intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đối thoại Âu-Á: Lev Tolstoi và Lão tử Phần 2

Chia sẻ: Milu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

52
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tolstoi cùng Lão Tử thuyết phục chúng ta rằng hiện tại của chúng ta cần thay đổi tận gốc rễ. Nhưng để đổi mới, cần tái định hướng những quan niệm giá trị của chúng ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đối thoại Âu-Á: Lev Tolstoi và Lão tử Phần 2

  1. Đối thoại Âu-Á: Lev Tolstoi và Lão tử Phần 2 Tolstoi cùng Lão Tử thuyết phục chúng ta rằng hiện tại của chúng ta cần thay đổi tận gốc rễ. Nhưng để đổi mới, cần tái định hướng những quan niệm giá trị của chúng ta. Chúng ta cần suy ngẫm và ý thức được rằng mình không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một bộ phận của cái chỉnh thể thống nhất mà thôi. Ở Lão Tử biểu trưng triết học của nước là hòa. Không ngoan ngoãn mà là hòa vì tình yêu và sự đồng cảm với người xung quanh. Không có tình yêu với con người, không thể có được sự cổ súy như vậy. Từ tình yêu với con người đã ra đời một cuốn sách vĩ đại về đạo, do Lão Tử viết vào những ngày loạn lạc và đầy đau khổ của nhân dân. Ông truyền dạy “Ta làm cho điều thiện thành điều thiện, ta cũng làm cho cả điều ác thành điều thiện” (“Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi”(28))(**). So sánh điều này với giáo lý của đạo Kitô về tình yêu với người xung quanh - không phải là người thân, không phải là “người của mình” mà là với kẻ thù và kẻ gây hấn với ta. “Hãy chúc phúc cho những kẻ
  2. nguyền rủa ngươi, và hãy cầu nguyện cho những kẻ xúc phạm ngươi” (L.K.6, 28) - Đức Kitô kêu gọi như vậy. Tolstoi khẳng định: “Bản chất học thuyết của Lão Tử cũng giống như cái bản chất của đạo Kitô”. Và ông giải thích: “Bản chất của cả hai nằm trong sự biểu lộ cái bản nguyên tinh thần thánh thiện thông qua sự khước từ toàn bộ cái nhục thể, cái bản nguyên tinh thần ấy làm nên cơ sở của đời sống con người”(29). Tất nhiên vũ trụ luận của nhà triết học Trung Quốc khác với vũ trụ luận Kitô giáo, cũng không có ở Lão Tử khái niệm “Bogosynovstvo” (các con của Chúa). Nhưng Tolstoi không tìm những khác biệt khó hòa giải mà cố tìm kiếm một cái gì đó chung, kết đoàn con người, hình thành nên hạt nhân của tình huynh đệ toàn nhân loại, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng. Trong Đạo đức kinh có nói “Hình thức bên ngoài là hoa của đạo, là đầu mối của dốt nát. Bởi thế [bậc đại nhân] lấy cái trọng yếu mà bỏ cái nhỏ nhặt. Ông ta lấy quả mà bỏ hoa. Ông coi trọng cái trước mà từ chối cái thứ hai” (“Tiền thức giả đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử kì hậu, bất cư kì bạc, xử kỳ thực, bất cư kì hoa, cố khử bỉ thủ thử”(30))(*). Tolstoi không coi Kinh thánh là chân lý duy nhất, không đặt đạo Kitô cao hơn các tôn giáo khác. Trong sách Đường sống, các chương Chúa và Tình yêu xếp cạnh với chương Vô vi. Trong thời gian viết Chiến tranh và hòa bình Tolstoi chưa làm quen với triết học Lão Tử. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là quan niệm triết học đạo đức trong cuốn tiểu thuyết của Tolstoi, kiểu tư duy và tính chất hành vi của các nhân vật yêu mến của ông dường như đồng điệu với học thuyết của nhà triết học Trung Quốc. Nhưng chính “những dấu hiệu phương Đông” trong Chiến tranh và hòa bình đã gây nên những tranh luận gay gắt nhất ngay sau khi cuốn tiểu thuyết được công bố trong tạp chí Russkii vestnik (Người đưa tin Nga). Kutuzov, nhiều người nói, đã bị Tolstoi “hạ nhục”, nhà văn đã xuất phát từ những lý thuyết giả dối và tạo nên một hình tượng phiến diện, bịa đặt, buông thả theo “chủ nghĩa định mệnh hoang dã phương Đông”. Hơn thế nữa, các nhà nghiên cứu còn không đưa Kutuzov vào số các nhân vật yêu mến của Tolstoi trong Chiến
  3. tranh và hòa bình. Không chỉ giới phê bình Nga, cả giới phê bình Tây Âu cũng không thể tha thứ nhà văn vì việc ông “lạc xa vào các thảo nguyên châu Á”. Có thực là Kutuzov, như đã được Tolstoi thể hiện - đó là một tướng lĩnh không làm gì cả, là người theo chủ nghĩa định mệnh với những nét thần bí “thuần túy châu Á” của tính cách Nga? Trong cung đình, nhiều người nói về tính lười biếng và sự láu cá của Kutuzov, nhưng Tolstoi không khẳng định điều đó. “Một vị thống chế già nua, to béo, ngái ngủ như mọi người trong cung đình và lười nhác, như những cận thần trẻ tuổi của hoàng thượng vẫn gọi ông...”, - Tolstoi viết, rõ ràng giữ khoảng cách với những đánh giá tương tự. Quả thật, hành xử của Kutuzov không thích hợp với quan niệm phổ biến lúc đó về phẩm chất một vị tướng quân. Những sĩ quan trẻ tuổi than vãn, vì không hiểu được ý nghĩa ngầm ẩn của sự “vô vi” của Kutuzov. Ngay bản thân Kutuzov trong khi nói chuyện với công tước Andrei đã bộc lộ cái lý do ngầm ẩn tạo nên cơ sở của vẻ “vô vi” của ông. Ông nói: “Chiếm pháo đài không khó, cái khó là thắng cả chiến dịch. Mà để được như thế thì không cần xung phong và tấn công, mà cần kiên nhẫn và thời gian... Mà này, anh bạn thân mến, không gì mạnh hơn hai người chiến binh ấy, cần kiên nhẫn và thời gian; những người ấy sẽ làm tất cả mọi thứ, mà những tay cố vấn không nghe thấy điều đó, đau khổ là ở chỗ đó! Một số người muốn, nhưng một số khác lại không muốn. Làm gì đây? Mình sẽ nói với cậu phải làm gì và mình nghĩ gì. Hãy do dự, anh bạn ạ, - ông chợt im lặng một chút - hãy tự kiềm chế”(31). Qua tuệ giác của công tước Andrei thông minh, Tolstoi đã đưa ra sự đánh giá những phán xét của viên thống chế: “Ở ông ta sẽ chẳng có gì của mình cả. Ông ta chẳng nghĩ ra được điều gì, chẳng quyết định một điều gì, - công tước Andrei nghĩ - nhưng ông ấy sẽ nghe tất, nhớ tất, đặt tất cả vào đúng vị trí, không cản trở bất cứ điều gì có ích, và sẽ không cho phép một điều gì có hại. Ông ấy hiểu rằng có một cái gì mạnh hơn và có ý nghĩa hơn ý chí của ông ta, - đó là tiến trình tất yếu của các sự kiện, và ông biết nhìn ra chúng, biết hiểu ý nghĩa của chúng và vì ý nghĩa này, biết tránh không tham gia vào các sự kiện này, tránh ý chí cá nhân hướng đi nơi khác...”(32).
  4. Sự dường như “vô vi” của Kutuzov thuộc về hành động ý chí, giống như Lão Tử. Ông tránh không hành động, tránh nỗ lực ý chí hướng đến hành động vì biết nhìn thấy tiến trình tất yếu của các sự kiện và hiểu được ý nghĩa lịch sử của chúng. Trong các trích dẫn trên chúng ta thấy những động từ nhấn mạnh hoạt động tư tưởng bên trong của Kutuzov (nhớ, biết nhìn, hiểu), và song song – những động từ phủ nhận hành động bên ngoài (không quyết định, không cho phép, biết tránh không tham gia). Kutuzov biểu lộ sự không tiếp nhận những sự việc không phù hợp cái nhìn của ông đối với sự phát triển của các sự kiện. Vào những giây phút quyết định, ông sẽ biểu lộ sự cương quyết và bảo vệ quan điểm của mình. Nếu đọc văn bản tiểu thuyết một cách chăm chú, thì hóa ra Kutuzov, “vô vi” sau khi rút lui khỏi Moskva, sợ nhất là Napoléon cũng “vô vi” như thế. Sau khi vào Moskva thất thủ, Napoléon có những hành động quân sự - chính trị... hối hả, nhưng Kutuzov không quan ngại điều đó: “Ông nghĩ ra mọi kiểu tiến quân của quân đội Napoléon, tất cả hay một bộ phận của nó về phía Peterburg, tiến thẳng đến hay đi vòng quanh Peterburg, nghĩ ra (điều mà ông sợ hơn cả) cả tình huống ngẫu nhiên, khi Napoléon sẽ chiến đấu chống lại ông bằng ngay vũ khí của ông, tức là hắn sẽ ở lại Moskva, chờ đợi ông”(33). Nhưng sự ngẫu nhiên đã không xảy ra. Khi mà chỉ riêng Kutuzov biết rằng nó không thể xảy ra, thì chỉ có mình ông “hiểu được ý nghĩa của sự kiện đã hoàn thành. Quân đội của Napoléon, theo niềm tin của nhà văn, “không thể trông chờ vào một điều gì, bởi vì nó mang trong mình... những điều kiện không tránh khỏi của cái chết”(34). Nhà văn xuất phát từ quan điểm đạo đức luận về lịch sử. Trong xâm lược, không có lẽ phải về đạo lý. Theo Tolstoi, công lao của Kutuzov không phải là ở thao diễn chiến lược mà là ở sự “vô vi” có ý thức. Khi không chỉ các tướng lĩnh, mà chính bản thân Sa hoàng trong một bức thư đã buộc tội nguyên soái không chịu hành động và nhắc nhở rằng ông “phải chịu trách nhiệm trước Tổ quốc về việc để mất Moskva” thì Kutuzov vẫn cứ đáp lại bằng sự “vô vi”. “Một mình ông ta, người trên cương vị một nguyên soái, cần phải tổ chức để tấn công - thì một mình ông ta lại vận dụng hết sức lực để kìm giữ quân Nga không tham gia những trận đánh vô ích”(35). Hãy chú ý đến lập luận của bản thân Kutuzov: “Họ cần phải hiểu rằng nếu tấn công, chúng ta chỉ có thể thua. Sự kiên trì và thời gian, đó chính là những chiến binh tráng sĩ của chúng ta! - Kutuzov nghĩ. Ông biết rằng không nên vặt quả táo khi còn xanh, vì sẽ làm hỏng cả quả và cây, lại còn chua ghê răng nữa”(36).
  5. Và sau khi Napoléon rút khỏi Moskva, Kutuzov đã hết sức chống lại các tướng lĩnh, những người đòi hỏi một cuộc chiến tranh hủy diệt ngay lập tức. “Cục tuyết không thể làm chảy ngay trong giây lát. Có giới hạn rõ ràng về thời gian mà nếu sớm hơn, không một sức nóng nào có thể làm tan ngay được cục tuyết. Trái lại, cái nóng càng lớn, phần tuyết còn lại càng cứng. Ngoài Kutuzov ra, các tướng lĩnh Nga không ai hiểu được điều đó”(37). Sự “vô vi” của Kutuzov nhiều năm sau lại được Tolstoi lý giải trong khi đánh giá về Lão Tử. Những hình ảnh quả táo xanh, cục tuyết được dùng trong Chiến tranh và hòa bình như là ẩn dụ về “vô vi” là hết sức gần gũi với hình ảnh tương tự mà nhà văn đã dẫn ra khi giải thích bản chất học thuyết Lão Tử. Ông viết: “Tựa như hoàn toàn không nên cố sức lôi chú gà con ra từ trong vỏ trứng... Làm thế chỉ có hại cho con gà. Đến đúng thời điểm, tự nó sẽ chui ra, bằng sức mạnh bản chất của mình. Vậy nên “vô vi” không có nghĩa là không làm gì mà có thể là một trong những quá trình tích cực nhất về độ tập trung trong cuộc sống chúng ta”(38). Đối với Tolstoi, “vô vi” là triết học của “sự hiểu biết vĩ đại”. Như vậy, tư tưởng và hành động của Kutuzov, lúc đầu xem ra lạ lùng, ngày càng tỏ ra có lý. Trước Tolstoi, chỉ có Pushkin với sự tinh tường thiên tài đã nhìn thấy tính hiền triết của sự không hành động “đầy hành động” của Kutuzov. Ông viết: “Chỉ riêng Kutuzov mới có thể bày bố trận Borodino, chỉ có Kutuzov mới trao Moskva cho kẻ thù, chỉ Kutuzov mới có thể ngồi trong sự không hành động đầy hành động khôn ngoan này, trong khi thôi miên Napoléon trên đống tro tàn Moskva và chờ đợi giây phút định mệnh: bởi vì riêng Kutuzov được sự ủy quyền của nhân dân, và ông đã tỏ ra xứng đáng với sự uỷ quyền đó một cách kỳ diệu”(39). Pushkin đã đưa ra một định thức chính xác về ý nghĩa lịch sử của sự “vô vi” của Kutuzov - “sự không hành động đầy hành động khôn ngoan”, phân biệt với sự bó tay thúc thủ hay chủ nghĩa định mệnh. Dường như Tolstoi tiếp tục tư tưởng của Pushkin, mở rộng và đào sâu nó trong khi sáng tạo nên hình tượng Kutuzov. Như đã nhận xét, theo Tolstoi, công lao của Kutuzov không phải ở hoạt động chiến lược có tính toán kỹ mà ở sự hiểu biết “ý nghĩa của sự kiện đang hoàn tất”, hiểu biết “nguyên nhân của mọi nguyên nhân” đang điều khiển các sự kiện lịch sử.
  6. Kutuzov cảm nhận tận đáy lòng “tư tưởng nhân dân”, cái tư tưởng đối với ông là “nguyên nhân của mọi nguyên nhân”, dường như ông thâm nhập vào nó và tan biến trong nó, hòa quyện với nó, tin cậy nó. Và điều đó cho phép ông bằng cách nào đó nhìn thấy, cảm thấy tiến trình tự nhiên của các sự kiện và không cản trở tiến trình đó mà đứng trong nó, trong lòng tiến trình ấy. Trong khi nghiên cứu lịch sử cuộc chiến tranh với Napoléon, Tolstoi đi đến kết luận rằng nét tính cách căn bản này của vị nguyên soái Nga quan trọng hơn nhiều so với các phương diện chiến lược khác. Kutuzov làm gì vào giờ phút giãy chết của đội quân Napoléon, khi mà khắp nơi sôi sục khí thế trả thù? Đối với Kutuzov, “cái chết của quân Pháp mà riêng ông đã tiên đoán”, là “một mong muốn duy nhất trong tâm hồn ông”. Song ông lại nói với các tướng lĩnh về “chiếc cầu vàng” dành cho đội quân rút lui để nhanh chóng rửa sạch đất nước Nga khỏi kẻ thù. Tổng tỉnh trường Moskva Rastopchin đã gọi Kutuzov là một nguyên soái điên rồ, người đã xúc phạm “tình cảm Nga”, và đòi được “báo thù”. Nhưng Kutuzov hiểu rằng bây giờ khi kẻ thù đã bị đánh bại và mỗi tên giặc rút lui “chỉ muốn một điều - đầu hàng” thì một cuộc chiến hủy diệt là vô nghĩa. Ông phán xét: “Đánh nhau, chặn đường, tổn thất mạng người, đánh đập dã man những kẻ bất hạnh để làm gì? Tất cả những thứ đó để làm gì khi mà từ Moskva đến Viazma một phần ba đạo quân đó đã tan vỡ không cần một trận đánh nào?”(40). Sự thương xót thay cho khao khát báo thù chính là sự phản ánh “tư tưởng nhân dân” mà Kutuzov mang trong mình. Chống lại cái ác chỉ có thể bằng việc làm điều thiện. Kutuzov phủ nhận lòng căm thù và sự phá huỷ. Như là một người mang tình cảm nhân dân sâu sắc, Kutuzov đặc biệt đáng nhớ khi người ta mang đến ông tin về quân Napoléon triệt thoái khỏi Moskva: “Lạy Chúa sáng thế, người đã nghe thấy lời cầu nguyện của chúng con...- ông nói bằng một giọng run rẩy, hai tay chắp lại. – Nước Nga đã được cứu rồi, xin cảm tạ Người, lạy Chúa! - rồi ông oà khóc”(41). Không hân hoan mà òa khóc! Ông khóc vì sung sướng vì Tổ quốc đã được cứu nguy, khóc vì hiểu rằng: đằng sau những chiến công là tổn thất hàng ngàn sinh mạng không thể bù đắp được.
  7. Trong ý thức nhân dân, chiến tranh bao giờ cũng là “một cái gì đó chống lại bản chất tự nhiên của con người”. Kutuzov coi sứ mệnh của mình đã hoàn thành, khi hành động quân sự chuyển ra ngoài biên giới của Tổ quốc. Ông đã chết ngay trên biên giới Nga. Tolstoi đã không cần phải miêu tả trận đánh Leipzig hay việc chiếm Paris nữa. Và đến đây, ta lại nhớ tới sách Lão Tử. Trong đó có nói “Người tướng giỏi chiến thắng và dừng lại ở đó, ông ta không dám thực hiện bạo lực” (“Thiện giả quả nhi dĩ, bất dĩ cảm thủ cường”)(42). Ở chương 31, ta đọc thấy: “Điều quan trọng là tuân thủ sự bình tĩnh, còn khi chiến thắng đừng khoe khoang. Khoe khoang chiến thắng tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không giành được cảm tình trong nước... Cần kỷ niệm chiến thắng bằng tang lễ” (“điềm đạm vị thượng, thắng nhi bất mỹ, nhi mỹ chi giả, thị lạc sát nhân, phù lạc sát nhân giả, tắc bất đắc chí ư thiên hạ hĩ... chiến thắng dĩ tang lễ xử chi”(43))(*). Học thuyết “vô vi” của Lão Tử ra đời từ tình yêu con người. Nhà triết học cổ đại, sống trong thời đại loạn lạc và tàn bạo, khi cả đất nước cháy trong ngọn lửa huynh đệ tương tàn vô nghĩa, đã kêu gọi con người hãy dừng lại dẫu chỉ giây lát để ngoái nhìn quanh mình, nghĩ về mình và thiên chức của mình. Điều này chính Tolstoi đã viết trong bài Vô vi: hãy nghĩ “bạn đương là gì và bạn cần thành người như thế nào, hãy ngẫm nghĩ về lý tưởng”(44). Trong sự cần thiết phải suy ngẫm này, Tolstoi nhìn thấy ý nghĩa của “vô vi”, bản chất của việc nhà hiền triết cổ đại phủ nhận chiến tranh. “Tư tưởng nhân dân” mà Tolstoi diễn đạt trongChiến tranh và hòa bình hòa điệu với tư tưởng “vô vi” của Lão Tử. Hiển nhiên, thiên sử thi vĩ đại của Tolstoi được khích lệ trước hết bởi lịch sử nước Nga, đời sống Nga, bởi các truyền thống của nó. Như D.S. Likhachev đã khẳng định, cơ sở của các quan điểm triết học của Tolstoi là “cơ chất Nga cổ đại” hiểu theo nghĩa rộng. Nó phủ nhận các cuộc viễn chinh đi xa ngoài biên giới Nga, nó hiểu sự vĩ đại thực sự nằm trong sự giản dị và chân thực, nó tôn sùng những chiến công vô danh gắn liền với đạo lý đã được xây dựng trong triết học của sử biên niên Nga sau thế kỷ XIII: “Quan niệm của Chiến tranh và hòa bình – đó là quan niệm mở rộng của các thiên truyện chiến tranh Nga ở các thế kỷ XIII-XVII”(45).
  8. Nhưng đồng thời đáng chú ý là lời thừa nhận của chính Tolstoi rằng ở các nhà triết học Tây Âu và phương Đông trong quá khứ, ông đã “tìm thấy cũng những chân lý ấy - mà ông phải rất khó khăn mới đạt đến được”(46). Vấn đề là ở chỗ, Tolstoi làm quen với Lão Tử 10 năm sau khi hoàn thành Chiến tranh và hòa bình. Dựa trên sự kiện này, nhà nghiên cứu người Nhật Suekane Takeo cho rằng mặc dầu trong tiểu thuyết của Tolstoi có không ít những đoạn gợi nhớ đến sách Lão Tử, nhưng không thể nói về ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng nhà triết học Trung Quốc đến nhà văn Nga(47). Tất cả điều đó đều đúng cả, nhưng điều thú vị to lớn đối với chúng ta chính là sự tương đồng loại hình của các quan điểm triết học của hai người khổng lồ của tư tưởng thế giới. E.I. Rachin trong cuốn sách về những tìm kiếm triết học của Tolstoi đã nói lên một ý thú vị: “Sự gắn bó dài lâu với triết học Trung Quốc cổ đại, khoái lạc tinh thần không ngớt mỗi lần đọc lại Khổng Tử, Lão Tử cho thấy sự lựa chọn đầy ý thức những người thầy của mình ở Tolstoi. Học thuyết của họ phù hợp với những quan điểm riêng của ông và bởi thế trở thành một phần trong cuộc sống của ông”(48). Đây là nói về Tolstoi chặng cuối đời. Lẽ nào lại sai lầm nếu ta giả định rằng ở nhà văn Nga vĩ đại này, đã có một tiên cảm thiên tài nào đó đối với phương Đông, qua những quan niệm đạo đức và vũ trụ luận của ông, và điều đó đã được phản ánh một phần trong Chiến tranh và hòa bình. Ngay khi đang viết Chiến tranh và hòa bình, Tolstoi đã bộc lộ nỗi lo rằng độc giả không lĩnh hội được tư tưởng thâm túy của tác phẩm. Tháng 3 năm 1863, trong thư gửi Pogodđin, ông viết: “Những tư tưởng của tôi về danh giới giữa tự do và lệ thuộc và quan điểm của tôi về lịch sử không phải là nghịch lý ngẫu nhiên xâm chiếm tôi trong nhất thời. Những tư tưởng này là kết quả lao động trí óc suốt đời tôi và làm nên một phần của cái thế giới quan mà chỉ có riêng Chúa mới biết chúng đã hình thành trong tôi một cách khó khăn, đau đớn, và đã cho tôi sự thanh thản hoàn toàn và hạnh phúc như thế nào. Nhưng đồng thời, tôi đã và vẫn biết rằng trong cuốn sách của tôi người ta sẽ khen ngợi sự đồng cảm đối với một tiểu thư, cái cười đối với Speranski và mọi điều nhảm nhí khác vừa với sức cảm thụ của họ, còn cái chính yếu sẽ chẳng có ai nhận thấy”(49).
  9. Lịch sử nghiên cứu Chiến tranh và hòa bình đã xác nhận sự lo lắng của nhà văn. Ngay giới phê bình đương thời với ông đã hoài nghi toàn bộ quan điểm của cuốn tiểu thuyết. Bài viết của N. Shelgunov có nhan đề Triết học của sự trì trệ (1871). Nhà phê bình này viết: “Tolstoi nói rằng hành động tích cực không phải là sức mạnh chân chính mà trái lại, sự yếu ớt của trí não mới là động lực. Nhưng điều đó hoàn toàn đối lập với điều mà các nhà tư tưởng thời mới dạy chúng ta. Ai đúng đây? Auguste Comte hay Tolstoi? Phương Tây hay phương Đông? Ai dẫn dắt lịch sử thế giới? Người châu Âu hay người châu Á?”(50). Sự phẫn nộ đối với triết học “trì trệ” phương Đông là điểm chung cho các nước đang bước vào con đường hiện đại hóa. Tolstoi không xếp mình vào khuôn khổ của những tư tưởng thời mới với chủ nghĩa duy lý của nó, với sự sùng bái anh hùng và với khao khát không gì có thể hạn chế vươn đến “thành công”. Điều đáng chú ý là các tạp chí triết học của Nhật Bản cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX cũng đầy rẫy những bài báo “vạch trần” triết học “trì trệ” của Lão Tử, người dường như có lỗi trước sự tụt hậu của châu Á so với châu Âu. Sự sùng bái Napoléon, con người hoạt động và đầy năng lượng là tiêu biểu cho phương Đông đang hiện đại hóa. Những hưởng ứng của Nhật Bản đối với bài viết Vô vi của Tolstoi dè dặt đến mức, tác giả của bút ký Phê phán lý luận của Tolstoi về vô vi (1895) đã liệt quan điểm của nhà văn vào loại “ảo tưởng không tưởng”, kìm hãm tiến bộ xã hội. Một ví dụ khác cũng tiêu biểu. Tháng 9-1928, trên hai số của một tờ báo trung ương Triều Tiên Ton’a Il’bo (Đông Á nhật báo) đã đăng một bài viết về Tolstoi, tác giả là Tổng lãnh sự Nga Chichaev viết theo yêu cầu của tờ báo nhân dịp 100 năm ngày sinh nhà văn. Sau khi chia sáng tác của Tolstoi ra tích cực và tiêu cực, tác giả bài viết khuyên độc giả Triều Tiên từ chối những tác phẩm trong đó tuyên truyền “chủ nghĩa hư vô”, phủ nhận những “qui luật phát triển chung của xã hội loài người”. Tác giả kết luận, chỉ cần chú ý đến “sự trì trệ” của các dân tộc châu Á để hiểu tác hại của những lý thuyết sai trái của nhà văn Nga(51). Học thuyết về vô vi tồn tại đã nhiều thế kỷ. Nhưng con người không theo nó, sự hãm hại lẫn nhau vẫn đang tiếp diễn. Cần làm gì để thực hiện tư tưởng vô vi này? Cần thay đổi quan niệm của chúng ta về cuộc sống, Tolstoi trả lời, cần diễn ra những thay đổi trong bản thân ý thức của con người. Sự sùng bái tồn tại vật chất, sự độc tôn ý chí cá nhân đã dồn nền
  10. văn minh vào ngõ cụt; sự sùng bái đó cần nhường chỗ cho sự tự ý thức của con người về mình như là một thực thể tinh thần. * Tolstoi từng ước mơ xuất bản một “Tủ sách toàn thế giới”, được xem như một Kinh thánh nào đó của cả nhân loại. Nhà báo Anh William Stad thăm nhà văn ở Jasnaia Poliana tháng 5 năm 1888, nhớ lại: “Ông có một thái độ kính trọng sâu sắc đối với những người Trung Quốc - Khổng Tử, Mạnh Tử, và Lão Tử. Cần phải xuất bản sách của họ gần như là vào loại hàng đầu, cũng như một cuốn sách trình bày bản chất đạo Phật”(52) . Những cuốn sách này cùng với Kinh Thánh, với các tác phẩm của các nhà tư tưởng châu Âu vĩ đại, theo tư tưởng của Tolstoi, sẽ phải “phục vụ cho hàng triệu độc giả như là thứ sách công cụ trong lao động và đời thường”, sẽ phải ảnh hưởng đến “sự phát triển chung của lịch sử”. Và cần nói rằng, khi châu Á đang hiện đại hóa, vì khinh thường di sản của chính mình, lao vào cuộc “chạy thoát khỏi châu Á”, Tolstoi đã góp phần không nhỏ thúc đẩy “sự quay lại với châu Á” của giới trí thức phương Đông. Học thuyết về đạo ngày càng nhận được sự thừa nhận rộng rãi hơn trên thế giới. Đạo đức kinh ngày nay thuộc số những sách được dịch nhiều nhất cả ở phương Đông và phương Tây. Lão Tử coi là phi lý nếu sống như cũ, áp dụng những phương châm sống thông dụng. Nhà triết học cổ đại nói, ví dụ, về lợi ích của cái vô ích: từ đất sét người ta làm ra bình chứa, nhưng việc sử dụng các bình chứa phụ thuộc vào sự trống rỗng trong chúng(53). Con người không nhất thiết luôn luôn lao vào công việc, cần biết làm chủ mình, cần ở trạng thái “trống rỗng” trong bản chất sâu sắc của mình, giữ được “cái tôi” của mình. Phương pháp tiếp cận duy lý đối với tồn tại, với phương pháp nhận thức bằng phân tích lí trí lạnh lùng ngày càng bị hoài nghi. Trong các cuộc tìm kiếm ý nghĩa của tồn tại nhân loại, phương Tây ngày càng hướng về phương Đông, về di sản triết học của nó. Vậy những bài học về sự làm quen của Tolstoi với Lão Tử nói lên điều gì ngày nay, khi mà óc tự ái dân tộc và tôn giáo đang hoành hành? Chỉ có thể sáng tạo ra những giá trị tinh thần mới bằng các tất cả hợp lực, sau khi học được cách hiểu và trân trọng không chỉ
  11. “cái của mình” mà cả “cái của người”: ở Lão Tử, Dương (sáng) và Âm (tối) không chống nhau mà bổ sung cho nhau, tạo nên một sự hài hòa của Cái chỉnh thể
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0