intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:158

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 cuốn sách "Nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam" trình bày các nội dung: Quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam trong những năm tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam: Phần 2

  1. Chương III QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN DÂN CỬ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI I- NHỮNG CĂN CỨ ĐỀ XUẤT QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 1. Bối cảnh đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam những năm tới 1.1. Bối cảnh quốc tế Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế; tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Trong quan hệ kinh tế quốc 295
  2. tế đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hóa tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương, là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN, tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu, tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), và đặc biệt, đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới sau 11 năm đàm phán. Hiện tại, Việt Nam đang trong quá trình xem xét sửa đổi pháp luật để tương thích với các cam kết trong các FTA thế hệ mới đã ký kết như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và hiệp định đang trong giai đoạn hoàn thiện để ký kết như: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu. Đây là hai hiệp định rất quan trọng, có vai trò thúc đẩy Việt Nam tham gia đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu và hội nhập sâu với thế giới, đồng thời đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới toàn diện hệ thống pháp luật trong nước tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Tình hình thế giới sẽ có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường, nhiệm vụ dự báo đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên và phân tích liên tục. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ số tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn là xu hướng chủ đạo bất chấp những biểu hiện của chủ nghĩa bảo hộ. Cách mạng công nghiệp 4.0 khiến thế giới trở nên “phẳng” hơn, các rào cản truyền thống dần biến mất. 296
  3. Những vấn đề an ninh toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn, nhất là đối với các thách thức an ninh phi truyền thống. Hiệp hội an sinh xã hội ASEAN (ASSA) đã được thành lập nhằm giúp các tổ chức thành viên trao đổi quan điểm và kinh nghiệm về các vấn đề an sinh xã hội. ASSA hoạt động với nhiều chủ đề đa dạng như: ứng dụng công nghệ thông tin; mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; đầu tư và quản lý Quỹ hưu trí; chương trình chăm sóc y tế cho người nghèo; chế tài tuân thủ chính sách, quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ, truyền thông và thông tin tuyên truyền về chính sách an sinh xã hội. Sau hai thập niên hình thành và phát triển, ASSA đã trở thành một diễn đàn hợp tác đa phương về an sinh xã hội hàng đầu khu vực, có vị thế và tầm ảnh hưởng ngày càng lớn trong khu vực và trên thế giới, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển an sinh xã hội trong khu vực Đông Nam Á; đóng góp tích cực vào mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN hài hòa về chính trị, liên kết về kinh tế và có trách nhiệm về xã hội. Bối cảnh quốc tế với những thời cơ và thách thức đang tác động sâu sắc đến môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam; đặt ra những vấn đề mới, nhiệm vụ mới cho công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế của Quốc hội, trong đó có nhiệm vụ đổi mới toàn diện hoạt động Quốc hội; đặc biệt là công tác 297
  4. giám sát của đại biểu dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam để bảo đảm quyền con người, bao gồm quyền an sinh xã hội cho công dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là yêu cầu cấp bách trong những năm tới. 1.2. Bối cảnh trong nước Nền kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao, lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện. Quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng đổi mới sáng tạo phát huy được hiệu quả, cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi nhanh theo hướng hiện đại phát huy được hiệu quả. Các thành phần kinh tế được tạo cơ hội phát triển bình đẳng và phù hợp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ gây tác động lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta từ những ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp cho đến các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, năng lượng... Cần có chiến lược và chính sách ứng phó phù hợp để tận dụng thành công những cơ hội và giảm thiểu khó khăn, thách thức. Đời sống của người dân tiếp tục được cải thiện và nâng cao, bảo đảm được các yêu cầu về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Việt Nam dần kết thúc thời kỳ dân số vàng, xu hướng già hóa dân số nhanh gây ra những biến động cần phải xử lý có hiệu quả. Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và 298
  5. phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thế và lực của đất nước được giữ vững và ngày càng lên cao. Vai trò của Việt Nam được mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Các mối đe dọa, thách thức, nguy cơ đối với tình hình an ninh, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước diễn biến ngày càng phức tạp và khó lường. Thách thức từ các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng lớn, đặc biệt là an ninh mạng và bảo vệ nguồn tài nguyên số. Các thách thức về suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu có tác động ngày càng lớn, trở thành lực cản không nhỏ đến sự phát triển bền vững của quốc gia. Tiếp tục nghiên cứu phát triển nhận thức lý luận về Đảng Cộng sản, Nhà nước, nhân dân và mối quan hệ giữa các chủ thể quyền lực trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong điều kiện một đảng chính trị duy nhất cầm quyền, cần nghiên cứu và làm rõ một loạt vấn đề đang đặt ra như: vấn đề về dân chủ trong chính trị; vấn đề về kiểm soát và giám sát quyền lực, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực và tham nhũng, lãng phí; vấn đề về vai trò, quyền làm chủ, phương thức làm chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân... Cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ vấn đề xây dựng mối quan hệ và ứng xử với các tổ chức chính trị quốc tế, các quốc gia, dân tộc trên thế giới... Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những quan điểm, đường lối quan trọng của Đảng nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Những vấn đề xã hội được tập trung quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và nguồn 299
  6. nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo, phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Gần 35 năm đổi mới, các quan điểm của Đảng đối với các vấn đề xã hội đã dần được bổ sung, hoàn thiện và trở thành một hệ thống quan điểm về chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới; trong đó, an sinh xã hội đóng vai trò quan trọng. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rất cụ thể chi tiết và bao trùm chính sách an sinh xã hội. Cụ thể tại Điều 34 ghi rõ về “quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; khoản 2, Điều 59 khẳng định: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”. Từ thực tiễn đất nước và kinh nghiệm quốc tế, nhận thức về chính sách an sinh xã hội trong hệ thống chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện, thể hiện trong các văn kiện của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất... Có chính sách bảo trợ và điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng”1, Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển thành quan điểm “hoàn thiện ________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.39. 300
  7. hệ thống an sinh xã hội” và cụm từ “an sinh xã hội” đã được chính thức đưa vào văn kiện Đại hội IX. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) của Đảng chủ trương: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội...”1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhấn mạnh: “từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”2. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011), nhận thức về hệ thống chính sách an sinh xã hội tiếp tục được hoàn thiện và nâng lên tầm chiến lược về phát triển hệ thống chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn mới: “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách”3. Đại hội XI tiếp tục làm rõ những quan điểm, định hướng, nội dung cụ thể cho từng chính sách an sinh xã hội: “Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. ________________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.202; t.67, tr.110. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.227. 301
  8. Tăng tỷ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng”1. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI khẳng định: “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 nhấn mạnh: Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công. Mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn3. ________________ 1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.228, 227-229. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.105-106. 302
  9. Đại hội XII của Đảng tiếp tục có những nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của an sinh xã hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”1. Nhìn lại quá trình phát triển thì quan điểm xuyên suốt và phát triển của Đảng về an sinh xã hội là: Thứ nhất, xem bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu và là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thứ hai, phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động và cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Thứ ba, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng. Thứ tư, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. ________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.136. 303
  10. Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Trong hoạt động giám sát, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam những năm tới. Đẩy mạnh công tác lập pháp, giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp phục vụ hội nhập quốc tế theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, nhất là trong công tác giám sát việc thực hiện các chính sách xã hội, an sinh xã hội nhằm bảo đảm quyền con người, tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức hoạt động, tăng cường năng lực giám sát của đại biểu dân cử trên các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân theo tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về chế độ và các điều kiện bảo đảm để đại biểu dân cử thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Có cơ chế thích hợp để đánh giá kết quả và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu làm cơ sở để cử tri giám sát hoạt động của đại biểu dân cử. 304
  11. 2. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam Căn cứ để đưa ra quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội những năm tới cũng có thể được rút ra từ những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội của cơ quan dân cử những năm qua. Các bài học này là: Thứ nhất, quán triệt và nhận thức đúng đắn về chức năng giám sát của của Quốc hội, hội đồng nhân dân về giám sát đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động an sinh xã hội, coi đó là yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời bảo đảm cho đường lối phát triển bền vững được thực thi trong thực tiễn. Đối với Quốc hội, chức năng giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội phải gắn liền với các chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng quốc gia trong bảo đảm an sinh xã hội cho mọi người dân. Đối với hội đồng nhân dân chức năng giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội phải gắn liền với chức năng quyết định những vấn đề quan trọng và những giải pháp thực hiện chính sách, pháp luật về an sinh xã hội tại địa phương. Hoạt động giám sát nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng đạt hiệu quả cao hơn trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm an sinh xã hội. 305
  12. Thứ hai, gắn hoạt động giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội với cuộc sống thực tiễn; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về an sinh xã hội được dư luận xã hội, cử tri và nhân dân quan tâm; đáp ứng lòng mong mỏi và nguyện vọng của nhân dân để Quốc hội, hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân. Để tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân cần phải đổi mới hình thức, phương pháp và cách thức tổ chức giám sát của Quốc hội phù hợp với vị trí pháp lý và điều kiện hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân. Đổi mới hoạt động của các cơ quan Quốc hội, hội đồng nhân dân làm sao để đạt đúng “tầm” Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất của tỉnh, thành phố. Thứ ba, xây dựng quy trình giám sát cụ thể, trên cơ sở tiếp tục xây dựng, ban hành và cụ thể hóa các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân nhằm xác định rõ ràng, cụ thể phạm vi, thẩm quyền, đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này, khắc phục tình trạng chồng chéo, lẫn lộn trong hoạt động của các cơ quan khi thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật. Trên cơ sở xác định mục đích của giám sát trong lĩnh vực an sinh xã hội, Quốc hội, hội đồng nhân dân tập trung vào việc giám sát thực hiện các mục tiêu chính sách đã được xác định trong các đạo luật và trong các nghị quyết của Quốc hội, hội đồng nhân dân. Theo đó, trong quá trình xem xét các đề 306
  13. xuất xây dựng luật, pháp lệnh, các nghị định về lĩnh vực an sinh xã hội, cần xem xét các chính sách cơ bản của luật, pháp lệnh, nghị định, mục tiêu ban hành và mức độ phù hợp của văn bản. Trong quá trình thảo luận xây dựng luật, cần phải đánh giá chính xác xem các chính sách đã được thể hiện có hợp lý, lôgíc và nhất quán, bám sát mục tiêu mà Quốc hội mong muốn hay không. Sau khi luật được ban hành, Quốc hội phải tiếp tục giám sát, đánh giá việc tổ chức thực thi của các cơ quan hành pháp, đánh giá mức độ bảo đảm tuân thủ so với mục tiêu mà Quốc hội đã quyết định. Trong điều kiện Quốc hội, hội đồng nhân dân hoạt động không thường xuyên, đòi hỏi phải có sự phối hợp thường xuyên giữa Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội với các bộ, ban, ngành, giữa thường trực hội đồng nhân dân với các sở ban ngành địa phương để giải trình về các chính sách an sinh xã hội trong các dự án luật, giải trình về việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu an sinh xã hội do Quốc hội, hội đồng nhân dân đã đề ra. Như vậy, trách nhiệm chính là thuộc về Quốc hội, hội đồng nhân dân trong việc yêu cầu chất lượng của các báo cáo đánh giá tác động, báo cáo nghiên cứu do cơ quan hành pháp trình để qua đó kiểm soát, giám sát khả năng tuân thủ pháp luật. Trách nhiệm giải trình thuộc về Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nhưng không có nghĩa là chỉ khi Quốc hội, hội đồng nhân dân chất vấn mới phát sinh trách nhiệm giải trình, mà ngay từ khi Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trình dự luật, văn bản pháp luật, đề xuất một vấn đề quan trọng về an sinh xã hội của đất nước, địa phương hay chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định, 307
  14. văn bản pháp luật có liên quan đến an sinh xã hội... để Quốc hội, hội đồng nhân dân quyết định thì Quốc hội, hội đồng nhân dân đã phải có những động thái mang tính kiểm soát, giám sát. Như vậy, giữa hoạt động giám sát và hoạt động hoạch định chính sách an sinh xã hội của Quốc hội, hội đồng nhân dân không nên quá tách bạch như cách làm hoặc cách hiểu hiện nay, mà hoạt động giám sát cần nhằm phục vụ cho công việc hoạch định chính sách an sinh xã hội. Thiếu sự giám sát này thì Quốc hội, hội đồng nhân dân có thể buông lỏng trách nhiệm ngay từ khi Chính phủ, ủy ban nhân dân trình chính sách. Kinh nghiệm một số nước như Nhật Bản, Pháp, Đức và Hàn Quốc cho thấy, chức năng giám sát không quá tách bạch với chức năng lập pháp như ở Việt Nam; thậm chí, trong quá trình lập pháp cũng đã có sự giám sát nói chung, an sinh xã hội nói riêng. Thứ tư, cơ sở pháp lý để bảo đảm thực hiện hoạt động giám sát phải rõ ràng, đầy đủ, thống nhất, kể từ các quy định về thẩm quyền, nội dung, phạm vi giám sát đến quy trình, thủ tục thực hiện đối với từng hình thức giám sát, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị. Cơ sở pháp lý càng chặt chẽ, đầy đủ thì hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát thực thi chính sách an sinh xã hội càng cao. Thứ năm, phải bảo đảm tính độc lập, khách quan, công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội. 308
  15. Điều này đòi hỏi phải nâng cao chất lượng các hình thức giám sát như đổi mới hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phiên giải trình tại Hội đồng Dân tộc và Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội nhằm tăng tính tranh luận, đi sâu phân tích làm rõ vấn đề đưa ra chất vấn; tăng cường giám sát theo chuyên đề, chú trọng chiều sâu và vấn đề hậu giám sát; tiếp tục tổ chức nhiều phiên giải trình (điều trần) về an sinh xã hội tại Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và hội đồng nhân dân. Đối với hoạt động giám sát tối cao tại kỳ họp Quốc hội, cần ban hành nghị quyết về nội dung giám sát để làm cơ sở cho việc khắc phục những bất cập, hạn chế đã được nêu trong báo cáo kết quả giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội; sau khi có nghị quyết của Quốc hội, tăng cường công tác theo dõi, đôn đốc các cơ quan có trách nhiệm thực hiện các kiến nghị của đoàn giám sát đã được Quốc hội chấp thuận. Thứ sáu, cơ cấu, thành phần và cách thức tổ chức, hoạt động của đoàn giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội phải đáp ứng được yêu cầu của nội dung giám sát. Trách nhiệm, bản lĩnh và năng lực của người tiến hành giám sát là vấn đề cốt lõi, có tính chất quyết định đến chất lượng của kết quả giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội. Là vấn đề chuyên môn sâu và có phạm vi rất rộng, do đó để các hoạt động giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội thực sự hiệu quả, có thể thuê các tổ chức đánh 309
  16. giá độc lập để tổ chức giám sát chuyên sâu từng vấn đề, từng nội dung được giám sát thực thi chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, nên thuê theo từng công đoạn, từng hoạt động nhỏ trong việc giám sát một vấn đề, chứ không “khoán trắng” cho các tổ chức độc lập, vì như vậy sẽ không còn là hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân. Việc “khoán” cho các cơ quan hành pháp báo cáo về việc thi hành pháp luật hay về một vấn đề cụ thể cũng làm mất đi ý nghĩa, vai trò của giám sát. Hiện nay, nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật mới được bổ sung cho Bộ Tư pháp và các tổ chức pháp chế thuộc hệ thống hành pháp cũng chỉ là hoạt động “theo dõi mang tính chất nội bộ của cơ quan hành pháp”, không thể thay thế cho hoạt động giám sát từ bên ngoài của Quốc hội đối với các hoạt động của Chính phủ để hỗ trợ cho các chức năng của Quốc hội, giúp Quốc hội làm tròn nhiệm vụ của người đại diện cao nhất của nhân dân. Thứ bảy, nâng cao chất lượng các kiến nghị và chế tài thực hiện các kiến nghị sau hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội. Kiến nghị phải bảo đảm tính đúng đắn, có cơ sở khoa học và thực tiễn, bảo đảm tính khả thi, hướng tới việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về an sinh xã hội. Cơ chế bảo đảm các kiến nghị phải phù hợp với điều kiện hoạt động của cơ quan dân cử và được thực hiện trên thực tế. Thứ tám, phải có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, hội đồng nhân dân với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Mặt trận về thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội. 310
  17. Tăng cường vai trò của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, đặc biệt chú ý vai trò của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội làm tham mưu đề xuất cho Quốc hội và tổ chức hoạt động giám sát việc thực thi chính sách về an sinh xã hội trong phạm vi cả nước. Việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân về thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội vừa có tính độc lập vừa có liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan thông tấn, báo chí, do đó việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này là hết sức quan trọng. Thứ chín, các điều kiện bảo đảm, hỗ trợ cho hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân về thực thi chính sách, pháp luật nói chung, chính sách, pháp luật về an sinh xã hội nói riêng cần phải được tăng cường, đặc biệt là các điều kiện bảo đảm về thông tin, bộ máy tham mưu, giúp việc, cơ chế tài chính và các công cụ hỗ trợ. Để tăng tính hiệu quả trong hoạt động giám sát, nhất là tổ chức thu thập thông tin, điều tra, xử lý các vụ việc lớn, phức tạp, chúng ta cũng cần tính đến việc thành lập các thiết chế độc lập, thường xuyên hoặc lâm thời để thu thập thông tin và tổ chức đánh giá có hiệu quả hoạt động của nhánh hành pháp. Việc thành lập một ủy ban điều tra thường chỉ để giải quyết một tình huống cụ thể, do kiến nghị của một hoặc một số nghị sĩ và kiến nghị phải nêu lý do đưa ra yêu cầu đồng thời phải xác định đối tượng điều tra; ủy ban điều tra được lập ra nhằm thu thập thông tin để trình Quốc hội. Cuối cùng, hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân hiện nay chủ yếu là thông qua giám sát chuyên đề 311
  18. và giám sát qua các kỳ họp của Quốc hội, hội đồng nhân dân với thời gian không dài; vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội cần được thực hiện với quỹ thời gian dài hơn. Hoạt động giám sát thông qua các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do tổ chức cũng như số lượng cán bộ của mỗi cơ quan không nhiều, nên không thể đáp ứng được một cách đầy đủ, nhanh chóng các yêu cầu giám sát. Do đó, để tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội thì phải tập trung vào Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội là chủ yếu. Để Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đảm nhiệm được chức năng hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội thì phải tăng cường cho cơ quan này về mọi mặt như: nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho cán bộ, công chức của Ủy ban, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công việc cho Ủy ban. Đồng thời, phải nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu phải có “tâm”, có “tầm”, phải bảo đảm cho mỗi đại biểu đủ điều kiện để hoàn thành được nhiệm vụ của mình nói chung, trong thực hiện hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội nói riêng. 3. Yêu cầu hoàn thiện các quy định về chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung và hình thức hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội Những năm gần đây, hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân đã có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của đời sống xã hội, bao gồm an sinh xã hội, nhất là những phiên giải trình, phiên chất vấn tại hội trường Diên Hồng 312
  19. được truyền hình, truyền thanh trực tiếp. Cử tri cả nước mong đợi hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân có tác động mạnh mẽ đến sự chuyển biến toàn diện của công tác thực thi chính sách, pháp luật, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có lĩnh vực an sinh xã hội. Đó là mong muốn chính đáng của nhân dân. Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập trong hoạt động giám sát, nhất là những vấn đề có liên quan đến đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân ở nhiều địa phương. Thực tiễn cho thấy, vẫn có nơi cử tri nhận xét hội đồng nhân dân “giám nhưng không sát”, đại biểu dân bầu chỉ “giữ chỗ hết nhiệm kỳ”. Thực tế là không ít đại biểu hội đồng nhân dân không đủ bản lĩnh chất vấn người đứng đầu, có thể vì ngại va chạm, hoặc thiếu kiến thức hoặc thiếu thông tin về lĩnh vực giám sát. Sự e dè cố hữu, tình trạng nể nang, né tránh trong hoạt động chất vấn, giám sát khá phổ biến, nhất là ở những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Vì thế, trong thời gian tới, cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện các quy định về chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung và hình thức hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật nói chung và chính sách, pháp luật về an sinh xã hội nói riêng. Trong quá trình này, cần quán triệt các yêu cầu sau đây: a) Yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát Quốc hội đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam những năm tới Chủ thể giám sát tối cao theo quy định của pháp luật bao gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, 313
  20. các ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, cần đổi mới việc phân định, phân cấp phạm vi, nội dung giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội cho các cơ quan theo yêu cầu cụ thể để bảo đảm hoạt động giám sát có hiệu quả, tránh chồng chéo, lãng phí, gây khó khăn cho đối tượng giám sát. Hình thức giám sát nên có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải. Giám sát tối cao của Quốc hội nên tập trung vào hoạch định chính sách vĩ mô về an sinh xã hội, giám sát để đánh giá và đưa ra các quyết định việc điều chỉnh chính sách; Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội tập trung giám sát chuyên đề để điều chỉnh việc tổ chức triển khai thực hiện, bảo đảm việc thực thi chính sách đúng, đủ, kịp thời. Nên tăng cường vai trò của đoàn đại biểu Quốc hội tại các địa phương, đại biểu Quốc hội giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội, vì gần địa bàn dân cư, hiểu rõ việc thực thi chính sách tại địa phương. Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát bao gồm Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Đây là đối tượng chịu sự giám sát nhưng cần phải phân loại để bảo đảm giám sát đúng đối tượng, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Phạm vi, nội dung, phương thức và hình thức hoạt động giám sát của Quốc hội về việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội phải tuân thủ theo đúng nội dung, chương trình, kế hoạch giám sát, báo cáo kết quả giám sát, nghị quyết 314
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2