địa danh mang tên những người<br /> chủ thể văn hóa có công với đất nước, các bậc hiền tài<br /> - Địa danh phản ánh các tộc người cư trú hay các anh hùng liệt sĩ… thường tập<br /> trên địa bàn: trung ở tên đường phố. Địa danh giúp<br /> chúng ta càng tự hào và thêm yêu vùng<br /> Vùng đất Tiền Giang là nơi cộng cư của nhiều<br /> đất nơi mình sinh sống, về các nhân vật<br /> dân tộc (Việt, Hoa, Khmer, Chăm…). Do đó,<br /> lịch sử. Nhóm thứ nhất gắn với lịch sử<br /> địa danh ở tỉnh Tiền Giang còn được tạo ra và<br /> dân tộc: Hùng Vương, Trưng Trắc, Lý<br /> kết tinh từ ngôn ngữ của các tộc người đã từng<br /> Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Trần Hưng<br /> sinh sống trên vùng đất này và để lại dấu tích<br /> Đạo, Nguyễn Huệ. Nhóm thứ hai gắn với<br /> đến ngày nay. Cư dân Tiền Giang đã tiếp thu<br /> lịch sử địa phương: Trương Định, Võ<br /> văn hóa Khmer, Hoa và Pháp trong quá trình<br /> Tánh, Thủ Khoa Huân, Tứ Kiệt, Lê Thị<br /> cộng cư với các dân tộc này. Đối với văn hóa<br /> Hồng Gấm, Nguyễn Văn Nguyễn, Lê<br /> Khmer và Hoa, người Tiền Giang tiếp nhận một<br /> Thị Phỉ, Học Lạc, Hoàng Việt, Phùng<br /> số địa danh của người Khmer, Hoa để đặt tên<br /> Há.<br /> địa danh. Cụ thể, các địa danh mang dấu ấn<br /> • Địa danh đặt theo tên của những người<br /> Khmer: “Mỹ Tho” có nguồn từ tiếng Khmer<br /> địa phương (thường mang yếu tố “ông”<br /> “Mê Sor” có nghĩa là “xứ có những cô gái có<br /> và “bà”) đã từng sống trên vùng đất này.<br /> làn da trắng đẹp”, chợ Bưng (huyện Châu<br /> Họ là có thể là những người đầu tiên<br /> Thành) thì “Bưng” có nghĩa là “vùng đất sâu và<br /> khai hoang, lập ấp, xây đựng đường xá,<br /> rộng ở giữa đồng”, rạch Tham Rôn thì “Tham<br /> cầu cống…. Đó là các địa danh: chợ Bà<br /> Rôn” có nghĩa là “cây trôm”, rạch Ba Rài thì<br /> Đắt, rạch Bà Hậu, rạch Bà Xã, cầu Ông<br /> “Ba Rài” có nghĩa là “hồ chứa nước ngọt”. Một<br /> Hưng, sông Ông Vẽ (huyện Cái Bè);<br /> số địa danh mang dấu ấn Hoa: Mỹ Tho Đại Phố<br /> rạch Ông Bảo, tắt Bà Khoa, cầu Bà Trần,<br /> (chợ Phố Lớn Mỹ Tho), huê viên Lạc Hồng<br /> chợ Bà Tồn (huyện Cai Lậy); rạch Bà<br /> (vườn hoa Lạc Hồng). Đối với văn hóa Pháp,<br /> Lý, chợ Ông Văn, cầu Bà Thể (huyện<br /> người Tiền Giang chấp nhận sử dụng tên các<br /> Chợ Gạo); kênh Ông Chủ, cầu Bà Rảnh<br /> nhà khoa học chân chính, quan lại đã có những<br /> (huyện Tân Phước); rạch Bà Tiên, cầu<br /> đóng góp trong việc đào kênh để phát triển kinh<br /> Bà Từ (huyện Tân Phú Đông).<br /> tế của Pháp để đặt tên địa danh như: đường<br /> - Địa danh phản ánh tâm lý tộc người:<br /> Yersin (thành phố Mỹ Tho), kênh Canal<br /> Duperrée (huyện Chợ Gạo), kênh Salicatte, Phần lớn địa danh hành chính ở Tiền Giang<br /> kênh Champeaux (huyện Gò Công Đông). (chiếm gần 80) là từ Hán Việt thể hiện ước<br /> <br /> <br /> 72<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> vọng của người dân về ước vọng bình an, ước Phong, Thạnh Phú (huyện Châu Thành);<br /> vọng đổi đời, ước vọng thịnh vượng, giàu có. Phú Đông, Phú Tân (huyện Tân Phú<br /> Qua đó, phản ánh nét đẹp văn hóa tinh thần của Đông); hay là tên chợ, cầu,<br /> người dân Tiền Giang gửi gắm, ký thác vào cống: chợ/cầu Bình Phú (huyện Cai<br /> vùng đất mà mình đang sinh sống. Lậy), chợ/cầu Vĩnh Kim (huyện Châu<br /> • Ước vọng đổi đời: Khi mở một vùng đất Thành), chợ/bến đò Phú Mỹ (huyện Tân<br /> mới, người dân mong muốn mọi thứ đến Phước).<br /> với mình đều mới mẽ hơn. Điều đó thể • Ước vọng cuộc sống tươi đẹp: Khi đến<br /> hiện qua từ “Tân” (mới, bắt đầu) đối lập định cư ở vùng đất mới, những lưu dân<br /> với “cũ”. Nhiều tên làng, xã ở Tiền luôn mong muốn mọi thứ đến với họ tươi<br /> Giang có từ “Tân” ở đầu địa danh, như đẹp và hoàn mỹ. Tiền Giang có nhiều địa<br /> xã: Tân Bình Thạnh, Tân Thuận Bình danh bắt đầu bằng yếu tố “Mỹ”, như xã:<br /> (huyện Chợ Gạo); Tân Điền, Tân Phước, Mỹ Lương, Mỹ Phú, Mỹ Tân, Mỹ Trung<br /> Tân Tây, Tân Thành, Tân Trung (huyện (huyện Cái Bè); Mỹ Hạnh Đông, Mỹ<br /> Gò Công Đông); Tân Thạnh, Tân Phú, Hạnh Trung, Mỹ Phước Tây (thị xã Cai<br /> Tân Thới (huyện Tân Phú Đông), Tân Lậy); Mỹ Phong (thành phố Mỹ Tho);<br /> Hòa Đông, Tân Hòa Tây, Tân Hòa Mỹ Phước (huyện Tân Phước).<br /> Thành (huyện Tân Phước). • Ước vọng về cuộc sống giàu lễ nghĩa,<br /> • Ước vọng an bình, thịnh vượng: Các nhân ái như: xã Thiện Trí, xã Thiện Trung<br /> từ “An, Bình, Định, Hòa, Hội, Long, Phú, (huyện Cái Bè); ấp Hội Nhơn, ấp Hội Lễ,<br /> Thạnh, Thuận”… trong địa danh phản ấp Hội Nghĩa, ấp Hội Trí, ấp Hội Tín (xã<br /> ánh tâm tư, ước vọng một cuộc sống bình Hội Xuân, huyện Cai Lậy); ấp Hòa Nhơn,<br /> an, tốt đẹp trong mọi phương diện. Ví dự ấp Hòa Nghĩa, ấp Hòa Trí (xã Long<br /> tên các xã, phường và thị trấn: An Cư, Khánh, huyện Cai Lậy); ấp Quý Chánh,<br /> Hội Cư (huyện Cái Bè); Phú An, Long ấp Quý Lợi, ấp Quý Phước, ấp Quý<br /> Khánh, Long Tiên, Thạnh Hòa (huyện Thành (xã Nhị Quý, thị xã Cai Lậy).<br /> Cai Lậy); Long An, Phước Thạnh (Châu • Tâm lý kiêng kỵ: Tâm lý kiêng kỵ là một<br /> Thành); Trung An, Đạo Thạnh (thành phố trong những biểu hiện văn hóa ứng xử<br /> Mỹ Tho); Bình Đông, Bình Xuân, Long của con người trong cuộc sống. Người<br /> Hòa, Long Hưng, Long Thuận (thị xã Gò Việt thường kiêng gọi tên những con vật<br /> Công); Bình Ân, Bình Nghị, Gia Thuận linh thiêng; kiêng húy tên các nhân vật<br /> (huyện Gò Công Đông); Thạnh Nhựt, hoàng tộc, quan lại và những người có<br /> Thạnh Trị (huyện Gò Công Tây). công với đất nước trong xã hội đương<br /> • Ước vọng giàu có: Các từ “Lộc, Lợi, thời, để tỏ lòng thành kính hoặc để<br /> Phát, Phú, Hưng, Phước, Vĩnh...” thể không bị “trừng phạt”. Một số ít địa danh<br /> hiện mơ ước một cuộc sống giàu có về ở Tiền Giang phản ánh điều này như:<br /> vật chất và về tinh thần.Ví dụ tên các xã: cầu/chợ Ông Hổ (huyện Châu Thành),<br /> Thạnh Lộc, Bình Phú, Phú gò Sơn Qui (thị xã Gò Công), khu Lăng<br /> Cường (huyện Cai Lậy); Hòa Hưng, Tân Cá Ông (huyện Gò Công Đông).<br /> Hưng (huyện Cái Bè); Đăng Hưng • Thích dùng số thứ tự: Người dân Nam bộ<br /> Phước, Phú Kiết (huyện Chợ Gạo); nói chung và người dân tỉnh Tiền Giang<br /> Hưng Thạnh, Mỹ Phước, Phước Lập nói riêng có tâm lý thường hay dùng số<br /> (huyện Tân Phước); Long Hưng, Phú thứ tự và chữ cái để gọi tên, đặt biệt là<br /> <br /> <br /> <br /> 73<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> thứ bậc kèm theo tên, có lẽ do dễ đọc, dễ chợ An Thạnh Thủy (huyện Chợ Gạo);<br /> nhớ và gần gũi. Ví dụ: cầu Hai Thỏ, chợ Gò Công Cũ (thị xã Gò Công); chợ<br /> kênh Hai Xẹt, kênh Bảy Đèo (huyện Cái Rạch Giá, chợ Vàm Láng, chợ Xã Lới<br /> Bè); cầu Ba Vùng, kênh Tám Dư, rạch (huyện Gò Công Đông); chợ Vĩnh Bình,<br /> Hai Tân, rạch Năm Trinh, rạch Năm chợ Long Bình (huyện Gò Công Tây);<br /> Truyền, rạch Ông Mười (huyện Cai chợ Rạch Vách, chợ Pháo Đài (huyện<br /> Lậy); rạch Hai Sanh, ấp Bà Lẫy 1, ấp Bà Tân Phú Đông).<br /> Lẫy 2 (huyện Gò Công Đông); kênh Hai • Nghề nghiệp và sản vật: Địa danh chỉ<br /> Đạt, kênh Chín Hấn, kênh 1000, cầu 500 nghề nghiệp, sản vật thường gặp ở tên<br /> (huyện Tân Phước). Bên cạnh còn xuất các đơn vị hành chính và tên địa hình tự<br /> hiện một số địa danh dùng số là từ Hán nhiên. Ví dụ: rạch Cái Cối, bánh phồng<br /> Việt: xã Nhị Quý, xã Nhị Mỹ, xã Tam Cái Bè, xoài cát Hoà Lộc, bưởi long Cổ<br /> Bình, xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy); xã Cò (huyện Cái Bè); sầu riêng Ngũ Hiệp<br /> Nhị Bình, xã Tam Hiệp (huyện Châu (huyện Cai Lậy); chợ Lò Gạch, làng hoa<br /> Thành). Đồng thời, dùng cách ghép số Mỹ Phong, hủ tiếu Mỹ Tho, gạo Gò Cát,<br /> thứ tự và chữ cái để gọi tên cống N8 mận hồng đào Trung Lương (thành phố<br /> (huyện Gò Công Tây); cầu K.120, ấp Mỹ Tho); cầu Rượu, xóm Kiệu, vú sữa<br /> 3A, 3B (thành phố Mỹ Tho); tỉnh lộ Lò Rèn Vĩnh Kim, làng chiếu Long<br /> 866B, quốc lộ 1A. Có thể nói, tâm lý Định, nước mắm Bình Đức (huyện Châu<br /> chung của người dân Tiền Giang là thích Thành); rạch Lò Vôi, xóm Bún, thanh<br /> dùng những gì gần gũi có ở xung quanh long Chợ Gạo (huyện Chợ Gạo); mắm<br /> họ để đặt tên cho thuận tiện và dễ nhớ tôm chà Gò Công, sơ ri Gò Công, ấp Lò<br /> nhất. Gạch, ấp Xóm Lưới, rạch Làng Nứa<br /> - Địa danh tỉnh Tiền Giang phản ánh về mặt (huyện Gò Công Đông); bánh giá Chợ<br /> kinh tế và xã hội: Giồng (huyện Gò Công Tây); khóm Tân<br /> Địa danh phần nào lột tả được bộ mặt kinh tế và Phước (huyện Tân Phước). Đây có thể<br /> xã hội của người dân Tiền Giang qua nhiều giai xem đây là một đặc điểm riêng của Tiền<br /> đoạn khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau, cho Giang so với địa bàn khác.<br /> ta thấy được sự cần cù, thông minh của con - Địa danh tỉnh Tiền Giang phản ánh hoạt<br /> người trong mọi hoàn cảnh sống. động tín ngưỡng, tôn giáo:<br /> • Địa danh gắn với hoạt động tín ngưỡng:<br /> • Tên chợ: Trong sinh hoạt kinh tế, chợ là<br /> Tín ngưỡng là một biểu hiện của văn hóa<br /> nơi mà diễn ra hoạt động mua bán, trao<br /> trong địa danh. Theo đó, tín ngưỡng có<br /> đổi hàng hóa. Chợ đi vào địa danh chiếm<br /> thể thể hiện trong địa danh qua quá trình<br /> số lượng khá nhiều. Hiện nay, ở Tiền<br /> giao lưu văn hóa giữa các tộc người sống<br /> giang có 176 chợ. Những chợ tiêu biểu<br /> trên mảnh đất Tiền Giang hay qua tâm lý<br /> như: chợ nổi Cái Bè, chợ An Hữu, chợ<br /> linh thiêng hóa một nhân vật, một đối<br /> Cà Dăm, chợ Thiên Hộ Dương (huyện<br /> tượng mà con người gởi vào đó đức tin<br /> Cái Bè); chợ Cai Lậy, chợ Xoài Tư, chợ<br /> và lòng tôn kính của mình. Xuất phát từ<br /> Bưng Môn (thị xã Cai Lậy); chợ Bưng,<br /> nhu cầu tâm linh, người dân Tiền Giang<br /> chợ Thuộc Nhiêu, chợ Rạch Gầm, chợ<br /> tập trung phản ánh ở địa danh liên quan<br /> Giữa Vĩnh Kim (huyện Châu Thành);<br /> đến hoạt động tín ngưỡng: cầu Rạch<br /> chợ Mỹ Tho, chợ Thạnh Trị, chợ Vòng<br /> Miễu, đường Miễu Cây Dong, lộ Đình<br /> Nhỏ (thành phố Mỹ Tho); chợ Ông Văn,<br /> (thành phố Mỹ Tho); rạch Miễu, cầu<br /> <br /> <br /> 74<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> Rạch Miễu (huyện Cái Bè); ấp Miễu học như: ngôn ngữ, lịch sử, địa lý, dân<br /> Hội, đường Miễu Bà (huyện Châu tộc, xã hội… để phân tích và hiểu đúng<br /> Thành); rạch Đình, cầu Rạch Đình<br /> một địa danh. Đồng thời, người nghiên<br /> (huyện Tân Phước); giồng Đình (huyện<br /> cứu phải đứng trên phương diện lịch đại,<br /> Gò Công Đông).<br /> đồng đại để tìm ra giá trị phản ánh hiện<br /> • Địa danh gắn với hoạt động tôn giáo:<br /> Tiền Giang hiện có 231.000 tín đồ (theo thực của địa danh phản ánh, góp phần<br /> các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, đào sâu những tầng văn hóa ẩn chứa<br /> Tin lành, Cao đài...), chiếm 13% dân số đằng sau các địa danh qua các thời kỳ<br /> toàn Tỉnh. Nhiều địa danh phản ánh khá khác nhau trong lịch sử của một vùng<br /> rõ nét sự hiện tồn của các văn hóa vật thể đất.<br /> (chùa, thánh thất, nhà thờ) như: kênh • Thứ hai, thay thế hoặc giảm bớt những<br /> Nước Chùa (huyện Cái Bè); cầu Cống địa danh bằng số hay bằng chữ cái. Mặc<br /> Chùa, rạch Chùa (huyện Cai Lậy); rạch<br /> dù, địa danh bằng số tiện dụng là ngắn<br /> Bến Chùa, chợ Bến Chùa, đường Nhà<br /> gọn, nhưng nó là con số vô hồn, không<br /> Thờ (huyện Châu Thành); đường Chùa<br /> phản ánh được nét văn hóa nào trong đó.<br /> Một Cột, xóm Chùa Chà (thành phố Mỹ<br /> Tho); cầu Chùa Phật Đá (huyện Tân Nên chăng chỉ dùng số thứ tự (1, 2, 3)<br /> Phước); xóm Chùa Cây Me (huyện Gò hay chữ cái (A, B, C) ở các đơn vị hành<br /> Công Đông). chính (dưới cấp ấp, cấp khu phố) hoặc<br /> 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ các công trình xây dựng (đường, cầu,<br /> cống) ở những khu dân cư mới xây dựng<br /> 3.1 Kết luận<br /> trong thời gian chờ đặt tên chính thức<br /> Trên cơ sở vận dụng kiến thức của Ngôn ngữ<br /> bằng chữ.<br /> học và Văn hóa học, chúng tôi nhận thấy địa<br /> danh ở tỉnh Tiền Giang khá phong phú, đa dạng<br /> • Thứ ba, khảo sát toàn diện những đối<br /> về đối tượng phương thức, về ngôn ngữ (chủ tượng địa lý ở tỉnh Tiền Giang chưa có<br /> yếu thuần Việt và Hán Việt), về phương thức tên gọi chính thức, thống kê phân loại và<br /> cũng như hình thức cấu tạo. Có thể nói, địa đề xuất cách đặt tên sao cho phù hợp với<br /> danh ở tỉnh Tiền Giang là sự kết tinh của ngôn ngôn ngữ và văn hóa của địa phương.<br /> ngữ và văn hóa, của cái trừu tượng và cái cụ Điều chỉnh (chuẩn hóa) lại các địa danh<br /> thể. Đa số địa danh của tỉnh Tiền Giang đều có bị sai lạc về âm và chữ viết để nhận diện<br /> nguồn gốc dân gian và phản ánh đậm nét hiện chính xác về các giá trị phản ánh hiện<br /> thực về đặc điểm địa lý tự nhiên, lịch sử phát<br /> thực của chúng.<br /> triển của vùng đất, những thay đổi về hành<br /> • Thứ tư, để đặt tên cho các địa danh mới,<br /> chính, đặc điểm tâm lý và khả năng tư duy của<br /> các tộc người sinh sống trên địa bàn. Chính các cơ quan chức năng cần phải căn cứ<br /> những đặc trưng đó tạo cho địa danh vùng đất vào những tiêu chuẩn nhất định. Đó là<br /> này khá đặc biệt và thú vị. “tính dân tộc, tính truyền thống; tính<br /> 3.2 Khuyến nghị chính trị, tính đạo đức; tính lịch sử, tính<br /> địa phương; tính tiện dụng, tính đại<br /> • Thứ nhất, để “giải mã” một địa danh nào<br /> chúng và tính thẩm mỹ” (Lê Trung Hoa,<br /> đó, người nghiên cứu cần phải vận dụng<br /> tr. 231 - 235); song song đó, cần phải<br /> và kết hợp kiến thức của các ngành khoa<br /> <br /> <br /> 75<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 67 – 76<br /> <br /> lắng nghe ý kiến đóng góp của các không xuất bản). Trường Đại học Sư phạm<br /> chuyên gia cũng như người dân địa thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Việt<br /> Nam.<br /> phương.<br /> • Thứ năm, cần có những nghiên cứu tiếp Trần Hoàng Diệu & Nguyễn Anh Tuấn. (2007).<br /> theo để đào sâu, khai thác và nhận diện Địa chí Tiền Giang (Quyển 2). Tiền Giang:<br /> Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang.<br /> các lớp trầm tích “hóa thạch” trên địa<br /> danh. Đồng thời, căn cứ vào kết quả địa Trần Thị Ngọc Lang. (1995). Phương ngữ Nam Bộ.<br /> Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.<br /> danh đã thu thập, các cơ quan chức năng<br /> cần hướng đến xây dựng “Từ điển Từ Trịnh Hoài Đức. (1972). Gia Định thành thông<br /> nguyên địa danh tỉnh Tiền Giang”, góp chí (Tập hạ). (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch). Sài<br /> Gòn: Nha Văn Hóa, Phủ Quốc vụ khanh đặc<br /> phần giúp cho mọi người tìm hiểu về bản<br /> trách Văn hóa. (Quyển sách gốc được xuất bản<br /> sắc văn hóa của vùng đất và con người<br /> năm 1820).<br /> Tiền Giang.<br /> Võ Văn Sơn. (2010). Tìm hiểu nguồn gốc một số<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> địa danh tiêu biểu ở Tiền Giang. (Đề tài<br /> Lê Trung Hoa. (2003). Nguyên tắc và phương nghiên cứu khoa học không xuất bản). Trường<br /> pháp nghiên cứu địa danh. Hồ Chí Minh: Nhà Đại học Tiền Giang, Tiền Giang, Việt Nam.<br /> xuất bản Khoa học Xã hội.<br /> Võ Văn Sơn. (2017). Đặc điểm địa danh ở thành<br /> Lê Trung Hoa. (2006). Địa danh học Việt Nam. phố Mỹ Tho. Tạp chí Ngôn ngữ, 6, 49 - 50.<br /> Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học Xã<br /> Vương Hồng Sển. (1999). Tự vị tiếng nói miền<br /> hội.<br /> Nam. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.<br /> Nguyễn Thị Kiều Oanh. (2011). Những đặc điểm<br /> của địa danh Tiền Giang. (Luận văn Thạc sĩ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 76<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2