YOMEDIA
ADSENSE
Giải mã vở kịch "Vũ Như Tô" (Nguyễn Huy Tưởng) từ góc nhìn thể loại
78
lượt xem 9
download
lượt xem 9
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết Giải mã vở kịch "Vũ Như Tô" (Nguyễn Huy Tưởng) từ góc nhìn thể loại có nội dung trình bày về giải mã và tiếp nhận văn học; tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch "Vũ Như Tô"; giải mã theo góc nhìn thể loại trong vở kịch "Vũ Như Tô" (Nguyễn Huy Tưởng);... Mời các bạn cùng tham khảo!
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải mã vở kịch "Vũ Như Tô" (Nguyễn Huy Tưởng) từ góc nhìn thể loại
- Lưu Thị Minh Huệ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN Đề tài GIẢI MÃ VỞ KỊCH "VŨ NHƯ TÔ" (NGUYỄN HUY TƯỞNG) DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI
- Lưu Thị Minh Huệ Năm 2021 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 NỘI DUNG ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 1 1.1. Giải mã và tiếp nhận văn học ....................................................................... 1 1.1.1. Khái niệm giải mã và tiếp nhận văn học ................................................. ........ 1 1.1.2. Giải mã và tiếp nhận văn học từ góc độ thể loại kịch ..................................... 2 1.2. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch "Vũ Như Tô" ............................... 2 1.2.1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng ....................................................................... 2 1.2.2. Vở kịch "Vũ Như Tô" ................................................................................ 3 CHƯƠNG 2: GIẢI MÃ THEO GÓC NHÌN THỂ LOẠI TRONG VỞ KỊCH "VŨ NHƯ TÔ" (NGUYỄN HUY TƯỞNG) .................................................... 3 2.1. Giải mã xung đột kịch ................................................................................ 3 2.1.1. Tình huống kịch ........................................................................................ 3 2.1.2. Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn đời sống sa hoa, trụy lạc của bọn cầm quyền với đời sống cơ cực, khốn khổ, lầm than của nhân dân ........................................ 4 2.1.3. Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa khát vọng của người nghệ sĩ với lợi ích trực tiếp của nhân dân ....................................................................................... 5
- Lưu Thị Minh Huệ 2.2. Giải mã hành động kịch ............................................................................. 7 2.3. Giải mã ngôn ngữ kịch ............................................................................... 8 2.4. Giải mã nhân vật kịch .............................................................................. 10 2.5. Giải mã không gian, thời gian kịch .......................................................... 12 2.6. Quan niệm về con người của Nguyễn Huy Tưởng thông qua vở kịch "Vũ Như Tô" ......................................................................................................... 12 KẾT LUẬN .................................................................................................... 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 13
- Lưu Thị Minh Huệ MỞ ĐẦU Một văn bản văn học có thành công, có sức sống lâu bền với thời gian không chỉ nằm ở nội dung, nghệ thuật của văn bản đó mà còn phụ thuộc vào việc nó được tiếp nhận như thế nào. Mỗi văn bản được coi như một ẩn số cần người đọc đi giải mã để có thể tiếp nhận được giá trị của văn bản ấy. Quá trình đó có ý nghĩa không chỉ với độc giả mà còn có ý nghĩa sống còn của một tác phẩm. Nó giúp cho người đọc phát hiện được những giá trị nội tại, đặc sắc của nội dung và nghệ thuật, giúp người đọc thấu hiểu bản thân hơn, đồng thời đó là cây cầu nối giữa tác giả và bạn đọc,… Hơn nữa, quá trình tiếp nhận văn học giúp văn bản sản sinh ra các giá trị mới, giúp cho văn bản phong phú hơn, sâu sắc hơn và có sức sống lâu bền. Như vậy, quá trình giải mã, tiếp nhận văn bản văn học có ý nghĩa quan trọng. Hiện nay có nhiều góc độ giải mã văn bản khác nhau: giải mã văn bản từ góc độ thể loại, từ góc độ ngôn ngữ, từ góc độ khuynh hướng trào lưu,… Mỗi góc độ giải mã đều có những giá trị riêng, mang tới hiệu quả tiếp nhận riêng. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn cách giải mã văn bản văn học theo góc nhìn thể loại. Để làm rõ vấn đề, chúng tôi chọn đề tài "Giải mã vở kịch "Vũ Như Tô" (Nguyễn Huy Tưởng) từ góc nhìn thể loại". Trong bài viết, chúng tôi đưa ra một số phương diện giải mã văn bản theo đặc trưng thểloại kịch để dựa vào đó đi tiếp nhận vở kịch "Vũ Như Tô". NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Giải mã và tiếp nhận văn học 1.1.1. Khái niệm giải mã và tiếp nhận văn học Theo "Từ điển thuật ngữ văn học", tiếp nhận văn học "là quá trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tình cảm, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của nhà văn… đến sản phẩm sau khi đọc: Cách hiểu, ấn tượng, trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch" [2]. Theo SGK Ngữ văn 12, tập 2: "Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hòa mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn ngữ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo" [1]. Giải mã văn bản chủ yếu "lấy văn bản làm trung tâm". Quá trình giải mã cần tiến hành phân tích, cắt nghĩa các yếu tố và cấu trúc văn bản tác phẩm. Qua đó người đọc có thể phát hiện, diễn dịch nội dung ý nghĩa của tác phẩm cái vốn được coi là nằm ngay trong văn bản. Tiếp nhận văn bản bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, quan niệm và tài năng của tác giả. Sản phẩm của quá trình 4
- Lưu Thị Minh Huệ tiếp nhận văn bản là những cách hiểu, những ấn tượng, những ảnh hưởng sau khi tiếp nhận vào trong hoạt động sáng tạo, chuyển thể, dịch,… Tiếp nhận văn học thực chất là quá trình giao tiếp giữa người đọc và văn bản thông qua việc giả mã văn bản. 1.1.2. Giải mã và tiếp nhận văn học từ góc độ thể loại kịch Giải mã, tiếp nhận văn bản theo góc nhìn thể loại tức là quá trình giải mã các yếu tố hình thức, đặc trưng của thể loại ấy. Nhưng trước hết, người tiếp nhận cần có những lý thuyết về thể loại cũng những đặc trưng của thể loại đó. Cụ thể trong đề tài này, chúng ta cần biết thể loại kịch là gì và các phương diện để giải mã, tiếp nhận một văn bản kịch. Có nhiều quan điểm khác nhau về kịch. Theo góc độ loại hình, kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học bên cạnh tự sự và trữ tình. Trong "Từ điển thuật ngữ văn học" thì "kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học, vừa để diễn vừa để đọc" [2, 141]. Từ góc độ thể loại, kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học. Trong đề tài này, rõ ràng kịch được hiểu theo quan điểm là một thể loại văn học. Và như vậy, kịch cũng mang những đặc trưng thể loại. Kịch có một số đặc trưng tiêu biểu: Xung đột kịch, hành động kịch, ngôn ngữ kịch, nhân vật kịch,… Xung đột kịch "là những mâu thuẫn nào đó trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột và đồi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác" [3,401]. Xung đột kịch do đó là một đặc điểm cơ bản của kịch. Nó là yếu tố tạo nên kịch tính, thúc đẩy sự phát triển của vở kịch. Xung đột kịch gồm hai loại: xung đột bên trong là xung đột ở chính nội tâm của nhân vật kịch và xung đột bên ngoài là xung đột giữa các nhân vật với nhau. Hành động kịch có thể hiểu khái quát là hành động của các nhân vật trong vở kịch được sắp xếp theo một trình tự logic, thường tuân theo luật nhân quả, hành động trước là nguyên nhân dẫn đến hành động sau và hành động sau đồng thời là nguyên nhân cho hành động kế tiếp. Trong kịch, các hành động thường được miêu tả căng thẳng, gấp gáp, các hành động suy tư diễn ra nhanh. Nhân vật kịch là người thực hiện các hành động kịch. Các nhân vật kịch thường không được miêu tả một cách tỉ mỉ. Nhân vật kịch được tác giả đặt vào các mâu thuẫn và được xây dựng với diễn biến tâm lý đa dạng, thậm chí ẩn chứa mâu thuẫn, đấu tranh trong chính nội tâm nhân vật. Giải mã, tiếp nhận kịch thì không thể bỏ qua ngôn ngữ kịch. Nó đóng vai trò xây dựng tính cách, đặc điểm, phẩm chất của nhân vật. Ngôn ngữ trong kịch phải có tính hành động (tranh luận, thuyết phục, đe dọa, ra lệnh,…) và tính khẩu ngữ cao. Ngôn ngữ của nhân vật trong kịch thường ở ba dạng: đối thoại (nói với nhau), độc thoại (nói với chính mình) và bàng thoại (lời nói riêng với khán giả). Những đặc trưng này là chìa khóa giải mã và tiếp nhận văn bản kịch. 1.2. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch "Vũ Như Tô" 5
- Lưu Thị Minh Huệ 1.2.1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng Trong làng kịch, ta cũng không thể không nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng một trong những tác giả viết kịch và tiểu thuyết xuất sắc. Ông được xem là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn đối với nền của văn học Việt Nam hiện đại. Là nhà văn yêu nước, ông sớm tham gia hoạt động cách mạng và đã đặt nhiều tâm huyết với nhân dân, đất nước, với nền văn hóa của dân tộc. Các tác phẩm của ông nổi bật với cảm hứng lịch sử vừa đậm chất bi kịch vừa giàu chất lãng mạn. Sáng tác nhiều thể loại nhưng ông thành công hơn cả ở kịch và tiểu thuyết. Các sáng tác của ông thể hiện rõ những băn khoăn, day dứt, trăn trở giữa một bên là lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của công dân với một bên là khát vọng nghệ thuật, ý thức sáng tạo của một nhà văn chân chính. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: kịch "Vũ Như Tô" (1943), "Bắc Sơn" (1946), tiểu thuyết "Đêm hội Long Trì" (1942), "An Tư công chúa" (1944),… 1.2.2. Vở kịch "Vũ Như Tô" "Vũ Như Tô" là vở kịch được xếp vào bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Lấy cảm hứng từ một sự kiện lịch sử xảy ra ở thế kỉ XVI dưới thời vua Lê Tương Dực, nhà văn đã sáng tác vở kịch "Vũ Như Tô". Vở kịch lấy đề tài lịch sử nhưng qua đó nhà văn lại xây dựng được bi kịch của người nghệ sĩ đứng trước mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật và hiện thực xã hội. Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc sư giỏi, luôn khao khát xây dựng một công trình kiến trúc vĩ đại. Để thực hiện khát vọng, Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của cung nữ Đan Thiềm, mượn quyền lực và tiền bạc của vua để xây dựng Cửu Trùng Đài. Nhưng cũng chính vì vậy, Vũ Như Tô đã rơi vào bi kịch do mình tạo ra. Qua vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện một vấn đề có tính sâu sắc, muôn thuở về cái đẹp, mối quan hệ giữa sự khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ với lợi ích của nhân dân. Qua bi kịch "Vũ Như Tô" ta thấy được khát vọng, tài năng đáng trân trọng song nghệ thuật chân chính còn cần xuất phát từ cuộc sống, từ con người. Chỉ khi giải quyết được mối quan hệ giữa nghệ thuật với cái đẹp, giữa người nghệ sĩ với nhân dân thì nghệ thuật chân chính mới có cơ hội tồn tại và phát triển. CHƯƠNG 2: GIẢI MÃ THEO GÓC NHÌN THỂ LOẠI TRONG VỞ KỊCH "VŨ NHƯ TÔ" (NGUYỄN HUY TƯỞNG) 2.1. Giải mã xung đột kịch Xung đột kịch bao giờ cũng nảy sinh trên những mâu thuẫn. Xung đột kịch chính là linh hồn của kịch. Nhìn vào tài liệu lịch sử như "Đại Việt sử kí toàn thư" và cuốn "Việt Sử thông giám mục" có nhắc đến một người thợ tài hoa đang xây dở công trình thì bị giết và công trình bị hủy. Lấy chất liệu lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng xây dựng nên một vở kịch được phóng đại lên hết sức có thể để tạo một một vở kịch lịch sử hấp dẫn. 6
- Lưu Thị Minh Huệ 2.1.1. Tình huống kịch Điểm cốt lõi của xung đột vở bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng: hai thế lực xung đột đối kháng mạnh mẽ: nghệ sĩ và nhân dân. Người sáng tạo cái đẹp mượn tay quyền lực nhằm khẳng định khả năng sáng tạo thiên tài của mình, không quan tâm đến mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của quần chúng. Vũ Như Tô là một nghệ sĩ tài năng xuất chúng nay đã qua bốn mươi mà chưa có thành tựu, đứng trước khúc ngoặt cuộc đời, mỗi phía nghiệt ngã theo một cách: hoặc chối bỏ chức trách bản thân, đồng nghĩa với tự vẫn, hoặc vâng lệnh vua Lê và mượn lực y để sáng tạo mộng lớn, nhưng lại phủ thêm nhiều tai họa cho nhân dân lao động. Người dân khi không có tòa Cửu Trùng Ðài đã rất gian khổ vì bị áp bức, bóc lột gian nan trăm bề. Nhà viết kịch bênh vực quyền lợi nhân dân bằng bút pháp nghệ thuật đầy sức thuyết phục, không để "cái vĩnh cửu" lên trên chúng "cái nhất thời" mà không day dứt. Và khi ông kiến trúc sư họ Vũ chọn ngã rẽ xây công trình Cửu Trùng Ðài, hẳn ông ấy đã rõ ràng trong tư tưởng cần làm những gì để thành công. Ông ấy đòi vua cho mình "toàn quyền làm việc, kẻ nào trái lệnh chém bêu đầu". Công trình với số lượng rất lớn thợ: bên trong cần năm vạn thợ và bên ngoài cần có mười vạn công nhân, điều này được ví với chiến tranh với ngoại xâm. Sự sống những "con đỏ" bị bỏ rơi không chút tiếc nuối trong chính cuộc chiến vô bổ ấy được bật thốt nên nhiều lần và nhiều kiểu người: bắt đầu hồi hai với nhân vật Trịnh Duy Sản ("Trịnh Duy Sản là một quan võ thô bạo và hủ nho, nhưng can đảm, chính trực, lo lắng cho lợi ích của nước, của dân, đối lập với gian thần Nguyễn Vũ"), đến hồi ba chính miệng những người thợ đào ngũ và bị xử quyết, rồi đến hồi bốn với sự tinh tế của Thị Nhiên và sự thỏa mãn, suồng sã từ những người lính nổi loạn trong hồi cuối, trước khi chấm hết. Bài ca trù yểm cất lên hòa cùng bài ca ngưỡng vọng cho công trình Cửu Trùng Đài tạo thành bản nhạc hòa tấu đa điệu của vở "Vũ Như Tô". Nhạc điệu kỳ lạ, nhưng ma mị, dụ hoặc của nó được chủ yếu kết cấu nhờ đối âm phù hợp, ở thế uyển chuyển cân bằng và căng thẳng, rất nhuần nhuyễn, không bên nào áp chế bên nào. Bản thảo Cửu Trùng Ðài, Vũ Như Tô trình tấu lên Lê Tương Dực, theo ước nguyện của người thiết kế, là "đứa con" của cái đẹp thanh khiết, nhưng lại là cái đẹp "vô ích" vì nó đặt trên mọi lợi ích thiết thực của toàn dân tộc. Cũng là xây dựng công trình, một câu chuyện khác từ thuở xa xưa được gợi nhớ trong vở kịch là chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa để làm phông nền đối lập công trình Cửu Trùng Ðài. "Vua Thục đắp thành để giữ nước, còn ta xây thành cho vua chơi" những trợ thủ thân cận nhất đã thẳng thắn với tổng công trình sư trong nút cao trào vào hồi ba, lớp ba. Kế tiếp, thái tử Chiêm Thành nhân vật không có liên hệ với hành động kịch xuất hiện một lần nữa trên sân khấu, khẳng định những công trình như Cửu Trùng Ðài không hữu ích còn xa xỉ, nguy hại cho đất nước, dân tộc. Qua đó độc giả thấy được vở kịch "Vũ Như Tô" mâu thuẫn xung đột kịch ngày một căng thẳng nhưng đỉnh điểm là xung đột vào hồi 7
- Lưu Thị Minh Huệ V. Diễn biến xoay quanh số phận của nhân vật chính Vũ Như Tô và " đứa con" Cửu Trùng Đài. 2.1.2. Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn đời sống sa hoa, trụy lạc của bọn cầm quyền với đời sống cơ cực, khốn khổ, lầm than của nhân dân Mâu thuẫn vốn nảy nở từ trước đến khi Lê Tương Dực bắt ép Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài càng ngột ngạt, gay gắt. Để xây Cửu Trùng Đài nhà vua hạ lệnh tăng sưu thuế, lùng bắt thợ giỏi, trị kẻ chống đối. Công nhân nai lưng vất vả mà vẫn đói kém vì bị bòn rút từ quan lại phía trên. Toàn dân phẫn uất vì triều đình làm cho "dân cùng nước kiệt", thợ oán trách Như Tô khiến nhiều người chết. Quan võ họ Trịnh can giám nhà vua, ông yêu cầu Lê Tương Dực đuổi cung nữ đi, ban chết cho Vũ Như Tô. Nhưng Lê Tương Dực là vị hôn quân, quen thói ăn chơi trụy lạc, không nghe lọt tai lời tâu còn sai đánh Trịnh Duy Sản (hồi ba), hậu quả nhân dân đói kém, lụt lội, mất mùa. Vũ Như Tô dù bị thương do đá đè nhưng vẫn hăng say, đốc thúc thợ xây đài Cửu, khiến thợ bức xúc, định bãi công, nổi dậy làm loạn. Lợi dụng tình huống hỗn loạn và mâu thuẫn tứ phía, Trịnh Duy Sản đứng đầu phe đối lập trong triều, điều binh lôi kéo thợ thuyền làm phản, nổi loạn, xử tử vua Lê Tương Dực, kiến trúc sư chính Vũ Như Tô, nô tỳ Đan Thiềm, cung nữ và thiêu hủy Cửu Trùng Đài đang xây dở. Mâu thuẫn dẫn tới hồi I đã lên cao trào chạm chóp khi hôn quân Lê Tương Dực băng hà dưới sự nổi dậy do Trịnh Duy Sản đứng đầu. Nguyễn Vũ tự sát, hoàng hậu nhảy vào lửa, thứ phi Kim Phụng và các cung nữ bị những kẻ nổi loạn bắt bớ, nhục mạ. Dân chúng thỏa lòng hả hê, gieo hò, bừng bừng khí thế đốt phá. Cửu Trùng Đài tượng hình cho dục vọng sa đọa, "hưởng lạc" của Lê Tương Dực lửa đốt thành tro, như vậy mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường bạo lực. Nhưng tiếc rằng cuộc nổi loạn này không thể đem đến điều gì tươi sáng hơn cho nhân dân bởi sơn hà xã tắc lại rơi vào tay tên cầm đầu bọn phản loạn và phe cánh của Trịnh Duy Sản. 2.1.3. Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa khát vọng của người nghệ sĩ với lợi ích trực tiếp của nhân dân. Người nghệ sĩ tài ba Vũ Như Tô từng ấp ủ kỳ vọng xây cho Tổ quốc một tòa lầu kiêu hùng "bền như trăng sao", có thể "tranh tinh xảo với hóa công", giúp dân Việt muôn đời hãnh diện. Tuy nhiên, ông không có điều kiện để thực hiện, "không thể thi thố tài năng" và bộc lộ khát vọng sáng tạo. Bởi thực tế đời sống của người dân đương sống ngập tràn đói khổ, lầm than. Không có con đường nào nữa, Vũ Như Tô đã thuận ý cung nữ Đan Thiềm mượn tiền và uy danh của tên hôn quân để "xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ". Ông sẵn sàng bất chấp mọi thứ, bao gồm việc phải đánh đổi công sức, của cải của nhân dân và mồ hôi xương máu của những người thợ. Đây là sự mâu thuẫn giữa mục đích chân chính của người sáng tạo nghệ thuật với con đường tội lỗi, sai lầm. Nực cười thay khát vọng cống hiến của người tạo nghệ thuật chìm trong cơn mộng tưởng đã đẩy Đại Việt vào thế đối lập so với lợi ích trực tiếp của nhân 8
- Lưu Thị Minh Huệ dân lao động. Cửu Trùng Đài xây càng cao thì càng tốn kém của cải, vật chất, cộng thêm các tác nhân từ dịch bệnh, đại nạn từ thiên nhiên khác, khiến cho Cửu Trùng Đài trở thành biểu tượng cho khốn khổ, hình ảnh đại diện cho thói sa hoa, trụy lạc, hậu quả nhân dân gánh chịu. Ban đầu Vũ Như Tô yêu thương dân, đứng về phía dân, muốn cống hiến sức lực và tài năng để mang đến niềm tự hào cho đất nước nhưng sau đó ông lại bị dân chúng, nhất là những người thợ, họ coi ông như địch nhân. Từ chỗ được nhân dân yêu kính, bất đắc dĩ Vũ Như Tô đổi vai thành kẻ thù của họ. Đến những chặng cuối của vở kịch, dân chúng không những nguyền rủa oán trách Cửu Trùng Đài mà còn hưởng ứng với những tên chỉ huy nổi loạn, thiêu đốt hết Cửu Trùng Đài, bắt phạt những kẻ tạo ra nó. Nghệ sĩ giỏi giang tên Tô mang lí tưởng nghệ thuật đẹp đẽ nhưng va phải thực tế khắc nghiệt, đi ngược lại tâm nguyện, lợi ích mang tính trực diện của dân chúng. Nếu người làm nghệ thuật đó xuất phát từ quyền lợi chính đáng của nhân dân thì không hoàn thiện được ước mơ ngàn thu của mình. Đó là gốc rễ tấn bi kịch sâu sa không lối thoát của người nghệ sĩ đẳng cấp Vũ Như Tô. Hay tin có loạn lớn, Đan Thiềm khẩn khoản xin Vũ Như Tô bỏ trốn nhưng ông kiên định, nhất quyết không dời Cửu Trùng Đài, vua Lê bị Trịnh Duy Sản hành thích, Cửu Trùng Đài bị đốt phá, phần lớn thơ xây theo quân phản nghịch, kinh thành rối loạn. Lớp thứ bảy đến lớp thứ chín, Đan Thiềm bị bắt rồi đưa ra thiêu đến lìa đời, Cửu Trùng Đài hóa tro bụi, Vũ Như Tô tổn thương, đau xót đến tận cùng và bị áp giải ra pháp trường. Lực lượng phần nhiều nổi loạn là những thợ xây Cửu Trùng Đài, kẻ đứng đầu là Trịnh Duy Sản và đối tượng họ bắt bớ chém giết là Lê Tương Dực, kiến trúc sư là Vũ Như Tô, những người thân tín của họ. Đối tượng họ muốn hủy diệt là Cửu Trùng Đài. Nguyên nhân dẫn đến xung đột là xây Cửu Trùng Đài, xuất phát từ mục đích của tầng lớp thống trị ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền sống của nhân dân. Mâu thuẫn dễ thấy nhất là người chủ trương xây dựng Cửu Trùng Đài Lê Tương Dực, Vũ Như Tô với nhân dân. Tuy nhiên, ta không thể đánh đồng hôn quân Lê Tương Dực với người nghệ sĩ Vũ Như Tô vì mục đích xây dựng Cửu Trùng Đài là khác nhau. Lê Tương Dực xây Cửu Trùng Đài để vui chơi, hưởng lạc cùng các cung nhân, còn Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài làm đẹp đất nước, để cho thế hệ sau một công trình tượng trưng của cái đẹp "cao cả, huy hoàng", "đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả công trình sau trước, tranh xảo với hóa công". Mâu thuẫn một đã được giải quyết dứt khoát trên lập trường nhân dân, những kẻ đi ngược lại quyền nhân dân đã bị trả giá, Cửu Trùng Đài bị hủy, Lê Tương Dực và những kẻ thân cận của hắn bị giết chết. Nhưng lại nảy sinh mâu thuẫn tiếp theo: quan điểm nghệ thuật muôn đời và lợi ích thiết thực của nhân dân, mâu thuẫn này chưa được giải quyết dứt khoát. Các mâu thuẫn thường có hai cách xử lí: một là giải quyết hay hai là giải hòa. Mâu thuẫn thứ hai chỉ có thể xử lí bằng cách hòa giải nhưng ở đây lại không được giải quyết như thế. Về phía Vũ Như Tô, chỉ vì thực hiện hoài bão nên vô tình gây ra khổ nạn cho người dân. Vũ Như Tô có cơ hội duy nhất để giải 9
- Lưu Thị Minh Huệ quyết, chính là tạm thời trốn đi, chờ thời cơ. Nhưng ông ấy lại vừa mù quáng, vừa cố chấp nên đến cũng lỡ bỏ qua. Khi Cửu Trùng Đài bị đốt, Vũ Như Tô vẫn không hiểu được việc làm của quần chúng và của phe cánh nổi loạn và vì thế đến tận lúc chết Vũ Như Tô vẫn không nhận ra sai lầm của mình , vẫn cho mình là vô đối. Về phía nhân dân, lại còn hồ đồ mù quáng hơn cả Vũ Như Tô. Họ cứ tưởng đốt xong Cửu Trùng Đài là mọi thứ xong xuôi. Trước tiên họ vẫn không hiểu gì về sáng tạo của những người tiến sĩ, trước họ nguyền rủa Vũ Như Tô, sau họ hả hê đốt phá. Đây là mâu thuẫn không thể chấm dứt dứt điểm được. Đó là mâu thuẫn giữa "cái đẹp" và "cái thiện". "Cái đẹp" và "cái thiện" không thể điều hòa, dung hợp với nhau. "Cái đẹp" bị triệt tiêu thì cái đẹp không còn chỗ sống, mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết ổn thỏa khi đời sống vật chất của nhân dân đã đủ đầy, đời sống tinh thần được nâng cao. Tìm hiểu về mâu thuẫn kịch là một quan trọng để độc giả khám phá chiều sâu tác phẩm. Qua xung đột kịch "Vũ Như Tô", Nguyễn Huy Tưởng muốn gửi gắm đến thế hệ sau nhiều giá trị sâu sắc. Những giá trị trong đời sống muốn tồn tại thì phải giúp đỡ, bổ sung cho nhau. Con người luôn hướng đến cái chân thiện mỹ, chúng hòa quyện và không thể tách rời. Trong vở kịch Vũ Như Tô, ông là nghệ sĩ tài hoa và yêu cái đẹp đến nồng say, điều đó đã biến thành sự cố chấp khiến ông quên đi mất cái thiện. Hậu quả của việc cố chấp là công trình đang dở dang bị hủy bỏ, bị nhân dân thóa mạ. Như vậy, cái đẹp chỉ thực sự tỏa sang khi bắt tay làm bạn đồng hành cùng cái thiện. Mục đích Vũ Như Tô không sai nhưng ông đã quên mất chân lí đó. Người nghệ sĩ phải có khát khao, có hoài bão lớn, có đam mê theo đuổi cái đẹp, nhưng cần gắn cái đẹp đó với cái thiện, cái mĩ, và quan trọng cần có sự ủng hộ của nhân dân. Nhân dân phải thực sự công nhận và lưu giữ thành quả của người nghệ sĩ đó sáng tạo ra thì nó mới trường tồn với thời gian. 2.2. Giải mã hành động kịch Theo Arixtốt: "Hành động là đặc trưng của vở kịch". Hành động kịch là phương tiện cụ thể hóa xung đột kịch, nó là yếu tố duy trì sự phát triển của tác phẩm. Hành động kịch trong vở "Vũ Như Tô" được sắp xếp theo một trình tự logic hợp lí, hành động trước là nguyên nhân dẫn đến hành động sau. Có thể thấy ở những lớp đầu tiên của hồi thứ nhất, Vũ Như Tô vì hành động không đồng ý xây Cửu Trùng Đài, dẫn cả nhà chạy trốn khi vua triệu gọi mà dẫn đến kết quả bị vây bắt và gông kìm đeo cổ, vì hành động phản đối và xem thường nhà vua mà hậu quả là gần bị chém đầu, chu di cửu tộc. Vì trân quý tài năng của Vũ Như Tô, Đan Thiềm đã khuyên ông giúp vua xây dựng Cửu Trùng Đài để giữ mạng, an toàn cho gia đình và thực hiện ước mơ và tài năng của mình. Vũ Như Tô quyết định lựa chọn xây Cửu Trùng Đài vì thấy đó chính là cơ hội có thể thi thố tài năng và thực hiện hoài bão. Điều này đã dẫn đến kết quả hàng trăm người tử mạng, cuộc sống nhân dân đã khổ càng khổ khiến họ căm phẫn. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự truy đuổi của quân Trịnh Duy Sản. Có thể thấy, không có một yếu tố khách quan nào chi phối, quyết định hành động của nhân vật. Cái 10
- Lưu Thị Minh Huệ kết mà nhân vật Vũ Như Tô gặp phải là hoàn toàn do ông đã lựa chọn. Ông cũng có thể thoát chết nếu ông nghe lời Đan Thiềm bỏ trốn, nhưng ông đã lựa chọn ở lại sống chết cùng Cửu Trùng Đài: "Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây, thì tôi chạy đi đâu?" bởi vì cái mộng, cái ước mơ của người nghệ sĩ trong ông "ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công". Hơn nữa, hành động kịch giúp thúc đẩy mâu thuẫn kịch và thể hiện tính cách, tâm trạng, phẩm chất của nhân vật một cách rõ ràng, cụ thể. Hành động không chấp thuận làm Cửu Trùng Đài lúc đầu, "đem vợ con đi trốn", nói Lê Tương Dực là tên cua hôn quân, bạo chúa, nói Đan Thiềm là "tuồng ăn chơi". Những hành động này thể hiện Vũ Như Tô là một người cương trực, luôn mong muốn mang nghệ thuật để phục vụ những điều chân chính. Ông quyết định nghe lời khuyên của Đan Thiềm xây dựng Cửu Trùng Đài. Nó thể hiện được niềm đam mê lớn lao với nghệ thuật và mong muốn cống hiến cho nghệ thuật của Vũ Như Tô. Hành động đến tìm Vũ Như Tô của Đan Thiềm đã giải quyết xung đột trong nội tâm của Vũ Như Tô. Nó chấm dứt xung đột bên trong,, xung đột nội tâm đầu tiên của Vũ Như Tô, nhưng nó lại mở ra một xung đột mới. Khi gặp vua để đưa yêu sách, ông xin cho anh em thợ của mình được coi trọng cho thấy ông là người có tình nghĩa, trọng hữu, trọng tài. Mục đích những hành động ấy của ông là xây dựng cho đất nước một tòa kiến trúc nguy nga, tráng lệ. Những hành động trên đã góp phần thúc đẩy xung đột truyện, khiến mâu thuẫn giữa nhân dân và hôn quân ngày càng gay gắt, dân đen ngày càng căm ghét quan lại, vua chúa và Vũ Như Tô. Khi ấy, vì hoài bão của mình mà Vũ Như Tô có hành động bỏ bê vợ con, không màng mạng sống thợ thuyền, khiến con vắng cha, vợ thiếu chồng, hàng trăm người chết, cuộc sống nhân dân lầm than. Cuối cùng Vũ Như Tô cũng nhận kết cục là cái chết. Những hành động kịch của Vũ Như Tô thể hiện được ông là người có nhân cách, hoài bão nhưng lại bị chính những ước mơ ấy của mình đẩy vào mộng ảo, dẫn đến bi kịch cho chính mình. Có thể thấy, hành động kịch là một yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên thành công của vở kịch. Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công đặc điểm, tính cách của nhân vật, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của xung đột kịch. 2.3. Giải mã ngôn ngữ kịch Có thể nói, ngôn ngữ kịch là một trong những phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch. Qua đó nhân vật kịch được hiện lên một cách rõ nét, sinh động về đặc điểm, tính cách, phẩm chất. Trước hết, ngôn ngữ kịch trong vở "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng bao gồm các dạng ngôn ngữ: ngôn ngữ chú thích của tác giả, ngôn ngữ độc thoại và đối thoại của nhân vật. Qua các dạng ngôn ngữ kịch này, tác giả đã thể hiện được tâm trạng, tính cách nhân vật 11
- Lưu Thị Minh Huệ một cách cụ thể. Ở lớp III, hồi thứ nhất có đoạn Lê An tâu với vua Lê Tương Dực: "Thần đã dỗ dành, dọa nạt nhưng y vẫn chấp nê, y còn nói... [...] còn Hoàng thượng, là... hôn quân, bạo chúa, xin Hoàng thượng tha chết cho hạ thần (người run bắn lên)". Ngôn ngữ đối thoại của Lê An đối với Lê Tương Dực luôn dè chừng, lo lắng, sợ hãi. Có thể thấy rất rõ điều này qua cách nói thận trọng "y còn nói...", "là... hôn quân, bạo chúa", đến mỗi chỗ nói không tốt về vua ông lại ngập ngừng, không dám lên tiếng. Hay qua câu "xin Hoàng thượng tha chết cho hạ thần", dù không phải lời mình nói nhưng Lê An vẫn luôn sợ sệt. Điều này còn được thể hiện rõ nét hơn qua ngôn ngữ giải thích của tác giả "người run bắn lên", chỉ bốn từ nhưng đã đặc tả được nét khúm núm, sợ sệt của Lê An trước Lê Tương Dực. Hay Đông các đại học sĩ Nguyễn Vũ được khắc họa qua lời độc thoại: "Can với gián, hơi đâu nhận lấy việc khó vào thân, chả thấy đâu mình hãy chết trước đã. Sớ với tấu" ở lớp III, hồi thứ hai. Có thể thấy ông là người không giữ chữ tín, tâm địa trước sau không đồng nhất. Khi trước thì hứa với Trịnh Duy Sản sẽ trình vua về việc bãi Cửu Trùng Đài, lúc sau đã xé sớ và than vãn, mặc những gì đã hứa. Dù ở dạng nào, ngôn ngữ kịch cũng là phương tiện hữu hiệu trong việc khắc họa tính cách, tâm trạng của nhân vật. Ngoài ra, ngôn ngữ kịch của Nguyễn Huy Tưởng trong vở "Vũ Như Tô" là ngôn ngữ thể hiện được tính tổng hợp, có sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự. Điều này được thể hiện rất cụ thể qua lời độc thoại của Vũ Như Tô trong lớp III, hồi thứ ba: "Bao nhiêu người chết vì ta! Khốn nạn... Nhưng sao ta đã vội nản. Nhu nhược thì sao dựng nổi cái đài này? Thương nhau ta để trong lòng. Hồn các chú có khôn thiêng xin chứng giám cho anh, phù hộ cho anh dựng một kỳ công cho nước ta. Các chú chết cũng không phí. Anh sẽ xây trong đài này, một ngôi đền lộng lẫy để muôn đời khói hương các chú". Những dòng độc thoại đó đã tường thuật được cảnh thảm khốc lúc bấy giờ "bao nhiêu người chết" khi Vũ Như Tô "dựng một kì công cho nước". Không chỉ mang tính tự sự, lời thoại ấy còn mang đậm chất trữ tình khi nó bộc lộ được tâm trạng, tình cảm và suy tư của nhân vật. Vũ Như Tô thấy bản thân và thực tại "khốn nạn" vì số người chết quá lớn. Nhưng ông vẫn có thái độ kiên cường, không "vội nản". Ông cũng rất thương những người xâu số và thật lòng muốn mang tài năng cống hiến cho đất nước, mong muốn ước nguyện được hoàn thành và sẽ nhớ ơn những người đã khuất. Qua đó thể hiện được khao khát được thể hiện tài năng nghệ thuật, khao khát được cống hiến của Vũ Như Tô. Hơn nữa, ngôn ngữ trong vở kịch "Vũ Như Tô" còn mang đậm tính khẩu ngữ, gần gũi với nhân dân. Khi Vũ Như Tô bị quân sĩ bắt ở cảnh cuối, lớp VIII thể hiện rất rõ đặc điểm này. Các câu chữ rất ngắn gọn, dễ hiểu: "Vũ Như Tô ... Vài năm nữa, đài Cửu trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng lai... Quân sĩ Câm mồm! Vũ Như Tô ... xuất hiện... 12
- Lưu Thị Minh Huệ Quân sĩ Câm mồm! (Họ xúm vào vả miệng Vũ Như Tô)" Nhân vật có những lời thoại mà câu không đủ cấu trúc nhưng người đọc vẫn có thể hiểu được bởi nó được đặt trong hoạt cảnh kịch và Nguyễn Huy Tưởng sử dụng những từ ngữ bình dân, lối nói quen thuộc mang tính khẩu ngữ trong đời sống hằng ngày như: "Câm mồm!". Ngôn ngữ kịch quen thuộc như vậy giúp tác phẩm đến gần với người dân hơn, thể hiện được nội dung, tư tưởng của vở kịch một cách cụ thể, sinh động và gần gũi hơn. Mặt khác, ngôn ngữ kịch trong vở "Vũ Như Tô" còn mang tính hành động. Trong vở kịch, những lời thoại của nhân vật thường mang nhiều sắc thái (cầu xin từ chối, đe dọa coi thường, ...) với vẻ biện bác. Ở vở kịch "Vũ Như Tô" hầu hết các màn đối thoại đều thể hiện rõ điều này. Có thể lấy ví dụ ở lớp VIII, hồi thứ ba có đoạn đối thoại giữa vua Lê Tương Dực và Trịnh Duy Sản: "Lê Tương Dực Trẫm đã phó mặc việc lớn việc nhỏ cho triều đình, ngươi chắc cũng đã biết. Trẫm còn bận việc Cửu Trùng Đài... Trịnh Duy Sản Hoàng thượng làm vua một nước, phải để ý đến mọi việc, phó thác làm sao cho triều đình được. Hoàng thượng không nên quá tin ở các quan. Họ nói rằng thiên hạ thái bình, thực ra phải nói: thiên hạ sắp loạn. Lê Tương Dực Vì cớ sao? Trịnh Duy Sản Hoàng thượng nên bãi ngay việc xây Cửu Trùng Đài. Kim Phượng Bãi Cửu Trùng Đài! Trịnh Duy Sản Dâm dật là mầm bại vong, xa xỉ là nguồn loạn lạc. Hoàng thượng là bậc thánh minh, xin nghĩ lại. Lê Tương Dực Ngươi hãy lui ra, trẫm không muốn nghe chuyện chướng tai nữa, lui ra. Trịnh Duy Sản, nói to Hạ thần chỉ lo cho cơ nghiệp nhà Lê, cho Hoàng thượng, nên mới nói thật. Loạn đến nơi rồi!" Trong đoạn trích trên khi vua Lê Tương Dực nói đã giao việc cho triều đình, Trịnh Duy Sản phản đối. Và vua cũng từ chối khi Trịnh Duy Sản cầu xin bãi bỏ việc xây Cửu Trùng Đài. Một người thuyết phục, một người phản đối. Lời nói của Trịnh Duy Sản bộc lộ sự mong muốn thức tỉnh nhà vua, sẵn sàng chịu tội vì lo nước loạn. Còn lời nói của Vua Lê Tương Dực thể hiện sự u mê trong trụy lạc, u mê vì thứ xa xỉ, sai lầm trong lối sống, nhận thức. Ngôn ngữ trong đoạn kịch còn góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa xung đột kịch. Cuộc đối thoại không đi đến kết quả mong đợi thể hiện sự phẫn uất của Trịnh Sản đối với vua Tương Dực, nó đã làm tăng thêm mối xung đột giữa quân bạo chúa và nhân dân. Ngôn ngữ đối thoại gay gắt càng làm tăng tính kịch tính của xung đột kịch. 2.4. Giải mã Nhân vật kịch 13
- Lưu Thị Minh Huệ Trong vở kịch "Vũ Như Tô", nhà soạn kịch nổi tiếng Nguyễn Huy Tưởng đã khắc họa thành công tính cách và diễn biến tâm trạng nhân vật Vũ Như Tô. Vũ Như Tô là một nhân vật lịch sử sống dưới triều đại vua Lê Tương Dực, ông là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của vở kịch. Vũ Như Tô là một người kiến trúc sư tài ba, có lí tưởng và nghệ thuật cao cả, ham mê cái đẹp, ông có khát khao sáng tạo cái đẹp. Ông được ví như một thiên tài "ngàn năm chưa dễ có một", "có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân". Ban đầu, khi nhà vua tìm kiếm những người thợ giỏi để giúp vua xây dựng Cửu Trùng Đài làm nơi hưởng lạc, ăn chơi của nhà vua và các cung tần, mĩ nữ. Ông đã đưa gia đình đi trốn. Một năm sau có người báo tin nên ông bị bắt và giải về triều đình, bị vua Lê Tương Dực dọa giết nếu như không nghe lời vua, Vũ Như Tô vẫn kiên quyết một mực từ chối, ông thà chết chứ nhất định không xây Cửu Trùng Đài. Cung nữ Đan Thiềm đã thuyết phục Vũ Như Tô hãy "chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực lợi dụng tiền bạc và quyền thế của hắn để xây dựng cho đất nước tòa lâu đài bền vững cho nhân dân nghìn năm sau còn hãnh diện". Trước những lời khuyên của cung nữ Đan Thiềm, Vũ Như Tô đã bị thuyết phục và đem hết tài năng của mình để xây dựng Cửu Trùng Đài. Ông vui mừng khi ước mơ của mình sắp thành hiện thực, Cửu Trùng Đài sẽ được dựng xây, con cháu đời đời sẽ nhớ tên ông và đứa con tinh thần ấy sẽ luôn bất tử. Ước mơ, hoài bão của ông thật đáng trân trọng, ông dồn hết tâm trí, sức lực và tài năng của mình, xây dựng một lâu đài nguy nga, tráng lệ để tô điểm cho đất Thăng Long và đó chính là món quà vĩ đại mà ông để lại cho hậu thế. Cửu Trùng Đài được xây dựng, nhà vua đã ra sức vơ vét của cải của nhân dân. Vũ Như Tô say sưa với mơ ước của mình mà quên mất rằng nhân dân đang lầm than, đói khổ, túng quẫn vì sưu cao, thuế nặng mà triều đình đưa ra. Nhiều người thợ giỏi bị bắt về để phục vụ cho việc xây thành, nhiều con dân bị hành hạ vì chống đối, biết bao người đã phải bỏ mạng vì công trình xây dựng Cửu Trùng Đài. Việc xây dựng gần hoàn thành thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị với tầng lớp nhân dân, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người lao động càng được đẩy lên cao. Cuộc bạo loạn xảy ra, ông vẫn nhất quyết không nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm bỏ trốn mà vẫn tin tưởng vào việc mình làm là chính nghĩa, không hại đến ai. Khi cận kề cái chết, ông vẫn nuôi hi vọng được tiếp tục xây dựng Cửu Trùng Đài. Và cuối cùng, khi nhìn thấy Cửu Trùng Đài – đứa con tinh thần của mình bị thiêu cháy thành tro bụi thì đối với ông, cuộc đời mình như chấm dứt, ông bình thản bước ra pháp trường. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là tội nhân, lại vừa là nạn nhân. Tội nhân vì ông đã thực thi chủ trương của vua Lê Tương Dực xây Cửu Trùng Đài và vô tình đã đẩy nhân dân rơi vào cảnh lầm than, cơ cực: mẹ mất con, vợ mất chồng, gia đình li tán,.. Còn nạn nhân là bởi mộng tưởng, ảo vọng của chính mình, ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường của cái đẹp mà quên mất rằng còn cái thiện. Ông là nạn nhân của mối mâu thuẫn chưa giải quyết được, đó là mâu thuẫn giữa lí tưởng nghệ thuật và hoàn cảnh thực tế. Khát vọng 14
- Lưu Thị Minh Huệ của Vũ Như Tô là chính đáng, cao đẹp, xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ đa tài, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc nhưng khát vọng nghệ thuật ấy lại đặt nhầm chỗ, nhầm thời nên hậu quả mà ông phải gánh chịu bằng cả sinh mệnh của bản thân và cả công trình nghệ thuật mà ông coi như cả cuộc đời. Nếu Vũ Như Tô là người đam mê cái đẹp thì Đan Thiềm lại là một người đam mê cái tài và trân trọng cái tài. Đan Thiềm là một cung nữ sống trong triều đình Lê Tương Dực. Bà là một người phụ nữ có nhân cách cao cả và sáng suốt. Chính bà là người đã thuyết phục Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, nhưng cũng chính bà là người đã nhận ra sai lầm của mình. Trong đối thoại với Vũ Như Tô ở hồi cuối, Đan Thiềm là người hiểu thấu tình thế tuyệt vọng của Vũ Như Tô. Bà là người luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ Vũ Như Tô xây đài, bảo vệ đài. Nhưng khi biết đài không giữ được, Đan Thiềm hết lòng khuyên Vũ Như Tô chạy trốn. Vũ Như Tô vẫn kiên quyết không nghe theo, ông cho rằng điều mình làm là đúng. Đan Thiềm sáng suốt, hiểu thấu mọi sự việc và bà hiểu được sự mù quáng của dân chúng. Bà đau đớn nhận ra sự thất bại trong giấc mộng lớn Cửu Trùng Đài, đau đớn khi không cứu được Vũ Như Tô và phải vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trong máu và nước mắt. Không chỉ có Vũ Như Tô, Đan Thiềm mà vua Lê Tương Dực cũng là một người yêu cái đẹp. Ông cho xây dựng rất nhiều những đền thờ, tìm những người thợ giỏi, tay nghề cao về giúp nước. Nhưng lại quá thỏa mãn với những điều đã đạt được mà ăn chơi, dẫn đến cơ đồ đắm biển. Trong "Đại Việt Sử ký toàn thư" được đã có nhận định về Lê Tương Dực: "Vua buổi đầu lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, cũng đáng coi là có công nghiệp. Song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy". Trong vở kịch "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện chân thực hình ảnh ông "Vua Lợn" Lê Tương Dực sớm thỏa mãn với những thành tựu đã đạt được mà ăn chơi, hưởng lạc, bỏ bê việc nước, đam mê xây dựng những công trình to lớn phục vụ ham muốn của cá nhân mà làm tổn hao ngân khố, kiệt quệ sức dân dẫn đến cơ nghiệp sụp đổ. Ngoài ra tác giả còn khắc họa những nhân vật như: Trịnh Duy Sản, Nguyễn Vũ hay nhân vật Thị Nhiên (vợ Vũ Như Tô) để làm tô đậm thêm tính cách, diễn biến của nhân vật chính. Trịnh Duy Sản là một quận công thần nhà Lê, có công dẹp giặc. Khi vua Lê Tương Dực ăn chơi trụy lạc, làm nhiều việc thất đức, ông đã thẳng thắn can ngăn. Đối với việc xây Cửu Trùng Đài, ông là người biết nhìn xa trông rộng, thấy được sự nghèo đói, cùng cực của nhân dân và lường trước được hậu quả nên đã can ngăn nhà vua nhưng Lê Tương Dực đã một mực không nghe. Điều đó cho thấy ông là một bề tôi trung thành. Cuối cùng vì lợi ích của Triều Lê và xã tắc, chính ông là người đã giết chết vua Lê Tương Dực. Còn Thị Nhiên (vợ Vũ Như Tô) là một người vợ hết lòng vì chồng, vì con. Bà đã theo ông lên Triều đình khi ông bị vua Lê Tương Dực bắt trói. Khi Vũ Như Tô đã chấp nhận xây Cửu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực, chồng được thoát khỏi tội chết, bà xin về quê chăm sóc con cái. Điều đó đã cho thấy bà là một 15
- Lưu Thị Minh Huệ người phụ nữ đảm đang, tháo vát, tảo tần hết lòng vì chồng vì con. Bà chỉ mong Cửu Trùng Đài dựng xong, gia đình đoàn tụ. Nhưng mong ước đó mãi mãi không thành hiện thực. Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Vũ Như Tô chết đó chính là bi kịch đời bà. 2.5. Giải mã không gian, thời gian kịch Cả không gian rộng và không gian hẹp trong vở kịch đều có thật trong lịch sử. Không gian rộng của kịch "Vũ Như Tô" chính là thời đại của vua Lê Tương Dực (1495 1516), vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ. Đây là thời kì nhân dân Đại Việt phải chịu đựng rất nhiều lầm than, khổ cực do nhà vua bỏ bê triều chính; hạn hán, mất mùa liên miên; nạn đói và ách đàn áp tàn bạo khiến các cuộc bạo loạn nổ ra khắp nơi: không gian bạo lực kinh hoàng. Lê Tương Dực sau này đã lệnh cho Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài một công trình hoàng tráng, tầm cỡ, tiêu tốn vô khối nhân lực, của cải quốc gia. Không gian hẹp cũng chính là không gian được nhà văn áp dụng trong vở kịch cho phù hợp với loại hình sân khấu vốn được trình diễn ở nơi bị hạn chế nhiều về mặt diện tích. Đó là Hoàng thành Thăng Long, nơi cung điện của nhà vua và Cửu Trùng Đài đang còn dang dở bên cạnh Hồ Tây,… Dường như khi mọi chuyện đều xảy ra ở một không gian bó buộc, với những bức tường kiên cố trốn kinh thành, phần nào đó sẽ thể hiện được sự mất tự do, o bế trong việc sáng tác của người nghệ sĩ Vũ Như Tô. Vở kịch "Vũ Như Tô" lấy bối cảnh dưới thời vua Tương Dực, trong khoảng thời gian Cửu Trùng Đài đang được xây dựng, tức là trong vòng hai năm (1516 1517), nhưng đây là thời gian thực tế. Khi đưa vào tác phẩm kịch của mình, Nguyễn Huy Tưởng không thể áp dụng hoàn toàn thời gian tuyến tính để lần lượt đưa ra các sự việc theo trình tự được. Trong khoảng 3 đến 5 giờ đồng hồ, nhà văn phải chọn lọc, cô đọng các chi tiết quan trọng nhất, đặc sắc nhất để giúp khán giả dễ dàng theo dõi và nhận ra đâu là những cao trào trong tác phẩm. Ngoài ra cũng có thể nhận định đây là một vở kịch đặc sắc mang những giá trị vượt thời gian. 2.6. Quan niệm về con người của Nguyễn Huy Tưởng thông qua vở kịch "Vũ Như Tô" Vở kịch "Vũ Như Tô" đã bộc lộ rất rõ ràng quan niệm về con người của Nguyễn Huy Tưởng trong cuộc sống nói chung và trong sự nghiệp sáng tác nghệ thuật của người nghệ sĩ nói riêng. Ở "Vũ Như Tô" người đọc không chỉ đơn thuần thấy hiện lên một nhân vật lịch sử được khắc họa một cách tài hoa, thâm thuý thông qua những mâu thuẫn, xung đột kịch mà còn cảm nhận được thông điệp sâu sắc của Nguyễn Huy Tưởng muốn gửi gắm: số phận, bi kịch của người nghệ sĩ bất phùng thời; là những mâu thuẫn giữa khát khao sáng tạo, cống hiến với hiện thực cuộc sống khốn cùng của nhân dân; một bên là trách nhiệm người công dân với một bên là sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của người nghệ sĩ,… Đọng lại sau cùng vẫn là một tấn bi kịch xảy đến với người nghệ sĩ đa tài khi đã để 16
- Lưu Thị Minh Huệ nghệ thuật xa rời thực tế, thoát li thực tại, vô tình gây nên thảm cảnh lầm than, ai oán cho dân chúng. Vấn đề muôn thuở mà Nguyễn Huy Tưởng muốn đề cập tới trong "Vũ Như Tô" là vấn đề tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, thời đại nào cũng không hề thay đổi. Ông trân trọng ước mơ của kẻ sĩ, muốn người tài được trọng dụng, họ cần được tạo điều kiện để thi thố tài năng, thỏa niềm đam mê sáng tác, nuôi dưỡng những đứa con tinh thần. Nguyễn Huy Tưởng muốn nâng tầm những người nghệ sĩ chân chính, luôn sống và cống hiến hết mình với đam mê cháy bỏng, sẵn sàng hy sinh bản thân dẫu vất vả, cực nhọc mấy cũng chỉ cần được thỏa trí sáng tạo làm đẹp cho đời,… Nhưng có một điều bất di bất dịch mà người nghệ sĩ nào cũng cần nhớ đó chính là nghệ thuật được xây dựng trên nền móng của hiện thực, bắt nguồn từ những điều giản đơn, gần gũi nhất trong cuộc sống và nghệ thuật phải quay lại phục vụ con người chứ không thể vì chìm đắm trong đó mà dửng dưng với nỗi đau của con người, bất chấp tất cả cho lí tưởng thẩm mỹ cá nhân bởi “nghệ thuật vị nhân sinh”. Không chỉ người sáng tạo mà người hâm mộ cái đẹp cũng cần rút ra cho mình những suy nghĩ, những kinh nghiệm riêng. Đan Thiềm không sai khi có “căn bệnh” yêu và đam mê cái đẹp; trân trọng kẻ sĩ Vũ Như Tô với tài năng xuất chúng; cảm thông với nỗi đau và bi kịch của người nghệ sĩ vì bị o bế, đè nén không được thỏa trí sáng tạo,… nhưng tình yêu nào cũng khó tránh khỏi sự mù quáng, đôi khi vì quá say sưa với niềm đam mê mà con người khó lòng phân định được điều mình đang làm có thực sự hướng tới những giá trị tốt đẹp đích thực hay không. Với Nguyễn Huy Tưởng, dù là phê phán hay ngợi ca con người thì cũng đều xuất phát từ giá trị nhân bản, từ truyền thống văn hoá tốt đẹp ngàn đời của cha ông. Con người chân chính, đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn người Việt trong sáng tác của nhà văn như tấm gương sáng phản chiếu, soi rọi mỗi chúng ta và hướng độc giả tới gần hơn những giá trị chân thiện mĩ. KẾT LUẬN Giải mã văn bản kịch đi từ việc giải mã các yếu tố: xung đột kịch, hành động kịch, ngôn ngữ, nhân vật, không gian, thời gian kịch,… Thông qua đó, người tiếp nhận khám phá ra được ý nghĩa, giá trị nhân sinh của vở kịch, phát hiện được quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Huy Tưởng. Giải mã một văn bản không phải là quá trình đơn giản. Nó không phải đơn giản là đi phân tích các đặc trưng thể loại của văn bản đó. Quan trọng hơn, giải mã văn bản là cách người tiếp nhận đi khám phá giá trị, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong văn bản ấy. Đó mới là tiếp nhận văn bản văn học một cách chân chính. Hay nói cách khác, đích cuối cùng của quá trình tiếp nhận văn học chính là khám phá được những tư tưởng nghệ thuật cao cả, những quan niệm chân chính và những bài học nhân sinh sâu sắc giúp cho người giải mã, tiếp nhận văn bản ấy thay đổi ngày một trở nên tích cực hơn. 17
- Lưu Thị Minh Huệ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Ngữ văn 12 (tập 2), Nxb Giáo dục Việt Nam. 2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Phương Lựu chủ biên (1985), Lý luận văn học, NXB Giáo dục 4. https://thaygiaolang.forumvi.com/t39topic 18
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn