intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

DỰ ÁN XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

Chia sẻ: Le Xuan Binh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:65

191
lượt xem
56
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm qua, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, thu được những thành tựu to lớn, góp phần giảm nghèo, tạo thu nhập và công ăn việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động ở nông thôn, đóng góp tích cực cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế đất nước nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: DỰ ÁN XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN DỰ ÁN XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Đơn vị thực hiện: - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II và III - Viện nghiên cứu Hải sản. - Các Chi cục Thuỷ sản/ NTTS các tỉnh trọng điểm Đơn vị chủ trì: Tổng cục Thủy sản Hà Nội, tháng 7 năm 2012 1
  2. MỤC LỤC MỤC LỤC....................................................................................................................................2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRẮC MÔI TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN..................................................................................................................................4 CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG DỰ ÁN...............................................................................................6 MỤC TIÊU CỦA DỰ ÁN..............................................................................................................7 1.1 Mục tiêu chung.........................................................................................7 1.2 Mục tiêu cụ thể..........................................................................................7 HIỆN TRẠNG QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG NTTS Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC ..................................................................................................................................7 1.3 Kinh nghiệm quan trắc môi trường thuỷ sản ở một số nước.....................7 1.4 Hiện trạng mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS...........................8 1.4.1 Mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS.....................................................8 1.4.2 Cơ chế thực hiện nhiệm vụ quan trắc môi trường............................................11 1.4.3 Quan trắc và cảnh báo thông tin....................................................................11 1.4.4 Đối tượng nuôi, vị trí, bộ thông số và tần suất quan trắc...................................12 1.5 Kết quả và những hạn chế của mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS.............................................................................................................13 1.5.1 Kết quả......................................................................................................13 - Thiết lập và duy trì hoạt động của mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản..........13 - Xây dựng được cơ sở vật chất trang thiết bị và đội ngũ quan trắc viên....................13 - Xây dựng được phương pháp luận quan trắc môi trường phục vụ NTTS.................14 - Xây dựng được cơ sở dữ liệu, trang Web phục vụ cảnh báo....................................14 1.5.2 Hạn chế.....................................................................................................14 - Bất cập trong quản lý nhiệm vụ quan trắc theo hình thức đề tài...............................14 - Thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực.........................................................15 - Thiếu kinh phí thường xuyên cho hoạt động quan trắc..............................................15 - Sự phối hợp giữa các bên tham gia còn rất hạn chế.................................................15 - Cơ chế xử lý thông tin phục vụ sản xuất còn chưa hiệu quả....................................16 - Thiếu bộ thông số thống nhất và cơ chế xử lý thông tin đồng bộ.............................16 1.6 Nguyên nhân............................................................................................16 CÁCH TIẾP CẬN CỦA DỰ ÁN..................................................................................................17 1.7 Kế thừa và nâng cao năng lực trang thiết bị và nhân lực hiện có............17 2
  3. 1.8 Thống nhất đầu mối quản lý gắn với cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất .......................................................................................................................17 1.9 Tin học hóa, tự động hóa, ứng dụng GIS và viễn thám...........................17 NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN...........................................................................................................18 1.10 Xây dựng cơ cấu tổ chức của mạng lưới quan trắc (Sơ đồ 1)..............18 1.11 Nâng cấp trang thiết bị và phòng thí nghiệm.........................................21 1.12 Nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin cảnh báo..........................................21 1.13 Triển khai nhiệm vụ quan trắc môi trường thường xuyên phục vụ NTTS .......................................................................................................................21 1.14 Thống nhất bộ thông số quan trắc môi trường trên toàn quốc..............23 1.15 Bổ sung, đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế......................................26 1.16 Tổ chức các nghiên cứu nhằm bổ trợ cho hoạt động quan trắc ...........26 KẾ HOẠCH THỰC HIỆN DỰ ÁN..............................................................................................27 KẾT QUẢ DỰ KIẾN VÀ SẢN PHẨM CỦA DỰ ÁN ...................................................................28 KINH PHÍ THỰC HIỆN DỰ ÁN.................................................................................................29 1.17 Nguồn kinh phí để thực hiện dự án.......................................................29 1.18 Nhu cầu kinh phí cho từng nội dung của dự án.....................................30 CÁC RỦI RO CÓ THỂ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN DỰ ÁN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC........................................................................................................................................31 TỔ CHỨC THỰC HIỆN.............................................................................................................32 1.19 Tổng cục Thủy sản...............................................................................32 1.20 Các trung tâm quan trắc và trạm vùng trực thuộc..................................32 1.21 Các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh tham gia dự án..33 PHỤ LỤC ..................................................................................................................................34 1.22 PHỤ LỤC 1: CHI TIẾT NỘI DUNG VÀ KINH PHÍ..................................34 1.23 PHỤ LỤC 2: XÂY DỰNG MỘT SỐ VĂN BẢN QUẢN LÝ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG CỦA MẠNG LƯỚI..................................................................36 1.24 PHỤ LỤC 3: QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG THƯỜNG XUYÊN PHỤC VỤ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2012-2020.................................37 1.25 PHỤ LỤC 4. TỔNG KINH PHÍ MUA SẮM TRANG THIẾT BỊ BỔ SUNG CHO CÁC TRUNG TÂM................................................................................57 1.26 PHỤ LỤC 5. TỔNG KINH PHÍ MUA SẮM TRANG THIẾT BỊ CHO CÁC TRẠM VÙNG.................................................................................................63 3
  4. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRẮC MÔI TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Trong những năm qua, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, thu được những thành tựu to lớn, góp phần giảm nghèo, tạo thu nhập và công ăn việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động ở nông thôn, đóng góp tích cực cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế đất nước nói chung. 6000 1,000 MT 5.252 Wild catch Aquaculture 4.850 5000 4.580 4.160 3.696 4000 3.432 3.074 2.859 2.648 3000 2.435 2.003 1.828 1.669 2000 1.570 1.344 1.338 1000 0 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2011 Hình 1. Sản lượng khai thác và NTTS của Việt Nam trong những năm gần đây NTTS được đánh giá là một trong những ngành sản xuất có tốc độ tăng trưởng rất nhanh (Hình 1). Theo thống kê của Tổng cục thủy sản, năm 1994, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và khai thác nội địa mới chỉ đạt 397,168 tấn, chiếm 30.86% tổng sản lượng thủy sản. Đến năm 2006, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 1,694,000 tấn; năm 2007 đạt 2,100,000 tấn, chiếm trên 50% tổng sản lượng thuỷ sản. Đ ến năm 2011, tổng sản lượng sản phẩm thủy sản đã đạt xấp xỉ 5.3 triệu tấn với giá tr ị kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt 6.18 tỷ USD trong đó sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 3.052 triệu tấn chiếm 58% tổng sản lượng. Hiện nay, NTTS đang đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế - xã hội với kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm thủy sản đạt 4% GDP, tạo công ăn việc làm cho khoảng trên 4 triệu lao động. Bên cạnh những thành tựu quan trọng, NTTS nước ta cũng đang phải đối mặt với một số vấn đề tồn tại về môi trường, dịch bệnh. Biểu hiện rõ nét là tình hình bệnh thủy sản và môi trường suy thoái có chiều hướng gia tăng. Việc tăng diện tích và sản lượng NTTS cũng tỷ lệ thuận với việc suy giảm chất lượng môi trường nuôi và diện tích tôm bị bệnh. Bệnh xảy ra với các đối tượng thuỷ sản nuôi đã gây thiệt hại từ vài chục tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng trên mỗi vụ nuôi. Tôm nuôi nước l ợ thường xảy ra dịch bệnh, có lúc rải rác ở các vùng miền có lúc xảy ra hàng loạt, gây thiệt hại lớn cho một số vùng nuôi trọng điểm như Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre, Trà Vinh, Thừa Thiên Huế, Quảng Ninh… Đặc biệt, thống kê năm 2011 cho thấy tôm nuôi bị dịch bệnh trên diện rộng, gây thiệt hại khoảng trên 97,000 ha tập trung ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu. Năm 2012, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, t ập 4
  5. trung nhiều ở tỉnh Trà Vinh và đến nay vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh. Hiện tượng ngao chết hàng loạt xảy ra hàng năm rải rác từ tháng 12 và tỷ lệ chết cao nhất thường xuất hiện vào tháng 3 - 4 dương lịch ở miền Nam và từ tháng 4 và tỷ lệ chết tăng dần từ tháng 6 đến hết tháng 8. Năm 2011, ngao nuôi ở miền Nam bị chết hàng loạt tại các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Bạc Liêu với tổng diện tích thiệt hại 2.980 ha, tương đương khoảng 30.000 tấn, ước giá trị thiệt hại khoảng 648 tỷ đồng (Báo cáo tại hội nghị phát triển nuôi ngao và phòng chống dịch bệnh cho ngao). Trong ba năm gần đây, bệnh cá rô phi đã xuất hiện có tính chất dịch trên toàn miền Bắc do vi khuẩn Streptococcus sp gây ra vào thời kỳ nắng nóng kéo dài từ tháng 6-9. Cá nuôi lồng trên biển cũng thường gặp dịch bệnh gây chết rải rác và thường chết hàng loạt khi các yếu tố môi trường bất lợi ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Khánh Hoà và Bà Rịa-Vũng Tàu. Hiện trạng dịch bệnh trên đây cho thấy việc tăng cường quản lý để kiểm soát dịch bệnh là rất cấp bách. Khác với các loài động vật sống trên cạn, các đ ối tượng NTTS phụ thuộc và gắn chặt với môi trường nước và khi đã xảy ra dịch bệnh thì rất khó chữa trị. Việc kiểm soát dịch bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào công tác phòng ngừa, hạn chế các mối nguy gây ra dịch bệnh. Có thể nói việc quản lý dịch bệnh trong NTTS hoàn toàn phụ thuộc và việc kiếm soát chất lượng môi trường nước. Công tác quan trắc môi trường trong NTTS do vậy đóng vai trò cực kỳ quan trọng đ ể giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh, đảm bảo sự phát triển bền vững. Ở nước ta, công tác quan trắc môi trường và dự báo khí tượng thuỷ văn đã có từ rất lâu nhằm phục vụ các nhóm ngành nghề và đối tượng khác nhau. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, đã có mạng lưới quan trắc chất lượng nước phục vụ thủy lợi. Từ năm 2001, Bộ Thủy sản (nay thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã từng bước hình thành mạng lưới quan trắc phục vụ NTTS và môi trường biển thuộc 4 Viện I, II, III và Viện NCHS. Hoạt động quan trắc, cảnh báo môi trường, bệnh của các trung tâm đã đi vào hoạt động và góp phần không nhỏ trong việc quan trắc môi trường vùng nuôi để đưa ra được những cảnh báo sớm cho người dân nuôi tr ồng thuỷ sản có những biện pháp quản lý và phòng tránh những rủi ro do môi trường, bệnh gây ra cho đối tượng nuôi của mình. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như nguồn kinh phí chưa đủ để thực hiện quan trắc, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện về phạm vi, đối tượng quan trắc và tần số quan trắc; các bộ tiêu chuẩn (TCVN, TC ngành) còn nhiều bất cập nên đã ảnh hưởng đến quá trình đánh giá; một số tỉnh còn nuôi theo hình thức nhỏ lẻ do vậy việc quản lý vùng nuôi còn gặp nhiều khó khăn; các thiết bị quan trắc, phân tích còn thiếu và lạc hậu; chưa có chế tài rõ ràng về việc thông báo các kết quả quan trắc chất lượng môi trường, bệnh nên việc đưa thông tin quan trắc đến được với các hộ dân còn chậm, hiệu quả còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, mạng lưới kiểm soát và cảnh báo môi trường, bệnh của các Chi cục Thủy sản/ NTTS tại các địa phương về nhân lực cũng như kinh phí còn thiếu nên khó kiểm soát được toàn bộ khu vực nuôi như mong muốn. Ngoài ra, biến đổi khí hậu và những hiện tượng thời tiết bất thường không theo qui luật, hiện tượng bão lũ, hạn hán... đã 5
  6. có những tác động không nhỏ đến sản xuất NTTS. Hậu quả là hiện tượng môi trường suy thoái và bệnh vẫn xảy ra đối với nhiều đối tượng nuôi, gây thiệt hại không nhỏ đối với kết quả hoạt động sản xuất NTTS. Những bất cập trên đây cho thấy hoạt động Quan trắc môi trường, bệnh ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với sự tồn tại và phát triển NTTS. Hiện nay, công tác quản lý sản xuất NTTS đang được Bộ NN&PTNT quan tâm chỉ đạo để tăng cường quản lý sản xuất theo hướng phát triển bền vững, góp phần thiết thực đảm bảo an ninh lương thực và thực phẩm, tăng kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái. Công tác cảnh báo môi trường trong NTTS hiện nay rất cần phải nâng cấp và cần phải gắn kết chặt chẽ với cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất. Việc xây dựng dự án “Xây dựng mạng lưới quan trắc, cảnh báo môi trường phục vụ nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020” là rất cần thiết đ ể đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất và phát triển NTTS bền vững. CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG DỰ ÁN Luật Thuỷ sản được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - thông qua ngày 26/11/2003; Luật Bảo vệ Môi trường của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số - 52/2005/QH 11 ngày 29 tháng 11 năm 2005; Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài - nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường; Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg: Về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể hệ - thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020” ban hành ngày 29/01/2007; Quyết định số 10/2007/QĐ-BTNMT ngày 5/7/2007 của Bộ trưởng Bộ - TN&MT về việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động quan trắc môi trưởng không khí xung quanh và nước mặt; Thông tư số 10/2007/TT-BTNMT ngày 22/10/2007 của Bộ TN&MT hướng - dẫn bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng trong quan trắc môi trường; Quyết định 3244/QĐ-BNN-KHCN ngày 02 tháng 12 năm 2010 Phê duyệt Đề - án Tăng cường năng lực quan trắc môi trường nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 – 2020; Thông báo 215/TB-BNN-VP ngày 22/6/2011 về ý kiến của Bộ trưởng Cao - Đức Phát về việc lập dự án điều tra nguồn lợi thủy sản và dự án xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường. 6
  7. MỤC TIÊU CỦA DỰ ÁN 1.1 Mục tiêu chung Xây dựng đượ c mạng lướ i quan trắc môi tr ường đáp ứng yêu cầu cảnh báo dịch bệnh trong NTTS phục vụ quản lý và ch ỉ đ ạo s ản xu ất NTTS b ền v ững, có hiệu quả. 1.2 Mục tiêu cụ thể - Xây dựng được mạng lưới quan trắc môi trường có nguồn nhân lực và trang thiết bị đầy đủ, đồng bộ và hiện đại, đáp ứng được nhu cầu cảnh báo trong chỉ đạo sản xuất NTTS. - Triển khai được các hoạt động quan trắc môi trường và dịch bệnh trong NTTS đáp ứng yêu cầu chỉ đạo và điều hành sản xuất. HIỆN TRẠNG QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG NTTS Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1.3 Kinh nghiệm quan trắc môi trường thuỷ sản ở một số nước Hoạt động quan trắc trên thế giới được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, phục vụ nhiều mục tiêu khác nhau như khí tượng thuỷ văn, động đất và sóng thần… Đối với NTTS, hoạt động quan trắc môi trường có những nét đặc thù và mỗi nước có cách tiến hành khác nhau. Bản Quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của FAO cũng đó đề cập đến việc bắt buộc phải có hoạt động quan trắc môi trường đối với các vực nước trong phạm vi một quốc gia hay các hệ sinh thái liên quốc gia. Cơ sở dữ liệu quan trắc phải được chia sẻ (FAO, 1995). Một số bang ở Mỹ có những chương trình quan trắc chi tiết cho các khu vực NTTS trong đó các thông số chất lượng nước, cấu trúc và chức năng của quần xã sinh vật đáy, tảo, dịch bệnh được giám sát kỹ lưỡng. Ở Thái Lan, hoạt đ ộng quan trắc trong NTTS do Cục nghề cá đảm nhận và có sự phân cấp hoạt động cho các tỉnh. Hệ thống quan trắc có 218 trạm quan trắc chất lượng nước bao gồm cả thủy sinh. Hoạt động quan trắc chất lượng nước trong NTTS biển là việc bắt buộc phải thực hiện theo Luật thuỷ sản (National Offshore Aquaculture Act of 2000) do một uỷ ban liên ngành gồm các cơ quan của chính phủ (Gerstenfeld và Biederman, 2002). Ở Nauy, trong khi đệ trình dự án, chủ trại phải chỉ ra rằng mình có khả năng thực hiện việc quan trắc và xử lý môi trường theo yêu cầu của các nhà quản lý môi trường. Ở Scottland, Cục Bao vệ Môi trường (SEPA) yêu cầu chủ trại phải thực ̉ hiện việc quan trắc và kinh phí quan trắc tự chi trả. Việc giám sát công tác quan trắc môi trường (gồm cả việc sử dụng thuốc và hoá chất) do nhiều cơ quan khác nhau phối hợp và các cơ quan địa phương đóng vai trò quan trọng. Cục nghề cá Ireland yêu cầu chủ trại có sản lượng hàng năm trên 100 tấn phải có báo cáo đánh giá hoạt động và giám sát môi trường (Cicin-Sain, 2001). Việc giám sát môi trường trong NTTS ở Canada cũng có nhiều chồng chéo và phức tạp. Luật nghề cá sửa đổi của Úc cũng có đề cập các điều khoản về quan trắc môi trường. 7
  8. Giám sát và quản lý tảo độc, sự nở hoa của tảo và đặc biệt là các loài thuộc lớp Dinophyceae và tảo Silic biển gây nên sự nhiễm độc cho thuỷ, hải sản từ đó ảnh hưởng đến ngành công nghiệp nuôi và đánh bắt các thuỷ, hải sản. Nhiều nước đã đặt nhiệm vụ cấp bách phải kiểm tra giám sát quản lý độc tố trong thuỷ hải sản và trong thực vật phù du (Andersen P, 1996). Canada có hệ thống giám sát thủy hải sản từ năm 1943, hệ thống giám sát của nước này đã chia vùng nuôi trồng và đánh bắt hải sản thành các mạng lưới hoặc các trạm, thường xuyên kiểm tra định kỳ các mẫu hải sản đánh bắt và các mẫu thực vật phù du gây độc (Đặng Đình Kim, 1999). Đến năm 1996, có ít nhất 33 quốc gia ven biển đã thiết lập hệ thống quan trắc tảo độc hại thường xuyên (Andersen, 1996).Cộng đồng châu Âu (EU) yêu cầu các vùng nguyên liệu thân mềm hai mảnh vỏ nhập khẩu vào thị trường của khối liên minh này phải được quan trắc thường xuyên. Trong đó, hàm lượng độc tố PSP không được vượt quá 0,08 mg/1kg thịt và độc tố DSP không được quá 0,020 mg/1kg thịt (Cộng đồng EU, 1991). Tại Đan Mạch hệ thống giám sát thủy hải sản có rất sớm, riêng vùng đánh bắt sò xanh được chia thành hệ thống gồm nhiều mạng lưới và việc đánh bắt hải sản sẽ bị cấm trừ khi các mẫu hải sản và nước được kiểm tra từ tuần trước đó về độc tố và tảo độc nằm trong ngưỡng cho phép. Có thể thấy, xu hướng hoạt động quan trắc môi trường nước nhìn chung phát triển theo hướng mở rộng quy mô, đa dạng về hình thức, phân cấp mạnh và ngày càng có nhiều bên tham gia. Việc quan trắc cần gắn trực tiếp với sản xuất, vừa là nghĩa vụ, vừa là nhu cầu đối với sản xuất NTTS. 1.4 Hiện trạng mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS 1.4.1 Mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS Năm 2001, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường phối hợp với Bộ Thuỷ Sản tổ chức khởi đầu hoạt động “Quan trắc, cảnh báo môi trường và dịch bệnh thủy sản” cho ngành Thuỷ sản nhằm tìm ra hình thức hoạt động quan trắc môi trường phù hợp với đặc thù hoạt động của ngành Thủy sản. Bộ Thuỷ sản đã phân công các cơ quan chức năng trong Ngành tham gia thực hiện đề tài nghiên cứu về “Quan trắc, cảnh báo môi trường và dịch bệnh phục vụ ngành thuỷ sản”. Theo đó 4 Trung tâm quan trắc mới về dự báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh phục vụ nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản được thiết lập. Đây là cơ sở để tiến tới hình thành mạng lưới quan trắc cảnh báo môi trường và dịch bệnh phục vụ nuôi trồng thuỷ sản cho ngành thủy sản. Từ năm 2004, các trung tâm quan trắc ngành thủy sản từng bước hoà nhập với mạng lưới quan trắc môi trường chung của quốc gia. Hiện nay 04 Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và dịch bệnh cho NTTS thuộc 04 Viện nghiên cứu NTTS là các Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III và Viện nghiên cứu hải sản (gọi tắt là Viện I, II, III và Viện NCHS). Ngoài chức năng quan trắc và cảnh báo, các Trung tâm này đều có chức năng nghiên cứu phục vụ những vấn đề đặc thù của các Viện quản lý trực tiếp giao cho. Cơ cấu tổ chức của 8
  9. các Trung tâm bao gồm: Ban Giám đốc, Văn phòng, các phòng chuyên môn. Bốn trung tâm này còn có một số trạm vùng trực thuộc ở những vùng nuôi trọng điểm đặc thù. Bảng 1 thể hiện nhân sự tham gia vào mạng lưới quan trắc. Tổng số cán bộ thực hiện quan trắc, cảnh báo môi trường nuôi trồng thuỷ sản khoảng 119 cán bộ. Trong đó, có khoảng 57 cán bộ chuyên làm về công tác Quan trắc và 22-37 cán bộ làm hợp đồng. Bảng 1: Nhân sự của mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản Tổng Cán bộ Lao động Số Số Tên cơ quan số cán hợp trạm điểm chuyên bộ đồng trách vùng đo Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường 1 03 Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Miền 37 20 30 8 51 Bắc Trung tâm quốc gia quan trắc môi 17 05 02 0 60 trường biển Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Miền 21 14 - 4 22 Trung Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Nam 35 18 - 5 53 Bộ Tổng số cán bộ làm công tác quan trắc 119 môi trường thủy sản Trong số 04 Trung tâm quan trắc, chỉ có Trung tâm Quan trắc miền Nam thuộc Viện II đã được đầu tư từ năm 2005 với cơ sở vật chất tương đối đầy đủ và hiện đại; 03 trung tâm còn lại đều chưa được đầu tư cơ sở hạ tầng. Các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu môi trường và bệnh nói chung, phục vụ hoạt động quan trắc nói riêng của 03 trung tâm trên chủ yếu là từ các nguồn đầu tư nhỏ lẻ hàng năm hay từ các đề tài khác nên chưa được đồng bộ và thiếu rất nhiều trang thiết bị thiết yếu. Cho đến nay, “Nhiệm vụ Quan trắc và Cảnh báo Chất lượng Môi trường và Dịch bệnh Thủy sản” được Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường chỉ đạo các Trung tâm Quan trắc trực thuộc các Viện I, II, III và Trung tâm Quan trắc Môi trường biển thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản thực hiện theo hình thức giao nhiệm vụ hàng năm. Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Miền Bắc thuộc Viện I, gồm có các phòng chuyên môn là Phòng Bệnh động vật thủy sản, Phòng Môi trường, Phòng thông tin và Cảnh báo cùng các phòng thí nghiệm chuyên môn và Văn phòng. Ngoài các đơn vị trực thuộc tại Trung tâm còn có 8 trạm vùng: Hiện chỉ có 03 cán bộ phụ trách trực tiếp lĩnh vực môi trường thủy sản. 1 9
  10. Trạm Cát Bà, Quý Kim, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Sơn La và Tuyên Quang. Trên thực tế, chỉ mới có các trạm vùng có cơ sở vật chất và nhân lực nằm trên các đơn vị của Viện I đã thực hiện chức năng của trạm ở các mức độ khác nhau, các trạm vùng không thuộc Viện chưa được xây dựng. Hoạt động hợp tác trong nhiệm vụ quan trắc thường niên với các đơn vị quản lý thủy sản nơi có các trạm vùng không thuộc Viện cũng chưa được phối hợp chặt chẽ ngoại trừ với Chi Cục NTTS Thừa Thiên Huế. Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Nam Bộ - Viện II gồm 3 phòng chức năng chính là Phòng bệnh học thủy s ản, Phòng Môi trường, Phòng thông tin, tổng hợp. Các trạm thu mẫu được phân chia thành trạm cấp I (7 trạm) và cấp II. Trạm cấp I là các trạm tối thiểu giúp thu thập các tài liệu cơ bản để phân tích đánh giá chất lượng nước của một tiểu vùng. Trạm cấp II là các trạm mở rộng theo yêu cầu và điều kiện cho phép. Các địa điểm chính là Bán đảo Cà Mau, Đồng Tháp Mười, Sông Tiền, Sông Hậu, Tứ giác Long Xuyên. Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Miền Trung - Viện III, thực hiện quan trắc môi trường tại các tỉnh Nam Trung bộ và các tỉnh Tây nguyên gồm 7 trạm đo. Trung tâm quốc gia Quan trắc môi trường biển thuộc Viện nghiên cứu Hải sản, tham gia vào trạm quan trắc phân tích môi trường biển quốc gia (Trạm quan trắc biển khơi 5) và phụ trách quan trắc môi trường biển vùng biển khơi Côn Đảo, Trung và Đông Nam Bộ, Tây Nam bộ. Trong những năm qua với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác quan trắc môi trường, đã góp phần không nhỏ cho việc cảnh báo sớm những diễn biến bất lợi về môi trường nuôi trồng thuỷ sản theo khu vực và từng đ ịa phương. Đặc biệt là cảnh báo đối với các đối tượng nuôi chủ lực như tôm sú, cá tra, tôm hùm, nhuyễn thể... đã giúp người dân tránh được không ít những rủi ro trong sản xuất như có kế hoạch thu hoạch sớm, thả giống đúng thời điểm môi trường thuận lợi, tránh lấy nước vào ao nuôi khi môi trường bất lợi... Tuy nhiên do NTTS ngày càng phát triển về diện tích và sản lượng nên với số lượng cán bộ làm công tác quan trắc hiện có đã rất khó khăn đ ể có mặt tại hi ện trường với địa bàn hoạt động rộng khắp. Các Trung tâm đã phải linh hoạt phối hợp với Chi cục tại địa phương thực hiện nhiệm vụ quan trắc. Cũng do kinh phí hạn chế nên việc phối hợp còn chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Việc bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về môi trường, bệnh, các phương pháp thống kê số liệu quan trắc đồng bộ, phương pháp lấy mẫu... còn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, kinh phí hàng năm chưa đảm bảo để các cán bộ được tham gia nhiều khoá đào tạo nâng cao trình độ năng lực trong nước và nước ngoài. 10
  11. 1.4.2 Cơ chế thực hiện nhiệm vụ quan trắc môi trường Nhiệm vụ hàng năm được tổ chức thực hiện theo kinh phí Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường dự kiến cho mỗi trung tâm quan trắc. Theo đó, các trung tâm xây dựng kế hoạch theo dạng đề tài và được Hội đồng Khoa học của các Viện thông qua sau được Hội đồng Khoa học của Bộ xét duyệt. Sau mỗi năm thực hiện hoạt động quan trắc theo đề cương đã được phê duyệt, các trung tâm quan trắc tiến hành tổng kết nhiệm vụ của mình thông qua Hội đồng khoa học của các Viện; sau đó hồ s ơ nghiệm thu cơ sở được gửi lên Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường để nghiệm thu cấp Bộ. Về cơ chế hoạt động, tùy theo điều kiện của từng trung tâm và các trạm vùng, điểm đo mà một số hoạt động quan trắc được phân nhánh cho các trạm vùng. Đ ối với Trung tâm Quan trắc miền Bắc, trạm vùng Hải Phòng, trạm vùng Nghệ An và trạm vùng Thừa Thiên Huế thực hiện các hoạt động quan trắc trong địa bàn của mình theo dạng hợp đồng nhánh sau khi đã có sự thống nhất về nội dung quan trắc theo đề cương đã được Bộ phê duyệt. Hiện nay kinh phí chi cho hoạt động quan trắc cảnh báo hàng năm rất hạn chế trong khi nhu cầu quan trắc rất lớn (Bảng 2). Các trung tâm không thể tiến hành quan trắc trên nhiều đối tượng nuôi, nhiều điểm đo và tần suất quan trắc cao. Bảng 2: Kinh phí hàng năm từ 2005-2008 Kinh phí hàng năm Tên đơn vị 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 TTQT CBMT và PNDB Miền Bắc 250 450 750 960 960 960 400 TTQG QTCB môi trường biển 400 600 1.10 - 1150 1150 500 0 TTQG QTCB MT và PNDB Miền Trung 350 550 800 1.200 1200 1200 600 TTQG QTCBMT và PNDB Nam Bộ 350 550 900 - 1600 2800 600 1.4.3 Quan trắc và cảnh báo thông tin Trong quá trình thực hiện quan trắc, các báo cáo định kỳ hàng quý được gửi lên Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Các bản tin quan trắc được gửi cho người nuôi; vùng nuôi và cơ quan quản lý NTTS của địa phương (tùy vào từng đ ịa phương cơ quan quản lý NTTS tham gia vào hoạt động quan trắc với các trung tâm có thể là trung tâm khuyến ngư, chi cục NTTS hay chi cục Thủy sản); Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường và Tổng cục Thủy sản. Riêng tại Trung tâm Quan trắc Miền Bắc, với sự phối hợp với Chi Cục NTTS Thừa Thiên Huế, thông tin quan trắc môi trường và bệnh được đưa lên Đài truyền hình tỉnh 1 lần/tuần và có phát lại. Số liệu quan trắc phục vụ các bản tin được xử lý bằng cách đối chiếu với các tiêu chuẩn ngành (TCN), tiêu chuẩn quốc gia (TCQG) cho từng đối tượng nuôi hay 11
  12. loại hình thủy vực đã tương ứng. Nhiều thông số do không có các tiêu chuẩn sẵn có được suy diễn căn cứ vào kinh nghiệm và sự tham khảo của các tác giả khác để tổng hợp và đưa ra nhận định. Các bản tin đồng thời được đưa lên trang Web của Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Khi trang Web chỉ mới phục vụ thông tin về môi trường thủy sản, các bản tin được đăng tải đều đặn theo các hoạt động thu mẫu của các trung tâm. Sau khi được mở rộng và cấu trúc lại nhằm mục đích chuyển tải thông tin môi trường nông nghiệp nói chung từ năm 2010, trang Web này mới chỉ đang trong quá trình thử nghiệm và thông tin quan trắc thủy sản được đưa lên mạng không thường xuyên. Việc duy trì liên lạc thường xuyên trong mạng lưới còn yếu, đặc biệt là giữa các trung tâm với các vùng nuôi do tính phân tán của các hoạt động NTTS. Bên cạnh đó, yếu tố chủ quan là sự phối hợp giữa trung tâm với các trạm vùng, trung tâm với các tỉnh còn nhiều bất cập nên việc tiếp nhận phản hồi từ người dân về tính hữu ích của thông tin cảnh báo chưa cao. 1.4.4 Đối tượng nuôi, vị trí, bộ thông số và tần suất quan trắc Căn cứ vào điều kiện NTTS của từng miền, nguồn kinh phí và yêu cầu về mặt khoa học của những thông số cần quan trắc các trung tâm đã đưa ra hình thành nên mạng lưới quan trắc trong vùng quản lý của mình với mạng lưới các tr ạm vùng, điểm đo, bộ thông số và tần suất đo phục vụ những đối tượng nuôi cụ thể. Ở miền Bắc, quan trắc môi trường và bệnh khu vực nuôi tôm sú, tôm chân trắng ở các tỉnh ven biển; cá biển nuôi lồng ở Quảng Ninh và Hải Phòng; cá rô phi nuôi thâm canh tại Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hà Nội; nhuy ễn thể tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa và Nghệ An. Ở miền Trung, quan trắc môi trường và bệnh tại các khu vực nuôi tôm sú, tôm chân trắng, tôm hùm và cá biển từ Đà Nẵng đến Bình Thuận. Miền Nam chủ yếu quan trắc môi trường phục vụ nuôi tôm và nhuyễn thể ở các tỉnh ven biển Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, nuôi cá biển ở Vũng Tàu, Kiên Giang; cá Tra ở các tỉnh Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang. Thông số quan trắc được chia làm 4 nhóm gồm thủy lý hóa, thủy sinh, trầm tích và bệnh. Các thông số này có thể có một số khác biệt giữa các trung tâm quan trắc trên từng đối tượng nuôi cụ thể. Các thông số về chất lượng nước: Nhiệt độ, Oxy, pH, Thế oxy - hóa khử, độ • muối, độ trong, CO2, độ cứng, kiềm tổng số, Phosphate, Ammonia, NH3, Nitrate, Nitrite, nhu cầu ô xy hóa học (COD), nhu cầu oxy sinh học (BOD), Sulfide, Sắt tổng số, tổng N, tổng P, Chloropyll-a, dư lượng váng dầu, Chì, Cadmium, Đồng, Thủy ngân, Asen và Kẽm. 12
  13. • Các thông số về bệnh: Vi khuẩn hiếu khí; Vi khuẩn Vibrio; Coliform; vi khuẩn trên tôm và cá; Virut đốm trắng, đầu vàng và Taura trên tôm; mô, nấm, ký sinh trùng, virut trên cá. • Các thông số và động thực vật thủy sinh: Thực vật phù du, Tảo độc hại, Động vật phù du và động vật đáy. • Các thông số về môi trường trầm tích như: Thành phần cơ giới, hô hấp đất, pH đất, thế Oxy hóa-Khử, Tổng N đáy, tổng P đáy, tổng C đáy, tổng lưu huỳnh, tổng sắt trong đất, nấm trong đất và vi khuẩn Vibrio. Tần suất quan trắc định kỳ của các Trung tâm cũng có khác biệt giữa các đối tượng nuôi khác nhau và thậm chí trên cùng một đối tượng. Tần suất quan tr ắc thường từ 3 - 6 lần/năm tập trung vào 06 tháng mùa vụ sản xuất chính trong năm. Ví dụ nhóm các yếu tố dinh dưỡng được quan trắc 1 lần/tháng ở miền Bắ c, 0.25 lần/tháng ở miền Trung đối với tôm Sú. Ngoài quan trắc định kỳ, quan trắc đ ột xuất tiến hành khi có hiện tượng dịch bệnh xảy ra trên diện rộng đối với các đối tượng như tôm, cá biển và cá nước ngọt, nhuyễn thể. 1.5 Kết quả và những hạn chế của mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS 1.5.1 Kết quả - Thiết lập và duy trì hoạt động của mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản Mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản được hình thành dựa vào 04 trung tâm quan trắc thuộc Viện I, II, III và Viện NCHS với mục tiêu là cung cấp được cho người nuôi và các nhà quản lý diễn biến môi trường và bệnh để điều hành và chỉ đạo sản xuất cũng như đánh giá tác động của NTTS lên môi trường. Mạng lưới gồm có các trung tâm ở ba miền hoạt động theo yêu cầu quan trắc môi trường từ Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Dưới các trung tâm là các trạm vùng và dưới các trạm vùng là các điểm đo phân bố ở tại một số vùng nuôi trọng điểm, vùng nuôi tập trung. - Xây dựng được cơ sở vật chất trang thiết bị và đội ngũ quan trắc viên Cơ sở vật chất trang thiết bị tham gia vào hoạt động quan trắc đã được nâng cấp từ nhiều nguồn, dự án khác nhau. Trung tâm quan trắc miền Nam đã được xây dựng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị khá đầy đủ. Các trung tâm còn lại cũng đã được phê duyệt dự án xây dựng, nâng cấp trang thiết bị. Nhân lực thực hiện quan trắc được bổ sung dần vừa là để đáp ứng nhu cầu quan trắc, vừa để thực hiện các nhiệm vụ môi trường và bệnh phục vụ NTTS. Lực lượng này cũng được tập huấn, đào tạo thêm về nghiên cứu và quan trắc môi trường nước được lồng ghép trong các nhiệm vụ môi trường hàng năm ở các cấp trung tâm và một số ít ở các trạm trạm vùng. 13
  14. - Xây dựng được phương pháp luận quan trắc môi trường phục vụ NTTS Từ đặc thù NTTS nhỏ lẻ và phân tán gồm nhiều đối tượng loài nuôi, loại hình nuôi dẫn đến môi trường và bệnh trong NTTS diễn biến rất phức tạp. Trong khi đó kinh phí được cấp hàng năm, cơ sở vật chất cũng như đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu so với nhu cầu, các trung tâm quan trắc đã xác định được cách thức tiếp cận tương đối hợp lý. Đến nay các trung tâm đã xây dựng được đối tượng nuôi, địa điểm, bộ thông số và tần suất quan trắc cho từng miền, từng khu vực. Ngoài ra, trong những năm qua, các Trung tâm đã thực hiện một số nhiệm vụ cấp bộ, các nhiệm vụ môi trường về quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản phục vụ trực tiếp hay gián tiếp hỗ trợ hoạt động quan trắc và cảnh báo. Hoạt động “Đánh giá sức tải của khu vực nuôi cá lồng bè theo phương pháp MOM của Nauy” do Trung tâm Quan trắc miền Bắc tiến hành ở Cát Bà (Hải Phòng) và Vân Phong (Khánh Hòa) đã bổ sung thêm phương pháp luận trong việc quan trắc môi trường nuôi cá lồng bè ở Việt Nam. Đề tài “Đánh giá sức tải môi trường nuôi cá tra” do Trung tâm Quan trắc Miền Nam tiến hành đã và đang góp phần vào việc đánh giá tác động môi trường của việc nuôi đối tượng chủ l ực là cá tra lên môi trường và giúp cho việc cảnh báo các ảnh hưởng tiêu cực của việc nuôi cá lên môi trường và các ngành kinh tế khác. - Xây dựng được cơ sở dữ liệu, trang Web phục vụ cảnh báo Do đặc thù sản xuất NTTS ở từng vùng khác nhau, việc thống nhất được cách thức tiếp cận, phương pháp triển khai và xây dựng cơ sở dữ liệu chung trên phạm vi toàn quốc là rất khó. Tuy nhiên, mạng lưới đã có những thống nhất và xây d ựng được CSDL mà qua đó có thể phục vụ phân tích xu hướng diễn biến, cung cấp thông tin cho người nuôi, nhà quản lý. “Nhiệm vụ ứng dụng CNTT trong quan trắc, cảnh báo môi trường, bệnh thủy sản” do Trung tâm Quan trắc Miền Bắc thực hiện đã xây dựng được CSDL môi trường, bệnh, công cụ mô hình hóa, GIS, module cảnh báo suy diễn. Bộ đã đánh giá cao và cho tiếp tục phát triển với quy mô lớn hơn cho toàn bộ lĩnh vực môi trường nông nghiệp. Hiện nay, các bản tin cảnh báo đã có thể được tải lên trang Web http://environment.mard.gov.vn. Dữ liệu này có thể được truy cập trên mạng Internet từ trang Web hiện có. Các bản tin quan trắc định kỳ của các trung tâm, tin tức và những sự cố môi trường, dịch bệnh có đã và đang được đăng tải ngày một nhiều. 1.5.2 Hạn chế - Bất cập trong quản lý nhiệm vụ quan trắc theo hình thức đề tài Việc phê duyệt và tổng kết nhiệm vụ quan trắc được thực hiện giống như một nhiệm vụ khoa học. Cách quản lý nhiệm vụ quan trắc là nhiệm vụ hàng năm theo hình thức đề tài có nhiều bất cập do hoạt động quan trắc có đặc thù về mùa vụ cần phải thực hiện kịp thời. Trong khi đó, việc phê duyệt và nghiệm thu nhiệm vụ thường rất chậm so với nhu cầu sản xuất nên không thể đáp ứng thực tiễn sản xuất. 14
  15. - Thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực Tuy mạng lưới hiện nay đã được hình thành và đi vào hoạt động nhưng chủ yếu các trung tâm quan trắc vẫn dựa trên cơ sở phòng thí nghiệm, trang thiết bị máy móc của các Viện được đầu tư từ nhiều nguồn đề tài, dự án, tài trợ nhỏ lẻ phục vụ nghiên cứu là chủ yếu chứ chưa được đầu từ quy mô, đồng bộ nhằm phục vụ quan trắc môi trường (trừ đầu tư cho Trung tâm Quan trắc Miền Nam). Các trạm vùng của trực thuộc các trung tâm hầu như chưa được đầu tư và trang thiết bị thiết yếu cho quan trắc hiện trường cũng như phòng thí nghiệm. Bởi vậy, nhiều thông số môi trường như kim loại nặng, thuốc trừ sâu phải thuê kiểm nghiệm ở nơi khác làm giảm tính thời sự của thông tin quan trắc. Nhân lực tham gia vào quan trắc môi trường thủy sản hiện nay còn thiếu nhiều, chủ yếu được đào tạo về các chuyên ngành liên quan đến NTTS, hóa học và môi trường trong khi họ ít được đào tạo về quan trắc và cảnh báo môi tr ường dịch b ệnh là lĩnh vực vừa có tính chuyên môn sâu nhưng cũng vừa có tính tổng hợp rất cao. Việc bổ sung nhân lực gặp nhiều khó khăn do khung biên chế dành cho các trung tâm chỉ chiếm khoảng 25% tổng nhu cầu nhân lực. - Thiếu kinh phí thường xuyên cho hoạt động quan trắc Kinh phí được cấp cho hoạt động quan trắc cho đến nay chỉ dựa vào nguồn sự nghiệp môi trường và nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu quan trắc. Mặt khác, kinh phí cũng không được cấp đều giữa các năm nên việc giảm số điểm đo, tần suất đo, thông số đo... thường xảy ra. Năm 2011, cả 04 trung tâm quan trắc chỉ được cấp khoảng 2 tỷ đồng, giảm 60% so với năm 2010. Điều này dẫn đ ến s ự gián đoạn c ủa cơ sở dữ liệu, khó đưa ra được xu hướng diễn biến môi trường và dịch bệnh. Mặt khác, thiếu nguồn kinh phí dự phòng nên khi có những sự cố môi trường và bệnh xảy ra, các trung tâm không thể tổ chức ứng phó kịp thời. - Sự phối hợp giữa các bên tham gia còn rất hạn chế Mạng lưới quan trắc môi trường tuy đã được hình thành, đã xác định được mục đích và đối tượng tiếp nhận thông tin quan trắc nhưng thiếu cơ chế hợp tác rõ ràng giữa các bên tham gia trong việc lập kế hoạch , tổ chức quan trắc thường niên và chia sẻ thông tin. Phân cấp quan trắc giữa các trung tâm với các trạm vùng, điểm đo, hợp tác giữa các trung tâm với các đơn vị quản lý nhà nước của các tỉnh về môi trường và bệnh thủy sản chưa rõ ràng, thống nhất. Sự tham gia của các cơ quan trực tiếp chỉ đạo NTTS từ trung ương tới địa phương trong việc lập kế hoạch, triển khai các hoạt động thu, phân tích dữ liệu, tiếp nhận và xử lý thông tin quan trắc còn nhiều hạn chế. Do vậy, thực hiện các hoạt động quan trắc chưa đồng bộ, thông tin quan trắc được chưa phát huy hiệu quả, chưa phải là công cụ hữu hiệu góp phần chỉ đạo sản xuất NTTS. 15
  16. - Cơ chế xử lý thông tin phục vụ sản xuất còn chưa hiệu quả Một trong những mục tiêu cơ bản của mạng lưới được xác định là đ ưa ra được những thông tin cảnh báo kịp thời về môi trường và bệnh thủy sản phục v ụ trực tiếp cho chỉ đạo điều hành và quản lý sản xuất. Tuy nhiên, việc xác định quan trắc môi trường nuôi đối tượng gì, quan trắc ở đâu và thông tin quan tr ắc đ ược phổ biến tới các cơ quan quản lý trung ương cũng như địa phương và người nuôi như thế nào chưa được chính những cơ quan này tham gia ngay từ khâu lên kế hoạch hàng năm. Các cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất nhận được thông tin từ các trung tâm một cách bị động do chưa có một cơ chế ràng buộc, thống nhất và việc gửi thông tin quan trắc được. Việc phối hợp và trao đổi thông tin giữa các Trung tâm quan trắc với nhau và với các đơn vị quan trắc ngoài ngành nông nghiệp còn chưa kịp thời , chưa phục vụ tích cực cho hoạt động quản lý sản xuất NTTS. - Thiếu bộ thông số thống nhất và cơ chế xử lý thông tin đồng bộ Hiện nay, tuy đã có nhiều nỗ lực thống nhất về cách thức tiếp cận chung và phương pháp quan trắc, bộ thông số, tần suất quan trắc, cách xử lý số liệu, quản lý dữ liệu và phương pháp cảnh báo, gửi thông tin của các trung tâm thuộc các Viện I, II, III vẫn còn nhiều khác biệt. Nhiều thông số môi trường nuôi chưa có tiêu chuẩn cụ thể, chưa có các tiêu chuẩn về thủy sinh vật, bệnh, kim loại nặng, hoặc có các tiêu chuẩn nhưng chưa có tiêu chuẩn riêng cho NTTS. Việc áp dụng các tiêu chuẩn, chỉ số, phương pháp đánh giá của nước ngoài vào điều kiện NTTS đặc thù nhỏ lẻ, phân tán và đa dạng loài nuôi, hình thức nuôi không thể tránh khỏi khiên c ưỡng do đặc thù sản xuất khác nhau. Những hạn chế trên dẫn đến mạng lưới quan trắc thiếu hẳn tính thống nhất, làm cho cơ quan quản lý sản xuất và người sản xuất rất khó tiếp cận và xử lý thông tin thu được. 1.6 Nguyên nhân Những hạn chế trên đây của mạng lưới quan trắc môi trường xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây: Ngành thủy sản chưa có chiến lược phát triển mạng lưới quan trắc môi • trường phục vụ NTTS hợp lý và đồng bộ về cơ sở vật chất, nguồn nhân l ực và cơ chế vận hành. Việc đầu tư cho hoạt động quan trắc môi trường (cơ sở vật chất, phòng thí • nghiệm, nhân lực …) còn manh mún, thiếu sự đồng bộ, thiếu nhất quán, bị gián đoạn. Việc điều phối hoạt động quan trắc môi trường chưa có sự gắn kết với công • tác quản lý và chỉ đạo sản xuất, thiếu sự tham gia tích cực và trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước về NTTS ở trung ương cũng như các địa phương và vùng nuôi. Chưa có sự thống nhất về phương pháp luận trong hoạt động quan trắc, bộ • thống số, phương pháp xử lý số liệu phục vụ đặc thù cho sản xuất NTTS. 16
  17. • Chưa có nguồn ngân sách dành riêng cho hoạt động quan trắc. Kinh phí quan trắc thường xuyên phải lấy từ kinh phí sự nghiệp môi trường và nguồn này thường xuyên thay đổi. CÁCH TIẾP CẬN CỦA DỰ ÁN 1.7 Kế thừa và nâng cao năng lực trang thiết bị và nhân lực hiện có Để nhanh chóng triển khai hiệu quả công tác quan trắc môi trường, dự án sẽ kế thừa mạng lưới quan trắc hiện có gồm 04 Trung tâm, các trạm vùng và điểm đo cũng như cơ chế thực hiện các nhiệm vụ quan trắc hàng năm. Mạng lưới này là một bộ phận của hệ thống quan trắc môi trường nông nghiệp đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo xây dựng theo Quyết định 3244/QĐ-BNN-KHCN ngày 02 tháng 12 năm 2010 phê duyệt Đề án tăng cường năng lực quan trắc môi tr ường nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 – 2020. Mạng lưới quan trắc hiện nay chưa đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị cũng như nhân lực để triển khai đồng bộ mạng lưới cảnh báo môi trường và dịch bệnh trên toàn quốc. Thực hiện được việc nâng cấp mạng lưới cần thời gian dài và kinh phí lớn, từ nhiều nguồn khác nhau. Các Trung tâm Quan trắc đã và đang được đầu tư theo những dự án cụ thể do các Viện NTTS I, II, III và Viện NCHS chủ trì. Do vậy, dự án này chỉ đầu tư bổ sung một số trang thiết bị phục vụ nhu cầu quan trắc trước mắt. Những trang thiết bị này kết hợp với trang thiết bị khi các dự án đầu tư của các Trung tâm đã và đang được phê duyệt chính thức được triển khai sẽ đảm bảo hoạt động quan trắc có đầy đủ bộ thông số, tần suất và địa điểm theo nhu cầu của từng đối tượng nuôi. 1.8 Thống nhất đầu mối quản lý gắn với cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất Để hoạt động quan trắc môi trường đảm bảo hiệu quả, Dự án sẽ thống nhất cơ quan đầu mối quản lý về chuyên môn là TCTS - cơ quan quản lý nhà n ước v ề hoạt động sản xuất NTTS. Ban quản lý Dự án thuộc TCTS sẽ được thành l ập đ ể quản lý thống nhất hoạt động quan trắc môi trường. Đây sẽ là hoạt động thường xuyên, được cấp kinh phí theo kế hoạch hàng năm để kịp thời cung cấp dữ liệu cần thiết phục vụ công tác chỉ đạo sản xuất. 1.9 Tin học hóa, tự động hóa, ứng dụng GIS và viễn thám Cần ứng dụng công nghệ GIS và viễn thám vào mạng lưới quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản vì nhờ các thông tin thu thập đ ược từ mạng lưới quan trắc, công nghệ GIS và viễn thám sẽ tạo được cơ sở dữ liệu thuộc tính trên nền bản đồ số và ảnh vệ tinh về các khu vực NTTS. Công nghệ này đồng thời giúp cho việc khoanh vùng những vùng nhạy cảm, ô nhiễm môi trường hoặc dịch bệnh dựa trên các dữ liệu thuộc tính được cập nhật định kỳ theo chu kỳ quan trắc; các thông tin từ mạng lưới quan trắc giúp cho việc xây dựng mô hình GIS về xu 17
  18. hướng biến động của môi trường và lan truyền dịch bệnh, sự thay đổi của các thông số môi trường và dịch bệnh theo định kỳ quan trắc, từ đó đưa ra các cảnh báo kịp thời, trước tiên là đến người nuôi trồng, sau đến là các bên liên quan và đ ưa ra giải pháp tháo gỡ. Nhờ vào công nghệ GIS và viễn thám, các cơ quan nghiên cứu và các cơ quan cấp cao chuyên ngành thuỷ sản có thể dự báo xu hướng nuôi trồng, xu thế biến động vùng nuôi, môi trường, dịch bệnh, quy hoạch vùng nuôi, và các vùng ô nhiễm. dịch bệnh.... Mặt khác, nhờ GIS và viễn thám các cơ quan chuyên môn khác có thể tham khảo các thông tin này một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Các thông tin thu được từ các điểm đo sẽ được báo về trạm vùng và tr ạm vùng sẽ thông báo tiếp tục về trung tâm. Các trung tâm sẽ tổng hợp và phân tích, lập thành bản đồ GIS về các thông số môi trường và dịch bệnh gửi lên cơ quan quản lý nhà nước về NTTS phục vụ kịp thời cho công tác cảnh báo. Thông tin sau đó phải đ ược đăng tải lên trang Web của mạng lưới. Để đưa ra được cảnh báo nhanh cần phải dựa trên nhiều thông tin từ cơ sở dữ liệu quan trắc được cũng như về khí tượng thuỷ văn, các dự báo thời tiết, các thông tin cập nhật trong khu vực, các xu thế để phân tích và hình thành các dự báo bi ến động môi trường, dịch bệnh đối với từng vùng và khu vực. Điều này đòi hỏi s ố liệu được tích luỹ một cách có mạng lưới và những quy luật được được phát hiện nhờ tính mạng lưới đó của số liệu. Chính vì vậy cần có sự tham gia của các chuyên gia về nuôi, bệnh, môi trường và tin học để xây dựng những phần mềm, module phân tích và đưa ra cảnh báo. NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN 1.10 Xây dựng cơ cấu tổ chức của mạng lưới quan trắc (Sơ đồ 1) Thành phần chính trong mạng lưới quan trắc môi trường và bệnh thủy sản: Ban quản lý Dự án quan trắc môi trường thuộc Tổng cục thủy sản • 4 Trung tâm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh • thuỷ sản miền (được gọi tắt là Trung tâm quan trắc) thuộc các Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III và Viện nghiên cứu Hải sản; 23 Trạm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản • vùng (được gọi tắt là Trạm quan trắc hay Trạm vùng) thuộc 4 Trung tâm quan trắc; 27 Ban quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản • (được gọi tắt là Ban quan trắc) trực thuộc Chi cục NTTS/ Thuỷ sản các tỉnh/ thành phố có vùng nuôi tập trung lớn (Sơ đồ 1). - Tổng cục thủy sản là cơ quan đầu mối, chịu trách nhiệm quản lý môi trường thuỷ sản trong phạm vi toàn quốc, xây dựng chiến lược quản lý, giám sát môi trường phòng ngừa bệnh dịch thuỷ sản, xây dựng kế hoạch hoạt động thường niên của mạng lưới quan trắc, cảnh báo môi trường trong NTTS và chỉ đạo thực hiện kế 18
  19. hoạch quan trắc cảnh báo môi trường của các đơn vị trong mạng lưới. TCTS tiếp nhận và cập nhật các thông tin về quan trắc, cảnh báo môi trường, bệnh qua văn bản và hệ thống mạng thông tin từ các trung tâm quan trắc để có các hình thức xử lý thông tin bằng các thông báo, văn bản pháp quy mang theo cấp vùng, khu vực và quốc gia. - Các Trung tâm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản miền (được gọi tắt là Trung tâm quan trắc) thuộc Viện I, II, III và Viện NCHS. Các trung tâm này sẽ được nâng cấp và được cấp kinh phí duy trì hoạt động hàng năm; thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh; thiết lập mạng lưới quan trắc để tiếp nhận kết quả quan trắc môi trường NTTS từ các Trạm vùng trực thuộc địa phương và cơ sở thuộc địa bàn quản lý, tổng hợp, xử lý và truyền tải thông tin, báo cáo về TCTS. Ngoài ra, các trung tâm tham gia nghiên cứu cơ sở khoa học của hoạt động quan trắc và cảnh báo môi trường, bệnh và ứng dụng công nghệ thông tin cho hoạt động quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản. - Các Trạm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản vùng (được gọi tắt là Trạm quan trắc hay trạm vùng): thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và quan trắc cảnh báo môi trường, dịch bệnh trên địa bàn thuộc phạm vi tr ạm quản lý, báo cáo kết quả về Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường trực tiếp quản lý đơn vị; phối hợp với các ban quan trắc tại các tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quan trắc và thông báo kết quả quan trắc kịp thời về cho Sở Nông nghiệp và Phát tri ển Nông thôn trên địa bàn hoạt động. - Các Ban quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản trực thuộc Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản hoặc Chi cục quản lý Thuỷ sản các tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương (được gọi tắt là Ban quan trắc) được nâng cấp và cấp kinh phí từ ngân sách địa phương để duy trì các hoạt động quan trắc, phối hợp với các trạm quan trắc để có thông báo kịp thời về số liệu quan trắc cho các trạm quan trắc và tại địa bàn quản lý hoạt động thuỷ sản để có phương án dự báo, cảnh báo kịp thời cho người dân đang tham gia hoạt động sản xuất thuỷ sản để có phương án quản lý điều hành hoạt động sản xuất. Ban quan trắc sẽ thực hiện quan trắc tại các điểm đo là các thủy vực thuộc các vùng NTTS tập trung (nguồn cấp, ao đầm nuôi hay kênh mương thải). 19
  20. SƠ ĐỒ 1. MẠNG LƯỚI QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỔNG CỤC THỦY SẢN (Văn phòng Ban quản lý Dự án quan trắc Môi trường) Trung tâm Nghiên cứu Trung tâm Quan trắc Trung Tâm Quốc gia Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi Quan trắc Cảnh báo Môi Quan Trắc, Cảnh báo Môi QTCB môi trường biển trường và Phòng ngừa trường và Phòng ngừa trường và PN Dịch bệnh Dịch bệnh Thủy sản Khu Dịch bệnh Thủy sản Thủy sản Khu vực Nam vực miền Bắc Thủy sản Miền Trung Bộ Các Trạm quan trắc trực Các Trạm quan trắc trực Các Trạm quan trắc trực Trạm Quan trắc cảnh báo thuộc (7 trạm: Cát Bà, Sơn thuộc (7 trạm: Đà Nẵng, thuộc (8 trạm: Cái Bè, Vùng môi trường biển tại Bà Rịa - La, Hải Dương, Nam Định, Quảng Nam, Bình Định, Phú Tàu, Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Vũng Tàu Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Tre, An Giang, Đồng Tháp, Yên, Khánh Hoà, Ninh Thiên Huế Thuận, Bình Thuận) Kiên Giang) Ban quan trắc trực thuộc các Chi cục Thủy sản/Nuôi trồng thủy sản/ Cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh/tp trược thuộc Trung ương có vùng nuôi trồng thủy sản tập trung 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2