L. H. Uyên / Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm trường trung học cơ sở<br />
<br />
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM<br />
TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ<br />
Lƣu Hồng Uyên<br />
Phòng Giáo dục và Đào tạo quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Ngày nhận bài 18/10/2017, ngày nhận đăng 23/12/2017<br />
Tóm tắt: Trên cơ sở làm rõ đặc trưng lao động sư phạm của giáo viên chủ<br />
nhiệm và thực trạng công tác chủ nhiệm ở trường trung học cơ sở, bài báo đề xuất 5<br />
biện pháp để đổi mới công tác chủ nhiệm của giáo viên ở trường trung học cơ sở: (1)<br />
nâng cao nhận thức cho các lực lượng giáo dục về vị trí, vai trò quan trọng của công<br />
tác giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học cơ sở; (2) lựa chọn và phân công giáo viên<br />
chủ nhiệm phù hợp với đặc điểm của từng lớp học trong nhà trường; (3) chú trọng bồi<br />
dưỡng năng lực giáo dục cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm trường trung học cơ sở; (4)<br />
xây dựng và triển khai thực hiện quy chế phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với các<br />
lực lượng giáo dục khác; (5) đổi mới công tác thi đua, khen thưởng; thực hiện tốt các<br />
chế độ, chính sách đối với giáo viên chủ nhiệm.<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là nhà<br />
giáo được giao trách nhiệm quản lý, giáo<br />
dục một lớp học sinh (HS) ngoài giờ lên<br />
lớp của GV bộ môn trong trường trung<br />
học cơ sở (THCS). Vì thế GVCN được<br />
xem là “linh hồn của lớp học, là người cố<br />
vấn đáng tin cậy dẫn dắt, định hướng,<br />
giúp HS vươn lên tự hoàn thiện và phát<br />
triển nhân cách” [2]. Trong bối cảnh đổi<br />
mới giáo dục phổ thông (GDPT) hiện nay,<br />
khi vai trò của người GV có sự thay đổi<br />
căn bản, từ chỗ là “người truyền thụ tri<br />
thức có sẳn” sang đóng vai trò của người<br />
trọng tài, cố vấn cho hoạt động nhận thức<br />
của HS thì vai trò của người GVCN<br />
trường THCS cũng có những thay đổi căn<br />
bản. GVCN trở thành người chịu trách<br />
nhiệm chính trong “phát triển trí tuệ, thể<br />
chất, h nh thành ph m chất, năng lực công<br />
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu,<br />
định hướng nghề nghiệp cho HS” [1; tr.<br />
123]. Khi triển khai thực hiện chương<br />
trình và sách giáo khoa mới, GVCN còn<br />
là người tổ chức các hoạt động trải<br />
Email: luuhonguyen@yahoo.com<br />
<br />
74<br />
<br />
nghiệm sáng tạo cho HS. Những thay đổi<br />
trong vai trò dẫn đến những thay đổi trong<br />
lao động sư phạm (LĐSP) của người<br />
GVCN và đặt họ trước những thách thức<br />
lớn. Vì thế, nâng cao năng lực và ph m<br />
chất của người GVCN trường THCS có ý<br />
nghĩa quan trọng.<br />
1. Đặc trƣng lao động sƣ phạm của<br />
ngƣời giáo viên chủ nhiệm trƣờng<br />
trung học cơ sở<br />
1.1. Tổ chức sự phát triển của học<br />
sinh lứa tuổi từ 12-15 tuổi<br />
Lứa tuổi HS THCS là một giai đoạn<br />
phát triển phức tạp và quan trọng của mỗi<br />
cá nhân. Đây là giai đoạn có một vị trí đặc<br />
biệt - giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ<br />
sang tuổi trưởng thành. Sự chuyển tiếp tạo<br />
nên nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc<br />
thù về mọi mặt ở lứa tuổi HS THCS. Sự<br />
biến đổi của cơ thể, của tự ý thức, của<br />
kiểu quan hệ với người lớn và bạn cùng<br />
tuổi, của hoạt động học tập, hoạt động xã<br />
hội đã làm xuất hiện những yếu tố mới<br />
của sự trưởng thành; đồng thời xuất hiện<br />
<br />
Trường Đại học Vinh<br />
<br />
cả tình trạng “khủng hoảng” của tuổi<br />
“dậy thì”. Hơn ai hết, GVCN cần phải<br />
nắm bắt những đặc điểm tâm, sinh lý của<br />
HS để tổ chức đúng đắn sự phát triển của<br />
các em.<br />
1.2. Thường xuyên tháo gỡ những<br />
tình huống “xung đột” trong các nhóm<br />
học sinh<br />
Ở trường THCS, những tình huống<br />
“xung đột” trong các nhóm HS có khi chỉ<br />
bắt nguồn từ những lý do rất đơn giản của<br />
tuổi học trò (không muốn bạn trai ở các<br />
lớp khác chơi thân với bạn gái của lớp<br />
mình; sở thích của người khác không<br />
giống với sở thích của mình; bạn chơi trội<br />
hơn m nh; được thua vì một lời thách<br />
đố…). Nếu GVCN không kịp thời tháo gỡ<br />
những tình huống này thì dễ dẫn đến sự<br />
u đả lẫn nhau, dùng Facebook để nói xấu<br />
nhau trong các nhóm HS.<br />
1.3. Định hướng dư luận tập thể học<br />
sinh trung học cơ sở<br />
Dư luận tập thể có vai trò to lớn trong<br />
đánh giá và điều chỉnh hành vi của con<br />
người; nó được ví như “bộ luật không<br />
lời”. Nhiều khi, người ta còn sợ “búa rìu<br />
của dư luận” hơn cả pháp luật. Vì thế,<br />
cách đây hơn một thế kỉ, A.S.Macarencô<br />
đã đề xuất và thực hành nguyên tắc “giáo<br />
dục trong tập thể và bằng tập thể”.<br />
Nguyên tắc này xem tập thể vừa là môi<br />
trường giáo dục, vừa là phương tiện giáo<br />
dục.<br />
Đối với tập thể HS THCS, khi phát<br />
triển đến một giai đoạn nhất định sẽ hình<br />
thành dư luận tập thể. Trong tập thể HS<br />
THCS, dư luận có thể lành mạnh cũng có<br />
thể không lành mạnh. Do đó, GVCN phải<br />
là người định hướng dư luận để trong tập<br />
thể HS THCS luôn luôn tồn tại dư luận<br />
lành mạnh. Đó là dư luận cổ vũ cho<br />
những tấm gương học tập, rèn luyện tốt;<br />
cổ vũ cho những giá trị đạo đức, th m mỹ<br />
<br />
Tạp chí khoa học, Tập 46, Số 3B (2017), tr. 74-81<br />
<br />
phù hợp với những giá trị cơ bản của xã<br />
hội; phê phán thái độ vô trách nhiệm đối<br />
với học tập, đối với những người xung<br />
quanh của một bộ phận HS…<br />
1.4. Kết nối các lực lượng giáo dục<br />
nhà trường, gia đình và xã hội<br />
Tham gia vào quá trình giáo dục HS<br />
nói chung, giáo dục HS THCS nói riêng<br />
có ba lực lượng: nhà trường, gia đ nh và<br />
xã hội. Nếu như các lực lượng này không<br />
có sự phối hợp chặt chẽ với nhau rất dễ<br />
dẫn đến hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn<br />
thổi ngược” trong giáo dục. Đó là hiện<br />
tượng, ở trường trẻ được dạy một đường,<br />
về nhà trẻ được dạy một nẻo, ra xã hội trẻ<br />
lại được các “anh chị” dạy theo một cách<br />
khác nữa. Với những tác động trái chiều<br />
như vậy, khiến cho đứa trẻ hoang mang,<br />
chúng không biết phải nghe lời ai và hành<br />
động như thế nào mới đúng…Từ đó,<br />
GVCN phải là người kết nối các lực<br />
lượng giáo dục nhà trường, gia đ nh và xã<br />
hội để tất cả tác động từ các lực lượng này<br />
đến HS THCS cùng chiều và mang tính<br />
chất giáo dục cao.<br />
1.5. Tư vấn tâm lý cho học sinh<br />
trung học cơ sở<br />
Do đặc điểm lứa tuổi “trẻ con chưa<br />
qua, người lớn chưa tới” nên trong đời<br />
sống tâm lý của HS THCS có nhiều diễn<br />
biến phức tạp, thậm chí xung đột nhau.<br />
Những diễn biến, xung đột này nếu không<br />
được tư vấn, “giải tỏa” kịp thời có khi<br />
dẫn đến sự “bế tắc”, “ức chế” trong tâm<br />
lý của HS THCS. Vì thế, GVCN phải biết<br />
“đọc tâm lý” của HS cả lớp cũng như của<br />
từng HS cụ thể để tư vấn cho các em, giúp<br />
các em vượt qua những khó khăn trên<br />
bước đường phát triển của mình.<br />
2. Thực trạng công tác giáo viên<br />
chủ nhiệm ở trƣờng trung học cơ sở<br />
Công tác chủ nhiệm phụ thuộc rất lớn<br />
vào năng lực của GVCN. Nhưng hiện<br />
75<br />
<br />
L. H. Uyên / Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm trường trung học cơ sở<br />
<br />
nay, số GV có kinh nghiệm làm công tác<br />
chủ nhiệm ở các trường THCS còn ít,<br />
trong khi t nh h nh đạo đức của HS có<br />
một số biểu hiện xuống cấp, đáng lo ngại.<br />
Trong công tác chủ nhiệm, không ít GV<br />
vẫn còn thụ động, chạy theo các vụ việc<br />
mà chưa thể hiện sự chủ động của mình.<br />
Ban giám hiệu nhà trường không thể làm<br />
thay phần việc của GVCN, và cũng không<br />
thể lúc nào cũng nắm bắt kịp thời tình<br />
hình cụ thể của từng lớp, của từng đối<br />
tượng HS. Thực trạng đó đã dẫn đến một<br />
số tồn tại, khuyết điểm phổ biến trong<br />
công tác GVCN như: không kịp thời ngăn<br />
chặn các biểu hiện vi phạm kỷ luật của<br />
HS khi vụ việc còn trong “trứng nước”,<br />
cách thức xử lý HS vi phạm còn thiếu tính<br />
sư phạm làm ảnh hưởng đến đạo đức nhà<br />
giáo, xúc phạm nhân ph m HS và gây<br />
phản ứng đối với phụ huynh. Việc vận<br />
dụng yếu tố tâm lý trong giáo dục HS của<br />
GVCN còn hạn chế, không hài hòa giữa<br />
tình và lý, thậm chí mang nặng tính áp<br />
lực, răn đe buộc HS phải miễn cưỡng<br />
chấp hành. Có GVCN còn nóng vội và<br />
thiếu kinh nghiệm khi xử lý các vụ việc,<br />
thiên về xử phạt mà thiếu sự bao dung cần<br />
thiết. Đặc biệt, trong giáo dục HS cá biệt,<br />
không ít GVCN chưa hiểu rõ nguyên<br />
nhân sâu xa dẫn đến “sự cá biệt” của các<br />
em, chưa cùng các em chia sẻ, tháo gỡ<br />
những khó khăn, bế tắc, vướng mắc một<br />
cách chân tình, thực sự, chưa tin tưởng,<br />
mạnh dạn bố trí, giao việc để tạo điều<br />
kiện thuận lợi, qua đó đánh giá, động<br />
viên, khích lệ các em phấn đấu trở thành<br />
HS tốt.<br />
Một số GVCN còn chưa chú ý nắm<br />
bắt tình hình HS. Nhiều thông tin về HS<br />
không chính xác, còn áp đặt thông tin, sao<br />
chép sử dụng lại thông tin cũ của năm học<br />
trước, không còn phù hợp. Khả năng giao<br />
tiếp, phối hợp của GVCN với các thành<br />
viên khác trong nhà trường, với đoàn đội, phụ huynh, chính quyền địa phương<br />
76<br />
<br />
còn hạn chế, dẫn đến phương pháp, biện<br />
pháp giáo dục HS không đồng bộ, gây<br />
mất niềm tin ở HS. Một số GV thiếu khả<br />
năng dự báo nên chưa xây dựng được kế<br />
hoạch chủ nhiệm phù hợp tình hình thực<br />
tế của lớp, vì thế công tác chủ nhiệm vừa<br />
không chủ động, vừa kém hiệu quả. Nội<br />
dung, hình thức tổ chức các buổi sinh hoạt<br />
lớp thiếu đầu tư, nghèo nàn, nặng về hành<br />
chính, không thu hút lôi cuốn HS, hiệu<br />
quả giáo dục thấp. Trong các buổi sinh<br />
hoạt tập thể lớp, ngoại khóa, GVCN còn<br />
chưa chủ động tổ chức cho HS thảo luận,<br />
tranh luận về một chủ đề thiết thực nào đó<br />
hoặc trải nghiệm thực tế để giáo dục<br />
ph m chất đạo đức và kỹ năng sống cho<br />
các em...<br />
Nguyên nhân của những hạn chế nói<br />
trên là do các lực lượng giáo dục chưa<br />
nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan<br />
trọng của công tác GVCN ở trường<br />
THCS; việc phân công GVCN chưa phù<br />
hợp với đặc điểm của từng lớp HS trong<br />
nhà trường; năng lực giáo dục của nhiều<br />
GVCN trường THCS còn bất cập; chưa<br />
xây dựng được quy chế phối hợp giữa<br />
GVCN với các lực lượng giáo dục khác;<br />
chưa có các chế độ, chính sách tạo động<br />
lực đối với GVCN... Từ thực trạng hạn<br />
chế của công tác GVCN, đòi hỏi phải đổi<br />
mới công tác này.<br />
3. Các biện pháp đổi mới công tác<br />
giáo viên chủ nhiệm ở trƣờng trung học<br />
cơ sở<br />
3.1. Nâng cao nhận thức cho các lực<br />
lượng giáo dục về vị trí, vai trò quan<br />
trọng của công tác giáo viên chủ nhiệm<br />
ở trường trung học cơ sở<br />
GVCN là người thay mặt nhà trường<br />
quản lý, giáo dục HS; tổ chức, hướng dẫn<br />
các hoạt động của lớp do mình phụ trách;<br />
phối hợp với GV bộ môn của lớp và các<br />
lực lượng giáo dục khác trong giáo dục<br />
HS. Ngoài việc giảng dạy và thực hiện<br />
<br />
Trường Đại học Vinh<br />
<br />
các nhiệm vụ thông thường khác của một<br />
GV bộ môn, GVCN còn phải đảm nhận<br />
rất nhiều vai trò đa dạng và phức tạp<br />
khác: Người tháo gỡ những “xung đột”<br />
trong các nhóm HS; người định hướng<br />
cho dư luận tập thể; người tư vấn tâm lý<br />
cho HS; người định hướng giá trị cho HS;<br />
người quan tâm toàn diện đến mọi hoạt<br />
động của HS... Cùng với sự chăm lo phát<br />
triển toàn diện nhân cách HS, GVCN còn<br />
phải chăm lo phát hiện và bồi dưỡng năng<br />
khiếu cho các em. Thực tế cho thấy rằng,<br />
năng khiếu của HS, nếu được phát hiện và<br />
bồi dưỡng sớm thì nó sẽ được bộc lộ, phát<br />
triển đúng hướng và đó chính là mầm<br />
mống của tài năng.<br />
GVCN trường THCS còn là người<br />
chịu trách nhiệm chính trong định hướng<br />
nghề nghiệp cho HS. Không phải đến lứa<br />
tuổi trung học phổ thông, HS mới cần<br />
định hướng nghề nghiệp mà ngay ở lứa<br />
tuổi THCS, HS đã cần được định hướng<br />
nghề nghiệp. Trên cơ sở những hiểu biết<br />
về đặc điểm cá nhân, năng khiếu, sở<br />
trường của từng HS, GVCN có thể đưa ra<br />
những tư vấn về định hướng nghề nghiệp<br />
cho các em. Nếu công tác giáo dục định<br />
hướng nghề nghiệp được làm tốt từ cấp<br />
THCS sẽ tạo điều kiện phân luồng HS<br />
sớm và hợp lý.<br />
Bởi vậy, công tác GVCN giữ một vị<br />
trí quan trọng trong nhà trường phổ thông,<br />
nhất là đối với cấp THCS - cấp học mà<br />
HS có sự “khủng khoảng” về phát triển<br />
tâm lý lứa tuổi. Công tác GVCN không<br />
chỉ có ảnh hưởng trong phạm vi nhà<br />
trường mà ở mức độ nào đó, còn ảnh<br />
hưởng đến cả gia đ nh và xã hội. Vì thế,<br />
chủ thể của các lực lượng giáo dục phải<br />
nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò quan<br />
trọng của công tác GVCN ở trường THCS<br />
để từ đó, tùy theo chức năng, nhiệm vụ<br />
của mình, có trách nhiệm đối với công tác<br />
GVCN.<br />
<br />
Tạp chí khoa học, Tập 46, Số 3B (2017), tr. 74-81<br />
<br />
3.2. Lựa chọn và phân công giáo<br />
viên chủ nhiệm phù hợp với đặc điểm<br />
của từng lớp học sinh trong nhà trường<br />
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện<br />
nay, vai trò của GVCN có sự thay đổi căn<br />
bản, từ chỗ là người quản lý hành chính<br />
một lớp học, sang đóng vai trò của người<br />
chịu trách nhiệm chủ yếu trong sự phát<br />
triển toàn diện nhân cách HS. Với vai trò<br />
mới này, GVCN phải chăm lo sự phát<br />
triển toàn diện nhân cách HS lớp mình<br />
phụ trách để các em không chỉ được phát<br />
triển về trí năng mà còn được phát triển cả<br />
về thể năng và tâm năng; không chỉ được<br />
phát triển về mặt năng lực mà còn được<br />
phát triển cả về mặt ph m chất. Mỗi một<br />
lớp học có những đặc điểm riêng nhất<br />
định. Ngay trong một khối lớp, tuy cùng<br />
một lứa tuổi nhưng giữa lớp này với lớp<br />
kia cũng không giống nhau về đặc điểm.<br />
Vì thế, Hiệu trưởng nhà trường cần chú ý<br />
lựa chọn và phân công hợp lý GVCN cho<br />
từng lớp HS. Nếu kinh nghiệm và ph m<br />
chất cá nhân của GVCN phù hợp với đặc<br />
điểm của lớp HS thì công tác chủ nhiệm<br />
mới đem lại hiệu quả cao. Do đặc điểm<br />
lứa tuổi “trẻ con chưa qua, người lớn<br />
chưa tới” nên trong đời sống tâm lý của<br />
HS THCS có nhiều diễn biến phức tạp,<br />
thậm chí xung đột nhau. Những diễn biến,<br />
xung đột này nếu không được tư vấn,<br />
“giải tỏa” kịp thời có khi dẫn đến sự “bế<br />
tắc”, “ức chế” trong tâm lý của HS<br />
THCS. Vì thế, GVCN phải biết “đọc tâm<br />
lý” của HS cả lớp cũng như của từng HS<br />
để tư vấn cho các em, giúp các em vượt<br />
qua những khó khăn trên bước đường<br />
phát triển của mình. Những lớp HS “có<br />
vấn đề” hay có nhiều HS cá biệt, cần lựa<br />
chọn và phân công những GV có kinh<br />
nghiệm hơn làm công tác chủ nhiệm.<br />
Thực tế cho thấy rằng, nếu một GVCN cứ<br />
theo suốt một lớp HS từ đầu cấp học đến<br />
cuối cấp học, không phải trong trường<br />
hợp nào cũng đem lại sự thuận lợi, nhất là<br />
77<br />
<br />
L. H. Uyên / Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm trường trung học cơ sở<br />
<br />
khi giữa GVCN và HS càng ngày càng<br />
không tìm thấy “tiếng nói chung”, càng<br />
ngày càng có sự ngăn cách bởi “bức rào<br />
tâm lý”.<br />
3.3. Chú trọng bồi dưỡng năng lực<br />
giáo dục cho đội ngũ giáo viên chủ<br />
nhiệm trường trung học cơ sở<br />
Năng lực giáo dục (NLGD) được hình<br />
thành và phát triển chủ yếu qua hoạt động<br />
thực tiễn hàng ngày của GVCN. Với vai<br />
trò là “linh hồn của lớp học”, GVCN<br />
thường xuyên phải “cọ xát” với những<br />
vấn đề sôi động của cuộc sống học đường,<br />
thường xuyên phải “đối mặt” với những<br />
vấn đề đòi hỏi họ vừa phải rất bản lĩnh<br />
nhưng lại vừa phải mềm mỏng, tế nhị…<br />
Chính những điều đó đã góp phần quan<br />
trọng vào việc hình thành và phát triển<br />
NLGD của GVCN. Tuy nhiên, để nâng<br />
cao NLGD cho GVCN, công tác bồi<br />
dưỡng đối với đội ngũ này cũng rất cần<br />
thiết. Việc bồi dưỡng NLGD cho GVCN<br />
cần tập trung vào các NL thành phần sau<br />
đây:<br />
- NL xây dựng kế hoạch giáo dục HS<br />
Để chủ động trong công tác, GVCN<br />
cần phải xây dựng kế hoạch giáo dục HS.<br />
Trong kế hoạch phải làm rõ đặc điểm tình<br />
hình của lớp chủ nhiệm trên tất cả các<br />
mặt; xác định rõ những nhiệm vụ cần tập<br />
trung giải quyết. Ngoài ra, trong kế hoạch<br />
còn phải nêu rõ hướng phấn đấu của lớp<br />
chủ nhiệm trong năm học bằng những con<br />
số cụ thể.<br />
- NL hiểu đối tượng giáo dục<br />
Trước đây, nhà giáo dục người Nga<br />
K.Đ. Usinxki đã từng nói: Muốn giáo dục<br />
con người một cách toàn diện, cần phải<br />
hiểu con người một cách toàn diện. Đối<br />
với GVCN cũng như vậy. Muốn hiểu HS,<br />
GVCN phải “trở lại thành HS” ở một<br />
mức độ nào đó, có như vậy mới tìm ra<br />
được những “chiếc chìa khóa thần kỳ” để<br />
đi vào thế giới tâm hồn của các em.<br />
78<br />
<br />
GVCN không chỉ hiểu HS mà còn<br />
phải biết thuyết phục HS để các em thực<br />
hiện những yêu cầu của mình một cách tự<br />
nguyện, tự giác, nhất là đối với những HS<br />
cá biệt.<br />
- NL tổ chức các hoạt động giáo dục<br />
HS<br />
Giáo dục HS thông qua hoạt động và<br />
bằng chính hoạt động của các em là con<br />
đường đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất.<br />
Vì thế, ngoài hoạt động học tập, GVCN<br />
cần phải tổ chức cho HS của lớp mình<br />
tham gia các hoạt động giáo dục khác<br />
như: lao động; văn hóa - văn nghệ, thể<br />
dục - thể thao; hoạt động xã hội; sinh hoạt<br />
tập thể... Mỗi hoạt động, đòi hỏi cách thức<br />
tổ chức riêng. Cùng với tổ chức hoạt<br />
động, điều quan trọng hơn là GVCN phải<br />
biết thu hút HS tham gia vào các hoạt này<br />
một cách tích cực và tự giác.<br />
- NL xây dựng tập thể lớp<br />
Trước đây nhà giáo dục Xô viết A.X.<br />
Macacrencô đã nêu ra nguyên tắc “giáo<br />
dục trong tập thể và bằng tập thể”. Với<br />
nguyên tắc này, tập thể vừa là môi trường,<br />
vừa là phương tiện giáo dục HS. Ảnh<br />
hưởng của tập thể đến cá nhân HS rất lớn,<br />
nhất là khi trong tập thể đã h nh thành dư<br />
luận lành mạnh. Vì thế, muốn thành công<br />
trong công việc, GVCN phải xây dựng<br />
lớp học thành một tập thể đoàn kết, thân<br />
ái có tổ chức, có sức mạnh.<br />
- NL giải quyết các tình huống giáo<br />
dục<br />
GVCN luôn luôn đứng trước những<br />
tình huống giáo dục đa dạng và phong<br />
phú, nhiều khi rất “gay cấn”. Để giải<br />
quyết những tình huống đó, đòi hỏi<br />
GVCN phải có “hệ thống tri thức về tâm<br />
lý, sinh lý lứa tuổi, hiểu những vấn đề xã<br />
hội liên quan đến HS; biết thu nhận thông<br />
tin, xử lý thông tin, phân tích, rút ra nhận<br />
xét về từng HS và cả tập thể lớp” [3; tr.<br />
5]. Đồng thời, GVCN phải có niềm tin<br />
vào HS và bản lĩnh sư phạm vững vàng.<br />
<br />