VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 424 (Kì 2 - 2/2018), tr 6-8<br />
<br />
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN<br />
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br />
Dương Thu Hằng, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên<br />
Ngày nhận bài: 21/10/2016; ngày sửa chữa: 26/10/2016; ngày duyệt đăng: 27/10/2016.<br />
Abstract: The article points out the key competences of teachers in teaching at high schools in<br />
current period. Based on the basis, the article proposes solutions to innovate the regular training<br />
for teaching staff at College of Education - Thai Nguyen University. This can be seen as the<br />
solution to improve quality of teaching staff at high schools in current period.<br />
Keywords: Solution, training, teaching staff, regular training.<br />
trường chính là một trong những yêu cầu bắt buộc đối<br />
với giáo viên các cấp khi triển khai thực hiện chương<br />
trình phổ thông mới theo Nghị quyết số 29-NQ/TW.<br />
- Năng lực tổ chức dạy học và đánh giá. Kế hoạch<br />
dạy học chi tiết của GV sư phạm hiện nay chưa thể hiện<br />
rõ được 4 hình thức dạy học cơ bản của giáo dục đại học<br />
như: diễn giảng (tương ứng với cách dạy học thuyết trình<br />
nêu vấn đề); tự học (bài tập); nghiên cứu khoa học (thực<br />
hành) và seminar (thảo luận). Vì vậy, nhà trường đã định<br />
hướng chỉ đạo GV việc phối hợp linh hoạt và sáng tạo<br />
trong triển khai các hình thức dạy học nêu trên để làm<br />
thay đổi chức năng của GV là người hướng dẫn học thay<br />
cho người truyền đạt kiến thức. Sự thay đổi chức năng<br />
này có ảnh hưởng quan trọng đối với giáo sinh sư phạm<br />
để trong tương lai, đội ngũ này cũng phải thể hiện chức<br />
năng “hướng dẫn, tổ chức học tập” cho học sinh theo<br />
định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.<br />
Nhà trường đã chỉ đạo cẩn thận và cụ thể việc xây dựng<br />
đề cương môn học (Syllabus) trong đào tạo theo hệ thống<br />
tín chỉ và phổ biến đến mọi GV.<br />
- Năng lực tự bồi dưỡng về học vấn giáo dục đại học.<br />
Hiện nay, chưa có phương án đào tạo GV sư phạm có tầm<br />
chiến lược. Các trường sư phạm vẫn làm theo cách cũ là giữ<br />
lại SV giỏi (vốn được đào tạo ra làm giáo viên phổ thông)<br />
để tự đào tạo và bồi dưỡng, học tiếp thạc sĩ và tiến sĩ và trở<br />
thành GV. Nhiều GV sư phạm được đào tạo “một mạch” từ<br />
cử nhân đến tiến sĩ, thiếu trải nghiệm thực tế nghề nghiệp.<br />
Mặc dù đội ngũ GV này có học vị, có kiến thức lí thuyết<br />
nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nghề nghiệp là<br />
chuyên gia giáo dục đại học. Trước tình trạng khan hiếm<br />
người được đào tạo hệ thống và cơ bản về chương trình giáo<br />
dục và kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục, nhà trường<br />
đã cử hàng trăm lượt GV đi tập huấn trong nước và hàng<br />
chục GV tập huấn tại Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và<br />
Australia về phát triển chương trình; đồng thời giao nhiệm<br />
vụ mọi GV phải xuống trường phổ thông để tìm hiểu,<br />
nghiên cứu thực tế dạy học ở trường phổ thông.<br />
- Năng lực hợp tác trong giảng dạy và nghiên cứu.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Theo Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT ngày<br />
10/07/2012 của Bộ GD-ĐT, công tác bồi dưỡng thường<br />
xuyên nhằm giúp cán bộ quản lí, giáo viên cập nhật kiến<br />
thức về chính trị, KT-XH, bồi dưỡng phẩm chất chính trị,<br />
đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực dạy học, năng<br />
lực giáo dục và những năng lực khác theo yêu cầu của<br />
chuẩn nghề nghiệp giáo viên; phát triển năng lực tự học,<br />
tự bồi dưỡng của đội ngũ giáo viên phổ thông - những<br />
người đã thụ hưởng chương trình giáo dục theo hướng<br />
tiếp cận nội dung kiến thức. Theo TS. Phạm Thị Kim<br />
Anh (Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư<br />
phạm Hà Nội), khác với “người lái đò” trước đây, giáo<br />
viên trong thế kỉ hội nhập này cùng lúc phải đảm nhiệm<br />
4 vai trò: vừa là nhà giáo dục, vừa là nhà nghiên cứu, vừa<br />
là người học và vừa là nhà văn hóa - xã hội [1; tr 25-32].<br />
Với vai trò “4 trong 1” đó, việc bồi dưỡng giáo viên trở<br />
thành một hoạt động không thể thiếu trong quá trình đào<br />
tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Các năng lực cần thiết đối với mỗi giảng viên trong<br />
bối cảnh mới<br />
- Năng lực phát triển chương trình giáo dục. Đây là<br />
năng lực cơ bản đối với giảng viên (GV) sư phạm. Mặc<br />
dù hiện nay, GV đã được trang bị những kiến thức cơ bản<br />
về chương trình giáo dục nhưng còn chưa có các kĩ năng<br />
cụ thể về xác định mục tiêu chương trình; lựa chọn nội<br />
dung học vấn cốt lõi để xây dựng chương trình; lựa chọn<br />
các mô hình giáo dục, các phương án giáo dục; phân tích<br />
bối cảnh, khảo sát nhu cầu của thị trường lao động… GV<br />
cũng còn hạn chế về triết lí chương trình dạy, chương<br />
trình học, kết cấu chương trình giáo dục, sự cân bằng<br />
giữa khối kiến thức, giữa lí thuyết với thực hành…<br />
Những hạn chế này thể hiện rõ nhất khi GV được giao<br />
xây dựng chương trình đào tạo. GV ít quan tâm đến phát<br />
triển chương trình đào tạo thì sẽ rất khó hình thành năng<br />
lực phát triển chương trình cho SV sư phạm mà năng lực<br />
xây dựng và phát triển chương trình giáo dục trong nhà<br />
<br />
6<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 424 (Kì 2 - 2/2018), tr 6-8<br />
<br />
Thực tế qua nhiều thập kỉ, nhà trường sư phạm hình<br />
thành 2 nhóm GV: nhóm dạy các môn tâm lí, giáo dục,<br />
quản lí giáo dục, phương pháp dạy học bộ môn và nhóm<br />
giảng dạy nội dung khoa học cơ bản. Điều này rất cần<br />
hợp sức của nhà khoa học “sản xuất” ra các tri thức mới<br />
phù hợp với chuyên ngành đào tạo, lĩnh vực đào tạo, nhà<br />
sư phạm xem xét việc đưa vào chương trình nội dung gì<br />
để hình thành năng lực theo mục tiêu đầu ra của người<br />
tốt nghiệp. GV sư phạm có năng lực hợp tác tốt sẽ giải<br />
quyết được các mâu thuẫn trên đây. Dự án POHE<br />
(Profession-Oriented Higher Education) có tác dụng tốt<br />
trong việc triển khai 5 chương trình đào tạo của nhà<br />
trường, đồng thời cũng làm thay đổi chức năng nhiệm vụ<br />
của GV biết phối hợp với công giới, gắn với thị trường<br />
lao động, thường xuyên khảo sát nhu cầu thị trường, tăng<br />
cường thực hành nghề nghiệp cho SV.<br />
2.2. Các giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên<br />
Trên cơ sở có được một đội ngũ GV đủ năng lực, với<br />
một tầm nhìn chiến lược, Trường Đại học Sư phạm - Đại<br />
học Thái Nguyên đã và đang tiến hành đồng bộ các giải<br />
pháp đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên như sau:<br />
- Căn cứ vào sứ mệnh của Trường Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên “Là trung tâm đào tạo giáo viên và<br />
cán bộ quản lí trình độ đại học và sau đại học; là cơ sở bồi<br />
dưỡng và nghiên cứu khoa học có uy tín về các lĩnh vực<br />
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn và khoa học<br />
giáo dục phục vụ đắc lực sự nghiệp giáo dục cả nước đặc<br />
biệt là vùng miền núi phía Bắc Việt Nam”, nhà trường xác<br />
định rõ mục tiêu đào tạo mới với sự thay đổi căn bản: “Từ<br />
mô hình đào tạo giáo viên dạy môn học cụ thể sang mô hình<br />
đào tạo chuyên gia giáo dục thuộc lĩnh vực chuyên môn, có<br />
học vấn nền tảng rộng và sâu, thành thạo về nghiệp vụ, có<br />
năng lực giảng dạy tích hợp và tổ chức các hoạt động giáo<br />
dục, năng lực phát triển chương trình và đánh giá, có phẩm<br />
chất tốt, đáp ứng yêu cầu mới của chương trình giáo dục<br />
nhà trường sau 2015” [2]. Nhiều hội thảo, hội nghị các cấp<br />
(Bộ môn, Khoa, Trường, Quốc gia, Quốc tế) đã được tổ<br />
chức và nhằm triển khai “Kế hoạch triển khai thực hiện<br />
Nghị quyết số 29-NQ/TW” của Đảng ủy Trường Đại học<br />
Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, trong đó, đổi mới công tác<br />
bồi dưỡng giáo viên phổ thông là một phần quan trọng của<br />
kế hoạch này.<br />
- Nghiên cứu, đánh giá lại chương trình đào tạo đã và<br />
đang sử dụng so với mục tiêu đổi mới giáo dục nói<br />
chung, sách giáo khoa sau 2015 nói riêng. Đặc biệt là<br />
phân tích kĩ những bất cập, hạn chế của chương trình đào<br />
tạo giáo viên hiện nay, cụ thể là: Chương trình đào tạo<br />
hiện hành vẫn mang nặng tính kinh nghiệm; quá coi trọng<br />
kiến thức hàn lâm; chưa làm rõ được mối quan hệ giữa<br />
chương trình đại học với kiến thức, năng lực cần đáp ứng<br />
yêu cầu giáo dục phổ thông nên đã gây ra khó khăn cho<br />
<br />
SV khi vận dụng trong dạy học; chưa chú trọng hình thành<br />
khả năng xây dựng, phát triển chương trình đối với SV;<br />
chưa có cấu trúc hợp lí giữa chương trình cơ bản và<br />
chương trình nghiệp vụ, thậm chí nếu có thì chương trình<br />
nghiệp vụ sư phạm vẫn còn mang tính hàn lâm, giáo<br />
điều,… Ngoài ra, chương trình đào tạo giáo viên lâu nay<br />
chưa chú trọng phát triển năng lực của SV, nhất là năng<br />
lực tự học, tự nghiên cứu; chưa đề cập đến năng lực dạy<br />
học tích hợp và phân hóa trong giảng dạy; SV chưa được<br />
trang bị một cách hợp lí các kĩ năng về giáo dục toàn diện,<br />
nhất là về kĩ năng nghề nghiệp, về tham vấn học đường,<br />
về các tổ chức hoạt động trải nghiệm…<br />
Trên cơ sở đó, Trường Đại học Sư phạm - Đại học<br />
Thái Nguyên đã tiến hành nghiên cứu khoa học giáo dục<br />
về các vấn đề cốt lõi của giáo dục phổ thông. Tiếp đó, nhà<br />
trường triển khai thiết kế khung chương trình bồi dưỡng<br />
theo hướng tiếp cận dựa vào năng lực dựa trên các nhóm<br />
năng lực cốt lõi. Cho đến nay, tất cả 13 khoa chuyên môn<br />
trong trường đều xây dựng được hệ thống các chuyên đề<br />
bồi dưỡng đã được thẩm định bởi các chuyên gia giáo dục<br />
và các Sở GD-ĐT trong khu vực .<br />
- Khảo sát thực trạng, lấy ý kiến phản hồi về chất lượng<br />
và năng lực mới (phát triển chương trình, đánh giá, tổ chức<br />
hoạt động trải nghiệm sáng tạo, giao tiếp, quản lí,…) của<br />
đội ngũ giáo viên Ngữ văn tại các trường trung học phổ<br />
thông trong 8 tỉnh miền núi phía Bắc. Xa hơn một bước,<br />
Trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tăng<br />
cường cử GV đi nghiên cứu thực tế tại các trường phổ<br />
thông, xây dựng mô hình bồi dưỡng tại chỗ “giúp đỡ đồng<br />
nghiệp” với các hoạt động cụ thể như: dự giờ, cùng sinh<br />
hoạt chuyên môn, nghiên cứu bài học, thiết kế bài giảng<br />
mẫu, tổ chức hội thảo chuyên đề cuối đợt,… Những hoạt<br />
động như thế hữu ích cho cả GV đại học và giáo viên phổ<br />
thông, giúp các trường phổ thông trên địa bàn 8 tỉnh miền<br />
núi phía Bắc xích lại gần nhau hơn, tạo nên sức mạnh để<br />
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục hiện nay.<br />
- Đổi mới hình thức tổ chức bồi dưỡng. Nếu trước đây,<br />
hình thức bồi dưỡng thường xuyên chủ yếu là các lớp học tập<br />
trung ở các tỉnh vào dịp hè thì nay nhà trường đang nỗ lực đa<br />
dạng hóa và kết hợp nhiều hình thức bồi dưỡng như: Bồi<br />
dưỡng trực tuyến (cung cấp tài liệu cho giáo viên phổ thông<br />
tự nghiên cứu, tạo diễn đàn trao đổi trực tuyến giữa GV và<br />
giáo viên, chia sẻ tài liệu, bài giảng mẫu, khảo sát thêm nhu<br />
cầu bồi dưỡng,…), Bồi dưỡng tập trung (GV trực tiếp hướng<br />
dẫn giáo viên phổ thông thực hành….), Bồi dưỡng thường<br />
xuyên, liên tục (GV thường xuyên cung cấp tài liệu, học liệu<br />
có chất lượng giúp giáo viên phát triển chuyên môn hàng<br />
ngày hàng giờ, đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục<br />
phổ thông mới, duy trì kết nối qua mạng, hoặc lấy trường học<br />
làm trung tâm của các hoạt động đổi mới giáo dục chung cho<br />
cả GV đại học và giáo viên phổ thông.<br />
<br />
7<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 424 (Kì 2 - 2/2018), tr 6-8<br />
<br />
- Đổi mới phương pháp đánh giá kết quả bồi dưỡng.<br />
Khi đã đa dạng hóa được các hình thức tổ chức bồi dưỡng,<br />
cũng cần đa dạng và linh hoạt trong đánh giá để thúc đẩy<br />
quá trình bồi dưỡng hiệu quả hơn, có ý nghĩa hơn. Đối với<br />
loại hình bồi dưỡng trực tuyến, giáo viên phổ thông tham<br />
gia các khóa học phải hoàn thành các module trả lời hệ<br />
thống câu hỏi trắc nghiệm trước khi chuyển sang các<br />
module kiến thức mới. Những giáo viên hoàn thành tốt<br />
khóa học trực tuyến sẽ được tiếp tục tham gia các khóa học<br />
tập trung tại các cơ sở để nâng cao trình độ. Đối với hình<br />
thức bồi dưỡng tập trung, ngoài đánh giá qua bài viết thu<br />
hoạch cá nhân hoặc sáng kiến kinh nghiệm, có thể đánh<br />
giá bằng các bài giảng, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, các<br />
hoạt động mẫu,…<br />
3. Kết luận<br />
Trên đây là một số nội dung xoay quanh việc đổi mới<br />
công tác bồi dưỡng giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo<br />
dục phổ thông của Trường. Tuy còn nhiều vấn đề cần bàn<br />
thêm, song, với vị thế là một trong các trường có vị trí quan<br />
trọng trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, Trường<br />
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên luôn nỗ lực để<br />
hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo và chuẩn hóa đội ngũ giáo<br />
viên, cán bộ quản lí giáo dục để khẳng định vai trò cung cấp<br />
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, xứng đáng<br />
là trường trọng điểm trong đào tạo giáo viên và cán bộ quản<br />
lí giáo dục đối với các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc.<br />
<br />
[5] Bộ GD-ĐT (2009). Phát triển chương trình đào tạo giáo<br />
viên trung học phổ thông đáp ứng chuẩn nghề nghiệp<br />
giáo viên trung học. Tài liệu hội thảo - tập huấn: Phát triển<br />
chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên trung học phổ<br />
thông theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học,<br />
tháng 9/2013.<br />
MỘT SỐ HƯỚNG KHAI THÁC BÀI TOÁN…<br />
(Tiếp theo trang 36)<br />
3. Kết luận<br />
Khai thác bài toán là vấn đề khá hứng thú đối với<br />
những HS ham mê học toán. Để truyền cảm hứng cho<br />
nhiều HS yêu thích toán thì trong chương trình phổ thông<br />
mới, khi khai thác bất cứ bài toán nào ngoài phần khai thác<br />
theo 4 hướng nêu trên thì cần lồng ghép phần tìm hiểu bài<br />
toán thực tế (hướng thứ 5), qua đó để HS thấy được những<br />
cái hay, cái đẹp và cả sự thiết thực của toán học.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
[1] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ thông<br />
(Chương trình tổng thể).<br />
[2] Nguyễn Thái Hòe (2003). Rèn luyện tư duy qua việc<br />
giải bài tập toán. NXB Giáo dục.<br />
[3] Nguyễn Bá Kim - Vương Dương Minh - Tôn Thân<br />
(1998). Khuyến khích một số hoạt động trí tuệ của<br />
học sinh qua môn Toán ở trường trung học cơ sở.<br />
NXB Giáo dục.<br />
[4] Hoàng Kỳ (chủ biên) - Hoàng Thanh Hà (2004). Đại số<br />
sơ cấp và thực hành giải Toán. NXB Đại học Sư phạm.<br />
[5] Lê Xuân Trường (2011). Kinh nghiệm khai thác bài<br />
Toán trong dạy và học môn Toán ở trường phổ thông.<br />
Kỉ yếu Hội thảo Quốc gia về Giáo dục Toán học ở<br />
trường phổ thông. NXB Giáo dục, tr 428-435.<br />
[6] Phan Anh Tài - Nguyễn Ngọc Giang (2016). Dạy học<br />
khám phá bài toán tìm tham số để đường thẳng có<br />
phương trình chứa tham số cắt đồ thị hàm phân thức hữu<br />
tỉ tại hai điểm phân biệt với sự hỗ trợ của Maple. Tạp chí<br />
Giáo dục, số đặc biệt, tháng 12/2016, tr 157-159.<br />
[7] Nguyễn Lê Nguyên Thảo - Trần Kiêm Minh<br />
- Nguyễn Đức Hồng - Nguyễn Thị Hà Phương (2016).<br />
Khả năng biến đổi bài toán hình học từ chứng minh<br />
sang khảo sát của giáo viên Toán tương lai. Tạp chí<br />
Giáo dục, số đặc biệt, tháng 12/2016; tr 167-169, 166.<br />
[8] Nguyễn Văn Tuyến - Đào Thị Mỹ (2016). Xây dựng<br />
các bài toán về bất đẳng thức giải bằng phương pháp<br />
hàm số nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh<br />
khá, giỏi lớp 12. Tạp chí Giáo dục, số 406, tr 44-48.<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
[1] Phạm Thị Kim Anh (2015). Chương trình đào tạo giáo<br />
viên ở Việt Nam - Một số bất cập và định hướng phát<br />
triển. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Teacher<br />
Training Curriculum Development - Opportunities and<br />
Challenges”, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái<br />
Nguyên tổ chức vào ngày 20 - 21 tháng 8/2015; tr 25-32.<br />
[2] Phạm Hồng Quang (2015). Đổi mới chương trình đào<br />
tạo phải bắt đầu từ nâng cao năng lực giảng viên sư<br />
phạm. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Teacher<br />
Training Curriculum Development - Opportunities and<br />
Challenges” (Phát triển chương trình đào tạo giáo viên cơ hội và thách thức), Trường Đại học Sư phạm - Đại học<br />
Thái Nguyên tổ chức vào ngày 20-21 tháng 8/2015;<br />
tr 17-24.<br />
[3] Đảng ủy Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái<br />
Nguyên (2014). Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết<br />
số 29-NQ/TW.<br />
[4] Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên (2016).<br />
Bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục và đào tạo<br />
theo hình thức vừa làm vừa học đáp ứng yêu cầu đổi mới<br />
giáo dục phổ thông. Tài liệu hội nghị, tháng 4/2016.<br />
<br />
8<br />
<br />