YOMEDIA
ADSENSE
Dụ ngôn trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
38
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Trong tiểu thuyết lịch sử, yếu tố lịch sử chỉ là một ký hiệu để mã hóa, tạo sinh ý nghĩa. Việc mã hóa đó tạo nên những mặt nạ ngôn ngữ đặc trưng, hình thành các loại hình, xu hướng khác nhau.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Dụ ngôn trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br />
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br />
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)<br />
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
DỤ NGÔN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ<br />
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH<br />
The parable in Nguyen Xuan Khanh’s historical novels<br />
<br />
TS. Ngô Thanh Hải<br />
Trường THPT Lạng Giang số 2, Lạng Giang, Bắc Giang<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Trong tiểu thuyết lịch sử, yếu tố lịch sử chỉ là một ký hiệu để mã hóa, tạo sinh ý nghĩa. Việc mã hóa đó<br />
tạo nên những mặt nạ ngôn ngữ đặc trưng, hình thành các loại hình, xu hướng khác nhau. Từ những<br />
phân tích cụ thể về tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi đem đến một góc tiếp cận lý thuyết<br />
khác về thể loại tiểu thuyết lịch sử, đi sâu nghiên cứu mô hình cấu trúc của ký hiệu học, thực hiện một<br />
chiến lược giao tiếp riêng với sự tham gia của các yếu tố: Chủ thể phát ngôn – đối tượng tiếp nhận và<br />
bức tranh thế giới riêng trong một hình thức ngôn ngữ đặc thù. Tiếp cận tiểu thuyết lịch sử như vậy sẽ<br />
tránh được những tranh luận không đáng có về vấn đề sự thật và hư cấu. Bởi xét đến cùng, thể loại<br />
chẳng qua là một sự thỏa thuận để thực hiện các quy ước trong chiến lược giao tiếp diễn ngôn giữa chủ<br />
thể và đối tượng tiếp nhận.<br />
Từ khóa: diễn ngôn, dụ ngôn, mô hình cấu trúc, Nguyễn Xuân Khánh, tiểu thuyết lịch sử<br />
Abstract<br />
In historical fiction, the historical element is just a symbol for coding and generating meaning. That<br />
coding creates typical language masks, forming different genres and trends. From the detailed analysis<br />
of Nguyen Xuan Khanh's novels, we provide another perspective on the theory of historical fiction,<br />
undertaking in-depth research on the structure model of semiotics, using a particular communication<br />
strategy with the involvement of those elements: subject, receiver and the private world picture in a<br />
specific language form. Such approach will avoid unreasonable arguments on the truth and fiction. After<br />
all, genre is only a deal to implement conventions in the communication strategy of discourse between<br />
subject and the receiver.<br />
Keywords: discourse, the parable, structure model, Nguyen Xuan Khanh, historical fiction<br />
<br />
<br />
1. Mở đầu - ND), nhưng giống với ngụ ngôn (tiếng<br />
Theo N.D.Tamarchenko, dụ ngôn Nga “басня”, tiếng Pháp: “fable”. - ND).<br />
“tiếng Nga: “притча”; tiếng Pháp Nó là câu chuyện bóng gió về một trường<br />
“parabole” - ND) là thể tự sự cỡ nhỏ, mang hợp không phải là sự hiếu kì, minh chứng<br />
tính quá độ, chuyển từ folklore qua văn học hiển nhiên cho một quy luật phổ quát buộc<br />
viết. Dụ ngôn khác với giai thoại (tiếng người ta phải tuân thủ, chứ không khiến<br />
Nga “анекдот”; tiếng Pháp “anecdote”. người ta kinh ngạc. Do đó, dụ ngôn bao giờ<br />
Email: thanhhai.xeko@gmail.com<br />
3<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)<br />
<br />
<br />
cũng nghiêm túc, có tính chất giáo huấn, quy định chiến lược giao tiếp, tạo nên<br />
khác hẳn giọng bỡn cợt của giai thoại, còn những đặc trưng riêng của loại hình diễn<br />
tính cách và giọng điệu của ngụ ngôn lại có ngôn – dụ ngôn. Truyện lịch sử dù là<br />
tính hai mặt (Tarmachenko, 2015). những biến thể của tử số trong các thể tài<br />
Từ cơ sở thế giới quan phi truyền song vẫn mang mẫu số chung của mô hình<br />
thống này (trên nền văn hóa Kitô giáo thời cấu trúc thể loại.<br />
trung đại), dần dần hình thành hai nguyên Với bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly<br />
tắc và hai con đường sử dụng dụ ngôn (2000), Mẫu Thượng Ngàn (2008) và Đội<br />
trong biến thể mở rộng của nó (nguyên thể gạo lên chùa (2011), nhà văn Nguyễn<br />
là truyện kể thử thách): Xuân Khánh thực sự đã tạo ra một hiện<br />
Thứ nhất, nó trở thành mô hình (mẫu tượng trong đời sống văn học, đặc biệt là<br />
gốc) được dùng, hoặc là để tạo ra các dụ xu hướng khai thác về lịch sử. Tiểu thuyết<br />
ngôn mới, dụ ngôn có tác giả, nhất là trong của ông đã thu hút được sự quan tâm của<br />
sáng tác của L. Tolstoi thời kì cuối (ví đông đảo công chúng, của giới nghiên cứu,<br />
như Ba dụ ngôn, Vua Esarhaddon của phê bình văn học. Hàng trăm bài báo, công<br />
Assyria), trong sáng tác của Franz Kafka trình, luận án, luận văn tiếp cận ba tác<br />
(Cây cầu), hoặc là để tăng cường tính chất phẩm này ở nhiều góc nhìn, phương pháp,<br />
dụ ngôn cho các thể loại khác. lý thuyết khác nhau. Ở bài viết này, chúng<br />
Thứ hai, dụ ngôn trở thành một trong tôi đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết của<br />
những thể loại lồng ghép hết sức phổ biến Nguyễn Xuân Khánh từ lý thuyết diễn<br />
trong truyện vừa (Người con gái viên đại ngôn, ký hiệu học văn hóa, trên một bình<br />
úy của Pushkin, Cây thập ác và Karma của diện nhỏ là tìm hạt nhân cấu trúc thể loại,<br />
L. Tolstoi), trong tiểu thuyết (câu chuyện phân xuất thành mô hình cấu trúc đặc trưng<br />
về Kif Mokievich và Moki Kifovich – kiểu dụ ngôn về lịch sử. Mô hình cấu trúc<br />
trong Những linh hồn chết của Gogol, về ấy cũng chính là một mô hình ký hiệu học<br />
Cổng Luật trong Vụ án của Kafka), cũng lịch sử thực hiện một chiến lược giao tiếp<br />
như trong truyện ngắn (Sinh viên của diễn ngôn riêng, thể hiện bản chất thể loại<br />
Chekhov, Trẻ và Già của Bunhin), trong qua bức tranh thế giới và ngôn ngữ nghệ<br />
kịch (M. Gorki, Bertolt Brecht). thuật đặc thù. Trong mô hình này, lịch sử<br />
Đôi khi cả hai tuyến nói trên giao là một ký hiệu, một mã để tạo nghĩa, làm<br />
cắt nhau: tác phẩm vừa có bản chất dụ phương tiện thực hiện chiến lược giao tiếp<br />
ngôn, vừa có DỤ NGÔN truyền thống thể loại/ diễn ngôn có sự thống nhất của ba<br />
được lồng vào (Phục sinh của L. Tolstoi)” yếu tố chủ thể phát ngôn – đối tượng tiếp<br />
(Tarmachenko, 2015). nhận – cái được đề cập tới (Chiupa, 2013).<br />
Hiểu như vậy, dụ ngôn là một mô hình 2. Nội dung<br />
cấu trúc nền móng, có cội nguồn từ ký ức 2.1. Sự đan cài, chồng xếp các lớp<br />
thể loại trong nền văn học xa xưa. Và mã truyện kể để chuyển tải bài học<br />
gen của thể loại này vẫn được duy trì, lưu Chủ thể trong diễn ngôn tiểu thuyết<br />
truyền lại trong quá trình phát triển, đổi lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh luôn luôn<br />
mới văn học. Hạt nhân cấu trúc thể loại vẫn là con người nhiều suy tư, luôn mang<br />
được giữ lại, thành những mã nghệ thuật, những bài học muốn chia sẻ, truyền đạt lại<br />
<br />
<br />
4<br />
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
cho người đọc. Chính vì thế, những tác Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa<br />
phẩm của ông, dù có dung lượng rất lớn, chúng tôi nhận ra một điều là cả ba tác<br />
chi tiết dày đặc thì ta vẫn nhận ra các lớp phẩm đều có sự đan cài hai tuyến/ lớp<br />
bài học, chân lý được kết tụ lại từ những truyện song hành, hoặc tương tác với nhau:<br />
chỉ dẫn lịch sử, những biến cố và số phận lớp/ tuyến truyện lịch sử gắn với những<br />
của con người trong đó. Do đó, ở tiểu xung đột sử thi, vận mệnh dân tộc trong cái<br />
thuyết của ông, chúng tôi nhận thấy chủ thể nhìn kiểu tương quan chúng ta - chúng nó<br />
đang kể câu chuyện về mình/ câu chuyện và lớp/ tuyến truyện về số phận cá nhân<br />
của mình cho người khác nghe. Các tác của đời tư gắn với những xung đột thế sự<br />
phẩm được tổ chức theo nguyên tắc nhiều trong những tương quan kiểu bề bậc (trên -<br />
lớp, nhiều tầng truyện kể của tiểu thuyết, dưới, anh - tôi, quân - thần...), đạo đức, hệ<br />
còn lịch sử được tiểu thuyết hóa. Lịch sử tư tưởng (thiện - ác, trung - gian, tiến bộ -<br />
không còn là mục đích cuối cùng mà chỉ bảo thủ...), xã hội - giai cấp (người giữ<br />
được sử dụng như phương tiện, một mã ngôi - kẻ tiếm vị, quan - dân, cán bộ - nhân<br />
nghệ thuật chuyển tải bài học/ thông điệp. dân, giàu - nghèo...) v.v... Mỗi câu chuyện<br />
Chủ thể của những câu chuyện như đang đó đem đến cho người đọc những nhận<br />
đàm tâm, đối thoại, truyền lại những kinh thức, suy tư và cảm xúc khác nhau để cùng<br />
nghiệm/ bài học của mình cho đối tượng hướng tới/ minh họa, làm sáng rõ bài học<br />
người nghe về lịch sử, cuộc đời và lẽ xuất chung cục. Những truyện kể về lịch sử, dân<br />
xử của con người. Những bài học ấy có thể tộc tương tác với những truyện kể về phận<br />
được nêu ra ngay từ đầu, có thể dồn tụ, kết người, những cá nhân, lồng ghép với<br />
đọng ở phần kết thúc hoặc ẩn sâu dưới tầng những truyện kể về tôn giáo, tâm linh, tư<br />
tầng lớp lớp các câu chuyện được kể trong tưởng hệ, ý thức hệ tạo nên cái nhìn đa<br />
tác phẩm. Dù tồn tại dưới dạng thức nào chiều, mang tính lập thể. Từ đó những khả<br />
chăng nữa thì những bài học luôn luôn năng bài học sâu sắc được thể hiện qua<br />
mang đến cho người đọc nhiều nhận thức hình tượng ám dụ và cách nói bằng những<br />
mới mẻ, như ngộ ra một chân lý, vỡ ra ẩn ngữ lịch sử.<br />
những sự thực khác, có khi là đối lập với Để thực hiện mục đích giao tiếp diễn<br />
nhận thức, với những điều đã được biết tới/ ngôn của dụ ngôn lịch sử, Nguyễn Xuân<br />
đã được mặc định là chân lý hay sự thật Khánh đã chọn cách thức tổ chức trần<br />
tuyệt đối. Cho nên, mỗi tiểu thuyết của ông thuật theo kiểu nhiều bè, nhiều giọng<br />
bao chứa, chồng xếp nhiều câu chuyện của tiểu thuyết đa thanh, phức điệu mà<br />
khác nhau. Những câu chuyện này khi tồn F.Dostoievski đã sáng tạo ra. Lý thuyết tiểu<br />
tại song song, độc lập thành các tuyến, các thuyết này đã được M.Bakhtin chỉ rõ trong<br />
lớp riêng, khi thì hòa vào nhau, cùng các công trình nghiên cứu của mình. Tuy<br />
hướng tới bài học chung. Cốt truyện nhiên cái đích của Nguyễn Xuân Khánh<br />
thường được ông tổ chức theo nguyên tắc không phải tạo ra tính đối thoại giữa các<br />
“nhị phân”, tạo ra hai đối cực, hai mạch giọng, hệ tư tưởng, mà lại hướng đến đồng<br />
truyện kể, hai trường nghĩa khác nhau với thanh phát ngôn bài học chung – một kiểu<br />
ranh giới rõ rệt. bắt nhịp đồng ca cho nhiều giọng hay dạng<br />
Khảo sát bộ ba tác phẩm Hồ Quý Ly, hát bè đệm cho một giọng chính. Sự đối<br />
<br />
<br />
5<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)<br />
<br />
<br />
thoại nếu có là đối thoại về quan điểm lịch sử và biến cố thời đại: 1/ Những chủ thể<br />
sử trong tiểu thuyết với cái nhìn lịch sử cố lựa chọn lối sống nhập thế; 2/ Những chủ<br />
hữu trong các diễn ngôn chính sử. Cả ba thể lựa chọn lối sống tùy duyên; 3/ Những<br />
cuốn tiểu thuyết của ông đều được trần chủ thể lựa chọn hoặc buộc phải chọn lối<br />
thuật theo ngôi thứ ba, bằng một người kể sống trung dung, chọn vị trí trung lập giữa<br />
chuyện giấu mặt. Người kể chuyện đó như hai lối sống trên. Sự phân chia này mang<br />
sự hóa thân của chủ thể, mang sẵn bài học, tính chất tương đối bởi một số chủ thể có<br />
gửi bài học ấy bằng những câu chuyện khác nhiều sự lựa chọn hoặc sự chuyển đổi lựa<br />
sẽ được kể trong tác phẩm. Những câu chọn qua không gian và thời gian khá phức<br />
chuyện khác đó được kể từ nhiều điểm nhìn tạp. Vậy, đây chỉ là một cách chia xuất<br />
khác nhau của người kể, và của các nhân phát từ góc nhìn của chúng tôi về bức tranh<br />
vật – các nhân vật tự kể về mình và kể về thế giới trong diễn ngôn.<br />
người khác. Điểm nhìn trần thuật được di 2.1.1. Kiểu nhân vật/ chủ thể của lối<br />
chuyển linh hoạt, được đặt ở những vị thế, sống nhập thế<br />
quan điểm rất khác nhau vừa song hành, Con người nhập thế còn là con người<br />
vừa tương tác đối thoại, để làm tường minh, của khát vọng/ tham vọng, hoài bão, sẵn<br />
để chuyển tải bài học. sàng vượt qua tất cả để đến cái đích cuối<br />
2.2. Nhân vật trung tâm - những chủ cùng là lập thân thì phải lập công, lập danh,<br />
thể lựa chọn lập ngôn. Tác giả mượn lời của nhân vật<br />
Đặc trưng quan trọng của mô hình cấu Đức trong Đội gạo lên chùa gọi đây là lối<br />
trúc dụ ngôn là mỗi nhân vật được xây sống “dương tính”. Lựa chọn lối hành xử<br />
dựng như một chủ thể lựa chọn trong bức nhập thế - lối sống dương tính là những chủ<br />
tranh thế giới mà nhà văn tạo nên. Việc thể hành động, thường có cái nhìn cực<br />
nhân vật ở nguyên tại một vị trí hay vượt đoan, theo đuổi đến cùng mục đích của<br />
qua ranh giới của các không gian điểm, các mình. Họ chủ động hành động để hiện thực<br />
trường nghĩa biểu hiện những sự lựa chọn hóa tất cả những hoài bão, tráng chí, lý<br />
khác nhau, tạo nên cấu trúc truyện kể đặc tưởng. Chúng ta có thể thấy điều đó rất rõ<br />
thù trong vùng chức năng của các không trong Hồ Quý Ly qua những con người lựa<br />
gian. Mỗi sự lựa chọn gắn với một không chọn thực hiện lý tưởng của Nho gia, muốn<br />
gian nào đó đều tự mang trong nó một làm những việc kinh bang tế thế, thực hiện<br />
thông điệp, chiêm nghiệm hay bài học. tráng chí, hoặc giữ trọn đạo của người quân<br />
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân tử. Họ ứng xử dựa trên nền tảng những tín<br />
Khánh, chúng tôi nhận thấy ông chia thành điều bất di bất dịch ấy nên khó chấp nhận<br />
các không gian điểm và đặt nhân vật của lựa chọn, lý lẽ, tư tưởng của phe đối lập/<br />
mình trong mối quan hệ mật thiết với các đối nghịch. Do vậy, họ sẽ không có bất cứ<br />
không gian đó. Qua ba tác phẩm Hồ Quý đối thoại, thỏa hiệp nào. Đó là lựa chọn của<br />
Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên các nhân vật Trần Nghệ Tông, Duệ Tông,<br />
chùa, chúng tôi nhận thấy có ba nhóm chủ Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Trần Khát<br />
thể lựa chọn gắn với những luận đề tư Chân, Trần Nguyên Hàng, Nguyễn Cẩn.<br />
tưởng, những bài học lịch sử, mà thực chất Nhưng chính từ trong nhóm nhân vật lựa<br />
đó là việc lựa chọn cách hành xử trước lịch chọn lối sống nhập thế này lại phân hóa<br />
<br />
<br />
6<br />
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
thành hai phe đối lập, xung đột gay gắt với của chúng sinh, không chỉ là máu để lập<br />
nhau trên quan điểm chính trị, tham vọng công mà còn là máu, nước mắt của những<br />
quyền lực và lý tưởng đạo đức riêng. Bởi sự trả giá, của những sự tiêu hủy từ lòng<br />
hệ tư tưởng nền tảng chi phối lối sống, cách tham và sự thù hận. Sự lựa chọn của những<br />
hành xử của họ không phải là hướng nội mà cá nhân nhập thế, dù trực tiếp hay gián tiếp<br />
là hướng ngoại, đưa họ đến những hành sẽ thành một động lực tạo nên sự xoay<br />
động quyết liệt và kết cục là sự tranh giành, chuyển của xã hội và thời thế. Và để dựng<br />
tước đoạt, chiến tranh đẫm máu. xây một cái mới, cái khác thì trước đó luôn<br />
Cho nên, các không gian kinh thành luôn diễn ra quá trình phá hoại, hủy diệt,<br />
Thăng Long hay Tây Đô, những cung vua thậm chí là tận diệt kiệt cùng cái cũ. Cho<br />
phủ chúa gắn liền với cuộc xung đột, tranh nên, chữ “biến” và “dịch” không phải của<br />
đoạt này, trở thành bãi chiến trường. Cái riêng một thời kỳ nào, của một quốc gia<br />
đẹp của lầu son gác tía, của cảnh sắc nguy nào mà nó là quy luật chung của lịch sử<br />
nga tự chứa trong nó bao cơ mưu, tội ác. nhân loại.<br />
Những sự hủy hoại và xây dựng cứ nối 2.2.2. Kiểu nhân vật/ chủ thể của lối<br />
tiếp, đan xen tạo nên một bức tranh liên tục sống tùy duyên<br />
trong loạn ly, biến động, chết chóc. Tất cả Một đối cực khác của chủ thể nhập<br />
các không gian dù rộng hay hẹp đều trở thế, để cân bằng lại, làm hài hòa âm –<br />
thành những đấu trường để người ta đấu dương cho mạch truyện kể trong tiểu<br />
trí, thử lòng, chinh chiến, giành giật bằng thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, là sự lựa<br />
sức mạnh, bằng bản năng ác của mình. Vì chọn của những chủ thể với lối sống an<br />
vậy, sự lựa chọn của các chủ thể gắn với nhàn, tự tại – cách ứng xử “tùy duyên”. Họ<br />
không gian đặc thù ở đây đã cấu thành một không hẳn quay lưng với cuộc đời, không<br />
lớp truyện đặc thù, trong tổng thể cấu trúc phải tất cả đều ẩn dật nhưng họ không<br />
truyện kể Hồ Quý Ly nói riêng và các tiểu tham gia vào những mưu đồ chính trị,<br />
thuyết của Nguyễn Xuân Khánh nói chung. những tranh chấp, không có những hành<br />
Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa động gây hấn, hoặc là tránh tất cả các cuộc<br />
cũng có những chủ thể lựa chọn tương tự, chiến ấy. Họ sống an nhiên và chấp nhận<br />
lựa chọn sống nhập thế, hành động đấu nhiều điều, kể cả thiệt thòi về bản thân để<br />
tranh quyết liệt. Tuy nhiên, sự giành giật và được làm điều mình mong muốn, được<br />
những mâu thuẫn ở đây không phải là sống hòa hợp, sống đúng là mình. Rất<br />
trong nội bộ của thế lực tiếm quyền và giữ nhiều chủ thể này đã tìm về với Phật, chọn<br />
quyền, mà là xung đột của dân tộc, văn không gian của nhà Phật làm điểm tựa để<br />
hóa, ý thức hệ. Tất cả vẫn dẫn đến những nuôi dưỡng Phật tính, nuôi dưỡng cho<br />
loạn ly, mạt vận và hủy diệt. mình lòng từ, bi, hỉ, xả.<br />
Như vậy, sự lựa chọn lối sống nhập thế Trong hai tác phẩm Hồ Quý Ly và Đội<br />
của các chủ thể hành động gắn với một gạo lên chùa, ta thấy nhà văn dành một sự<br />
trường nghĩa, tạo nên một lớp truyện kể quan tâm đặc biệt cho Phật giáo, cho các<br />
đặc trưng trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân nhân vật sống theo nguyên tắc và tư tưởng<br />
Khánh. Nó khiến người ta thấm thía một của nhà Phật mà điều cơ bản nhất ấy chính<br />
điều: lịch sử thấm đẫu máu và nước mắt là “Tùy duyên lạc đạo”. Đó là các nhân vật<br />
<br />
<br />
7<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)<br />
<br />
<br />
như nhà sư Vô Trụ, Sử Văn Hoa trong Hồ để cân bằng, kìm hãm dương khí ngùn ngụt<br />
Quý Ly, sư Vô Úy, Khoan Độ, cậu An của thời đại, những chém giết, biến loạn<br />
trong Đội gạo lên chùa. Quan niệm “Tùy trên khắp các không gian ngoài kia. Nó níu<br />
duyên” đã đưa đến một quan niệm sống giữ con người lại, để mỗi người biết sống<br />
khác, tích cực và nhân ái, quan niệm về bằng lòng nhân, tính nhân, bằng tính thiện<br />
khổ và nghiệp. Người ta sinh ra trên đời đã của mình. Và như thế, không gian của Phật<br />
khổ (Đời là bể khổ), sinh ra để tạo nghiệp với lối sống Phật tính giống như một sự<br />
và chịu nghiệp (có khi nghiệp từ kiếp trước hóa giải, tạo nên sự thăng bằng, ổn định lâu<br />
của mình). Sống tùy duyên, sống tìm về dài cho đất nước, thế cục. Do vậy chùa<br />
với Phật tính tức là sống với phần căn tính làng, lối sống chay tịnh, sống hướng về Phật<br />
thiện của mình, vượt lên trên tất cả những còn là một trong những cội nguồn, nhân tố<br />
“tham”, “sân”, “si”, để lòng mình thanh căn cốt nhất tạo nên tinh thần dân tộc, hồn<br />
tịnh, trong sạch, bằng an. Cõi lòng ấy như nước, cũng là cội nguồn.<br />
mặt nước phẳng lặng, không chút gợn sóng Bên cạnh những chủ thể lựa chọn<br />
trước mọi biến động của cuộc đời, xã hội. đường về với Phật, chúng ta nhận thấy còn<br />
Những con người này theo đến cùng việc những sự lựa chọn khác, hướng đến cuộc<br />
thực hiện lý tưởng sống từ bi, bác ái, sống sống an nhiên, tránh xa tục lụy, giành giật,<br />
vì cái tốt, tình thương, tránh xa cái ác, cái tranh đoạt – lối sống nhàn dật. Họ tìm cho<br />
xấu và hành động gây đau thương. Đó là mình một không gian yên tĩnh tu tâm<br />
những tâm hồn lớn lao, cao cả, luôn giang dưỡng tính, tránh phải làm điều tàn nhẫn,<br />
rộng cánh tay mình để cứu nhân độ thế, để độc ác, để tâm hồn thanh thản. Mục đích<br />
làm việc nhân đức. Dường như cả cuộc đời cuối cùng của các nhân vật này vẫn là<br />
của họ dành để cứu khổ cứu nạn cho nhân hướng thiện, giúp đời, cứu người. Họ cũng<br />
gian, để tìm ra hướng giải thoát cho con đi tìm một không gian sống thoáng khí,<br />
người hết khổ, và bản thân họ có thể chấp trong lành, tìm một điểm tựa tinh thần cho<br />
nhận hứng chịu nhiều tai ách. bản thân được sống trong bình yên, sống<br />
Cho nên, không gian của những ngôi thật với chính mình. Đây là lối sống<br />
chùa, nơi thanh tĩnh, tâm linh không cao xa “Nhàn” của các bậc trí thức bất gặp thời.<br />
vời vợi, không vắng vẻ lánh đời mà lại ở Đó là cụ lang Phạm – cha vợ Hồ Quý Ly –<br />
giữa nhân gian, ở trong cuộc đời. Không suốt đời tránh xa lầu son gác tía, cung điện<br />
gian ấy không chỉ gắn với những chủ thể nguy nga, sống với vườn thuốc, với niềm<br />
lựa chọn lối sống Phật tính, tùy duyên lạc say mê y thuật của mình; là quan tư đồ<br />
đạo, mà nó còn là nơi che chở, cứu rỗi tâm Trần Nguyên Đán, tránh xa mọi thị phi,<br />
hồn mỗi con người. Đó là nơi bình yên để tranh chấp, ẩn mình chốn Thanh Hư Động<br />
người ta nương náu, để con người bình trên núi Côn Sơn, nuôi dưỡng, dạy dỗ<br />
tâm, giải thoát khỏi bể khổ trần ai. Dường người cháu mà sau này thành người anh<br />
như không gian chùa làng là nơi bất khả hùng lỗi lạc – Nguyễn Trãi. Sư Tề bỏ kinh<br />
xâm phạm, khiến cho bất cứ ai, bất cứ kẻ thành, bỏ nghề cung kiếm, bỏ lại tất cả, lên<br />
thù nào trước khi tấn công cũng phải đắn núi làm ông già tiều phu cũng là một sự lựa<br />
đo, suy nghĩ, hay kiêng dè. Ngôi chùa, từ chọn như thế.<br />
trong ý nghĩa của sự sống, như một đối cực Một kiểu chủ thể tùy duyên khác là<br />
<br />
<br />
8<br />
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
những con người tìm về với đạo Mẫu trong thù hằn, hướng đến một sự cân bằng, duy<br />
Mẫu Thượng Ngàn. Tinh thần của Mẫu, trì xã hội, đất nước phát triển, nhất là thiện<br />
tấm lòng của Mẫu, không gian Mẫu luôn lương và cái tâm lành vững cho con người.<br />
tạo ra cho con người cảm giác an toàn, một Qua đó, người đọc càng thấm thía được vẻ<br />
niềm tin, sức mạnh tinh thần để vượt qua đẹp văn hóa truyền thống, những giá trị<br />
tất cả tai ách, hiểm họa. Nhìn từ một góc văn hiến đích thực của dân tộc, của đất<br />
độ nào đó, đây chính là cuốn tiểu thuyết nước trải qua bao cuộc binh đao, chiến lửa.<br />
tập trung thể hiện, ngợi ca Mẫu tính trong 2.2.3. Kiểu nhân vật/ chủ thể của lối<br />
văn hóa, trong tâm hồn của con người Việt sống trung dung<br />
Nam. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết với nhiều Trong các tiểu thuyết của Nguyễn<br />
câu chuyện đan cài, cùng những biến cố, Xuân Khánh, bức tranh thế giới được dựng<br />
biết bao số phận, để cuối cùng nhà văn rút lên với hai nhóm chủ thể lựa chọn đối lập:<br />
ra một tâm niệm (qua lời nhân vật Nhụ): một bên là lối sống hành động, nhập thế<br />
“Đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con của theo lý tưởng Nho gia, theo lý tưởng đấu<br />
Mẫu” (Nguyễn Xuân Khánh, 2012, tr.807). tranh và một bên là lối sống tự tại, an nhiên<br />
Cho nên, ai đi xa đâu, lưu lạc bao lâu rồi theo tư tưởng “tùy duyên lạc đạo” của Phật<br />
cũng sẽ trở về, trở về làng Cổ Đình thân giáo, tìm về Mẫu tính, đã hình thành cấu<br />
thuộc, về với Mẫu, với những gì gắn bó, trúc truyện kể độc đáo, tạo ra những mã<br />
yêu thương. Không phải ngẫu nhiên, tác nghĩa, trường nghĩa mới. Song, ở giữa hai<br />
phẩm được bắt đầu bằng chương “Người đối cực nêu trên, ta nhận thấy còn có một<br />
trở về” nói về cuộc hồi hương của Trịnh sự lựa chọn nữa (cũng có những trường<br />
Huyền và Nhụ. Họ trở về và lòng luôn hợp là buộc phải lựa chọn): con đường ở<br />
hướng về Mẫu, về một chốn bình yên cho giữa, lối sống trung dung, tư tưởng trung<br />
những khởi đầu mới. Trong tác phẩm này, lập. Số lượng nhân vật lựa chọn/ phải lựa<br />
đền Mẫu bên sông có ý nghĩa tinh thần lớn chọn chỗ đứng và lối sống này không<br />
lao với người dân Cổ Đình và những cuộc nhiều nhưng tự họ tách ra thành một lực<br />
hầu đồng ở đền Mẫu luôn luôn được chờ lượng, với hệ tư tưởng, những triết lý<br />
đợi trong niềm thành kính tuyệt đối. riêng, để lại cho người đọc những thức<br />
Sự lựa chọn của những chủ thể hướng nhận khác về lịch sử, về thời đại, về những<br />
về lối sống tĩnh tại, niềm tin tôn giáo của gì đã được phân định mặc nhiên theo kiểu<br />
Phật, đạo Mẫu tạo ra một tuyến truyện kể tư duy nhị nguyên đúng/ sai; xấu/ tốt; tích<br />
thứ hai, lồng trong tuyến truyện của những cực/ tiêu cực.v.v. Ở mỗi sự lựa chọn ấy, ta<br />
tao loạn, chiến tranh, giành đoạt. Chính thấy rõ hơn bi kịch lịch sử của những con<br />
những con người âm thầm, lặng lẽ sống người bị mắc kẹt giữa những lằn đạn trong<br />
“tùy duyên” này thể hiện cái nhìn sáng cuộc chiến quyền lực, cuộc chiến trong tư<br />
suốt, trí tuệ, bản lĩnh và khí phách hơn tưởng hệ và trong lẽ sống. Đại diện tiêu<br />
người. Họ kiến tạo, gìn giữ những khoảng biểu nhất cho sự lựa chọn này và cho bi<br />
không bình yên, đem đến niềm tin, tinh kịch này là nhân vật Hồ Nguyên Trừng<br />
thần lạc quan sống cho con người trong trong Hồ Quý Ly. Con người của Nguyên<br />
thời loạn, trong bão táp lịch sử. Sự lựa Trừng giống như một sự hội tụ của nhiều<br />
chọn của họ hóa giải những lửa tang tóc và đối cực trong tư tưởng, trong lối sống và<br />
<br />
<br />
9<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)<br />
<br />
<br />
cách hành xử, trong trạng thái hòa giải/ chắc như ba đỉnh của thế chân vạc trong<br />
mâu thuẫn không thể hóa giải. Lối sống cấu trúc truyện kể lịch sử. Cái bài học sâu<br />
của Pierre Messmer trong Mẫu Thượng sắc về sự hài hòa của âm – dương, của tiếp<br />
Ngàn, nếu nhìn từ góc độ của sự lựa chọn nhận – bảo tồn, của cá nhân – cộng đồng,<br />
thì ta cũng có thể xếp vào sự lựa chọn của biến động – tĩnh tại... đã được ông đúc rút<br />
lối sống trung tính. Pierre là người ngoại từ bao vật đổi sao dời, bao phen đất nước<br />
quốc nên không hiểu và chịu ảnh hưởng nghiêng ngả, bao lẽ hưng phế.<br />
của tư tưởng Nho hay Phật, nên lối sống 2.3. Kết cấu – hình thức ngôn ngữ<br />
anh ta chọn đơn giản là sự lựa chọn một độc đáo thể hiện bài học<br />
cuộc sống theo ý thích của mình, khao khát Nếu chỉ nhìn bề mặt và về tổng thể thì<br />
tìm kiếm những điều đẹp đẽ, mới lạ ở cả ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh<br />
mảnh đất và con người Bắc Kỳ. đều sử dụng lối viết truyền thống theo kết<br />
Chủ thể trung dung luôn là những cấu của tiểu thuyết cổ điển. Nó vẫn là<br />
người tỉnh táo, sáng suốt, nhận rõ thời những đại tự sự với việc phân chia thành<br />
cuộc. Họ có cái nhìn, cách hành xử văn các phần lớn, nhỏ, các chương, mục với<br />
hóa, theo quan niệm tôn trọng sự khác những tên gọi cụ thể. Chúng ta có thể dễ<br />
biệt, sự lựa chọn của kẻ khác. Đó là căn dàng nhận ra điều đó khi đọc tác phẩm: Hồ<br />
cốt của tư duy đa nguyên trong nhân cách Quý Ly chia thành 13 phần và mỗi phần<br />
văn hóa. Nhưng cũng chính vì lẽ đó họ này lại chia thành các mục đánh dấu bằng<br />
sống giữa những ranh giới mong manh của các số theo thứ tự từ nhỏ đến lớn; Mẫu<br />
thiện - ác, của những lựa chọn khó khăn và Thượng Ngàn chia thành 15 chương và<br />
khốc liệt. Bản thân những chủ thể này, với được đặt tên gọi tương tự; Đội gạo lên<br />
lựa chọn của mình, luôn sống trong dằn chùa chia thành 3 phần lớn: “Trôi sông”,<br />
vặt, bi kịch và đau thương. Họ di chuyển “Bão nổi can qua” và “Về cõi nhân gian”.<br />
qua các không gian, thời gian với biến Mỗi phần lớn lại chia thành các mục, với<br />
thiên, thăng trầm của lịch sử. Kết cục bi số lượng nhiều ít không đều nhau, nhưng<br />
đát từ trong tâm thức của họ nhói lên một tất cả đều được đặt tiêu đề cụ thể. Việc bố<br />
tuyến truyện khác trong tiểu thuyết lịch sử trí các phần, các mục như trên ở trong cả ba<br />
của Nguyễn Xuân Khánh – tuyến về thân cuốn tiểu thuyết đã tạo nên một đường viền,<br />
phận con người. một khung khổ bao chứa các sự kiện, biến<br />
Ba chủ thể lựa chọn trong bức tranh thế cố, các tình tiết của các câu chuyện được kể.<br />
giới mà Nguyễn Xuân Khánh tạo nên trong Các thành tố cấu tạo nên bộ khung đó liên<br />
tác phẩm của mình đã tạo nên ba tuyến kết chặt chẽ hay lỏng lẻo là do sự lựa chọn<br />
truyện kể đan lồng vào nhau. Các chủ thể của tác giả, chuyển tải những thông điệp<br />
này vừa mang tính tương đối độc lập, vừa nghệ thuật và bài học của mình.<br />
tương tác qua lại, xung đột với nhau tạo nên Với Nguyễn Xuân Khánh, khung ông<br />
một bức tranh thế giới gồm nhiều mảng, tạo dựng cho kết cấu tác phẩm là cái khung<br />
nhiều bè đan xen, chồng xếp. Do đó, bức lớn, còn kết cấu chi tiết bên trong tương<br />
tranh thế giới mà Nguyễn Xuân Khánh tạo đối linh hoạt, cơ động, hay nói theo cách<br />
dựng là mô hình tam vị nhất thể. Ba cụm khác ông chỉ định dạng chứ không định<br />
chủ thể lựa chọn tạo nên bộ xương vững lượng cho tác phẩm của mình theo kết cấu<br />
<br />
<br />
10<br />
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
truyền thống. Ta dễ nhận ra ông chọn bối hiện qua lời của người kể chuyện, nhất là<br />
cảnh của một triều đại, một giai đoạn lịch qua lời của bản thân các nhân vật tự thuật.<br />
sử, với những điểm nút diễn biến chính Cho đến lúc kết thúc tác phẩm, những câu<br />
theo đúng sự thật trong diễn ngôn lịch sử chuyện đó vẫn không hết, không dừng mà<br />
giống như những cái cột, cái kèo, tạo ra còn tiếp diễn. Chính điều đó khiến nhà văn<br />
những điểm tựa cho khung kết cấu. Kết cấu viết về lịch sử, về cái đã qua nhưng thực ra<br />
tác phẩm của ông không có một truyện kể là nói về hiện thực đang diễn ra, chưa hoàn<br />
trung tâm, hành động chính yếu, xuyên kết, thể hiện được những vấn đề của ngày<br />
suốt, chi phối các hành động, truyện kể hôm nay, cả những vấn đề thời sự. Những<br />
khác. Mỗi phần, mỗi mục trong tác phẩm chuyện như cải cách, đổi mới đất nước,<br />
của ông kể một chuyện, dựng một chân tiếp thu và bảo tồn văn hóa truyền thống,<br />
dung, miêu tả một khung cảnh tạo nên cấu chuyện của cái thiện và ác... đâu chỉ là<br />
trúc nhiều bè, nhiều mảng, cấu trúc của chuyện của một thời, mà là chuyện của mọi<br />
những mảnh ghép kiến tạo bức tranh thời, mọi dân tộc trong tiến trình lịch sử<br />
chung. Các tuyến/ lớp truyện kể, các phối phát triển, tồn vong.<br />
cảnh trong tác phẩm của ông thường soi Liên quan mật thiết đến trình tự thời<br />
chiếu, tương tác trong thế đối thoại làm nới gian truyện kể là cách thức mở đầu và kết<br />
rộng khung, theo kiểu kiến trúc nhiều tầng thúc mà tác giả lựa chọn cho tác phẩm. Các<br />
bậc, chuyển tải những bài học đằng sau nó. chi tiết mở đầu và kết thúc tác phẩm được<br />
Như thế, những lớp phần của những truyện Nguyễn Xuân Khánh gia công lựa chọn, xử<br />
kể sẽ tương ứng với các lớp, phần của lý tinh tế. Chúng lặp lại nhưng không hoàn<br />
những bài học, những triết lý tương tự như toàn giống, trùng khít với nhau. Nhìn bề<br />
trong dụ ngôn và ngụ ngôn truyền thống. ngoài, ta dễ lầm tưởng Nguyễn Xuân<br />
Sáng tạo độc đáo của Nguyễn Xuân Khánh kết cấu tác phẩm của mình theo<br />
Khánh khi viết tiểu thuyết lịch sử là việc nguyên tắc hồi hoàn, đầu cuối tương ứng.<br />
tạo ra “kết cấu thời gian lỏng”. Ông phá vỡ Song khi đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các<br />
trật tự thời gian biên niên, không đặt những mô hình mở đầu và kết thúc này trong cấu<br />
mốc thời gian, những sự kiện lịch sử cố trúc truyện kể, ta sẽ thấy chúng tương ứng<br />
định trong mỗi tác phẩm. Ý niệm về lịch sử với một lớp truyện được đan cài, lồng xếp<br />
trong những tác phẩm này chỉ là sự chuyển vào tác phẩm. Về thực chất, theo chúng tôi<br />
giao: chuyển giao triều đại Trần sang Hồ thì đây là “kiểu kết cấu đầu cuối song trùng<br />
(Hồ Quý Ly); chuyển giao chế độ, văn hóa, mà đối lập”. Song trùng vì cả hai giống<br />
tư tưởng và hành động (Mẫu Thượng nhau ở cái hình thức bên ngoài – cùng một<br />
Ngàn); chuyển giao thời đại, giai đoạn lịch típ truyện, còn đối lập là ở ý nghĩa thực của<br />
sử (Đội gạo lên chùa). Đặc biệt, cả ba tác chúng trong cấu trúc tác phẩm. Quan sát kỹ<br />
phẩm đều được kể theo một quy trình đảo chúng ta sẽ thấy, tất cả các mô hình mở<br />
lộn trật tự thời gian tuyến tính, khởi đầu đầu đều mang ý nghĩa một cái kết cục đã<br />
bằng một sự kiện ở hiện tại, rồi ngược về rồi, một kết quả đã hoàn thành và không<br />
quá khứ, sau đến các sự kiện, tình tiết của thể khác. Còn các mô hình kết thúc lại tạo<br />
hiện tại nối tiếp đến một kết thúc. Quá khứ ra những sự bắt đầu, làm nảy sinh, tạo tác<br />
và hiện tại tiếp diễn cứ lần lượt được tái một cái mới. Theo nhà nghiên cứu Lã<br />
<br />
<br />
11<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019)<br />
<br />
<br />
Nguyên thì đó là hai lớp truyện: lớp đan xen nhiều lớp, nhiều tầng. Mô hình<br />
“chung cục” ở trên cùng, tương ứng với cấu trúc này có cội nguồn sâu xa từ trong<br />
phần mở đầu và tiếp theo đó là lớp “khởi kho tàng ký ức thể loại của văn học dân<br />
nguyên” ứng với phần kết thúc (Lã gian, cũng là một loại hình diễn ngôn độc<br />
Nguyên, 2018, tr.268 - 269). Như thế mở đáo về lịch sử.<br />
đầu tự nó mang trong mình một sự kết Cấu trúc dụ ngôn giúp nhà văn dung<br />
thúc, một sự phá vỡ, hủy diệt, còn kết thúc hòa được nhiều yếu tố như lịch sử, văn<br />
lại tạo ra những bắt đầu, những khởi hóa, tôn giáo, tâm linh trong tác phẩm, đặt<br />
nguyên mới của sự vật. ra những vấn đề thời sự và thời đại. Mục<br />
Như vậy, Nguyễn Xuân Khánh đã lựa đích cuối cùng của những dụ ngôn lịch sử<br />
chọn được một ngôn ngữ hữu dụng để không phải là sử mà là các thông điệp, bài<br />
chuyển tải – ngôn ngữ kết cấu. Mỗi tác học về lẽ sống, đạo lý, tư tưởng, ý thức hệ,<br />
phẩm của ông là sự đan xen, hòa quyện quy luật vận động của thời thế, xã hội. Do<br />
nhiều lớp truyện, nhiều tuyến truyện, tạo ra đó, đằng sau bề mặt cấu trúc truyện kể<br />
những mô hình kết cấu riêng có thể khái truyền thống là những vỉa tầng truyện kể<br />
quát như sau: Chủ thể (nhân vật) – Không khác, nhiều khi mới mẻ, khác lạ về các<br />
gian – sự kiện (biến cố truyện kể) gắn với nhân vật, sự kiện lịch sử đã đóng khung,<br />
các lớp nghĩa của: Cái chung cục (hoàn thành chuẩn mực. Cho nên, các tiểu thuyết<br />
tất) – cái diễn tiến của sự kiện – cái khởi của ông có ý nghĩa quan trọng trong việc<br />
đầu của những câu chuyện mới. Tất cả nhận thức về lịch sử và thực tại, hình thành<br />
được thể hiện bằng những mã truyện kể, nhãn quan, tư tưởng riêng về các vấn đề<br />
mã nghệ thuật riêng, mà nổi bật là mã lịch của thời đại, xã hội và con người.<br />
sử - văn hóa, là những câu chuyện đời Góc nhìn của ký hiệu học văn hóa và<br />
những câu chuyện thế sự chen vào chuyện lý thuyết diễn ngôn trên cơ sở đi tìm hạt<br />
của lịch sử, chính biến. nhân cấu trúc thể loại, đưa ra những mô<br />
3. Kết luận hình ký hiệu học lịch sử sẽ tìm ra các mã,<br />
Với tư duy nghệ thuật, cách nhìn, xử các gen thể loại. Phương pháp này sẽ giúp<br />
lý chất liệu lịch sử riêng, Nguyễn Xuân ta lý giải được những hiện tượng văn học<br />
Khánh đã tạo nên một mô hình cấu trúc phức tạp, đưa ra góc nhìn mới về đặc trưng<br />
truyện lịch sử đặc thù – mô hình dụ ngôn các thể loại, chia ra từng xu hướng, phong<br />
lịch sử. Trong mô hình đó, ta thấy một cách thể loại. Khi ấy, thể loại được quan<br />
chiến lược giao tiếp diễn ngôn được thực niệm như một sự thỏa thuận giữa chủ thể<br />
hiện với những đặc điểm đặc trưng của và đối tượng tiếp nhận để thực hiện một<br />
chủ thể sở đắc chân lý, mang sẵn những chiến lược giao tiếp diễn ngôn. Do đó, bình<br />
bài học để chuyển tải, chia sẻ; bức tranh diện lịch sử văn học cũng sẽ được tổng kết,<br />
thế giới được tạo nên bởi những chủ thể nhìn nhận lại từ quá trình vận động, tiếp<br />
lựa chọn; ngôn ngữ mang tính ám dụ, tạo biến, làm mới những mô hình cấu trúc nền<br />
ra ẩn ngữ bằng các biểu tượng và kết cấu móng cổ xưa.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
12<br />
NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
Chiupa, V.I. (2013). Diễn ngôn như là một phạm trù của tu từ học và thi pháp học hiện<br />
đại. Phê bình văn học phiên bản điện tử đăng ngày 08/4/2013. Lã Nguyên dịch. Truy<br />
xuất từ: http: //phebinhvanhoc.com.vn/<br />
Nguyễn Xuân Khánh (2012). Mẫu Thượng Ngàn (In lần thứ 6). Hà Nội. NXB Phụ nữ.<br />
Lã Nguyên (2018). Phê bình ký hiệu học: Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn từ. Hà<br />
Nội. NXB Phụ nữ.<br />
Tamarchenko, N.D. (2015). Dụ ngôn. Phê bình văn học phiên bản điện tử đăng ngày<br />
04/02/2015. Lã Nguyên dịch từ bản tiếng Nga Поэтика//Словарь актуальных<br />
терминов и понятий.- Изд. Кулагиной, Intrada.- 2008. Cтр. 187-188. Truy xuất<br />
từ: http: //phebinhvanhoc.com.vn/<br />
<br />
TÀI LIỆU CÓ LIÊN QUAN<br />
Bakhtin, M. (2003). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch.<br />
Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.<br />
Nguyễn Xuân Khánh. (2012). Hồ Quý Ly (In lần thứ 10). Hà Nội: NXB Phụ nữ.<br />
Nguyễn Xuân Khánh. (2012). Đội gạo lên chùa (In lần thứ 3). Hà Nội: NXB Phụ nữ.<br />
Lotman, Iu.M. (2016). Ký hiệu học văn hóa. Lã Nguyên – Đỗ Hải Phong – Trần Đình Sử<br />
dịch. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
Lã Nguyên. (2012). Lý luận văn học: Những vấn đề hiện đại. Hà Nội: NXB Đại học Sư<br />
phạm Hà Nội.<br />
Trần Đình Sử. (2005). Dẫn luận thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 01/9/2017 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
13<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn