YOMEDIA
Điều hoà trước phiên mã - Sinh vật nhân thực
Chia sẻ: Nguyen Phuonganh
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:8
568
lượt xem
53
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bình thường phần lớn các gen bên trong tế bào của cơ thể nhân thực đều bị bất hoạt, chỉ khi nào tế bào cần đến loại sản phẩm nào thì các gen tương ứng mới được hoạt động. Điều hoà hoạt động gen sinh vật nhân thực đa bào phức tạp hơn nhiều so với sinh vật nhân sơ. Điều hoà hoạt động gen có thể được thực hiện ở tất cả các mức độ : từ điều hoà trước phiên mã, điều hoà phiên mã, điều hoà sau phiên mã, điều hoà dịch mã và sau dịch mã....
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Điều hoà trước phiên mã - Sinh vật nhân thực
- Điều hoà trước phiên mã
- Sinh vật nhân thực
Bình thường phần lớn các gen bên
trong tế bào của cơ thể nhân thực
đều bị bất hoạt, chỉ khi nào tế bào
cần đến loại sản phẩm nào thì các
gen tương ứng mới được hoạt
động. Điều hoà hoạt động gen sinh
vật nhân thực đa bào phức tạp hơn
nhiều so với sinh vật nhân sơ. Điều
- hoà hoạt động gen có thể được thực
hiện ở tất cả các mức độ : từ điều
hoà trước phiên mã, điều hoà phiên
mã, điều hoà sau phiên mã, điều
hoà dịch mã và sau dịch mã.
Điều hoà trước phiên mã
ADN của sinh vật nhân thực được
liên kết với rất nhiều loại prôtêin
khác nhau tạo nên chất nhiễm sắc
(chromatin). Cấu trúc của chất
nhiễm sắc có thể được biến đổi
theo các mức độ khác nhau tuỳ
thuộc vào các giai đoạn của chu kì
tế bào. Khi ở kì trung gian, những
vùng nhiễm sắc thể chứa các gen
- đang hoạt động thì ADN ở vùng đó
dãn xoắn tối đa và chất nhiễm sắc
tại vùng đó được gọi
là nguyên nhiễm sắc (euchromatin).
Vùng được gọi là dị nhiễm sắc
(heterochromatin) là vùng không
chứa gen hoặc chứa các gen ở trạng
thái không hoạt động vì ADN ở
vùng này bị co xoắn chặt.
Các gen của sinh vật nhân thực có
thể bị bất hoạt dài hạn khi một số
nuclêôtit ở vị trí nhất định bị biến
đổi bằng cách gắn thêm nhóm
CH3 vào gốc xitôzin khi ADN được
nhân đôi và người ta gọi hiện tượng
đó là mêtyl hoá. Khi vùng nhiễm
sắc được mêtyl hoá thì ADN bị co
- xoắn chặt lại và gen không thể
phiên mã được.
Bằng thực nghiệm, người ta đã
chuyển các gen đang hoạt động vào
cùng dị nhiễm sắc thì các gen này
lại trở nên bất hoạt. Một trong hai
nhiễm sắc thể X của nữ giới và của
động vật có vú bị bất hoạt cũng
bằng cơ chế này. Khi vùng nhiễm
sắc thể đã bị mêtyl hoá thì trạng
thái này được di truyền từ tế bào
này sang tế bào khác.
Mêtyl hoá đóng vai trò quan trọng
trong quá trình biệt hoá tế bào (ở
các mô nhất định, hầu hết các gen
trong hệ gen bị đóng và chỉ một số
gen nhất định hoạt động vào thời
điểm nhất định). Trong quá trình
- hình thành tế bào tinh trùng và
trứng ở người cũng như ở các loài
động vật có vú khác, một số gen
nhất định ở trứng bị bất hoạt bằng
cách mêtyl hoá trong các gen tương
ứng trong tinh trùng lại không bị
bất hoạt hoặc ngược lại một số gen
ở tinh trùng bị bất hoạt trong khi đó
các gen tương ứng trong tế bào
trứng lại vẫn hoạt động. Cách thức
bất hoạt các nhóm gen khác nhau ở
tế bào trứng và tế bào tinh trùng
của cùng một loài như vậy được
gọi invết hệ gen (genomic
tmprinting). Điều này giúp giải
thích tại sao hợp tử, ví dụ ở người,
chỉ phát triển thành cơ thể bình
thường nếu chứa cả nhân của tinh
- trùng và nhân của trứng. Nếu tế bào
trứng chứa 2 bộ nhiễm sắc thể đơn
bội của cùng một giới thì hợp tử
không phát triển được thành cơ thể.
Gen có thể được hoạt hoá hay bất
hoạt bằng cách axêtin hoá hoặc khử
axêtin : Axêtin hoá là hiện tượng
gắn thêm nhóm – COCH3 vào gốc
lizin tại đầu N của prôtêin histôn
cấu tạo nên nuclêôxôm. Còn hiện
tượng khử axêtin là hiện tượng loại
nhóm - COCH3 ra khỏi prôtêin
histôn. Khi COCH3 được gắn vào
gốc lizin sẽ làm trung hoà điện tích
dương của nó và do vậy lizin không
thể liên kết được với các
nuclêôxôm khác làm cho ADN
được dãn xoắn và promoter của gen
- tiếp xúc được với ARN pôlimeraza
nên phiên mã có thể được thực
hiện.
Ở một số tế bào, một số gen nhất
định có thể được lặp lại nhiều lần
làm tăng số lượng bản sao, do vậy
làm tăng sản phẩm của gen để đáp
ứng nhu cầu của tế bào. Đối với
một số mô, thậm chí toàn bộ hệ gen
được nhân lên nhiều lần nhưng
không kèm theo phân chia tế bào
chất (hiện tượng nội nguyên phân).
Ví dụ, ở tế bào tuyến nước bọt của
ấu trùng ruồi giấm, hiện tượng nội
nguyên phân đã tạo nên bộ nhiễm
sắc thể đa sợi hay còn gọi là bộ
nhiễm sắc thể khổng lồ với hệ gen
- lưỡng bội được tăng lên tới 10 lần
so với bình thường (2n).
Đình Dương
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...