YOMEDIA
ADSENSE
Điều trị carcinôm thần kinh nội tiết ở cổ tử cung
6
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Carcinôm thần kinh nội tiết cổ tử cung là bệnh lý hiếm gặp chỉ chiếm 1 - 2% tổng số ung thư cổ tử cung với đặc điểm di căn xa sớm nên cần hóa trị và tiên lượng xấu. Nghiên cứu này đánh giá kết quả điều trị carcinôm tế bào thần kinh nội tiết cổ tử cung.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Điều trị carcinôm thần kinh nội tiết ở cổ tử cung
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU ĐIỀU TRỊ CARCINÔM THẦN KINH NỘI TIẾT Ở CỔ TỬ CUNG TRẦN ĐẶNG NGỌC LINH1, KIM SỐC KHONE2, GIANG BỬU TOÀN3, PHAN THỊ HỒNG ĐÁNG4 TÓM TẮT Cơ sở: Carcinôm thần kinh nội tiết cổ tử cung là bệnh lý hiếm gặp chỉ chiếm 1 - 2% tổng số ung thư cổ tử cung với đặc điểm di căn xa sớm nên cần hóa trị và tiên lượng xấu. Nghiên cứu này đánh giá kết quả điều trị carcinôm tế bào thần kinh nội tiết cổ tử cung. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu tất cả các ca carcinôm thần kinh - nội tiết được điều trị tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM trong 3 năm từ 01/01/2015 đến 31/12/2017. Kết quả: Tổng cộng có 24 ca. Tuổi trung bình: 47,3 tuổi. Kích thước bướu trung bình là 4,2cm. Giai đoạn IIB và IIIB thường gặp nhất chiếm tỉ lệ lần lượt là 41,7% và 33,3%. Hóa trị đầu tiên trong 22/24 ca (91,7%). 10 ca chỉ được hóa trị đơn thuần (41,7%), còn lại là điều trị đa mô thức. 83,4% ca được hóa trị từ 4 chu kỳ trở lên trong đó tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn chỉ là 8,3%. Có 22/24 ca tử vong ghi nhận tử vong. Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 11 tháng, tỉ lệ sống còn toàn bộ sau 2 năm và 3 năm lần lượt là 12,5% và 0%. Giai đoạn sớm, giai đoạn tiến xa và di căn xa có trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 14 tháng, 11 tháng, và 2 tháng (p = 0,002). Bệnh nhân được hóa trị đơn thuần và phối hợp đa mô thức có trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 9 và 15 tháng (p = 0,005). Giai đoạn bệnh và mô thức điều trị là yếu tố tiên lượng độc lập của sống còn toàn bộ. Kết luận: Carcinôm thần kinh nội tiết có tiên lượng xấu, nhất là ở giai đoạn tiến xa, di căn. Từ khóa: Carcinôm thần kinh nội tiết, hóa trị, điều trị đa mô thức, sống còn toàn bộ. ABSTRACT Treatment result of neuroendocrine carcinoma of the cervix Backgound: Neuroendocrine carcinoma of the cervix is a rare disease that only accounts for 1 - 2% of all cervical cancer. This rare entity often has distant metastases and poor prognosis. This study evaluated treatment result of neuroendocrine carcinoma of the cervix. Materials and methods: We reviewed all neuroendocrine carcinoma of the cervix treated with carboplatin plus paclitaxel at HCM City Oncology Hospital from 01/01/2015 to 31/12/2017. Result: 24 cases were enrolled. Average age was 47.3 years old, the average tumor size was 4.2cm. Most common stages were IIB and IIIB accounted for 41.7% and 33.3% of all cases respectively. Chemotherapy was the initial treatment modality in 22 cases (91.7%), 10 cases were received chemotherapy alone (41.7%), the rest were multi - modal treatment. 83.4% of patients received chemotherapy at least 4 cycles. Complete response rate was only 8.3%. 22 patients died of diseases. The median overall survival time was 11 months, overall survival rates at 2 years and 3 years were 12.5% and 0%, respectively. The early invasive, advanced, and metastatic stages had median overall survival time of 14 months, 11 months, and 2 months (p = 0.002). Patients receiving chemotherapy alone and multi - modality had median overall survival of 9 and 15 months (p = 0.005). The stage and pattern of treatment are independent prognostic factors of overall survival. 1 TS.BS. Trưởng Khoa Xạ 2 – Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM, Trưởng Bộ môn Ung thư – Đại học Y Dược TP. HCM 2 BSCKII. Khoa Ngoại – Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh 3 BSCKI. Khoa Xạ 2 – Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 Bộ môn Ung thư – Đại học Y Dược TP. HCM TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 79
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU Conclusion: Neuroendocrine carcinoma of the cervix had very poor prognosis, especially in locally advanced and metastatic stages. Key word: Neuroendocrine carcinoma of the cervix, chemotherapy, multi-modality, overall survival. ĐẶT VẤN ĐỀ - Chẩn đoán bằng hình ảnh: Tất cả có siêu âm bụng, X quang phổi. Riêng CT scan, MRI, soi Bướu thần kinh nội tiết là những bướu có bàng quang, soi trực tràng được chỉ định tùy theo nguồn gốc từ tế bào thần kinh nội tiết có thể gặp ở tình huống lâm sàng. nhiều cơ quan khác nhau như phổi, đường tiêu hóa, tụy, cổ tử cung,… bướu tế bào thần kinh nội tiết ở cổ - Giải phẫu bệnh: Xác định là carcinôm thần tử cung được xếp là ung thư cổ tử cung[1]. kinh nội tiết, không bắt buộc làm hóa mô miễn dịch mà tùy theo yêu cầu của lâm sàng và giải phẫu Ung thư cổ tử cung là loại ung thư thường gặp bệnh. Tất cả lam giải phẫu bệnh đều được xem lại ở phụ nữ, đại đa số ung thư cổ tử cung là carcinôm bởi chuyên gia giải phẫu bệnh tại bệnh viện Ung tế bào gai, carcinôm tuyến, carcinôm gai - tuyến. Bướu TP. HCM trước khi đưa vào nghiên cứu. Carcinôm thần kinh nội tiết (chủ yếu là tế bào nhỏ) chỉ chiếm 1 - 2% tổng số ung thư cổ tử cung, Điều trị: Thông qua hội chẩn khoa với các phác các loại khác rất hiếm gặp. Carcinôm tế bào nhỏ đồ hóa trị, xạ trị, phẫu trị dùng riêng lẻ hay kết hợp. thần kinh nội tiết ở cổ tử cung còn được xem là một Theo dõi, thu thập thông tin cuối và đánh giá dạng ngoài phổi của ung thư phổi tế bào nhỏ. hiệu quả điều trị. Do là loại bệnh rất hiếm gặp nên hiện trên thế Tiêu chuẩn đánh giá giới vẫn chưa có nghiên cứu tiền cứu về carcinôm tế bào thần kinh nội tiết cổ tử cung. Các nghiên cứu Trung vị sống còn toàn bộ và tỉ lệ sống còn toàn chủ yếu là hồi cứu, báo cáo loạt ca số lượng nhỏ. bộ 02 năm. Phác đồ điều trị có nhiều khác biệt vì chưa có hướng KẾT QUẢ dẫn điều trị thống nhất. Đặc điểm nhóm bệnh nhân Tại Bệnh viện Ung Bướu Thành Phố Hồ Chí Minh, dù mỗi năm tiếp nhận điều trị trên 1000 ca ung Tổng cộng có 24 bệnh nhân được thu nhận vào thư cổ tử cung mới nhưng số bệnh nhân carcinôm tế nghiên cứu. bào thần kinh nội tiết cổ tử cung cũng rất ít gặp và chưa được nghiên cứu tổng kết, ngoài báo cáo ca Tuổi trung bình 47,3 ± 9,1 tuổi (3370 tuổi). lâm sàng lẻ tẻ[2]. Tại Việt Nam cũng chưa có công Kích thước khối bướu trung bình ghi nhận là 4,2 trình nghiên cứu nào của carcinôm tế bào thần kinh 1,3 cm (2 6cm). nội tiết cổ tử cung được báo cáo. Giai đoạn ban đầu Nghiên cứu này khảo sát mô thức điều trị và kết quả điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định là carcinôm tế bào thần kinh nội tiết ở cổ tử cung và điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ 01/01/2015 đến 31/12/2017. Ngày kết thúc nghiên cứu là 31/12/2018. Phương pháp nghiên cứu Hồi cứu mô tả loạt ca. Biểu đồ 1. Giai đoạn bệnh nhân trước điều trị Quy trình thực hiện Ung thư cổ tử cung được chẩn đoán xác định là carcinôm tế bào thần kinh nội tiết bằng: - Lâm sàng: khám phụ khoa, khám hạch, khám toàn thân. 80 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU Bảng 1. Kết quả của hóa mô miễn dịch Đáp ứng một phần 17 70,8 Hóa mô miễn dịch Số ca biểu hiện Tỉ lệ (%) Không đáp ứng 1 4,2 Tổng số ca thực hiện 13 Tiến triển 4 16,7 CD56 5 38,5 Xạ trị: Có 14 ca được xạ trị (58,3%), trong đó 11 NSE 5 38,5 ca xạ trị sau hóa trị. Tất cả đều được phối hợp xạ trị Synaptophysin 5 38,5 ngoài vùng chậu toàn phần tổng liều 50Gy, che chì đường giữa sau 40Gy, phân liều 2Gy và xạ trị trong Chromogranin A 6 46,2 suất liều cao vào tử cung âm đạo 7Gy/ phân liều X 3 CK 2 15,4 phân liều cách nhau mỗi tuần. Kết quả sống còn Đặc điểm điều trị Khi kết thúc nghiên cứu, 22 ca được xác nhận Bảng 2. Phối hợp các mô thức điều trị (theo thứ tự) tử vong do bệnh, 2 ca mất dấu (không liên lạc được), 1 ca 5 tháng sau điều trị lúc có thông tin cuối Phối hợp các mô thức Số ca (n) Tỉ lệ (%) bệnh nhân có bệnh tiến triển, gần như chắc chắn đã Hóa trị đơn thuần 10 41,7 tử vong, 1 ca 16 tháng sau điều trị, lúc có thông tin cuối bệnh nhân khỏe mạnh, không bệnh. Hóa trị + xạ trị 11 45,8 Xạ trị + hóa trị 1 4,2 Sống còn toàn bộ (SCTB) tính chung Hóa trị + xạ trị+ phẫu trị 1 4,2 Phẫu trị + hóa trị + xạ trị 1 4,2 Hóa trị Bảng 3. Phác đồ và số chu kỳ hóa trị Số chu kỳ PE PE + CAP Số ca Tỉ lệ (%) 2 chu kỳ 1 1 4,2 3 chu kỳ 3 3 12,5 4 chu kỳ 3 3 12,5 5 chu kỳ 1 1 4,2 6 chu kỳ 16 16 66,7 Biểu đồ 2. Sống còn toàn bộ tính chung Trung vị thời gian SCTB là 11 tháng. Bảng 4. Đáp ứng điều trị Tỉ lệ sống còn 2 năm là 12,5%, 3 năm là 0%. Đáp ứng hóa trị Số ca (n=24) Tỉ lệ (%) Thời gian sống còn toàn bộ dài nhất là 36 tháng. Đáp ứng hoàn toàn 2 8,3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sống còn toàn bộ Bảng 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sống còn toàn bộ Yếu tố Số ca Trung vị SCKB (tháng) Tỉ lệ SCKB 2 năm (%) p < 4cm 7 15 0 Kích thước bướu 0,759 ≥4cm 17 11 11,8 Xâm lấn sớm 3 14 0 Giai đoạn bệnh Tiến xa 19 11 10,5 0,002 Di căn 2 2 0 Không 18 11 5,6 Tình trạng hạch chậu 0,303 Có 6 9 16,7 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 81
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU Chỉ hóa trị 10 9 10 Mô thức điều trị 0,005 Đa mô thức 14 15 7,1 Có 19 13 10,5 Đáp ứng hóa trị 0,117 Không 5 9 0 BÀN LUẬN Đặc điểm nhóm nghiên cứu Chúng tôi ghi nhận tuổi lúc chẩn đoán trung bình là 47,3 ± 9,1 tuổi, nhóm tuổi thường gặp nhất là 40 - 49 tuổi (54,2%). Tuổi trung bình của carcinôm thần kinh nội tiết cổ tử cung cũng tương tự tuổi trung bình của ung thư cổ tử cung tính chung[3]. Kích thước bướu trung bình là 4,2 ± 1,3cm (26cm), lớn hơn so với kích thước trung bình của carcinôm tế bào gai hay carcinôm tuyến 3,5cm [4]. Chúng tôi ghi nhận giai đoạn IIB và IIIB với tỉ lệ lần lượt 41,7% và 33,3% là trễ hơn so với ung thư cổ tử cung tính Biểu đồ 3. Sống còn toàn bộ theo giai đoạn chung[3,5]. Nhìn chung, carcinôm thần kinh nột tiết của bướu (p = 0,002) phát triển nhanh nên thường có kích thước lớn, giai đoạn trễ hơn carcinôm tế bào gai và tuyến của cổ tử cung lúc được chẩn đoán. Nghiên cứu này có 13/24 ca được làm hóa mô miễn dịch. Kết quả dương tính với Chromogranin A 46,2%; Synaptophysin 38,5%; CD56 38,5%; NSE 38,5%. Theo Gloria S. và cs, hóa mô miễn dịch thường được sử dụng để xác định ung thư thần kinh nội tiết ở cổ tử cung Chromogranin A; Synaptophysin; CD56 và NSE với các tỉ lệ dương tính là Synaptophysin 79%; NSE 69%; Chromogranin A 66% và CD56 61%[5]. Điều trị Hóa trị là mô thức chủ yếu trong điều trị carcinôm tế bào thần kinh nội tiết cổ tử cung. Biểu đồ 4. Sống còn toàn bộ theo mô thức điều trị Tuy nhiên, hóa trị đơn thuần không giúp điều trị (p = 0,005) khỏi bệnh mà phải kết hợp với các phương tiện điều trị tại chỗ tại vùng là phẫu trị và xạ trị. Do bệnh Phân tích đa biến các yếu tố ảnh hưởng đến diễn tiến nhanh, di căn xa sớm nên hóa trị thường sống còn toàn bộ được lựa chọn là mô thức điều trị ban đầu, tiếp Bảng 6. Phân tích đa biến liên quan sống còn toàn bộ sau đó mới là các phương tiện tại chỗ, tại vùng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các bệnh Các biến số SCTB P nhân được xác định carcinôm thần kinh nội tiết đều Kích thước bướu 0,938 được lựa chọn hóa trị đầu tiên (22 ca = 91,7%). Hai trường hợp phẫu trị và xạ trị do đầu tiên do giải Giai đoạn bệnh 0,041 phẫu bệnh ban đầu không phải là carcinôm thần kinh Hạch chậu 0,807 nội tiết, sau đó kiểm tra lại bằng hóa mô miễn dịch Mô thức điều trị 0,012 dịch mới xác định là carcinôm tế bào thần kinh nội tiết. Các trường hợp này sau đó đều được hóa trị. Đáp ứng hóa trị 0,268 Điều trị tại chỗ sau hóa trị bằng xạ trị hay phẫu trị là cần thiết nhưng chúng tôi ghi nhận có đến 10/22 ca chỉ được hóa trị đơn thuần do bệnh tiếp tục diễn tiến sau hóa trị không còn chỉ định điều trị tại 82 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU chỗ, tại vùng. Còn lại 12/22 ca được ghi nhận có chậu sau phẫu trị thấp hơn nếu bệnh nhân được xạ điều trị tiếp bằng xạ trị, trong đó 11 ca chỉ xạ trị sau trị sau phẫu trị là 16% so với bệnh nhân không được hóa trị còn 1 ca sau hóa trị và xạ trị, bệnh nhân có xạ trị là 25%, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa được phẫu trị. Theo y văn, điều trị phối hợp đa mô thống kê[11]. thức là cần thiết (phẫu trị sau đó hóa trị bổ túc hay Sống còn toàn bộ phối hợp hóa - xạ trị) cho giai đoạn khu trú, hóa - xạ trị cho giai đoạn tiến xa tại chỗ không phẫu thuật Chúng tôi ghi nhận có 22/24 ca (91,7%) tử vong được nhưng chưa di căn, và hóa trị giảm nhẹ đơn khi kết thúc nghiên cứu. Có 2 ca mất dấu, 1 ca mất thuần cho bệnh di căn, dùng chung phác đồ hóa trị dấu lúc 5 tháng trong tình trạng bệnh tiến triển, rất ung thư phổi tế bào nhỏ. Các dữ liệu hồi cứu gần nhiều nguy cơ đã tử vong nhưng không thể liên lạc đây đề nghị rằng phẫu thuật cải thiện kết quả lâm qua điện thoại cũng như thư từ, 1 ca mất dấu lúc sàng và hóa-xạ trị đồng thời với platinum/ etoposide 16 tháng khi bệnh nhân đang ổn định, không tái được xem là tiêu chuẩn[6,7]. phát. Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 11 tháng. Tỉ lệ sống còn toàn bộ sau 2 năm và Số chu kỳ hóa trị 3 năm là 12,5% và 0%. Điều này cho thấy carcinôm Chúng tôi ghi nhận 83,4% bệnh nhân được hóa tế bào thần kinh nội tiết có tiên lượng xấu hơn rất trị từ 4 chu kỳ trở lên. Số chu kỳ điều trị có liên quan nhiều so với carcinôm tế bào gai hay carcinôm tuyến đến sống còn. Tác giả Pei và cộng sự, báo cáo 92 của cổ tử cung. Theo nghiên cứu trước cũng tại bệnh nhân carcinôm tế bào thần kinh nội tiết ở bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ở bệnh nhân ung thư giai đoạn I - II, nghiên cứu này ghi nhận điều trị cổ tử cung giai đoạn IIB - IIIB, tỉ lệ sống còn toàn bộ hóa trị hỗ trợ bằng Cisplatin và Etoposide ít nhất 5 3 năm là 62% và 5 năm là 55%[3]. Nhìn chung, các chu kỳ có cải thiện tỉ lệ sống còn trong 5 năm so với nghiên cứu về carcinôm tế bào thần kinh nội tiết của hóa trị ít chu kỳ hơn (68% so với 21%, p
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 135 bệnh nhân giai đoạn I - IIA, 45 giai đoạn IIB-IVA KẾT LUẬN và 8 bệnh nhân giai đoạn IVB. Kết quả sống còn 5 Qua nghiên cứu tổng cộng 24 ca carcinôm tế năm ở giai đoạn I - II, IIB - IVA và giai đoạn IVB là bào thần kinh nội tiết ở cổ tử cung, chúng tôi rút ra 36,8%, 9,8% và 0% (với P = 0,001)[6]. một số kết luận như sau: Sống còn toàn bộ theo tình trạng hạch chậu - Tuổi trung bình mắc bệnh là 47,3 tuổi. Bướu Nghiên cứu này ghi nhận trung vị thời gian sống có kích thước lớn, trung bình 4,2cm, ở giai đoạn còn toàn bộ của các ca có và không có hạch chậu là muộn (IIB: 41,7% và IIIB: 33,3%). Hóa trị là mô thức 9 và 11 tháng (p = 0,303, không ý nghĩa thống kê). được lựa chọn điều trị đầu tiên cho các trường hợp Do tính chất hiếm gặp của carcinôm thần kinh nội chẩn đoán ban đầu là carcinôm tế bào thần kinh nội tiết cổ tử cung, bệnh lại diễn tiến nhanh, tiên lượng tiết (22/24 ca =91,7%). 10 ca chỉ được hóa trị đơn nói chung xấu và chưa có các nghiên cứu cho thấy thuần (41,7%), còn lại là điều trị đa mô thức, thường giá trị tiên lượng của di căn hạch chậu. Các nghiên nhất là hóa trị sau đó xạ trị (12 ca). 83,4% bệnh cứu trước đây cho thấy rằng những bệnh nhân có nhân được hóa trị từ 4 chu kỳ trở lên trong đó tỉ lệ hay không di căn hạch đều có tiên lượng sống thấp đáp ứng hoàn toàn chỉ là 8,3%. dù đã phối hợp nhiều cách điều trị khác nhau[6,13]. - Bệnh tiến triển nhanh và điều trị kém hiệu Sống còn toàn bộ theo mô thức điều trị quả với hầu hết ca đều tử vong một thời gian ngắn Chúng tôi ghi nhận trung vị sống còn toàn bộ ở sau điều trị. Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là những ca hóa trị đơn thuần và điều trị đa mô thức 11 tháng, tỉ lệ sống còn toàn bộ sau 2 năm và 3 năm lần lượt là 9 tháng và 15 tháng (p = 0,005, khác biệt lần lượt là 12,5% và 0%. Trên phân tích đa biến giai có ý nghĩa thống kê). Tất cả các ca hóa trị đầu tiên đoạn bệnh và mô thức điều trị là yếu tố tiên lượng đều với ý định là sẽ xạ trị hay phẫu trị sau đó. độc lập của sống còn toàn bộ. Tuy nhiên, trong lúc hóa trị, một số ca bệnh tiến triển TÀI LIỆU THAM KHẢO nhiều quá chỉ định điều trị tại chỗ, tại vùng nên chỉ được hóa trị đơn thuần. Kết quả của nghiên cứu này 1. Rindi G., Petrone G., Inzani F. (2014), "The 2010 cho thấy rõ phối hợp đa mô thức (hóa trị và xạ trị) tốt WHO classification of digestive neuroendocrine hơn hóa trị đơn thuần. Hóa trị tiến hành đầu tiên neoplasms: a critical appraisal four years after its cũng có nguy cơ là bệnh nhân không còn chỉ định introduction", Endocr Pathol, 25 (2), 186-92. xạ trị sau hóa trị. Để khắc phục điều này, nhiều tác 2. Nguyễn Văn Tiến và cộng sự. "Báo cáo 02 giả khuyến cáo hóa xạ trị đồng thời là điều trị tiêu trường hợp Ung thư cổ tử cung loại tế bào nhỏ chuẩn cho carcinôm tế bào thần kinh nội tiết cố tử cung gia đoạn tiến xa[3]. thần kinh nội tiết" Sinh hoạt chuyên đề khoa học BV. Ung Bướu TP. HCM 2018. Sống còn toàn bộ theo đáp ứng điều trị 3. Leitao M.M., Zivanovic O. (2017) Small cell Chúng tôi ghi nhận trung vị thời gian sống còn neuroendocrine carcinoma of the cervix. ; toàn bộ ở bệnh nhân có đáp ứng hóa trị so với Available from: www.uptodate.com@2018. không đáp ứng là 9 tháng và 13 tháng (p = 0,117, khác biệt không ý nghĩa). Chang và cs ghi nhận đáp 4. Trần Đặng Ngọc Linh (2013), "Hiệu quả xạ trị ứng hoàn toàn trong 6/7 bệnh nhân sau khi hóa trị trong ung thư cổ tử cung giai đoạn IIB-IIIB", Đại VAC/PE tiền phẫu. Tuy nhiên, bướu vi thể còn hiện học Y Dược TP.Hồ Chí Minh. diện trong tất cả các ca, sau đó các bệnh nhân được 5. Salvo G., Gonzalez Martin A., Gonzales N. R., et hóa trị thêm 3 đợt sau phẫu trị. Kết quả có 3 bệnh al. (2019), "Updates and management algorithm nhân không có bằng chứng sau 16 tháng, 45 tháng for neuroendocrine tumors of the uterine cervix", và 56 tháng sau theo dõi[10]. Ngược lại Lee và cs cho Int J Gynecol Cancer, 29 (6), 986-995. rằng không có lợi ích về sống còn toàn bộ trong 6 bệnh nhân sau hóa trị tân hỗ trợ nhưng đây là con 6. Cohen J. G., Kapp D. S., Shin J. Y., et al. (2010), số rất nhỏ để kết luận chính xác sự khác biệt[34]. "Small cell carcinoma of the cervix: treatment and survival outcomes of 188 patients", Am J Phân tích đa biến sống còn toàn bộ Obstet Gynecol, 203 (4), 347. e1 - 6. Kết quả phân tích đa biến cho thấy giai đoạn bệnh và mô thức điều trị (hóa trị đơn thuần so với đa 7. Gardner G. J., Reidy-Lagunes D., Gehrig P. A. mô thức). Điều này khá phù hợp với kết quả của các (2011), "Neuroendocrine tumors of the tác giả khác[8]. gynecologic tract: A Society of Gynecologic Oncology (SGO) clinical document", Gynecol Oncol, 122 (1), 190-8. 84 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
- NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 8. Pei X., Xiang L., Ye S., et al. (2017), "Cycles of 12. Tangjitgamol S., Ramirez P. T., Sun C. C., et al. cisplatin and etoposide affect treatment (2005), "Expression of HER-2/neu, epidermal outcomes in patients with FIGO stage I-II small growth factor receptor, vascular endothelial cell neuroendocrine carcinoma of the cervix", growth factor, cyclooxygenase-2, estrogen Gynecol Oncol, 147 (3), 589-596. receptor, and progesterone receptor in small cell and large cell neuroendocrine carcinoma of the 9. Wang K. L., Chang T. C., Jung S. M., et al. uterine cervix: a clinicopathologic and prognostic (2012), "Primary treatment and prognostic study", Int J Gynecol Cancer, 15 (4), 646-56. factors of small cell neuroendocrine carcinoma of the uterine cervix: a Taiwanese Gynecologic 13. Chen Jergin MD; Macdonald, O Kenneth MD; Oncology Group study", Eur J Cancer, 48 (10), Gaffney, David K. MD, PhD (2008), "Incidence, 1484 - 94. Mortality, and Prognostic Factors of Small Cell Carcinoma of the Cervix", 111 (6), p 1394-1402. 10. Chang T. C., Hsueh S., Lai C. H., et al. (1999), "Phase II trial of neoadjuvant chemotherapy in 14. Lee J. M., Lee K. B., Nam J. H., et al. (2008), early-stage small cell cervical cancer", "Prognostic factors in FIGO stage IB-IIA small Anticancer Drugs, 10 (7), 641-6. cell neuroendocrine carcinoma of the uterine cervix treated surgically: results of a multi-center 11. Ishikawa M., Kasamatsu T., Tsuda H., et al. retrospective Korean study", Ann Oncol, 19 (2), (2018), "Prognostic factors and optimal therapy 321 - 6. for stages I-II neuroendocrine carcinomas of the uterine cervix: A multi-center retrospective study", Gynecol Oncol, 148 (1), 139 - 146. TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 85
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn