LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm

phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay,

lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế - xã hội ở các

quốc gia. Với tư cách là tổng hòa của các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô, lạm phát đã

có những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ

này hay mức độ khác... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ,

doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia và tác

động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị

mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát trên thế

giới luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.

Trong những năm gần đây, một số ngân hàng trung ương các nước đã quyết

định chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hóa mục tiêu lạm

phát. Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách

mục tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn,

kinh tế tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.

Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp

theo từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh

bạch công khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công

chúng hiểu được chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện

được môi trường tăng trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.

Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử

dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định,

chính sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP

danh nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hóa mục tiêu

lạm phát.

Việc thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ

điều tiết nền kinh tế sao cho lạm phát chỉ ở mức độ nào đấy và từ đó sẽ lan tỏa đến mục

tiêu khác như tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm

phát là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ.

Từ sau khi nền kinh tế Lào chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ

mô của Nhà nước mà hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu "đột

phá khẩu", thì hệ thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi

mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế, kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ lệ lạm

phát là 90%, năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm 2004: 10,46% và

đến tháng 6/2005 là 5,35%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm

chế, kiểm soát lạm phát còn một số hạn chế về mặt chủ quan và mặt khách quan. Hiện

tượng lạm phát diễn ra rất phức tạp trong năm 2002, tăng lên 10,63% và đến năm 2003

lại tăng lên 15,49% và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt

trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.

Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được các

nhà quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm

thông qua thực tế của các nước đang áp dụng chính sách này.

ở CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ và phức tạp, chính vì vậy

tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi

chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào" làm luận văn thạc sĩ kinh tế,

chuyên ngành: Quản lý kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh

hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên

ngoài. Đến nay, trên thế giới đã rất nhiều lý thuyết, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo và

rất nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã nghiên cứu vấn đề này.

Một số công trình đã nghiên cứu về chính sách mục tiêu lạm phát đối với các

quốc gia: Kinh tế học, sách tham khảo tập II của Paul a Samuelson Wiliamd. Nordhalls;

Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam (sách tham khảo) của PTS.

Nguyễn Minh Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lạm phát hành trình và giải

pháp chống lạm phát ở Việt Nam của Lê Quốc Lý, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2005; Lạm

phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam của Phi Trọng Hiển, Tạp

chí Nghiên cứu kinh tế, số 323/2005; Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách

tiếp cận trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam của Đỗ Thị Đức Minh,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội, 2005...

Với nội dung của các công trình nghiên cứu nói trên thì lĩnh vực nghiên cứu và đối

tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bức xúc đối với CHDCND Lào hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Dựa trên lý thuyết chung của các nhà kinh tế học, đặc biệt trong lĩnh vực tài

chính ngân hàng và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề

kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, đối với

CHDCND Lào để làm rõ một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi

chính sách tiền tệ trong thời gian qua, rút ra được những nguyên nhân cơ bản của lạm

phát, có được những bài học kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhất

trong việc thực thi chính sách tiền tệ tại CHDCND Lào góp phần ổn định chính sách

tiền tệ và phát triển nền kinh tế của đất nước một cách bền vững.

3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ các lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ.

- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách này ở một số nước để rút ra bài học

cho CHDCND Lào.

- Phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của CHDCND Lào, từng giai

đoạn, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Những vấn đề chung về CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tình hình thực

hiện của mục tiêu này ở một số nước và thực trạng điều hành CSTT của CHDCND Lào

từ 1994 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và dựa

trên đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phương pháp luận. Các phương

pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu

tả, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...

6. Đóng góp của luận văn

- Phân tích thực trạng thực thi CSTT nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong

năm qua, rút ra được thành công và hạn chế.

- Đưa ra các giải pháp chủ yếu, kiến nghị cụ thể có tính xây dựng nhằm năng cao

hiệu quả cao trong việc điều hành CSTT nói chung, mục tiêu kiểm soát lạm phát nói

riêng ở CHDCND Lào.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

Chương 1

Lạm Phát và chính sách tiền tệ

với mục tiêu kiểm soát lạm phát

1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát

Lạm phát là một hiện tượng kinh tế đi liền với nền kinh tế thị trường. Có những

nhà kinh tế đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói chung, chưa có sự

thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối

với nền kinh tế các nước phát triển và đang phát triển, các nước từ lâu đã theo mô hình

của nền kinh tế thị trường và cả các nước đang có quá trình chuyển đổi. Không chỉ dừng

lại ở việc không thống nhất được với nhau một định nghĩa đúng về lạm phát mà còn

không thống nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại.

Chính vì thế, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn để từ đó

có những chính sách và giải pháp phù hợp ứng với những đổi thay đã và đang diễn ra

trong đời sống kinh tế

1.1.1. Khái niệm lạm phát

Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các

nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về lạm

phát. Karl Marx cho rằng: "Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết" [3, tr.

365]. Vào thập niên 1960, Milton Friedman khẳng định lại rằng: "Lạm phát bao giờ và ở

đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ" [15, tr. 800]. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) - một

trường phái lớn về khoa kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của

xã hội và việc cung ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của

nền kinh tế, và việc cung tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm

quốc dân danh nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn.

Thực ra, không nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung

ứng quá mức đối với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát diễn ra lại bắt nguồn từ giá hoặc

xuất phát từ sự suy giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fischer

cho rằng: "Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời

gian nhất định" [47, tr. 587-588].

Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là, từ nguyên nhân; hai là, từ những ảnh

hưởng của nó.

Theo cách tiếp cận thứ nhất, "lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng"

hoặc "lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động". Các

định nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của

lạm phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của nó.

Theo cách tiếp cận thứ hai, lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy nhiên,

sự tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, còn bản chất của nó

được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm thời?

Tóm lại, lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả

được đo bằng chỉ số giá của nhóm hàng hóa và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hóa). Sự gia

tăng liên tục của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác

có giá trị cố định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc

chắn trong môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô.

1.1.2. Phân loại lạm phát

Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:

- Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát

tính theo năm, trong đó có: (1) Lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải. Loại

lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ 1 năm và nền kinh

tế chấp nhận được với mức lạm phát này. (2) Lạm phát hai con số thể hiện khi tỷ lệ tăng

giá đã tăng đến hai con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm phát này (> 10% mỗi

năm), tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế không lớn. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở

mức hai con số cao lạm phát này gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. (3) Lạm

phát phi mã và siêu lạm phát là loại lạm phát ba con số trở lên với tốc độ nhanh. Tác

động tiêu cực đến đời sống và tính ổn định của nền kinh tế.

- Phân loại theo định tính: (1) Lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng

ở đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra. (2)

Lạm phát thuần túy là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa

sản xuất đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này

nhu cầu cần tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng tiền thực tế.

(3) Lạm phát bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra những cú sốc

nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền. (4) Lạm phát dự đoán

trước là việc người ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các

nguyên nhân của nó đã lộ diện.

Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát ngầm,

lạm phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát

quốc gia và thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với xung đột chiến

tranh và lạm phát hiện đại gắn liền với hòa bình.

1.1.3. Đo lường lạm phát

Thông thường, lạm phát được tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá

cả một "rổ" hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tùy thuộc đặc điểm và cách thức

riêng của mỗi nước cụ thể.

Để đo lường lạm phát, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác

nhau t0 và t1. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hóa nên trong khoảng

thời gian t0 - t1 mỗi loại hàng hóa có mức tăng giá (Pt1 - Pt0) khác nhau. Do vậy, để tính

được tỷ lệ lạm phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân của

cả nước làm chuẩn, có ba loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là:

Giá cả hàng tiêu dùng (CPI - Consumer price index): Chỉ số CPI được sử dụng

rộng rãi nhất. CPI tính chi phí của một rổ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường

các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư, y

tế.

Giá cả hàng sản xuất bình quân (PPI - Producer price index): Đây là chỉ số giá

bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn

định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.

Giá cả bán lẻ bình quân (RPI - Retail price index): Cuối cùng, lạm phát thường

được đo bằng chỉ số (%), tức là tỷ lệ lạm phát (%) giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng

mức tăng giá cả hàng hóa bình quân giữa hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân

với tỷ lệ %:

Pt 0

Tỷ lệ lạm phát (t0 và t1)

Pt  1 Pt 0

1.1.4. Nguyên nhân của lạm phát

Lạm phát là kết quả của tổng hòa nhiều nguyên nhân kinh tế - xã hội; mỗi loại

lạm phát có những nguyên nhân đặc trưng riêng của nó tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế -

xã hội và cách quản lý kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau

đến đâu đều có thể quy tụ được những nguyên nhân của lạm phát:

* Cung tiền tệ và lạm phát:

Theo trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng: "Lạm phát bao giờ và ở đâu

cũng là một hiện tượng tiền tệ". Theo quan điểm của trường phái này, khi cung tiền

tệ tăng lên, kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.

Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD- AS để giải thích quan điểm của trường

AS3

phái tiền tệ.

3

AS2

P

AS1

2 '

2

P

1

AD3

P

1

AD2

AD1

P3

Hình 1.1: Mô hình AD, AS để giải thích quan điểm trường phái tiền tệ

Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng tại mức tiềm năng và giá cả tại

P1- giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền tăng

đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2.

Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động sản lượng có thể tăng cao

hơn mức tiềm năng, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ

làm cho tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào trong

và sự dịch chuyển ấy sẽ dừng khi nào đạt đến AS2, sản lượng quay trở lại mức tiềm

năng của đường tổng cung dài hạn. Tại thời điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu

cung tiền tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo thì nền kinh tế lại chuyển động và lạm

phát xuất hiện. Tóm lại, trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng

cao của cung tiền tệ thúc đẩy.

Theo trường phái của Keynes, việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm

thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính

sách tài khóa lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường

hợp này chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phía Keynes về tác động của những cú

sốc tiêu cực lên tổng cung cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không

tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở

lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng

nhất thời.

Với những phân tích như vậy, quan điểm của phía Keynes và phía tiền tệ tương

đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao chỉ xảy ra với một tỷ lệ tăng trưởng

tiền tệ cao.

* Công ăn việc làm cao và lạm phát

Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi

cũng thường gây nên lạm phát đó là tạo việc làm cho người lao động. Trong đó có hai

loại: lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo, được các nhà kinh tế học kết luận là kết

quả của chính sách này.

- Lạm phát do chi phí đẩy: Ngay cả khi sản lượng chưa đạt được đến tiềm năng

nhưng vẫn có khả năng xảy ra lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm

phát này được gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng

thêm thất nghiệp. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ

bản(xăng, dầu, điện....) là nguyên nhân chủ yếu khiến đường AS dịch chuyển lên trên.

Tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.

- Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về

cung-cầu hàng hóa dịch vụ trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung

hàng hóa hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của

sản xuất. Kết quả là trên thị trường hàng hóa khan hiếm tương đối so với tiền, đồng thời

do cả hai nhóm nguyên nhân hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng

suất lao động thấp, năng lực sản xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng

trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua

các van: Chi ngân sách quá lớn so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín

dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường

vốn vừa thiếu, vừa không hoàn hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành

những "hợp lực" kích cầu lên cao hơn so với cung...

* Lạm phát theo tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu. Tỷ giá

giữa tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên (tiền trong nước mất giá) thì hàng hóa càng

lên giá. Và đến lượt mình, giá hàng hóa kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra tình trạng lạm

phát. suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy về sự gia tăng của

cung ứng tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều đồng thuận với nhau rằng có yếu tố tâm

lý trong khuynh hướng kéo hàng hóa lên theo tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và

khuynh hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất nhập khẩu [26, tr. 59].

* Thâm hụt ngân sách và lạm phát

Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng

tiền tệ và gây ra lạm phát cao.

Khi nhu cầu tiền của Chính phủ cho chi tiêu bị thiếu hụt, Chính phủ chủ trương

phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí bị thiếu hụt. Khi vốn đầu

tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền, kể cả việc

tăng thuế, thì nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào thế mất cân đối, vượt quá sản lượng tiềm

năng của nó. Khi tổng cầu của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế,

cầu tiền vượt quá lượng cung hàng hóa dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hóa tăng lên

nhanh chóng.

Hàng hóa bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Như vậy, bản chất của lạm

phát đó do nguyên nhân cầu là do chi tiêu quá nhiều, trong lúc lượng cung hàng hóa bị

hạn chế.

Trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ

là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.

1.1.5. Các tác động của lạm phát

Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản

lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác

động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực.

* Về mặt tích cực:

Với tốc độ lạm phát vừa phải (thường là từ 2% đến dưới 5 %/năm ở những

nước phát triển và dưới 10%/năm ở những nước kém phát triển), với việc chỉ số hóa lạm

phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm phát có thể đem lại một

số lợi ích, lạm phát như dầu mỡ "bôi trơn" nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể

thông qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm, có tác

dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp, kích thích tăng

trưởng kinh tế. Ngoài ra, lạm phát cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các

công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng

và tài trợ lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định

hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.

* Về mặt tiêu cực:

- Lạm phát làm thay đổi lãi suất nhưng lãi suất là một chỉ số làm thay đổi kinh

tế vĩ mô cơ bản tác động đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư. Do vậy, thông qua lãi suất,

lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế. Ví dụ: Đối với ngành ngân

hàng, để hoạt động vững vàng thì lãi suất thực tế phải ổn định mà lãi suất thực tế = lãi

suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát. Để lãi suất thực tế không đổi, thì lãi suất danh nghĩa

phải tăng cùng tỷ lệ lạm phát. Khi hệ thống ngân hàng và tài chính tăng lãi suất danh

nghĩa thì nền kinh tế sẽ gặp khó khăn, thất nghiệp gia tăng, nhu cầu đầu tư giảm v.v...

- Lạm phát làm giảm thu nhập thực tế: Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa

không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế.

- Lạm phát làm cho giá trị của tiền tệ không còn ổn định và không giữ được

chức năng thước đo giá trị. Xã hội gặp khó khăn trong việc tính toán tính hiệu quả, điều

chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.

- Lạm phát khiến cho việc phân phối thu nhập không bình đẳng: Trong quan hệ

kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay chịu

thiệt và người đi vay sẽ được lợi, đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng

giữa người đi vay và người cho vay. Ngoài ra, một số người nắm giữ các hàng hóa có

giá cả tăng đột biến sẽ giàu lên, còn những người có hàng hóa mà giá không tăng hoặc

tăng ít hoặc người giữ tiền sẽ bị nghèo đi.

- Lạm phát tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước

ngoài tính bằng ngoại tệ của cả các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường

kéo theo việc điều chỉnh nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là các giải pháp

nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát (đồng thời, có trường hợp chính sự điều chỉnh

phá giá bản tệ là nguồn gốc trực tiếp làm gia tăng lạm phát do áp lực chi phí đẩy đối với

hàng hóa, vật tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội địa, sự tương tác qua lại

giữa chúng nếu vượt khả năng kiểm soát của Chính phủ, sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận:

phá giá - lạm phát - phá giá... tàn phá nền kinh tế và đời sống kinh tế - xã hội của quốc

gia).

- Lạm phát còn làm cho môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng

đầu tư nước ngoài vào chậm, thậm chí suy giảm, đi đôi với sự ra đi của dòng vốn trong

nước. Lạm phát kéo theo giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập

những hàng hóa, vật tư cần thiết. Lạm phát cao luôn gắn với thâm hụt tài chính và làm

thâm hụt đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.

1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát

ở bất cứ một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, để

đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô đều phải sử dụng các công cụ chính sách

kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối

ngoại và chính sách tiền tệ; thông qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này để tác

động đến các mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, dấu cách việc làm... Làm như vậy,

CSTT đóng vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính

sách kinh tế vĩ mô cũng như trong quá trình điều hành vĩ mô của Nhà nước.

Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó

NHTW, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối

lượng tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, nhằm đạt

được các mục tiêu về giá cả, công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ

nhất định.

Đối với những nước mà NHTW trực thuộc Chính phủ thì CSTT mà NHTW

thực hiện là CSTT quốc gia. Tùy vào tình hình kinh tế - xã hội trong khoảng thời gian

CSTT quốc gia được hoạch định theo chính sách tiền tệ mở rộng hay chính sách tiền tệ

thắt chặt.

1.2.1. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế nhưng

CSTT cũng có mục tiêu, có tính chất riêng khi hướng tới mục tiêu chung. Tùy từng

quốc gia và từng giai đoạn khác nhau, CSTT có thể có mục tiêu khác nhau. Mặc dù mục

tiêu cụ thể của CSTT của các nước có khác nhau nhưng cơ bản giống nhau ở chỗ đều

hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người

lao động.

1.2.1.1. Mục tiêu hoạt động

Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để sao cho khi sử dụng

các công cụ điều tiết sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Trong đó tiêu chuẩn được

lựa chọn phải đảm bảo: (1) Tính định lượng (thấy rõ được mức độ và tính nhạy cảm

trong tác động của môi trường hoạt động tới mục tiêu cuối cùng); (2) Tính nhạy cảm với

biến động của CSTT (mục tiêu hoạt động chịu ảnh hưởng đầu tiên về những thay đổi

trong CSTT và nó phản ánh lập tức kết quả mà thay đổi đó đem lại; (3) Có mối quan hệ

chặt chẽ và ổn định bởi mục tiêu trung gian được coi như mục tiêu của mục tiêu hoạt

động, vì thế mục tiêu hoạt động phải có ảnh hưởng nhanh nhạy và hiệu quả đến mục

tiêu trung gian.

Căn cứ vào tiêu chuẩn trên các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt

động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay.

1.2.1.2. Mục tiêu trung gian

Mục tiêu trung gian thực chất chỉ là phương tiện giúp cho NHTW đạt được các

mục tiêu cuối cùng.

Mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ (M1, M2, M3), lãi suất

thị trường ngắn hạn, trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng.Tuy nhiên, hiện nay

các nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hay lãi suất thị trường làm mục tiêu trung

gian của CSTT. Trong đó, tiêu chuẩn được lựa chọn làm mục tiêu trung gian phải đảm

bảo. (1) Có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng; bởi vì, các chỉ tiêu

này chỉ có ích khi nó phản ánh được tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục

tiêu cuối cùng. NHTW có thể dựa vào các dấu hiệu này để điều chỉnh hướng tác động

khi cần thiết. Hiển nhiên NHTW không thể đưa ra tỷ lệ tăng trưởng M2 nếu nó không

biết hiện M2 đang tăng trưởng với tốc độ nào. Mặt khác, tính chất này cũng chỉ cho

NHTW biết nên chọn chỉ tiêu cụ thể nào trong tổng lượng tiền cung ứng. (2) Có thể

kiểm soát được: Khi NHTW có kỹ năng kiểm soát mục tiêu trung gian nó có thể điều

chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của CSTT. (3) Có mối liên hệ chặt chẽ

với mục tiêu cuối cùng: Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian, khả

năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của NHTW sẽ trở nên vô

nghĩa nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và giá

cả.

Việc lựa chọn lãi suất hay lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian của

CSTT tùy thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu cầu

hàng hóa được phản ánh thông qua sự biến động tương đối của đường IS so với LM

trong mô hình IS-LM. Khi đường IS biến động mạnh hơn đường LM thì tổng lượng tiền

cung ứng thích hợp với vai trò này hơn và khi đường LM biến động mạnh hơn đường IS

thì việc lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thích hợp hơn.

Ngoài hai mục tiêu nói trên còn có một số các chỉ tiêu khác thể hiện vai trò mục

tiêu trung gian như tổng khối lượng tín dụng, tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của

các chỉ tiêu này là mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và

không rõ ràng. Vì thế, ít khi nó được sử dụng làm mục tiêu độc lập, mà thường có thể

được sử dụng cùng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất.

1.2.1.3. Mục tiêu cuối cùng

Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước: Sự

điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm đạt mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ; từ

đó góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm. Tùy thuộc vào điều kiện, tình hình kinh

tế ở mỗi nước trong từng thời kỳ mà NHTW đưa ra số lượng các mục tiêu khác nhau

cho CSTT.

+ ổn định sức mua tiền tệ: ổn định sức mua tiền tệ, thể hiện qua việc kiểm soát

lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái.

* ổn định giá trị đối nội của đồng tiền: Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là

căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hóa, nhất là đối với nền kinh tế thị trường, vì

vậy kiểm soát và duy trì một mức giá cả ổn định và lạm phát ở mức có thể chấp nhận

được là một mục tiêu được đặt ra của CSTT.

Khi lạm phát gia tăng sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế - xã

hội, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, ảnh hưởng đến phân phối lại, tác động tới tâm lý

đầu cơ cất trữ, bất động sản, vàng bạc, ngoại tệ, các tài sản có giá trị cao... gây ra tình

trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo; giảm sức mua thực tế của đồng tiền. Từ đó, đời sống

của người lao động sẽ khó khăn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống tài chính,

trong đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng.

* ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường

phát triển ở mức độ cao, một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không chỉ có các yếu

tố trong nước mà còn lệ thuộc vào xu thế phát triển của nền kinh tế quốc tế. Do vậy, xu

hướng phát triển nền kinh tế mở đã mang tính phổ biến trong thời đại ngày nay; khi đó

hệ thống tài chính tiền tệ của mỗi nước hội nhập vào tài chính quốc tế với tốc độ cao.

Tác động của hệ thống tài chính quốc gia vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để tác động

đến hoạt động của các nền kinh tế khác. Sự tác động này nhiều hay ít phụ thuộc vào nền

kinh tế nước đó "mở" nhiều hay ít. Một sự biến động của tỷ giá sẽ tác động đến hoạt

động kinh tế trong nước, thể hiện trực tiếp và mạnh mẽ ở hoạt động xuất khẩu.

Như vậy, việc ổn định tỷ giá hối đoái là một mục tiêu quan trọng của CSTT, vì

khi có thay đổi của tỷ giá hối đoái tùy theo mức độ, có thể làm gia tăng hay giảm lạm

phát của nền kinh tế nước đó.

Việc ổn định thị trường hối đoái có nghĩa là ổn định giá trị đồng tiền nội địa so

với các đồng ngoại tệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và cá nhân

trong hoạt động xuất nhập khẩu; tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước phát triển; thúc

đẩy quá trình hội nhập của nền kinh tế quốc tế của nước đó.

+ Góp phần tăng trưởng kinh tế: ở bất cứ quốc gia nào, phát triển đất nước đều

cần có một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Một trong những yếu tố quan

trọng đến tăng trưởng kinh tế là do thay đổi khối lượng tiền trong lưu thông vì:

* Khi khối lượng tiền tăng, lãi suất thường giảm xuống, do vậy kích thích đầu

tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng GDP. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm

tăng tổng cầu, sức mua hàng hóa trên thị trường tăng lên, hàng tồn đọng sẽ giảm đi, dẫn

đến các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là GDP tăng lên.

* Khi khối lượng tiền tệ giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng lên, vốn đầu tư

có "giá" cao hơn, đầu tư giảm xuống dẫn đến giảm GDP. Mặt khác, giảm khối lượng

tiền tệ, sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng lượng hàng hóa tồn đọng của

các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ hội mở rộng sản xuất, và khi đó

GDP giảm xuống.

Việc tăng giá hay giảm bớt khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân ở mỗi

thời kỳ, cần được sử dụng các công cụ CSTT phù hợp (hạn mức tín dụng, dự trữ bắt

buộc, lãi suất....) với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở vận dụng tối ưu

các qui luật phát triển kinh tế vào việc xây dựng các chính sách kinh tế; trong đó có

CSTT.

+ Góp phần tạo công ăn việc làm: CSTT phải xác lập mục tiêu: Tạo việc làm,

giảm thất nghiệp. Bởi vì, mọi của cải trong xã hội do lao động của con người tạo ra,

trong điều kiện sản xuất hàng hóa thì thất nghiệp tràn lan. Do vậy, CSTT phải quan tâm

đến khả năng tạo việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp. Tạo việc làm có ý nghĩa

rất quan trọng là do:

- Thất nghiệp gây ra nghèo khó cho người lao động, từ đó gây ra những tệ nạn

xã hội.

- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng

hiệu quả nguồn lực xã hội.

- Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên làm thay đổi cơ cấu NS và là một trong

những nguyên nhân gây thâm hụt NSNN.

* Mối quan hệ giữa các mục tiêu:

Trong dài hạn các mục tiêu CSTT có liên quan chặt chẽ với nhau hỗ trợ và thúc

đẩy lẫn nhau. Vì vậy, khi thực thi CSTT không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào,

không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy trong ngắn hạn

có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu.

- Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền

tệ thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu, dẫn đến tổng cầu

của nền kinh tế giảm xuống. Thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Mặt khác, việc duy trì

một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng

giá.

- Mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả còn thể hiện

thông qua sự phản ứng của NHTW đối với các cú sốc cung nhằm đảm bảo mức cầu tiền

thực tế, kết quả là giá cả tăng lên.

- Mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ giá;

Bằng việc hạ giá đồng bản tệ, các công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng quy mô

sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức giá chung.

Như vậy, việc duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ công ăn

việc làm, trong khi một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần giảm tỷ lệ lạm phát.

Thất nghiệp và tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài

hạn. Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, mối

quan hệ giữa sự tăng trưởng và ổn định giá cả lại tương đối phức tạp; chúng mâu thuẫn

nhau trong ngắn hạn nhưng lại bổ sung cho nhau trong dài hạn.

Như vậy, trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu trên.

Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của

chính sách tiền tệ, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ

yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú sốc

cung đối với sản lượng. NHTW theo đuổi một mục tiêu về dài hạn và đa mục tiêu trong

ngắn hạn.

+ Góp phần ổn định lãi suất: Là một mục tiêu cơ bản của CSTT, vì những biến

động của lãi suất sẽ làm cho kinh tế bấp bênh không ổn định. Lãi suất lên xuống bất

thường làm cho giá cả các loại hàng hóa cũng lên xuống bất thường. Thị trường tài

chính tiền tệ, thị trường hàng hóa và dịch vụ không ổn định và luôn biến động theo

chiều hướng không lường trước được, gây khó khăn cho việc lập các kế hoạch chi tiêu

và đầu tư trong tương lai của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Lãi suất cao có thể tương

ứng với một nền kinh tế đang tăng trưởng và phát triển mạnh nhưng không đồng nghĩa

với một nền kinh tế phát triển bền vững, đặc biệt khi lãi suất quá cao sẽ gây ra tình trạng

siêu lạm phát. Ngược lại, lãi suất quá thấp biểu hiện một nền kinh tế trì trệ, tốc độ tăng

trưởng kinh tế thậm chí ở mức âm, tương ứng với tình trạng giảm phát. Như vậy, hậu

quả của tình trạng lãi suất quá cao hay quá thấp, lên xuống thất thường là một nền kinh

tế bất ổn. Đồng thời những biến động về lãi suất sẽ gây mất lòng tin trong công chúng

về khả năng kiểm soát hữu hiệu những công cụ và khả năng đạt được mục tiêu CSTT

của Chính phủ và NHTW.

Trên đây là một số mục tiêu vĩ mô chung mà các quốc gia trên thế giới đang

theo đuổi, tuy nhiên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tùy thuộc vào

đặc điểm phát triển kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia.

1.2.2. Công cụ điều hành và sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ

Để đạt được các mục tiêu đã đề ra của CSTT, NHTW sử dụng một hệ thống

công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng bao gồm: tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,

nhiệm vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng... Việc sử dụng các

công cụ trên là tùy thuộc vào quan điểm, chính sách của từng quốc gia.

1.2.2.1. Công cụ trực tiếp

Công cụ trực tiếp là công cụ tác động về mặt lượng và NHTW kiểm soát công

cụ này chủ yếu bằng biện pháp hành chính. Khi NHTW sử dụng các công cụ trực tiếp

nó có tác động đến mục tiêu trung gian và từ mục tiêu trung gian tác động đến tổng cầu.

- Công cụ hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW

bắt buộc NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.

Hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp nền kinh tế có lạm

phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Đây là

biện pháp nhằm khống chế dư nợ của các NHTM mà từ đó tác động đến lượng tiền

cung ứng trong nền kinh tế thông qua việc tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ. Khi

NHTW tăng hạn mức tín dụng sẽ dẫn đến khả năng tăng cung ứng vốn tín dụng cho nền

kinh tế, tăng khả năng tạo tiền, tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức tín

dụng đưa ra bao giờ cũng phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế mới có hiệu quả.

Tuy nhiên hạn mức tín dụng cũng có nhiều hạn chế như: Mang tính hành chính

quá cao, không chính xác và không có hiệu quả khi hạn mức tín dụng được quy định

không phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Ngoài ra, công cụ này tỏ ra kém linh hoạt

và không thể thay đổi thường xuyên. Những hạn chế này chủ yếu được xuất phát từ sự

thiếu căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và lỏng lẻo của các chế tài trong việc

quản lý nó.

- Công cụ kiểm soát lãi suất: NHTW trực tiếp ấn định trần lãi suất cho vay để

khống chế mức lãi suất của các NHTM áp dụng cho vay đối với nền kinh tế. NHTM

tăng giảm lãi suất cho vay theo trần lãi suất của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu

vốn của nền kinh tế. Công cụ này có đặc điểm lớn nhất là không phụ thuộc với cơ chế

thị trường vì nó hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM, hạn chế sự linh hoạt của thị

trường tiền tệ, giảm tính chủ động trong kinh doanh của hệ thống NHTM. Nếu NHTW

ấn định mức lãi suất quá thấp làm cho nhu cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, gây khó

khăn về nguồn vốn cho NHTM không kịp điều chỉnh kịp thời bỏ lỡ cơ hội đầu tư của

mình.

- Công cụ tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền. Khi

trở thành công cụ CSTT, NHTW sẽ trực tiếp can thiệp vào tỷ giá, điều chỉnh tỷ giá cho

những mục tiêu nhất định của NHTW trong từng thời kỳ: khuyến khích xuất khẩu; ổn định

giá trị đồng tiền... Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này đòi hỏi NHTW trong từng thời kỳ

phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng, do nó có ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế, ảnh

hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM và các TCTD, từ đó tác động lớn

đến nền kinh tế. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ, bởi lẽ tỷ

giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia,

đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là

công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.

1.2.2.2. Công cụ gián tiếp

Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, thông

qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối

lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:

- Công cụ tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp vốn tín dụng của NHTW

đối với ngân hàng thương mại khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại

một mặt, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng

thương mại, tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. Với công

cụ này, NHTW sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ

thuộc vào mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ, từ đó tác động tới lượng

tiền trong lưu thông. Khi NHTW thấy rằng, cần tăng thêm tiền cho lưu thông họ có thể

hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Khi đó, một mặt, khuyến khích các ngân hàng

thương mại đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác dung lượng tín dụng

được cấp vốn với các ngân hàng thương mại tăng lên.

Cơ chế ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng: Đối với công cụ này NHTW ấn định

hạn mức TCK, lãi suất TCK và các điều kiện TCK. Những thay đổi này ảnh hưởng đến

mục tiêu cuối cùng khi các NHTM có nhu cầu vay NHTW và ảnh hưởng qua hai con

đường: khối lượng (hạn mức) và giá(lãi suất TCK).

Công cụ gián tiếp có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung

gian. Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức độ phụ

thuộc về vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế, nó là công cụ kém chủ động. Để khắc

phục nhược điểm này người ta thường sử dụng kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc.

- Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì

trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. nó được xác định bằng một tỷ lệ

phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự

trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính

chất hoạt động của NHTM.

Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do

đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng như sau: tỷ lệ dự trữ bắt

buộc tăng lên sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM, giảm hệ số tạo tiền

và do đó khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng, giảm mức cung vốn

NHTW trên thị trường liên ngân hàng. Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên

những ảnh hưởng ngược lại.

Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là

sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân

hàng. Đây là công cụ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khối lượng tiền cung ứng. Chỉ cần 1%

thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày, mức dự trữ

sẽ là thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung

ứng. Điều này làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi

thường xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định cho hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho

sự điều chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay

đổi dự trữ bắt buộc (đặc biệt trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực

tiếp đến lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Vì thế, công cụ này thường được

sử dụng kết hợp với các công cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng các ngân

hàng khi cần thiết.

- Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua,

bán giấy tờ có giá ngắn hạn (tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, Chứng chỉ tiền gửi....)

trên thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ sở tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong hệ

thống NH, qua đó tác động đến lượng tiền cung ứng. Khi NHTW mua, bán trên thị

trường tự do, gọi là nghiệp vụ mua bán trên thị trường tự do. Do vậy, thị trường mở này

có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho

giá cả biến động mạnh. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng của

NHTW. Nghiệp vụ thị trường này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những

thay đổi trong cơ sở tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động

trong cung ứng tiền tệ. Đây là một trong những cửa ngõ rất quan trọng để NHTW phát

hành tiền vào nền kinh tế hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về NHTW thông qua mua

hay bán các loại giấy tờ có giá. Qua nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm

dự trữ của các NHTM, tác động đến khả năng tín dụng của các NH này và từ đó làm

tăng hay giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế.

Khi NHTW mua vào các giấy tờ có giá, tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống

ngân hàng nhằm kích thích tăng trưởng tín dụng, tăng lượng tiền cung ứng, thúc đẩy

đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm.

Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến áp dụng và trở

thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu thông tiền tệ.

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở thể hiện tính ưu việt của nó trên các nội dung

sau:

- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ và từ đó tác động trực

tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.

- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất cứ lúc nào, (mong muốn

mức thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền tệ lớn hay nhỏ, NHTW lớn hay nhỏ, NHTW cũng

có thể thực hiện bằng cách mua bán một khối lượng lớn, hay nhỏ chứng khoán).

- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng

công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó.

- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những

chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ sở tiền tệ hoặc dự trữ NHTW có thể

quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.

Nhưng nghiệp vụ thị trường mở còn hạn chế là nó chỉ phát huy hiệu quả thực sự

ở nơi có thị trường tài chính phát triển, khi NHTW kiểm soát được lượng vốn khả dụng

trong hệ thống ngân hàng. Vì thế, không phải quốc gia nào cũng sử dụng được công cụ

này.

Qua phân tích trên, chúng ta có thể hệ thống hóa các mục tiêu của CSTT và các

Công cụ

Mục tiêu hoạt động

Mục tiêu trung gian

Mục tiêu cuối cùng

- Nghiệp vụ thị trường mở

- Tổng lượng dự trữ - Lãi suất

- Mức cung tiền - Lãi suất

ngân

- Giá cả - Sản lượng - Công văn việc làm

liên hàng

- Dự trữ bắt

công cụ CSTT theo sơ đồ sau: (Sơ đồ 1.1.).

- Chính sách tái chiết khấu

Sơ đồ 1.1: hệ thống hóa các mục tiêu của CSTT và các công cụ CSTT

1.2.2.3. Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ

Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ là những kênh tác động mà NHTW có

thể sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ làm thay đổi các điều kiện tiền tệ trên thị trường

qua đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng, giá cả và việc làm

(tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT).

CSTT ảnh hưởng đến các biến số kinh tế vĩ mô theo ba con đường: Tín dụng

NHTW

MS 

Tín dụng

Lãi suất giảm

Giá tài sản

Tín dụng NH

Bảng tổng kết tài sản

Tỷ giá Tăng giá cổ phiếu

Thu nhập thường xuyên tăng

TGHN

Dòng lưu ngân

Sự tăng giá

Đầu tư tăng

Rủi ro đạo đức

Q 

X

Tiền vay 

Tín dụng

Im

NX 

I 

AD

ngân hàng, lãi suất và giá tài sản. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.2: Sơ đồ các kênh dẫn chuyển tác động của CSTT

1.2.2.4. Sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ

Như đã đề cập ở phần trên, mục tiêu ổn định giá cả được hầu hết các nhà kinh tế

khẳng định là mục tiêu bao trùm và lâu dài của chính sách tiền tệ. Tuy vậy, vấn đề ở đây

là phải thực thi CSTT như thế nào để đạt được mục tiêu này. Có 4 giải pháp CSTT khác

nhau được áp dụng tại các quốc gia: (1) Chính sách tiền tệ dựa vào các đại lượng tiền;

(2) chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá hối đoái; (3) chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh

nghĩa; (4) chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Mỗi giải pháp có những

ưu thế và hạn chế riêng, phần dưới đây sẽ xem xét đến những vấn đề đó.

* Chính sách tiền tệ dựa vào các đại lượng tiền tệ: Nếu tốc độ vòng quay tiền

tương đối ổn định hay có thể dự báo trước được thì thông qua chỉ tiêu tăng khối lượng

tiền có thể duy trì mức tăng trưởng thu nhập danh nghĩa để đạt được ổn định giá cả lâu

dài.

- Trong một môi trường như thế, việc chọn khối lượng tiền làm mục tiêu có

những lợi thế sau:

+ NHTW dễ dàng kiểm soát được khối lượng tiền vì các đại lượng về khối

lượng tiền (M0, M1, M2...) có thể đo lường một cách chính xác trong thời gian ngắn.

+ Cho phép NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ của mình đáp ứng với các

chính sách trong nước khác.

+ Thúc đẩy lòng tin vào chính sách tiền tệ nhằm kìm hãm mức lạm phát thấp và

giúp hạn chế các nhà hoạch định chính sách tiền tệ rơi vào cái bẫy của các biện pháp

tình thế.

Tuy nhiên, nếu có sự bất ổn về vòng quay tiền đến mức làm yếu đi mối quan hệ

giữa đại lượng tiền tệ với biến số mục tiêu thì việc chính sách tiền tệ lấy đại lượng tiền

tệ làm mục tiêu sẽ không thực hiện được. Mối quan hệ lỏng lẻo giữa các biến số này có

nghĩa là cho dù đạt được mục tiêu cũng không thể tạo ra kết quả mong muốn về biến số

mục tiêu. Kết quả là việc sử dụng giải pháp này trở nên mơ hồ và khó lý giải.

* Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá hối đoái: Tức là việc gắn giá trị nội tệ vào

một đồng tiền ổn định có tỷ lệ lạm phát thấp, hoặc gắn giá trị nội tệ vào ngoại tệ theo

chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh từ từ (còn gọi là chế độ tỷ giá trườn bò - crawling peg).

Ưu điểm:

Việc sử dụng giải pháp này là tránh được vấn đề không nhất quán về mặt thời

gian, đồng thời, do NHTW cam kết duy trì tỷ giá cố định nên NHTW không thể theo

đuổi chính sách mở rộng tiền tệ quá mức mà hậu quả của nó là làm cho nội tệ bị phá

giá. Một lợi thế quan trọng nữa là neo tỷ giá đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu đối với công

chúng.

Nhược điểm:

+ Tỷ giá mục tiêu có thể sẽ làm mất tính độc lập của chính sách tiền tệ vì phải bỏ dần

việc sử dụng các công cụ để đối phó với các cú sốc trong nước mà còn bị tổn thương bởi các

cú sốc bắt nguồn từ các nước có đồng tiền chọn làm neo.

+ Xóa bỏ tín hiệu thị trường ngoại hối đưa ra về quan điểm chính sách tiền tệ.

+ Dễ bị tấn công bởi việc đầu cơ đồng tiền chọn làm neo.

+ Không biết chắc chắn về giá trị tương lai của đồng bản tệ.

* Chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh nghĩa: Giải pháp này có lợi thế tránh

được những cú sốc trong vòng quay tiền và vấn đề không nhất quán về thời gian, đồng

thời, cho phép quốc gia được độc lập trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền

tệ. Tuy nhiên, nhược điểm là NHTW không dễ dàng kiểm soát GDP danh nghĩa và cần

có nhiều thời gian kiểm chứng trước khi đánh giá sự thành công của chính sách tiền tệ.

Thêm vào đó việc dự tính mức tăng trưởng GDP tiềm năng(được lượng hóa bằng một

con số) thường có độ chính xác thấp và hay thay đổi, do đó việc công bố chỉ tiêu có thể

gây ra sự hiểu lầm cho công chúng. Đồng thời, chỉ tiêu này không dễ hiểu lại có sự

nhầm lẫn giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế [8, tr. 1-2].

* Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát: Cũng giống như các

mục tiêu trên, việc lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ này cũng có những lợi thế

nhưng cũng không thể tránh được những hạn chế. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này,

chúng ta sẽ xem xét ở phần dưới đây.

1.2.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát

1.2.3.1. Khái niệm

Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát là việc thực hiện chính sách

tiền tệ trong đó NHTW xây dựng một mục tiêu lạm phát theo tiến trình thời gian định

trước và sử dụng các công cụ chính sách đón đầu sẵn có để đạt mục tiêu đó. Mục tiêu

lạm phát là một khung chính sách tiền tệ với ba nội dung chính:(i). Xác định mục tiêu

lạm phát ở tầm trung hạn; (ii). Dự đoán tỷ lệ lạm phát trong tương lai; (iii). Tỷ lệ lãi suất

ngắn hạn được sử dụng như mục tiêu điều hành mà không có một mục tiêu trung gian rõ

rệt, để đạt được mục tiêu lạm phát có tính dự đoán về lạm phát trong tương lai.

Đồng thời, khung chính sách tiền tệ được thay đổi theo hướng sử dụng các biện

pháp đón đầu dựa trên dự đoán về lạm phát tầm trung hạn và mối quan hệ chặt chẽ giữa

mục tiêu điều hành và mục tiêu cuối cùng. Ví dụ như nhất định phải ổn định giá cả do

không đề xuất một mục tiêu trung gian nào.

Các công cụ CSTT

Mục tiêu hoạt động

Mục tiêu cuối cùng

Sơ đồ 1.3: Chính sách mục tiêu lạm phát

Các NHTW điều hành chính sách tiền tệ trong chính sách mục tiêu lạm phát

như sau:

+ Một là, NHTW xác định trước một mục tiêu lạm phát coi đó là cái chốt để

tiến hành chính sách tiền tệ tầm trung hạn.

+ Hai là, NHTW sử dụng các biến số thông tin như tổng tiền, tỷ lệ lãi suất, tỷ

giá, tỷ lệ lạm phát dự kiến, giá cả tài sản và các nguyên vật liệu chính để dự đoán tỷ lệ

lạm phát trong tương lai;

+ Ba là, NHTW thiết lập và thực hiện chính sách tiền tệ sao cho tỷ lệ lạm phát

thực tế hội tụ theo NHTW thiết lập.

+ Bốn là, NHTW đánh giá lại việc thực hiện chính sách tiền tệ và rút kinh

nghiệm cho chính sách tiền tệ giai đoạn sau. Quá trình tổng kết này sẽ dẫn tới sự hội tụ

của tỷ lệ lạm phát thực tế với mục tiêu lạm phát dài hạn và tạo cơ sở cho việc ổn định

giá cả [52].

1.2.3.2. Điều kiện để một nước có thể theo đuổi chính sách tiền tệ với mục

tiêu kiểm soát lạm phát

Để thực thi chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát, một quốc gia ít

nhất phải có hai điều kiện căn bản sau:

Một là, NHTW phải điều chỉnh chính sách tiền tệ với một mức độ độc lập nào

đó. Điều này không có nghĩa là độc lập hoàn toàn với Chính phủ nhưng nó phải được tự

do trong việc lựa chọn các công cụ để đạt được mục tiêu mà Chính phủ cho là hợp lý.

Để làm được điều này, quốc gia đó không được để chính sách tài chính có ưu thế hơn

chính sách tiền tệ, tức chính sách tài chính không được khống chế chính sách tiền tệ. Tự

do không bó buộc của chính sách tài khóa có nghĩa rằng việc vay mượn của Chính phủ

từ NHTW là rất ít hoặc không có và thị trường tài chính nội địa đủ sâu để hấp dẫn các

khoản nợ công trái Chính phủ. Nó cũng có nghĩa là, Chính phủ cần có một cơ sở thu nhập

vững chắc và không cần dựa vào thu nhập có được từ " thuế đúc tiền".

Hai là, thiện chí và khả năng của các nhà chức trách trong việc không đặt quá

cao cho một số chỉ tiêu khác như, mức lương, mức sử dụng lao động hay tỷ giá hối đoái

vì công chúng không có gì đảm bảo rằng các nhà chức trách sẽ đặt mục tiêu lạm phát

cao hơn các mục tiêu này và ngược lại, nên sẽ thiếu đi sự tin cậy cần thiết cho thành

công [14, tr. 88-89].

Nếu thỏa mãn hai điều kiện trên, về mặt lý thuyết, một số quốc gia có thể theo

đuổi chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát.

1.2.3.3. Căn cứ để thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát

+ Ai là người xác định mục tiêu lạm phát

Xét về mặt lý thuyết, Chính phủ thường là người đưa ra mục tiêu cụ thể cho

từng giai đoạn.

Xét về mặt thực tế, việc đưa ra mục tiêu này đều dựa vào sự tư vấn của Bộ

trưởng Bộ Tài chính hoặc của Thống đốc NHTW, nhưng cũng có những trường hợp

Chính phủ chỉ đưa ra định hướng thực thi chính sách tiền tệ theo chính sách mục tiêu

lạm phát, còn mục tiêu cụ thể lại do Thống đốc NHTW quyết định sau khi có tham khảo

ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính (tùy luật áp dụng của từng quốc gia trên thế giới).

+ Đo lường mức độ lạm phát mục tiêu

Trước hết là phải xác định chỉ số đo lường lạm phát: hầu hết các nước theo đuổi

chính sách này lựa chọn chỉ số giá tiêu dùng CPI để tính lạm phát mục tiêu bởi vì chỉ số

này quen thuộc và dễ hiểu đối với công chúng. Tuy nhiên, trong cách tính CPI của mỗi

nước cũng có khác nhau. Thường thì để cho việc dự đoán lạm phát và điều hành chính

sách tiền tệ sát với mục tiêu hơn các nước thường quan tâm đến việc tỷ lệ lạm phát cơ

bản tức CPI có loại trừ giá cả của các mặt hàng hay có biến động lớn (tránh cú sốc).

Sau khi đã xác định được chỉ số tính, việc tiếp theo là phải xác định lạm phát

mục tiêu là một con số cụ thể hay dao động trong một khoảng. Đồng thời, trong khoảng

mục tiêu đó, có nước lại chọn điểm giữa khoảng như là tỷ lệ lạm phát trung tâm để điều

hành chính sách tiền tệ sao cho tỷ lệ lạm phát nằm trong khoảng mục tiêu nhưng cố

gắng càng bám sát tỷ lệ lạm phát trung tâm càng tốt [14, tr. 89].

Việc tiếp theo là xác định tỷ lệ lạm phát như thế nào là hợp lý? Như chúng ta đã

biết, lạm phát ở mức độ nào đó có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế, tạo công ăn

việc làm, giảm thất nghiệp. Chính vì vậy, việc xác định tỷ lệ lạm phát mục tiêu rất quan

trọng. Về bản chất, mục tiêu lạm phát gắn với chỉ số lạm phát, do đó, việc xây dựng

mục tiêu lạm phát có nghĩa là xây dựng một chỉ số lạm phát cụ thể và điều này được

xem như mục tiêu ổn định giá cả trong một số năm tiếp theo. Tuy nhiên, ổn định giá cả

ở đây không có nghĩa là lạm phát bằng 0 mà phải được hiểu là chỉ số lạm phát có thể ở

mức trên 0 nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu ổn định giá cả.

Trong cách tính chỉ số lạm phát, cần thiết phải có sự loại trừ giá cả của một

số mặt hàng có biến động lớn mà khó có thể dự báo được, đồng thời chỉ số lạm phát

phải được công chúng quan tâm và được hiểu một cách dễ dàng.

+ Thời điểm nào là hợp lý

Để hình thành một chính sách mục tiêu lạm phát tin cậy sẽ là rất quan trọng và

cần thiết để đạt được một số thành công ban đầu trong việc kiểm soát lạm phát bởi vì

việc đạt được những thành công này làm cho dân chúng tin tưởng vào các chính sách

đang được Chính phủ hiện hành áp dụng.

Một số vấn đề quan trọng là khung thời gian hợp lý như thế nào? Bởi vì chính

sách tiền tệ ảnh hưởng lên lạm phát với độ trễ về thời gian tương đối dài, do đó, chính

sách tiền tệ không thể đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập tức mà chỉ có thể đạt

được sau một thời gian nhất định. Ngoài ra, các cú sốc có thể xảy ra trong khoảng thời

gian giữa điểm khởi xướng chính sách tiền tệ và thời điểm phát huy tác dụng của nó.

Điều này có nghĩa nên xác định mục tiêu ở tầm trung hạn [49].

+ Việc thực thi phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và linh hoạt

Sau khi đã xác định được các vấn đề trên, mục tiêu lạm phát phải được chuyển

tải đến công chúng một cách rõ ràng, minh bạch và hiệu quả, để dân chúng hiểu được.

Đồng thời, NHTW phải có trách nhiệm giải thích và công bố đến dân chúng về những

thay đổi của chính sách với những lý do rõ ràng. Điều này làm tăng tính minh bạch và

giảm độ trễ của chính sách tiền tệ đến những thay đổi giá cả và những quyết định tiền

lương.

Tính linh hoạt của chính sách tiền tệ là nhằm đối phó lại với các

cú sốc về tổng cung hay tổng cầu, tức là chính sách này cho phép có độ lệch khỏi

mục tiêu lạm phát và mục tiêu lạm phát có thể thay đổi theo thời gian [14, tr. 90].

1.2.3.4. Đánh giá ưu nhược điểm của chính sách

Ưu điểm:

+ Công chúng hiểu được một cách nhanh chóng và dễ dàng về mục tiêu lạm

phát.

+ Sự minh bạch và rõ ràng về mục tiêu lạm phát có tác dụng làm cho các dự

tính về tỷ lệ lạm phát sát với lạm phát mục tiêu hơn, kết quả là mục tiêu ổn định giá cả

dễ thực hiện được.

+ Giảm được áp lực đối với NHTW trong việc theo đuổi các mục tiêu khác như

tăng trưởng, thất nghiệp.

+ Tính độc lập tương đối của NHTW được duy trì nên NHTW có thể đối phó

hiệu quả với những cú sốc xảy ra ở bên ngoài quốc gia.

+ Tránh được những thay đổi đột biến trong tốc độ vòng quay tiền, bởi vì nó

cho phép NHTW giảm được sự tập trung vào việc xử lý mối quan hệ giữa khối lượng

tiền và thu nhập danh nghĩa; thay vào đó, NHTW tập trung xử lý các thông tin nhằm dự

báo lạm phát và chọn lựa chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu lạm phát mong

muốn.

Nhược điểm:

+ Bởi vì các hiệu ứng của chính sách lên lạm phát có độ trễ về mặt thời gian,

nên NHTW không thể dễ dàng kiểm soát được lạm phát. Như vậy, việc đạt được mục

tiêu lạm phát một cách chính xác về mặt thời gian thường gặp khó khăn và cũng vì thế

mà việc đánh giá mức độ thành công của chính sách thường chậm trễ.

+ Việc cố gắng để đạt được lạm phát mục tiêu có thể dẫn đến một mức tăng

trưởng không bền vững của công ăn việc làm và sản lượng.

1.3. chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số nước trên

thế giới và bài học kinh nghiệm

1.3.1. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Hàn Quốc

1.3.1.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình kinh tế chính trị tại thời

điểm công bố mục tiêu

Chính sách mục tiêu lạm phát được áp dụng tại Hàn Quốc theo các điều khoản

của Luật Ngân hàng 1997. Đây là Bộ luật đã được sửa đổi để trao quyền tự quyết cao

hơn cho NHTW Hàn Quốc trong việc điều chỉnh và thực thi chính sách tiền tệ. Luật này

nhằm tạo ra chính sách tiền tệ trung lập và độc lập tuyên bố ổn định giá cả là mục đích

duy nhất của NHTW Hàn Quốc. Theo các điều khoản của luật này, NHTW Hàn Quốc

phải xây dựng một mục tiêu lạm phát hàng năm theo tín hiệu thị trường và thực hiện các

biện pháp để đạt được các mục tiêu đó. Chính sách mục tiêu lạm phát được áp dụng bắt

đầu từ năm 1998. Trước khi mỗi năm kết thúc, NHTW Hàn Quốc sẽ định ra một mục

tiêu ổn định giá cả cho năm sau, sau khi đã tham vấn ý kiến của Chính phủ, và sau đó tự

mình thiết lập và phổ biến một kế hoạch điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tín

dụng bao gồm cả mục tiêu ổn định giá cả. Cuối cùng, hàng tháng ủy ban chính sách tiền

tệ của NHTW Hàn Quốc quyết định định hướng của chính sách tiền tệ hàng tháng và

sau đó NHTW Hàn Quốc điều hành các chính sách tiền tệ theo định hướng này.

1.3.1.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát

+ Thứ nhất: Mục tiêu được quản lý theo một khung dao động xung quanh một

mức lạm phát trung tâm(ví dụ mức lạm phát cơ sở là 2% và khung mục tiêu sẽ là 2%-

3%).Để thực hiện mục tiêu đề ra, NHTW Hàn Quốc xem lãi suất huy động với vai trò

mục tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung gian, điều này có nghĩa là NHTW Hàn

Quốc sẽ căn cứ vào xu hướng biến động của giá cả để điều chỉnh mức lãi suất sao cho

đạt được mục tiêu đề ra. Nguyên nhân của việc lựa chọn này là do các nghiên cứu ở đây

chỉ ra rằng lãi suất huy động có tác dụng nhân quả trực tuyến đối với lãi suất ngắn hạn

và các biến số kinh tế.

+ Thứ hai: Chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ số giá CPI. NHTW Hàn

Quốc cho rằng CPI là chỉ số phù hợp nhất để điều hành chính sách tiền tệ. Chỉ số CPI

của Hàn Quốc có loại trừ các biến động do các nguyên nhân bất khả kháng như biến

động của giá nông sản do thiên tai, thay đổi giá cả do Chính phủ điều chỉnh thuế gây ra.

+ Thứ ba: NHTW Hàn Quốc tương đối độc lập trong việc hoạch định và thực

thi chính sách tiền tệ. Trước hết, khi hết năm NHTW Hàn Quốc xây dựng mục tiêu ổn

định giá cả cho năm tới sau khi đã tham vấn Chính phủ và thiết lập một kế hoạch điều

hành các chính sách tiền tệ và tín dụng có tính đến mục tiêu này trong vòng 15 ngày sau

khi xây dựng được các mục tiêu ổn định giá cả. Thứ hai, hàng tháng, NHTW Hàn Quốc

sẽ thông báo phương hướng của chính sách tiền tệ trong tháng đó ngay sau khi ủy ban

Chính sách tiền tệ của NHTW quyết định và Chính phủ sẽ có văn bản giải thích chi tiết

phương hướng này. Thứ ba, thường kỳ 03 tháng sau mỗi cuộc họp, NHTW Hàn Quốc

sẽ xuất trình bản báo cáo chính sách tiền tệ và tín dụng lên Quốc hội 02 lần/ năm,

thường vào tháng 03 và tháng 10, và Chính phủ có trách nhiệm trả lời các chất vấn của

các đại biểu quốc hội về bản báo cáo đó.

1.3.1.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình thực hiện

Năm 1998, mục tiêu lạm phát được thiết kế như sau: Mức lạm phát trung bình là

9% và khung mục tiêu dao động 1% xung quanh mức trung bình.

Do sự bùng nổ khủng hoảng tiền tệ, sau khi tham khảo ý kiến của IMF, NHTW

Hàn Quốc đã thực hiện chính sách lãi suất cao. Chính sách lãi suất cao là sự lựa chọn

duy nhất để đảm bảo khả năng thanh khoản ngoại tệ và ổn định tỷ giá đối phó với luồng

ngoại tệ bị chuyển ra ngoài do mất lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, có rất

nhiều tác dụng phụ xấu đi kèm với chính sách lãi suất cao. Nó làm tăng sự trì trệ trong

các hoạt động kinh tế do thắt chặt tiêu dùng, đầu tư, đồng thời, làm tăng sự đóng cửa

đồng loạt của một số doanh nghiệp và tăng số lượng các khoản nợ xấu của các tổ chức

tài chính. Do vậy, nhằm hạn chế việc quá thắt chặt nền kinh tế, vào quý 2/1998, NHTW

Hàn Quốc đã dần giảm bớt sự can thiệp vào thị trường khi các điều kiện của thị trường

hối đoái đã được cải thiện nhờ vào cán cân thương mại thặng dư,các khoản trợ giúp của

các tổ chức tài chính quốc tế và dòng vốn đầu tư mới chuyển vào. Cuối cùng lãi suất

huy động giảm xuống 8,5% vào cuối tháng 8 năm 1998. Do NHTW Hàn Quốc dần

giảm bớt tỷ lệ can thiệp vào thị trường, lãi suất huy động thị trường chỉ còn 6,5% vào

cuối tháng 12.Và kết quả của hàng loạt những nỗ lực can thiệp đến cuối năm tỷ lệ lạm

phát là 7,5% thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra.

+ Năm 1999, mục tiêu lạm phát được thiết kế như sau: mức lạm phát trung tâm là

3% và khung mục tiêu dao động là 1% xung quanh mức trung tâm.

Trong nửa đầu năm 1999, thị trường tài chính và hối đoái tương đối ổn định.

Ngược lại, bất ổn tăng lên trên thị trường tài chính vào nửa cuối năm 1999 và việc tái ổn

định lại thị trường này là mối quan tâm hàng đầu của các nhà làm chính sách. NHTW

Hàn Quốc coi việc ổn định thị trường tài chính là quan trọng nhất, do vậy, đã từng bước

giảm dần lãi suất huy động, xuống mức 4,75% vào tháng 5/1999 và duy trì mức lãi suất

này tới tận tháng 01/2000.

+ Mục tiêu lạm phát cho năm 2000 được thiết lập như sau: NHTW xây dựng

mức lạm phát trung tâm của mục tiêu lạm phát năm 2000 là 2,5% với biên độ dao động

+/-1%. Với sự hỗ trợ của chính sách lãi suất thấp, nền kinh tế thực tế đã phát triển theo

chiều hướng đi lên với tỷ lệ tăng trưởng 10,7% năm 1999. Giá cổ phiếu tăng mạnh trong

thời gian ngắn. Lãi suất dài hạn cũng tăng lên do sự tăng mở rộng nhanh chóng của nền

kinh tế và nỗi lo sợ thị trường tài chính bất ổn định do vậy làm tăng chênh lệch giữa lãi

suất dài hạn và ngắn hạn. Xuất phát từ những điểm trên, NHTW Hàn Quốc quyết định

tăng mục tiêu cho lãi suất huy động qua đêm lên khoảng 4,75%- 5% trong tháng 02. Tác

động của những biện pháp trên làm cho áp lực lạm phát tăng lên. Gi¸¬ cả tiêu dùng tăng

nhanh trong 4 tháng bắt đầu từ tháng 6 do giá dầu quốc tế, giá dịch vụ công cộng và giá

thủy sản tươi sống tăng. Mặt khác, thị trường tài chính biến động mạnh do giá dầu quốc

tế tăng, giá hàng chưa thành phẩm giảm và do sự đổ vỡ trong các kế hoạch kinh doanh

của Daewoo Motor. NHTW Hàn Quốc quyết định tăng lãi suất huy động qua đêm lên

5% - 5,25% vào tháng 10 năm 2000.

Như vậy, NHTW Hàn Quốc sử dụng mục tiêu lạm phát ngắn hạn trong vòng 01

năm khi xây dựng mục tiêu lạm phát cho năm 1998 và năm 1999. Tuy nhiên, cần có

một khoảng thời gian trước khi chính sách tiền tệ có tác động đến các lĩnh vực kinh tế

và một khi các tác động này đã xảy ra, chúng sẽ diễn ra trong thời gian dài. Kết quả

nghiên cứu này cho thấy NHTW sẽ gặp khó khăn khi xây dựng và điều hành chính sách

tiền tệ chỉ dựa trên mục tiêu lạm phát ngắn hạn trong 01 năm. Hơn nữa, chính sách tiền

tệ thiển cận này sẽ không đạt được một trong những thành quả chính của hệ thống mục

tiêu lạm phát đó là đạt được lòng tin của dân chúng vào việc NHTW sẽ xây dựng và

điều hành chính sách tiền tệ nhất quán để giữ cho tỷ lệ lạm phát ổn định trong khoảng

thời gian trung hạn và dân chúng không phải lo lắng đến sự trượt giá đồng bộ do lạm

phát.

Vì vậy, bên cạnh mục tiêu lạm phát hàng năm, từ năm 2001 NHTW Hàn Quốc

còn xây dựng thêm mục tiêu lạm phát trung hạn để đảm bảo tính nhất quán của chính

sách tiền tệ trong trung hạn. Mục tiêu lạm phát trung hạn được xác định ở mức bằng

hoặc thấp hơn mục tiêu lạm phát hằng năm để đảm bảo rằng NHTW sẽ giữ được lạm

phát ở mức thấp và ổn định trong dài hạn. Mục tiêu trung hạn được coi là mục tiêu quan

trọng không có thời gian ân hạn do nó chủ yếu để thể hiện cam kết của NHTW nhằm

hạn chế dự đoán lạm phát lan rộng trong dân chúng. NHTW Hàn Quốc xây dựng mục

tiêu lạm phát trung hạn từ năm 2001 là 2,5% trên cơ sở mức trung bình hằng năm từ sau

năm 2001 [52].

1.3.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Newzealand

1.3.2.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình kinh tế chính trị tại thời

điểm công bố mục tiêu

Hệ thống điều hành chính sách tiền tệ của New Zealand được quy định trong

Đạo luật Ngân hàng Dự trữ New Zealand được nghị viện thông qua vào tháng 12 năm

1989 và có hiệu lực vào tháng 1 năm 1990. Theo Đạo luật này, Ngân hàng Dự trữ New

Zealand có nghĩa vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt được và duy trì

sự ổn định của mức giá chung nhưng không quy định một mức chỉ tiêu lạm phát cụ thể.

Chỉ tiêu này được Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc NHTW thống nhất theo thỏa

ước mục tiêu chính sách (Policy Targets Agreement- PTA) một cách công khai hóa và

là định hướng đồng thời là căn cứ để đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ

trong nhiệm kỳ thống đốc. PTA đầu tiên được ký vào 2/3/1990 đã lượng hóa được mục

tiêu lạm phát và thời hạn đạt được mục tiêu đó.

Quyết định thông báo mục tiêu lạm phát của New Zealand được thực hiện sau

chiến dịch chống lạm phát thành công. Việc công khai hóa mục tiêu lạm phát góp phần

giảm bớt tâm lý trông đợi lạm phát và làm cho mục tiêu của chính sách tiền tệ được đáp

ứng dễ dàng hơn.

1.3.2.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát

Có thể nói phần lớn cơ chế mục tiêu lạm phát của New Zealand được quản lý

bởi các PTA vì các thỏa ước này thể hiện sự tuân thủ của Ngân hàng Dự trữ đối với Đạo

luật 1989 về mục tiêu chính sách tiền tệ. Mục tiêu chính sách tiền tệ của New Zealand là

đạt được và duy trì sự ổn định của mức giá chung. Để đạt được mục tiêu cuối cùng này,

Ngân hàng Dự trữ New Zealand không sử dụng bất kỳ một mục tiêu trung gian nào

khác ngoài mục tiêu lạm phát và đồng thời không chú ý nhiều lắm đến tốc độ tăng của

tổng mức cung tiền tệ và tín dụng khi nhận ra mối quan hệ thiếu hiệu quả giữa các chỉ

tiêu này với tỷ lệ lạm phát.

Cơ chế hoạt động như sau:

+ Thứ nhất, mục tiêu được quản lý theo một khung dao động mà không kiểm

soát một mức lạm phát cụ thể.

+ Thứ hai, chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ số giá CPI, và nó cũng là

thước đo căn bản để đánh giá hoạt động của NHTW. Trong khung mục tiêu đề ra,

NHTW tập trung đến việc kiểm soát "lạm phát cơ bản" tức là tỷ lệ lạm phát đã được

điều hòa(điều chỉnh một cách đều đặn) theo các yếu tố sức ép bên cầu và những kỳ

vọng vào tương lai có loại bỏ những biến động lớn gây shock bên cung. Trong cách tính

CPI của mình, NHTW New Zealand loại trừ sự biến động của lãi suất, những thay đổi

trong kim ngạch xuất nhập khẩu phát sinh từ sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả xuất

hoặc nhập khẩu, sự thay đổi của thuế hàng hóa và dịch vụ hoặc sự thay đổi các loại thuế

gián thu khác, các thảm họa tự nhiên hoặc các dịch bệnh lớn làm thiệt hại môi trường sinh

thái và gây nguy cơ tăng giá, những thay đổi của mức đóng góp nghĩa vụ cho Chính phủ

hoặc chính quyền địa phương làm ảnh hưởng đáng kể đến mức giá.

+ Thứ ba, trong quá trình xây dựng thực thi chính sách tiền tệ, do tác động của

các biện pháp, chính sách luôn có một độ trễ so với thời điểm đưa ra chính sách, nên

NHTW cũng đã tính toán khoảng thời gian để đạt được mục tiêu và sự khác biệt về thời

gian để đạt được hai chỉ tiêu lạm phát cơ bản và lạm phát mục tiêu.

+ Thứ tư, NHTW là một cơ quan của Chính phủ, không độc lập trong việc

hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ nhưng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ

trước hoạt động của mình. Đồng thời, tất cả các số liệu và dự đoán liên quan đến lạm

phát được cung cấp cho công chúng.

Về mặt kỹ thuật, tình trạng của nền kinh tế là một yếu tố quan trọng trong việc

đánh giá áp lực lạm phát và trong nhiều trường hợp, mâu thuẫn giữa tăng trưởng và ổn

định được giải quyết trong các quyết định về điều chỉnh mức độ lạm phát. Điều này có

nghĩa là mặc dù Ngân hàng Dự trữ New Zealand tuyên bố theo đuổi mục tiêu duy nhất

là ổn định giá cả nhưng trong hoạt động thực tế nó vẫn phải cân nhắc đến các vấn đề

khác của nền kinh tế.

1.3.2.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình thực hiện

Mục tiêu lạm phát được đưa ra trong các PTA qua các năm như sau: 1990: 3-

5%, năm 1991: 2,4- 4,5%, năm 1992: 1,5-3,5%, năm 1993-1996: 0-2%; từ năm 1997- nay:

0-3%.

Thời kỳ từ 3/1990 đến 3/1992: Tỷ lệ lạm phát giảm mạnh trong phạm vi từ 0-

2%, mức lãi suất cao ban đầu và sau đó giảm mạnh, tỷ giá giảm dần, tăng trưởng kinh tế

âm và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Chính vì vậy, NHTW New Zealand đã thực hiện một

loạt các biện pháp nhằm nới lỏng chính sách tiền tệ như: Điều chỉnh giảm lãi suất hối

phiếu ngân hàng 90 ngày từ 14,6% vào giữa tháng 8/ 1990 xuống 11,5% vào giữa tháng

1/1991 và còn 8,8% vào cuối tháng 12/1991 đồng thời, tỷ giá cũng giảm một cách đáng

kể.

Thời kỳ 6/1992 đến 3/1994: Ngân hàng tập trung vào việc ổn định giá cả thay

cho việc cố gắng làm giảm tỷ lệ lạm phát. Từ tháng 3/1991 đến tháng 3/1992, chỉ số

CPI và mức lạm phát cơ bản giảm xuống 0,8% và 1,3% tương ứng, kinh tế New

Zealand bắt đầu được khôi phục và nhiệm vụ của NHTW là ổn định giá cả cho môi

trường phát triển. Chính sách tiền tệ được nới lỏng hơn nữa khi lãi suất hối phiếu 90

ngày giảm xuống còn 6,6%. Đến tháng 12/1992, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt,

mức lãi suất hối phiếu 90 ngày lại tăng lên đến 7,8% do đó có sự xáo trộn nhỏ trên thị

trường tài chính. Giai đoạn sau đó, kinh tế trong nước tăng trưởng trong điều kiện kinh

tế ổn định, lãi suất hối phiếu 90 ngày giảm xuống 5% vào tháng 12/1993, tâm lý trông

đợi lạm phát của công chúng giảm xuống.

Thời kỳ từ 6/1994 đến nay: Lạm phát và lãi suất tăng lên, tỷ giá biến động theo

chiều hướng cũ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm. Thời

gian này, khung mục tiêu hai lần bị vi phạm và sau đó được thiết kế lại như là kết quả

của cuộc bầu cử.

áp lực lạm phát bắt đầu tăng lên từ năm 1994. Vấn đề nổi lên là Ngân hàng Dự

trữ không xác định được một cách chắc chắn mức tăng trưởng kinh tế tiềm năng của

New Zealand mà tại đó sự tăng trưởng không tạo nên áp lực lạm phát. Tốc độ tăng GDP

là 6%- cao hơn dự tính đã tạo nên sự nghi ngờ về việc khung mục tiêu lạm phát có thể

bị phá vỡ, mà điều này lại gây lên tâm lý trông chờ lạm phát của công chúng. Để phản

ứng lại, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có những điều chỉnh vào tháng 6/1994: lãi suất hối

phiếu 90 ngày được điều chỉnh tăng lên, đến tháng 12/1994 đạt 9,5%, tỷ giá tăng lên

khoảng 4,5% trong năm 1994. Đến thời điểm gần cuối năm 1995, việc thắt chặt chính

sách tiền tệ vào cuối năm 1994 mới có hiệu quả: lạm phát danh nghĩa giảm xuống

nhanh vì sự tăng lên của lãi suất cho vay cầm cố bất động sản tăng. Mặc dù vậy, mức

lạm phát cơ bản chỉ giảm xuống 2% dù NHTW mong muốn tỷ lệ này giảm xuống còn

1,2%.

Với cơ chế hoạt động của New Zealand thì các quyết định liên quan đến chính

sách tiền tệ mang tính chất chính trị khá rõ rệt. Tháng 12/1996, một liên hiệp nghị viện

giữa Đảng Dân tộc và Đảng thứ nhất New Zealand đã được thống nhất trong thời hạn ba

năm. Thông báo đầu tiên là mục tiêu lạm phát có thể linh hoạt. PTA mới được ký giữa

Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc vào ngày 10/12/1996 đã nới rộng khung mục tiêu

lạm phát là từ 0-3%. Việc mở rộng khung mục tiêu làm cho NHTW bớt gặp khó khăn

trong việc kiểm soát mục tiêu và hạn chế được những mối đe dọa đối với uy tín của nó [1,

tr. 37].

1.3.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam

Hiện nay, việc theo đuổi chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát tại Việt Nam

chưa được thực hiện. Việt Nam đang theo đuổi chính sách đa mục tiêu: ổn định giá trị

đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo

quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Tùy từng thời điểm khác nhau

mà một mục tiêu nào đó trong hệ thống các mục tiêu trên được coi trọng hơn; ví dụ như

trong những năm đầu của thập kỷ 90 mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát được

coi trọng nhất, còn những năm 1998-2000 thì ổn định tỷ giá được coi trong hơn. Việc

theo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu trong điều kiện chuyển đổi kinh tế là tương đối

hợp lý do cơ cấu kinh tế chưa hoàn thiện, hệ thống ngân hàng tài chính chưa phát triển,

đồng thời nhu cầu hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển là

cần thiết.Từ việc lựa chọn mục tiêu CSTT như trên, việc điều hành CSTT trong thời

gian qua đã đạt được những thành công đáng kể.

Đánh giá chung về việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thời

gian qua

* Những thành công:

- Thứ nhất là sự góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm

phát, ổn định sức mua của đồng Việt Nam. Sự ổn định trong việc điều hành kinh tế vĩ

mô đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn

định: năm 1995 tăng 9,54%, năm 1996 tăng 9,34%, năm 1997 tăng 8,15%, năm 1998 tăng

5,8%, năm 1999 tăng 4,8%; năm 2000 tăng 6,7%; năm 2001 tăng 6,85%; năm 2002

tăng 7,04%; năm 2003 tăng 7,24%.Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo... cũng

được hỗ trợ bằng các biện pháp cụ thể như: tỷ trọng cho vay đối với các thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên, ưu tiên đầu tư tín dụng vào các ngành trọng điểm,

mũi nhọn, cho vay người nghèo...

- Thành công thứ hai: Các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn chỉnh

chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Cho đến nay, các

công cụ trực tiếp được sử dụng ít đi. NHNN chủ yếu điều hành CSTT bằng các công cụ

gián tiếp như DTBB, chiết khấu, TCK, NVTT.

* Những tồn tại và hạn chế:

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CSTT đa

mục tiêu, thì Việt Nam còn có những hạn chế tồn tại nhất định như:

Do CSTT của Việt Nam theo đuổi đa mục tiêu nên đôi khi mục tiêu này lại triệt

tiêu mục tiêu kia, trong giai đoạn vừa qua, một số chỉ tiêu không đạt yêu cầu Chính phủ

đề ra, đặc biệt là mục tiêu lạm phát.

Bảng 1.1: Tình hình thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát

Đơn vị tính: %

Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

Chỉ tiêu% 10 10 7 7-8 10 6 5 5-6 4-5 <5

Thực hiện% 12,7 4,5 3,6 9,0 0,1 -0,6 0,8 4 3 8,8

Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam các năm từ năm 1997-2003

Mặc dù không đạt chỉ tiêu đề ra nhưng có những năm lạm phát lại ở mức hợp lý

góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như năm 1996 -1997. Tuy nhiên, vấn đề dự báo

và các biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nói chung và của NHNN nói

riêng, thì rõ ràng rằng khả năng dự báo lạm phát (cả về phương pháp tính và vấn đề thu

thập, xử lý thông tin về diễn biến trên thị trường) còn yếu kém, đồng thời,sự chỉ đạo và

điều hành giá cả tiêu dùng của nền kinh tế còn mang tính thụ động và hiệu quả không

cao. Chính điều này đã làm cho lạm phát thực tế những năm 1999- 2001 quá xa với chỉ

tiêu đề ra và trở thành lạm phát, còn năm 2004 lại vượt quá chỉ tiêu đề ra, gây nên

những ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng trong từng khối lượng tiền như tỷ lệ tăng

của M2 và M3 đôi khi thể hiện những biến động khác nhau.Do đó, hiệu quả của tỷ lệ

tăng M2 với vai trò là một mục tiêu trung gian của CSTT được coi là bị giảm xuống.

Hơn nữa, mối quan hệ chi phối giữa mục tiêu hoạt động cơ sở - MB với M2 ngày càng

thiếu ổn định làm cho việc sử dụng mục tiêu trung gian là M2 để điều hành CSTT bắt

đầu có dấu hiệu kém hiệu quả.

Một vấn đề cần quan tâm nữa là, hiện nay mức độ đô la hóa ở Việt Nam tương

đối cao đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế cũng

như tới việc hoạch định và điều hành CSTT, chính sách tỷ giá. Đồng thời đô la hóa là

làm cho mối quan hệ giữa TPTTT M2 với giá cả và sản lượng đôi khi không tuân thủ

theo những quy luật vốn có. Vì vậy, mục tiêu trung gian là M2 đã không phát huy hết

tác dụng.

Về những hạn chế trong việc sử dụng các công cụ CSTT: Có thể nói hạn chế

lớn nhất trong việc thực thi CSTT ở Việt Nam thời gian qua là việc xây dựng và sử

dụng các công cụ của CSTT. Hệ thống các công cụ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp,

mới được xây dựng và chưa có đủ điều kiện hoàn thiện, sự phối kết hợp các công cụ

chưa thường xuyên và thiếu hiệu quả. Một số hạn chế khác như việc xác định lượng tiền

cung ứng hàng năm chưa chính xác và chưa kịp thời so với các biến động kinh tế, chính

trị: Khối lượng cung ứng hàng năm chưa chính xác và chưa kịp thời so với các biến

động kinh tế, chính trị, khối lượng cung ứng được dự đoán thường quá lớn so với nhu

cầu thực tế, gây khó khăn trong việc kiểm soát tốc độ tăng của TPTTT, tạo ra áp lực

lạm phát đối với nền kinh tế hay sự phối kết hợp trong việc sử dụng các chính sách chưa

cao.

Kinh nghiệm của các nước cũng chỉ ra rằng, các nước theo đuổi chính sách mục

tiêu kiểm soát lạm phát thường sử dụng lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành, bởi

kênh truyền dẫn này, có ảnh hưởng rất hiệu quả đối với giá cả.Tuy nhiên, muốn sử dụng

lãi suất ngắn hạn là mục tiêu điều hành cần phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i). Phải tồn

tại một cơ chế mà lãi suất ngắn hạn có thể đơn phương quyết định lãi suất dài hạn mà

không có cơ chế ngược lại; (ii). Cần thiết phải có sự kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử

dụng các công cụ chính sách thích hợp để điều chỉnh lãi suất ngắn hạn; (iii). NHTW có

thể thông báo một cách có hiệu quả dự định của mình tới dân chúng dưới góc độ là sự

thay đổi trong mục tiêu điều chỉnh sẽ tác động tới lãi suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất

dài hạn thông qua sự thay đổi trong dự đoán lạm phát. ở Việt Nam rõ ràng lãi suất trên thị

trường tiền tệ vẫn chưa phải là một công cụ quyền lực của NHNN và phần nào gây ra sự

suy giảm hiệu lực của CSTT. NHNN vẫn chưa xác định được cơ chế điều hành lãi suất

ngắn hạn trên thị trường tiền tệ một cách chuẩn mực. Đồng thời, quan hệ giữa các loại lãi

suất chưa diễn ra theo đúng quy luật cung cầu và lãi suất ngắn hạn hầu như không có ảnh

hưởng đến thị trường vốn chung và dài hạn [14, tr. 91].

Một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng trong đó là việc xây dựng và

điều hành CSTT của Việt Nam thời gian qua còn nhiều bất cập và chưa thực sự tạo

được niềm tin của công chúng.

* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế như sau: (1). Do nền kinh tế Việt

Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và mở cửa với điểm xuất phát là một nền kinh tế

yếu kém, lạc hậu chính vì vậy việc tiếp cận với những nền kinh tế thị trường nói chung

còn gặp nhiều khó khăn. Riêng đối với chính sách tiền tệ mới được xây dựng và thực thi

trong hơn 10 năm qua nền kinh tế còn nhiều bỡ ngỡ cả về phương diện lý thuyết lẫn

thực tế; (2). Thị trường tài chính, tiền tệ kém phát triển làm cho công cụ của CSTT khó

có điều kiện phát huy hiệu quả. (3). Nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu

nền kinh tế thị trường chưa ổn định. Chính vì vậy, quy luật thị trường vẫn chưa phát huy

hết tác dụng của nó, quan hệ cung - cầu trên thị trường còn bị tác động và can thiệp bởi

nhiều yếu tố chủ quan không theo quy luật thị trường; (4). Ngân hàng Nhà nước chưa

thực sự là cơ quan hoạch định CSTT mà về cơ bản chỉ là cơ quan thực thi CSTT, thậm

chí quá trình điều hành còn bị chi phối bởi các quyết định của Chính phủ. CSTT phụ

thuộc quá nhiều vào các chính sách khác, thậm chí làm hộ công việc của các cơ quan

khác như chính sách hội chợ và thông qua lãi suất, tỷ giá. Khoanh nợ, xóa nợ của các

NHTM thêm vào đó còn có khá nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát

việc xây dựng thực thi CSTT. (5). Sự thiếu hụt về thông tin cũng như những khó khăn

trong việc thu thập dữ liệu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quy trình xây dựng; (6). Sự phối

hợp giữa các bộ ngành chưa làm tốt và chặt chẽ, có những hạn chế trong việc ban hành các

chính sách, văn bản hướng dẫn thực thi; (7). Trình độ cán bộ điều hành thực thi CSTT còn

chưa đồng đều về mặt chuyên môn và kinh nghiệm.

1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Lào là một nước kém phát triển, nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là kinh tế nông

nghiệp chiếm 80%,và mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền

kinh tế thị trường. Vì vậy, Lào muốn theo đuổi được chính sách mục tiêu kiểm soát lạm

phát cần phải đạt được một số vấn đề cơ bản sâu đây:

1. Việc xác định thời điểm tốt nhất để tiến hành thực hiện mục tiêu là thời điểm

nào?. Có thể nói đây là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của

CSTT.Thông thường thời điểm tốt nhất để tiến hành là sau khi đạt được một số thành

công ban đầu trong việc kiểm soát lạm phát.

2. Tính công khai minh bạch và sự giải thích có hiệu quả của chiến lược CSTT.

Chính là mục tiêu lạm phát phải được chuyển tải rộng rãi đến công chúng và thị trường

thông qua các phương tiện hợp lý nhất, kết hợp với việc chỉ dẫn tập quán..., NHTW

cũng phải thường xuyên phổ biến CSTT tới dân chúng để tạo lập được sự hỗ trợ và sự

hiểu biết mục tiêu, phải xác định cơ quan thiết lập và thực hiện mục tiêu nhằm xác định

rõ trách nhiệm của NHTW, Bộ tài chính. Có thể là NHTW, Chính phủ hoặc cả hai cơ

quan thiết lập mục tiêu, điều này có nghĩa là mục tiêu lạm phát được xác định trên cơ sở

cấu trúc hoặc là áp lực chính trị. Nhưng dù sao thì NHTW cũng cần phải có được sự độc

lập tương đối của mình trong việc thực thi chính sách này.

3. Việc lượng hóa chỉ tiêu, chỉ số lạm phát phải được công chúng quan tâm và

hiểu được một cách rõ ràng, chính xác, đúng lúc,đồng thời nó cũng phải loại trừ được

những ảnh hưởng của những cú sốc giá cả và những ảnh hưởng từ các hoạt động của

CSTT được thực hiện trước đây.

4. Việc xác định mức độ linh hoạt của CSTT, trong đó phải xác định được mục

tiêu lạm phát là một con số cụ thể hay được giới hạn trong một khung mục tiêu nhất

định? Độ lệch ngoài mục tiêu lạm phát được phép là bao nhiêu? Mục tiêu lạm phát có

được thay đổi theo thời gian hay không?

Như chúng ta đã biết những cú sốc có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát bất cứ

lúc nào và những ảnh hưởng của CSTT là không ổn định, cho nên tỷ lệ lạm phát thường

có biến động lớn.Vì vậy, mục tiêu lạm phát nên được xác định bằng một khung nhất

định để có thể thích nghi với sự biến động của lạm phát. Đồng thời kinh nghiệm các

nước cũng chỉ ra rằng, việc duy trì một khung lạm phát hẹp, có thể dẫn tới sự biến động

của các công cụ hành chính mạnh hơn mức mà NHNN mong muốn và có thể dẫn tới sự

thiếu ổn định của các công cụ nếu những biến động này quá mạnh. Tuy nhiên, với một

khung lạm phát rộng sẽ làm cho công chúng nghi ngờ về cam kết của NHNN trong việc

thực thi mục tiêu lạm phát. Điều này làm phát sinh phương án tiếp cận thứ hai là mục

tiêu lạm phát là một con số cụ thể. Cách tiếp cận này là hạn chế tính linh hoạt của CSTT

trong việc đáp ứng lại các cú sốc, mà hiệu quả của chúng là làm cho tỷ lệ lạm phát bị

lệch ngoài mục tiêu đề ra. Một vấn đề nữa cần phải quan tâm là mục tiêu lạm phát có

thể thay đổi theo thời gian, có nghĩa là sử dụng thời gian như một công cụ để làm tăng

tính linh hoạt của chính sách mục tiêu lạm phát.

5. Việc xác định khung thời gian hợp lý đối với mục tiêu lạm phát: thường thì

khi theo đuổi chính sách này, NHTW khi thiết lập chính sách cần phải tính toán khung

thời gian như thế nào cho hợp lý; bởi vì, CSTT ảnh hưởng lên lạm phát với độ lệch về

thời gian tương đối dài; do đó, CSTT không thể đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập

tức mà chỉ có thể đạt được sau một thời gian nhất định. Ngoài ra các cú sốc kinh tế có thể

xuất hiện trong khoảng thời gian giữa thời điểm khởi xướng CSTT và thời điểm phát huy

tác dụng của nó.

Chương 2

Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào

từ năm 1994 đến nay

2.1. Thực trạng lạm phát ở Lào từ năm 1994 đến nay

Sau những cải cách bước đầu về giá 1985, Lào bước vào thực hiện kế hoạch 5

năm lần thứ II (1986-1990). Giai đoạn 1986-1987, CHDCND Lào thực hiện thống nhất

bảy tỷ giá hối đoái chính thức khác nhau được áp dụng như: tỷ giá cho dự án, tỷ giá cho

các hoạt động thương mại, hoạt động du lịch, tiền gửi về nước, tỷ giá cho các công ty

hỗn hợp xuất nhập khẩu... Do những bất cập mà việc theo đuổi nhiều tỷ giá mang lại,

vào tháng 9 năm 1987, Chính phủ đã hạ xuống còn bốn tỷ giá. Đến giữa năm 1988, Lào

đã thiết lập tỷ giá hối đoái thống nhất và duy nhất là 400$/ Kíp, và từ những năm 1990

trở lại đây thì tỷ giá luôn ở mức 720 Kíp/ USD [25, tr. 110-111].

Tính từ thời kỳ năm 1990 - 1994, Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới,

tình hình kinh tế-xã hội Lào phát triển tương đốt nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng

kinh tế (GDP) bình quân hàng năm tăng khoảng 6,5%, trong đó nông nghiệp tăng 3,4%;

công nghiệp 13% và dịch vụ 7%. Lạm phát đã giảm xuống so với trước. Tỷ giá hối đoái

tương đối ổn định, khoảng 900 Kíp/1USD. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1995 đến 1999

tình hình kinh tế của Lào đã có chuyển biến không lành mạnh. Tốc độ tăng trưởng GDP

có xu hướng chậm lại và giảm dần, năm 1998 tăng 4%. Tỷ lệ lạm phát tăng lên từ hai

con số đến ba con số, tháng 6/1998 tỷ lệ lạm phát lên tới 101,57%; vào tháng 12/1998 tỷ

lệ lạm phát là 142%, tỷ lệ lạm phát thời điểm cao nhất trong lịch sử của Lào là 167%

vào tháng 3/1999 và bùng nổ trở thành siêu lạm phát năm 1998-1999. Xuất khẩu, đầu tư

trực tiếp, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn và tỷ

giá hối đoái biến động không bình thường. Chỉ số giá cả tăng trung bình hàng năm ở

mức 38,54% - 88,02%. Lạm phát cao đã làm các doanh nghiệp trong nước và nước

ngoài hoạt động khó khăn; kinh doanh kém hiệu quả, các nhà đầu tư nản lòng. Ngân

hàng thương mại thiếu tiền mặt, dư nợ quá hạn cao, đứng trước nguy cơ đổ vỡ.

Tuy nhiên, sau khi siêu lạm phát có những tác động tiêu cực cho kinh tế -xã hội thì

chính sách chống lạm phát, kiềm chế và đẩy lùi siêu lạm phát, tiến tới kiểm soát lạm phát

mới trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng ở Lào.

Trước tình hình đó, Chính phủ Lào đã có nhiều biện pháp kiểm chế lạm phát,

đặc biệt trong năm 1997-1999. Kiểm soát lạm phát là một trong những vấn đề ưu tiên

trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Để bình ổn giá cả, Nhà

nước đã áp dụng đồng bộ các biện pháp tài chính, tiền tệ và đã có được những thành

công trong việc đẩy lùi siêu lạm phát vào những năm cuối thập kỷ 90 và tiếp tục chống

lạm phát vào đầu những năm 2000. Lạm phát đang ở mức 128,38% (tính trung bình

năm) vào năm 1999 giảm xuống rõ rệt vào năm 2000 còn 23,14% (tính trung bình năm)

và đến năm 2001 giảm xuống còn 7,81% (tính trung bình năm). Năm 2002 là 10,63%;

2003 là 15,49%; 2004 là 10,46% và cuối tháng 6/2005 tỷ lệ lạm phát là 8%, theo kế

hoạch năm 2005 tỷ lệ lạm phát là 8,5%.Trong thời gian trước những năm 2000, CSTT

tác động đến giá cả thị trường chủ yếu thông qua việc điều hòa lưu thông tiền tệ và

chính sách lãi suất. Điều đáng nói ở đây là do chưa thấy rõ tầm quan trọng của chính

sách lãi suất trong việc điều chỉnh kinh tế, giảm lạm phát nên ngân hàng quy định lãi

suất huy động của dân thấp xa so với tốc độ lạm phát; đồng thời, áp dụng lãi suất cho

vay với nền kinh tế cũng thấp hơn so với lạm phát và thấp hơn lãi suất tiền gửi. Chính

sách lãi suất âm này đã làm tê liệt hoạt động của ngân hàng. Phần lớn tiền mặt nằm

ngoài lưu thông hoặc bị cất giữ trong tay dân chúng, trong khi các đơn vị được vay vốn

với lãi suất thấp nên cũng không quan tâm tới hiệu quả sử dụng vốn thậm chí còn dùng

nguồn vốn vay để đầu cơ tích trữ vật tư, hàng hóa. Kết quả là lạm phát ngày càng tăng.

Phải đến tháng 7 năm 2000, sự thay đổi trong điều hành lãi suất mới góp phần ngăn

chặn lạm phát. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, CSTT đang được xây dựng đúng

hướng và góp phần không nhỏ vào kiểm soát lạm phát mặc dù không tránh khỏi những

hạn chế, vướng mắc.

128.38

Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát từ năm 1994 - 6/2005

90.12

Tỷ lệ Năm l.phát

1994 6.74

1995 19.65

1996 15.84

1997 19.50

19

15.

23.

15.

10.

19.

10.

5.

6.

1998 90.12

7. 7. 81

13 0 12 0 11 0 10 0 9 0 8 0 7 0 6 0 5 0 4 0 3 0 2 0 1 0 0

1999 128.38

1997

1998

2000

2001

2002

2003

1994

1995 199 6

199 9

200 4

6/200 5

2000 23.14

2001 7.81

2002 10.63

2003 15.49

2004 10.46

6/2005 5.35

Biểu 2.1: Tỷ lệ lạm phát từ 1994 - 6/2005

2.1.1. Giai đoạn 1994 - 1996

2.1.1.1. Tỷ lệ lạm phát

Trong thời kỳ này lạm phát bắt đầu có biểu hiện biến động từ một con số đến

hai con số, đặc biệt là vào tháng 8/1995 tỷ lệ lạm phát lên tới 27,64%, đến cuối năm

1996 lạm phát là 15,84% nhưng chỉ số giá cả lại tăng lên tới 16,96%, tỷ giá hối đoái

cũng có sự biến động năm 1994 là 1USD = 772 LAK (Kíp Lào) đến cuối năm 1996 là

1USD = 948,58 Kíp trong 2 năm đồng Kíp Lào mất giá trung bình 11,9%. Qua những

con số nêu trên có thể thấy sự biểu hiện của lạm phát, sự tăng trưởng kinh tế có xu

hướng giảm xuống từ 8,1% (1994) xuống 7% (1995) và đến 6.8% (1996) và tác động

của lạm phát trong giai đoạn này không có tác hại đến nền kinh tế của Lào, lạm phát

trong thời kỳ này đã chuyển từ dạng ẩn sang mở. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về

lạm phát để đưa ra những giải pháp kiềm chế trong thời gian này là hết sức cần thiết, và

là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan có liên quan đặc biệt là NHNN Lào. Chúng ta có

thể xem tỷ lệ lạm phát dưới đây:

Bảng 2.2: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ năm 1994 - 1996

Đơn vị tính: %

Nă T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN m

199 7.45 7.34 9.34 7.98 7.29 6.95 5.11 5.01 5.88 5.29 7.07 6.78 6.74

4

199 7.93 8.51 10.5 14.7 21.1 18.9 19.5 24.6 27.0 26.9 26.8 25.6 19.6

4 5 2 9 6 7 5 8 6 6 5 5

199 27.3 28.9 26.1 21.6 16.7 17.3 15.4 8.44 7.01 7.56 9.40 12.7 15.8

6 5 7 8 3 1 5 1 7 4

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.

Bảng 2.3: So sánh tỷ lệ tăng trưởng của GDP, tỷ lệ lạm phát

và chỉ số giá cả 1994-1996

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu 1993 1994 1995 1996

GDP 5.9 8.1 7.0 6.8

Tỷ lệ lạm phát 6.28 6.74 19.65 15.84

Chỉ số giá cả 11.47 12.24 14.64 16.96

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.

- Vào năm 1994 tỷ lệ lạm phát chỉ ở mức một con số, còn chỉ số giá cả ở mức

hai con số, cụ thể là: Tính cả năm tỷ lệ lạm phát là 6,74%, chỉ số giá cả là 12,24%. Nói

chung mức độ tỷ lệ lạm phát đã nêu trên cũng không ảnh hưởng đến nền kinh tế của

Lào.

- Vào năm 1995- 1996 tỷ lệ lạm phát có sự biến động từ một con số đến hai con

số, tính trung bình năm (năm 1995 tỷ lệ lạm phát là 19,65% và đến năm 1996 là

15,84%).

2.1.1.2. Nguyên nhân của lạm phát

Ngày 2 tháng 12 năm 1975, nước CHDCND Lào ra đời, trải qua các cuộc chiến

tranh nửa thế kỷ, nền kinh tế Lào ở trong tình trạng yếu kém về mọi mặt, chủ yếu dựa vào

viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đến năm 1986 Đại hội IV

Đảng Nhân dân cách mạng Lào đánh dấu một bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện và sâu

sắc của nền kinh tế Lào đó là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cùng với xu thế mở của và hội

nhập với quốc tế.

Như chúng ta biết từ những năm 80, nền kinh Lào mọi mặt điều yếu kém chủ

yếu là dựa vào việc hỗ trợ của nước ngoài, sản xuất hàng hóa trong nước coi như không

có. Đến năm 1991, Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khai mạc, đánh giá

thành tựu đạt được trong những năm qua và rút ra những khuyết điểm còn tồn tại trong

quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV. Đại hội Đảng lần thứ V đã đề

ra những chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đổi mới hệ thống

chính trị nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Nền kinh tế đã

khởi sắc và đã có chiều hướng phát triển rõ rệt, GDP tăng trưởng tương đối ổn định,

trung bình là 7,3% (từ 1994 - 1996), chủ yếu là sự phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp

và dịch vụ. Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng góp phần không ít vào chiến lược

phát triển kinh tế vĩ mô của đất nước.

Nguyên nhân lạm phát thời kỳ này bao gồm:

1. NHNN áp dụng CSTT nới lỏng về tỷ giá hối đoái có nghĩa là thị trường tự do

quyết định tỷ giá. NHNN là người quản lý chỉ số giá cả tăng lên theo tỷ giá hối đoái. Chính

phủ đã phải đưa ra một số biện pháp tăng cầu tiêu dùng nhằm tạo ra sự phát triển nhịp

nhàng giữa chống lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

2. Chính phủ phải chi tổng vốn đầu tư 198,2 tỷ Kíp Lào, so với năm trước tăng

35%, chủ yếu là chi xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp chiếm

phần lớn, làm cho việc cung tiền tiền lưu thông trong xã hội tăng lên.

3. Đầu tư nước ngoài vào Lào có dấu hiệu tăng lên so với năm trước, vì năm

1994 Lào đã có luật đầu tư nước ngoài vào Lào, đây cũng là một lý do làm cho lượng

tiền trong xã hội tăng lên [29]. Thể hiện qua con số sau đây:

Bảng 2.4: Tình hình đầu tư nước ngoài từ 1990-1996

Đơn vị tính: Triệu USD

Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996

Số dự án 48 69 101 157 112 32 53

Số vốn đăng ký 91.62 123.10 110.71 125.7 547 603 975

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.

Như vậy, sự gia tăng của chi tiêu Chính phủ, đầu tư trong nước và đầu tư nước

ngoài tăng làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng làm cho giá cả tăng.

2.1.2. Giai đoạn 1997-1999

2.1.2.1. Tỷ lệ lạm phát

Trong giai đoạn này, tỷ lệ lạm phát là ở mức cao nhất trong lịch sử của Lào

sau Đại hội IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đặc biệt là trong giai đoạn 1997-

1998 Lào tiếp tục chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính trực tiếp của các nước

trong khu vực. Năm 1997 GDP tăng 7,2% nhưng 1998 GDP giảm xuống còn 4% và

trong tháng 3-1999 tỷ lệ lạm phát đột biến lên tới 167 % trở thành (siêu lạm phát), tỷ

giá hối đoái giữa đồng Kíp và đồng USD của NHNN quy định và thị trường tự do

trong năm 1996 mất giá 5%, năm 1997 mất giá 26,7%, năm 1998 mất giá 61,94% và

đến năm 1999 mất giá 54,34%, trong thời điểm nói trên nếu so sánh sự mất giá với

đồng Baht Thái Lan cũng khá cao (xem bảng 2.5). Sau thời kỳ tăng nhẹ nhưng liên

tục và tương đối đều đặn từ đầu năm, vào 1-1997 đến cuối quý I năm 1999 tỷ giá hối

đoái giữa đồng Kíp và USD đã tăng vọt lên đến 6.000 K/USD vào tháng 4, sau đó

tăng vọt lên đỉnh cao 9.320 K/USD vào tháng 7 năm 1999. Cũng trong thời gian đó,

chỉ số giá cả cũng tăng vọt lên 167% vào tháng 3 năm 1999 từ mức 11,4% vào 1-

1997. Còn năm 1998 là 62,75% trong tháng 5-1998 và đến tháng 6-1998 tăng vọt lên

đến 101,5%, thì chỉ số giá cả bình quân hàng năm từ 1997 -1999 tương ứng là

19,31%, 87,35% và 133,9%. Rõ ràng năm 1999, nhất là trong nửa đầu năm 1999,

mức lạm phát của Lào nghiêm trọng nhất trong giai đoạn 1997 - 1999.

CHDCND Lào vẫn là nước nông nghiệp, nông nghiệp chiếm tới khoảng 52%

GDP trong mấy năm trở lại đây; công nghiệp chiếm chỉ khoảng 23% và dịch vụ là trên

25%. Tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng

chung của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ quan trọng cho việc thực hiện các giải

pháp tiền tệ - tài chính chống lạm phát. Thực tế này cũng chỉ ra rằng, CHDCND Lào

còn có tiềm năng lớn trong tăng trưởng của khu vực công nghiệp và dịch vụ, đồng thời

có thể giảm tỷ lệ của khu nông nghiệp trong GDP nhưng tăng chất lượng của phát triển

nông nghiệp thông qua chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, áp dụng khoa học - công

nghệ , lựa chọn các loại cây giống, các con giống có năng suất cao vào trong lĩnh vực

này.

Bảng 2.5: Tỷ lệ mất giá đồng Kíp Lào so với USD và Baht Thái Lan

Đơn vị tính: %

Năm 1996 1997 1998 1999

Kíp/USD -5 -29 -61,94 -54,34

Kíp/Baht -4,8 -14,06 -50,48 -56,88

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.

Bảng 2.6: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ năm 1997-1999

Đơn vị tính: %

T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN Nă

m

1997 11.4 11.9 12.4 12.2 16.2 15.9 19.5 25.6 27.6 26.8 25.1 26.5 19.5

4 7 4 8 3 3 7 9 4 5 2 6 0

1998 31.3 44.6 45.5 62.4 162.7 101.5 103.8 99.5 106.3 112.5 136.2 142.0 90.1

0 5 5 9 7 7 3 4 3 5 8 1 2

1999 150.8 150.4 167.0 159.2 155.4 128.6 135.7 140.1 122.6 121.1 94.3 86.4 128.3

0 2 6 1 4 6 1 7 2 0 3 6 8

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.

Bảng 2.7: Tỷ lệ GDP, lạm phát và chỉ số giá cả từ năm 1997- 1999

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu 1997 1998 1999

GDP 7.2 4.0 5.2

Tỷ lệ lạm phát 19.50 90.12 128.38

Chỉ số giá cả 20.27 38.54 88.02

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.

2.1.2.2. Nguyên nhân lạm phát (giai đoạn 1997 - 1999)

Nói chung, lạm phát ở Lào là hiện tượng rất phức tạp, phản ánh cả ba cấp độ

nguyên nhân lạm phát. (1) Lạm phát liên quan đến tiền tệ (tức là phát hành tiền để bù

đắp thâm hụt ngân sách). (2) Lạm phát liên quan đến giá cả (tức là sự bất cân đối về

cung - cầu hàng hóa, kể cả tiền tệ, tín dụng và quan hệ kinh tế với bên ngoài). (3)

Lạm phát liên quan tới cơ cấu (tức là những yếu kém về cơ cấu, thể chế thị trường và

năng lực quản lý vĩ mô nền kinh tế). Thực tế có những nguyên nhân sau:

1. Khủng hoảng kinh tế của các nước trong khu vực chủ yếu là từ Thái Lan, vì

Lào nhập khẩu hàng tiêu dùng của Thái chiếm 95%, đặc biệt là khủng hoảng trực tiếp

về lĩnh vực tài chính ngân hàng, riêng tỷ giá hối đoái giữa đồng kíp Lào và Bath Thái

Lan đã làm cho nền kinh tế Lào chậm phát triển so với những 3 năm trước GDP tính

trung bình = 7,3% còn 1997-1999 tính trung bình GDP = 5,46%,

2. ảnh hưởng lớn của thiên tai lũ lụt ở miền Trung và miền Nam, làm thiệt hại

cho việc phát triển kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và các lĩnh vực khác mà

chính phủ đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng làm hệ thống thủy lợi để phục vụ cho sản

xuất nông nghiệp đảm bảo lương thực thực phẩm trong những năm tới. Chính vậy nhà

nước đầu tư số tiền lớn vào lĩnh vực xây dựng cơ bản quá mức cho phép.

3. Thâm hụt ngân sách: Thâm hụt ngân sách nhà nước đã được giảm xuống

đáng kể, tỷ lệ thâm hụt NS/GDP đã giảm từ 12,58% năm 1998 xuống 8,9% năm

1999 và 6,4% năm 2000, thể hiện rất rõ nỗ lực của Chính phủ Lào trong việc sử

dụng các biện pháp thắt chặt tài chính nhằm chống lạm phát và ổn định nền kinh tế,

mặc dù việc thắt chặt này không phải dễ dàng do sức ép chi tiêu ngân sách rất lớn,

nhất là tỷ trọng chi tiêu NSNN cho đầu tư phát triển (PIP) trên tổng chi NSNN của

Lào rất lớn,chiếm khoảng 50% tổng chi NSNN. Nợ nước ngoài tăng lên nhanh từ

51,6% trong năm 1997, 101% trong năm 1998 và 73,4% năm 1999, thực tế xem bảng

dưới đây:

Bảng 2.8: Nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách

và thâm hụt thương mại/ GDP từ 1997-2004

Đơn vị tính: %

Chi tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

Nợ NNG/ GDP 51.6 101 73.4 65.7 69.1 70.9 65.6 81.7

TH TM/ GDP -18.9 -21.5 -17.3 -15.6 -10.9 -8.1 -5.8 -6.2

TH NS/ GDP -8.35 - -8.97 -6.5 -7.5 -5.1 -7.78 -3.8

12.58

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004

4. Thâm hụt lớn thương mại, nếu tính 3 năm từ 1996-1999 thâm hụt thương mại

của Lào lên tới 1.162,8 triệu USD thâm hụt thương mại quá lớn, sản xuất hàng hóa trong

nước yếu kém. Chính vì vậy, 95% hàng hóa nhập khẩu là từ nước ngoài đặc biệt là Thái

Lan sau đó nền kinh tế Lào lại bị Đô la hóa và Baht hóa nặng nề, đồng thời với việc lưu

hành trôi nổi một lượng lớn USD và tiền Baht nằm ngoài sự kiểm soát ngân hàng làm cho

giá trị đồng Kíp mất giá. Một sự tăng cung ứng tiền kíp trên thị trường có thể rất nhạy cảm

tạo ra sức ép làm giảm giá đồng kíp và đẩy lạm phát tăng lên xem bảng dưới đây.

Bảng 2.9: Xuất nhập khẩu và thâm hụt thương mại năm 1996-1999

Đơn vị tính: triệu USD

Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999

Xuất khẩu 323 317 341 301,5

Nhập khẩu 690 648 553 554.3

Thâm hụt thương mại -367 -331 -212 -252,8

Nguồn:Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.

5. Sự yếu kém của hệ thống tài chính, nhất là hệ thống ngân hàng, chưa thực

sự đóng vai trò quyết định trong lưu thông tiền tệ và điều hành thị trường tiền tệ, tín

dụng, quản lý ngoại hối lỏng lẻo dễ gây rối loạn thị trường ngoại tệ. Mặt khác, do

gắn chặt với đồng Bhat, khi khủng hoảng tài chính nổ ra ở Thái Lan từ mùa hè 1997,

sự mất giá của đồng Bhat kéo theo sự mất giá của đồng Kíp Lào trong hoàn cảnh thị

trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng; các NHTM, nhất là các NHTM quốc doanh

chưa thực sự là những tác nhân chủ chốt hoạt động trên thị trường tiền tệ tín dụng,

hoạt động kém hiệu quả, nợ không sinh lời quá lớn.

6. Năng lực của NHNN Lào chưa đủ mạnh cả về luật NH, luật các tổ chức tín

dụng, cơ cấu tổ chức, thể chế; chưa có các chính sách và quy chế cần thiết để giám sát

và điều tiết thị trường tiền tệ; chưa có các công cụ đắc lực, hoặc đã có một số công vụ

nhưng còn kém hiệu lực để điều tiết thị trường tiền tệ, tín dụng. Việc NHNN phát hành tín

phiếu ngân hàng lãi suất cao (5%/tháng, tức 60%/ năm) trực tiếp huy động từ dân và

doanh nghiệp vào cuối năm 1999. Xét về bản chất là biện pháp tài chính hơn là biện

pháp tiền tệ (mà lẽ ra là yêu cầu các NH thương mại huy động lãi tiết kiệm với mức lãi

suất cao. Nhà nước sẽ bù đắp mức chênh lệch lãi suất cho các NHTM); từ đó, chưa thực

sự trao trách nhiệm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung, tăng tính linh hoạt về

chuyên môn của các ngân hàng thương mại và trách nhiệm của NH nhà nước nói riêng.

7. Trong bối cảnh lạm phát cần xem xét kỹ thêm việc phối hợp thực hiện nhịp

nhàng các biện pháp chính sách tiền tệ (cung ứng tiền, dự trữ bắt buộc, lãi suất, tín phiếu

và kỳ phiếu ngân hàng...) và biện pháp chính sách tài chính (thuế, chi tiêu Chính phủ, trái

phiếu kho bạc, công trái). Thị trường tiền tệ kém phát triển, quản lý vĩ mô đối với tiền tệ

yếu tất yếu làm cho nạn đầu cơ tiền tệ gia tăng gây rối loạn thị trường tiền tệ nói riêng và

hệ thống tài chính nói chung.

8. Từ năm 1998, đặc biệt là năm 1999, lượng vốn ODA và FDI vào Lào đã giảm

sút rất mạnh làm hẫng hụt lớn, đột biến cán cân vĩ mô đã được hình thành trước đó,

trong đó có cân đối về tiền tệ, đồng thời ngoại tệ trở nên khan hiếm hơn nhiều so với các

năm trước đây, tức thời kỳ giá trị đồng Kíp được củng cố. Giá ngoại tệ do vậy tăng lên là

rất yếu. Tình hình này kết hợp với sự thiếu kiểm soát ngoại hối càng đẩy giá ngoại tệ lên

cao, đến lúc bùng lên lạm phát.

9. Việc phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách, nhất là chi cho khối lượng lớn

các công trình thuộc chương trình đầu tư công cộng đã làm trầm trọng thêm lạm phát, chưa

kể việc chi tiêu lớn cho đầu tư công cộng, cho nhiều công trình lớn và bù đắp thâm hụt ngân

sách liệu có đem lại hiệu quả thiết thực hay không.

Nói chung các nguyên nhân và các vấn đề trên có thể nhận thức được tương đối

dễ dàng, vì chúng bao giờ cũng biểu hiện rõ ràng thông qua các hiện tượng (chỉ số kinh

tế vĩ mô) có thể quan sát được.

2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay

Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế-xã hội của Lào có nhiều chuyển biến tích

cực theo hướng ổn định và phát triển hơn những giai đoạn trước năm 2000, tốc độ tăng

trưởng kinh tế năm 1999 là 7,28% và năm 2000 là 5,81%, năm 2001 là 5,76%, năm

2004 là 5,91%.

2.1.3.1. Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2000 đến nay

Sau tháng 10 năm 1999, tỷ lệ lạm phát tại Lào đã giảm mạnh từ ba con số

xuống hai con số và đến nay đã ổn ở mức hai con số và có khi ở mức một con số, năm

1999 giá cả lại có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về lạm phát

để đưa ra những giải pháp kiềm chế. Từ sau năm 1999, chúng ta đã kiểm soát được lạm

phát ở mức 2 con số và 1 con số.

Bảng 2.10: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ 2000-2004

Đơn vị tính: %

Nă T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN

m

200 10.5 23.1 75.7 58.7 45.4 34.8 31.0 21.4 10.5 6.63 9.61 8.35 11.0

3 7 3 6 4 0

200 10.1 9.03 8.41 7.80 7.91 6.69 6.93 8.08 6.25 7.09 8.22 7.52 7.81

1

200 12.6 14.0 15.1 10.6 7.18 7.22 7.17 7.43 6.68 9.07 11.2 14.4 14.2

3 3 5 0 9 3 2

200 14.8 13.6 12.6 15.4 15.3 15.6 17.8 17.8 18.2 16.7 14.9 14.4 14.4

0 8 7 5 8 3 9 3

200 12.5 12.9 11.9 11.9 12.3 12.6 12.1 9.21 7.38 6.77 8.13 8.66 10.4

4 2 3 6

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.

Bảng 2.11: So sánh tỷ lệ tăng trưởng GDP, lạm phát và CPI năm 2000-2004

Đơn vị tính: %

Chi tiêu 2000 2001 2002 2003 2004

GDP 5,81 5.76 5.91 5.84 6.20

Tỷ lệ lạm phát 23.14 7.81 10.63 15.49 10.46

Chỉ số giá cả 108.38 116.64 129.26 149.28 164.89

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.

2.1.3.2. Nguyên nhân lạm phát

Về mặt lý thuyết, mức giá gia tăng có thể do một số các nguyên nhân:

1. Nhu cầu tiêu dùng tăng cao hơn mức cung ứng, với nguyên nhân này (nếu

cung ứng tiền không tăng thêm), thì giá cả sẽ tăng đến mức độ khi cầu hàng hóa được

hạn chế bằng mức cung do giá tăng.

2. Do chi phí sản xuất tăng làm giá thành sản phẩm tăng cao, qua đó làm tăng

mức giá bán.

3. Do cung tiền của NHTW quá mức và mức quản lý ngoại hối của nền kinh tế

Đô la hóa và Baht hóa cũng là một điều kiện quan trọng gây ra lạm phát. Về nguyên nhân

của lạm phát trong giai đoạn này ta có thể nhận xét như sau:

* Nguyên nhân khách quan:

1. Do nền kinh tế Lào là nền kinh tế nhập khẩu nên chịu tác động nhất định bởi

sự biến động giá cả trên thị trường thế giới. Trong 8 tháng đầu năm 2003 - 2004, giá cả

một số mặt hàng trên thế giới có biến động mạnh, như giá sắt thép, xăng dầu, phân bón,

nhựa... nên có tác động nhất định đến sự tăng giá thành sản phẩm một số mặt hàng sản

xuất tại Lào, nhất là chi phí vận chuyển hàng hóa, giá thành sản phẩm nông nghiệp, giá

vật liệu xây dựng v.v...

2. Xu hướng giảm lãi suất, và sự giảm giá của đồng USD trên thị trường quốc tế,

đã có tác động tích cực giảm chi phí khoản vay bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp và

tạo điều kiện thuận lợi để NHNN Lào bình ổn tỷ giá, qua đó góp phần giảm áp lực lạm

phát.

* Nguyên nhân chủ quan:

+ Nguyên nhân từ điều hành chính sách tài khóa:

1. Trong năm tài khóa 2001 - 2002, nhu cầu xây dựng cơ bản của Nhà nước

tăng quá lớn: Chi xây dựng cơ bản ngoài và vượt kế hoạch khoảng 1.798 tỷ Kíp. Đây là

nguyên nhân chính làm tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng, qua đó đã đẩy chỉ số giá xây

dựng nhà ở tăng 89,47% trong năm này. Để thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản này

ngân sách đã phát hành séc khống để thanh toán (thực chất là phát hành thêm tiền vào

lưu thông ngoài mức tính toán về cung ứng tiền hàng năm của NHNN Lào căn cứ vào

tốc độ tăng trưởng và lạm phát dự kiến 1 con số), đã làm tăng mức lạm phát trong năm

2001 - 2003 do độ trễ tác động của tiền cung ứng. Nguyên nhân này vừa xuất phát từ phía

cầu vừa xuất phát từ phía cung tiền tệ. Theo số liệu thống kê về việc đầu tư xây dựng cơ

bản quá mức dẫn đến phá vỡ các cân đối lớn của nền kinh tế, từ đó tác động tiêu cực đến

nền kinh tế. Sự mở rộng đầu tư quá mức không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

vững chắc mà còn góp phần đẩy lạm phát lên cao. Đến nay hậu quả đã tương đối rõ nét,

việc đầu tư quá mức trong các năm qua đã thực sự trở thành nhân tố cản trở mức tăng

trưởng kinh tế, gây ra sự mất cân đối lớn trong ngân sách và hoạt động ngân hàng cũng

như các ngành kinh tế khác.

2. Việc thất thu thuế và nguồn thu ngân sách: Trên thực tế, ba năm qua ngân

sách hụt thu so với kế hoạch 390 tỷ Kíp, song chi không giảm, khoản chi đầu tư xây

dựng cơ bản vượt và ngoài kế hoạch 1.798 tỷ, làm cho mất cân đối ngân sách ngày càng

trầm trọng (9% GDP). Đây là nguyên nhân quan trọng tăng nhu cầu chi tiêu trong xã

hội (thất thu thuế sẽ làm tăng thu nhập khu vực phi chính phủ, qua đó tăng nhu cầu chi

tiêu khu vực này; chi vượt tăng nhu cầu chi khu vực chính phủ), qua đó gây áp lực lạm

phát.

+ Nguyên nhân từ điều hành CSTT

1.Về điều hành tỷ giá: Từ năm 2000 đến nay, việc điều hành chính sách tiền tệ của

NHNN Lào về cơ bản đã kiểm soát được tỷ giá. Tỷ giá đã không còn là nhân tố làm gia

tăng lạm phát như những năm trước đây.Từ năm 2003 đến 2004 tỷ giá và CPI có sự biến

động không cùng chiều, nhất là tỷ giá giữa đồng Kíp với Đô la Mỹ. Từ năm 2000 - 2002, tỷ

lệ mất giá của đồng Kíp so với ngoại tệ ở mức 2 con số là tương đối cao, nhất là đối với

đồng Baht nên có tác động nhất định làm gia tăng giá thành sản phẩm (do nền kinh tế của

Lào chủ yếu là nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu hàng tiêu dùng từ Thái Lan chiếm tỷ trọng

cao đến 95% tổng giá trị nhập khẩu hàng tiêu dùng). Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay giá

trị đồng Kíp giảm giá không nhiều, song lạm phát vẫn tiếp tục ở mức cao hơn mức độ

giảm giá của đồng Kíp so với ngoại tệ, nên thực chất là đồng Kíp lên giá (tốc độ mất giá

của đồng Kíp so với Đô la Mỹ năm 2001 là 10,91%, năm 2002 là 11,4%, năm 2003 là

4,5%; năm 2004 là 0,7% và đến 6/2005 là 0,6%, tốc độ mất giá của đồng kíp so với

đồng Baht năm 2001 là 1,11%, năm 2002 là 14,7%; năm 2003 là 7,6%; năm 2004 là 0,9%

và đến 6/2005 là 0,9%). Do vậy, lạm phát trong năm 2003 đến nay không chịu tác động

bởi yếu tố tỷ giá.

2. Về cung ứng tiền và lãi suất: Mức trả lãi suất huy động cao từ tín phiếu của

NHNN Lào phát hành năm 1999 và kéo dài cho đến tận 3/2004 là hình thức tăng thêm

tiền phát hành mới vào lưu thông (mức lãi suất tuy có giảm dần từng năm từ 60%/năm

còn 24%/ năm vào 2002). Ngoài ra, năm 2002 NHNN Lào đã thanh toán khoảng 150 tỷ

tín phiếu phát hành trong năm 1999 cũng đã cung ứng thêm lượng tiền vào lưu thông.

Thêm vào đó, việc trả lãi suất huy động cao (tỷ lệ lãi suất thực trên 10%/năm) của các

NHTM cho các khoản tiền huy động làm tăng thêm thu nhập kích thích tiêu dùng. Do

vậy, việc cung ứng tiền và trả lãi suất cao là một trong những nguyên nhân tác động làm

tăng mức giá trong năm 2002 -2004 nhất là chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng mạnh

(18,76%) trong năm tài khóa 2002 - 2003 chịu tác động một phần bởi tăng mức thu

nhập từ lãi suất và tín phiếu đến hạn.

3. Mức độ Đô la hóa của nền kinh tế theo tiêu chí đánh giá của IMF (tỷ trọng

tiền gửi ngoại tệ/ tổng tiền gửi và tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ/M2) có xu hướng giảm mạnh

từ mức 78,24% và 64,4% năm 2000 xuống mức 66,49% và 52,6% tháng 5/2004. Tuy

nhiên, việc dùng ngoại tệ thanh toán mua bán hàng hóa với nhau trên thị trường không

suy giảm, mặc dù cơ chế quản lý ngoại hối có thắt chặt việc thanh toán này, song hiệu

lực áp dụng thấp. Thực tế NHNN Lào chưa kiểm soát được việc thanh toán với nhau

bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp cũng như của dân cư. Do vậy, việc kiểm soát lạm

phát qua việc khống chế mức tăng tiền tệ của NHNN Lào rất hạn chế. Nguồn kiều hối

tăng mạnh hàng năm từ mức 0,6 triệu USD năm 2000 lên tới 14,8 triệu USD năm 2003

cũng phần nào giải thích việc tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế ngoài tầm

kiểm soát NHNN Lào ngày càng tăng và có tác động nhất định đến sự tăng giá.

4. Nợ quá hạn lớn và gia tăng liên tục từ năm 2000 đến nay (năm 2000 tỷ lệ nợ

xấu so với tổng dự nợ là 38%, năm 2001 là 35,7%, năm 2002 là 41,9%, năm 2003 là

48%). Tính đến 12/2003 nợ quá hạn tăng 205% so với mức nợ xấu cuối năm 2000. Tình

trạng nợ quá hạn gia tăng liên tục trong hệ thống ngân hàng, phản ánh chất lượng tín

dụng cho tăng trưởng kinh tế không có hiệu quả, một lượng tiền lớn được đưa ra nền

kinh tế đã không tạo ra sản phẩm, mà tạo ra sức ép lạm phát.

+ Nguyên nhân từ phía cung hàng hóa và nhân tố khác:

1. Cung hàng hóa về lương thực, thực phẩm giảm mạnh, tỷ trọng trong tổng

hàng hóa nhập khẩu giảm từ 32,6% năm 2000 xuống còn 9,9% năm 2002 và khoảng 4%

năm 2003, trong khi đó sản lượng lương thực, thực phẩm sản xuất trong nước tuy có

tăng, nhưng mức tăng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, do vậy cũng có tác

động đẩy giá lương thực thực phẩm tăng mạnh trong năm 2003 và 8 tháng đầu năm

2003 - 2004 ta có thể xem bảng sau đây:

Bảng 2.12: Chỉ số giá tiêu dùng từ năm 2001-2004

(Tính theo mức giá năm 1999= 100 tính theo năm dương lịch)

Đơn vị tính: %

Năm 2001 2002 2003 2004

Chỉ số bình quân, trong đó 7,81 10,66 15,46 12,39

- Lương thực, thực phẩm 6,69 9,62 15,23 14,6

- Phi lương thực, thực phẩm 8,88 11,50 15,65 10,54

- Chỉ phí xây dựng nhà cửa 24,28 58,85 42,84 21

- Đồ dùng gia định 7,97 11,54 13,43 6,25

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.

2. Giá điện điều chỉnh tăng liên tục từ năm 2000 đến nay để đảm bảo kinh

doanh không bị lỗ của ngành điện, do vậy cũng có tác động tăng giá trong hơn 3 năm qua.

Tóm lại, từ phân tích trên cho thấy, lạm phát của Lào giai đoạn 2000 - 2004 đã

giảm nhiều so với thời kỳ trước năm 2000, tuy nhiên từ năm tài khóa 2001 - 2002 đến

nay luôn ở mức trên 2 con số vượt với chỉ tiêu lạm phát đề ra và còn cao so với mức

tăng trưởng kinh tế dưới 6%. Nguyên nhân sâu xa là do nền sản xuất hàng hóa còn yếu

cùng với tiềm lực tài chính quốc gia và cơ chế quản lý tài chính ngân sách, điều hành

CSTT còn quá nhiều bất cập, đặc biệt là cơ chế quản lý ngân sách. Nguyên nhân trực

tiếp và chủ yếu dẫn đến lạm phát trên 14% trong hai năm tài khóa 2001 - 2003, chủ yếu

là do nguyên nhân chủ quan trong điều hành chính sách tài khóa [38].

2.2. Thực trạng điều hành Chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở

Lào trong những năm qua

2.2.1. Thực trạng điều hành giai đoạn 1994-1996

Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, hệ thống NHNN Lào cũng bắt đầu quá trình

chuyển đổi cho phù hợp với xu thế chung. Đặc trưng cơ bản nhất là việc tách hệ thống ngân

hàng 1 cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp, trong đó, NHNN giữ chức năng là ngân hàng

phát hành và quản lý vĩ mô đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, còn các NHTM làm

chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Sự chuyển đổi này bắt đầu từ tháng

3/1990 nhưng do chưa xây dựng được hệ thống văn bản pháp quy đối với cơ chế hoạt động

của hệ thống ngân hàng nên chức năng NHTW của NHNN vẫn chưa được phát huy còn hệ

thống NHTM thì mặc dù tăng về số lượng nhưng chất lượng hoạt động lại kém cỏi. Cho tới

khi pháp lệnh về ngân hàng và nghị định NHTM được ban hành, hoạt động của hệ thống

mới bắt đầu được đổi mới và phát triển. Từ năm 1991, NHNN Lào mới bắt tay vào việc

xây dựng CSTT. Mục tiêu căn bản của CSTT thời kỳ này là giữ ổn định giá trị đồng Kíp

Lào và góp phần tăng trưởng kinh tế và việc xây dựng CSTT chủ yếu dựa vào lượng tiền

cung ứng nên việc xác định khối lượng tiền cần cung ứng hàng năm phải phục vụ cho hai

mục tiêu chính đó là:

Công cụ và biện pháp phòng chống lạm phát trong thời kỳ này như sau:

1. Công cụ lãi suất: NHNN đã tăng lãi suất tiết kiệm lên cao nhằm mục đích thu

hồi bớt tiền trong lưu thông. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm

phát làm cho lãi suất thực lớn hơn 0. Cung tiền giảm làm cho lãi suất cho vay cao lên,

tiêu dùng và đầu tư giảm, sản xuất bị thu hẹp, giá cả giảm xuống.

Trong thời kỳ này Nhà nước thu được một lượng tiền lớn. Tuy nhiên, do lãi suất

cho vay cao nên sản xuất bị ngưng trệ, nền kinh tế không phát triển được, thất nghiệp

gia tăng. Để giải quyết tình trạng này, Nhà nước từng bước giảm dần lãi suất cho vay

thông qua giảm dần lãi suất huy động. Thời kỳ này, lãi suất được xem như một công cụ

quan trọng nhất của CTTT.

Bảng 2.13: Lãi suất tiền gửi và cho vay năm 1994-1996

Đơn vị tính: % tháng

Chi tiêu 1994 1995 1996

Lãi suất tiền gửi bình quân tháng 12 16 17

Lãi suất cho vay bình quân tháng 20 23 24

Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1997.

2. Công cụ tỷ giá: Trong thời điểm này tỷ giá hối đoái có sự biến động mạnh.

Tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định giá trị đồng Kíp Lào vì trên đất Lào,

người Lào chưa hoàn toàn tiêu tiền Lào. Nếu tỷ giá không được xác định hợp lý và điều

hành không tốt sẽ dẫn đến hiện tượng đầu cơ ngoại tệ. CSTT không còn ý nghĩa nữa. Vì

lẽ đó, ở Lào tỷ giá được coi như một giải pháp hỗ trợ để thực hiện mục tiêu CSTT.

Bảng 2.14: Tỷ lệ mất giá đồng kíp Lào/ USD và đồng Baht Thái

năm 1994-1997

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997

Kíp/USD -0,5 -23 -5 -29.5

Kíp/Baht -0.8 -0.22 -4.8 -14.0

Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1997.

Năm 1994, hệ thống tỷ giá hối đoái nhiều tầng được hợp thành một loại tỷ giá

chính thức và do NHNN điều hành. Việc áp dụng hệ thống tỷ giá này làm cho nhu cầu

tích trữ hàng hóa, vàng, đô la giảm khiến đường tổng cầu dịch chuyển sang trái và

xuống dưới, chỉ số giá cả giảm xuống.

3. Đầu năm 1995 do tình hình lạm phát có biến động mạnh NHNN Lào cấm các

NHTM cho vay quá 25% tổng dư nợ và công cụ dự trữ bắt buộc từ năm 1994, dự trữ bắt

buộc trở thành công cụ điều hành CSTT chủ yếu của Lào. Nhằm thực hiện chính sách

thắt chặt tiền tệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD được công bố vào tháng 6/1994 là

10%.

2.2.2. Thực trạng điều hành giai đoạn 1997-1999

Đến cuối năm 1998 mức cung ứng tiền tăng 113,2% và tín dụng cho tư nhân

tăng lên 87,9%. Sự tăng lên của khối lượng tín dụng trong năm 1998 là một lý do làm

cho lạm phát tăng nhanh, từ đó NHNN đã áp dụng CSTT tạm thời để chống lạm phát.

1. Ra công văn cho các NHTM nâng lãi suất tiền gửi thấp nhất từ 16% - 19% và

từ 19% - 22%;

2. Ra quyết định cho các NHTM cho vay tín dụng không quá 10% của tổng dư

nợ tháng 12 năm 1997, trong từng tháng của năm 1998;

3. NHNN đã xâm nhập vào việc phát hành trái phiếu kho bạc và phát hành trái

phiếu NHNN đến cuối năm 1998 tổng giá trị 47,7 tỷ [30].

Đến cuối năm 1999, tỷ lệ cung ứng tiền 78,5% cho vay tín dụng tư nhân tăng

74,3%, sự tăng lên của tín dụng năm 1999 làm cho tỷ lệ lạm phát tăng lên nhanh. Vì vậy

NHNN Lào đã áp dụng CSTT để chống lạm phát cụ thể như sau:

* Ngân hàng Nhà nước Lào phát hành trái phiếu kho bạc với lãi suất 24%- 30%,

đến cuối năm 1999 tổng giá trị 32,7 tỷ Kíp, phát hành trái phiếu NHNN Lào với lãi suất

26- 30- 60%, tổng giá trị 37,36 tỷ Kíp và huy động vốn với lãi suất ưu đãi là 48%- 60%.

Trong năm 1999 đã thực hiện hai lần, lần thứ nhất là cuối tháng 10 đến tháng 11 năm 1999;

lần thứ hai đầu tháng 12 đến cuối tháng 12 năm 1999 cả hai lần huy động đã thu được

132,37 tỷ kíp [31].

Bảng.2.15: Lãi suất tiền gửi từ 1998-1999

Đơn vị tính: %

1998 1999 Chỉ tiêu

22% 6- 12% Tiền gửi tiết kiệm

Tiền gửi có kỳ hạn

19- 23% 12- 15% 3 tháng

19- 24% 14- 20 % 6 tháng

19- 25% 16- 24% 12 tháng

24% 24- 27% Trên 1 năm

Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Nhà nước lào năm 1999.

Bảng 2.16: Tỷ lệ mất giá đồng Kíp Lào/ USD và Baht Thái năm 1997-2004

biểu giá kip/usd và kip/baht

Kịp/US Kíp/Ba Năm D ht

1997 -29,5 -14,0

tỉ giá kíp/us d

1998 -61,9 -50.4

1999 -54,3 -56,8

2000 -3,1 -3,08

tỉ giá kíp/bah t

2001 -10,9 -1,11

2002 -11,4 -14,6

Biểu 2.2: Tình hình mất giá đồng Kíp/ USD và Kíp/ Baht Thái Lan 1999-2002 2003 -4,5 -7,8 2.2.3. Thực trạng điều hành giai đoạn 2000 đến

nay

Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2000 Chính phủ cùng

với NHNN Lào đã áp dụng CSTT thắt chặt, thận trọng linh hoạt và phù hợp với diễn

biến thực tế nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng

kinh tế và củng cố hệ thống ngân hàng vững mạnh. NHTM tăng cường hoạt động kinh

doanh có hiệu quả, Chính phủ tăng thu giảm chi hạn chế nhập khẩu tăng tiết kiệm [32].

Năm 2001: áp dụng CSTT nới lỏng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, NHNN

Lào thông báo giảm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Đặc biệt giảm lãi suất ưu đãi

3%/ tháng xuống còn 2%/ tháng. Thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM 12% giữ

lãi suất cho vay của NHNN đối với NHTM 35%/ năm của việc thực hiện chính sách

trên đã làm cho tỷ lệ lạm phát ở 1 con số [33].

Đến tháng 6-2001, tỷ giá hối đoái giữa đồng kíp Lào và đồng Đô la Mỹ có sự

biến động mạnh lên tới 9.700 Kíp/ USD, trong tháng 10 năm 2001 để giải quyết sự

biến động của tỷ giá hối đoái đó NHNN Lào lại áp dụng CSTT thắt chặt bằng nâng lãi

suất ưu đãi 2,5% / tháng và áp dụng quản lý

tỷ giá hối đoái giữa thị trường chính thức và thị trường tự do, chênh lệch nhau 2%.

Năm 2002, để thực hiện tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch 6- 7% / năm, lạm phát ở

mức một con số, cung ứng tiền khoảng 18%, cho vay không quá 18%. NHNN Lào đã áp

dụng CSTT kết hợp.

Đầu năm 2002 do tình hình kinh tế tài chính ổn định, để thúc đẩy kinh tế phát

triển theo kế hoạch đã đề ra, NHNN Lào đã áp dụng CSTT nới lỏng, giảm lãi suất cho

vay của NHNN đối với NHTM 35% còn 20%, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 12% xuống

6% trong tháng 12 năm 2002 [34].

Cho đến giữa năm 2002, tình hình tài chính tiền tệ bắt đầu biến động, tỷ lệ lạm

phát cao liên tục từ 6,7% tháng 5 lên 9,1% tháng 6 và 11,23% tháng 7. Tỷ giá hối đoái

9.602 Kíp / USD trong tháng 5 lên 9.896 Kíp/ USD trong tháng 6 và lên 10.167 Kíp /

USD trong tháng 7. Vì vậy, NHNN Lào áp dụng CSTT thắt chặt, tăng tỷ lệ dự trữ bắt

buộc từ 6% lên 8% đối với đồng Kíp. Đối với ngoại tệ từ 12%- 15 %. Bắt đầu thực hiện

từ tháng 7 năm 2002

Bảng 2.17: Tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ dự trữ bắt buộc

(Từ 6/2000 - tháng 12/2004)

Năm 2002 Năm Năm

2003 2004 Chỉ tiêu Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng

6 7 12 5 12 12

Tỷ lệ l. phát 9.1 11.23 10.63 6.7 5.8 6.2

Kíp / USD 9.602 9.896 10.167 10.112 10.623 10.664

Tỷ lệ dự trữ bắt Kíp 6% 6% 8% 8% 8% 8%

buộc (tính theo USD12% 12% 15% 15% 15% 15%

%)

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.

Năm 2003 NHNN Lào áp dụng CSTT kết hợp, trong đó hạn chế lượng cung

ứng tiền. NHNN Lào đã phát hành trái phiếu trong thời gian ngắn cuối tháng 9 -2003 để

thu hút số tiền 50 tỷ Kíp, từ xã hội và xử lý trái phiếu đã nói trên vào hệ thống ngân

hàng tháng 12- 2003, thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ và ngoại tệ như năm

2002. Tiếp tục hạn chế tốc độ cho vay tín dụng của NHTM, NHNN Lào sẽ can thiệp

vào tỷ giá hối đoái nếu có sự cần thiết, rong năm 2003 NHNN Lào đã giữ được tỷ giá

hối đoái của ngân hàng so với tỷ giá hối đoái tự do chênh lệch < 1% [35].

2.3. Đánh giá việc điều hành Chính sách tiền tệ từ năm 1994 đến nay

2.3.1. Những kết quả đạt được

* Điều hành CSTT đã có chuyển biến tích cực và góp phần rất quan trọng

vào việc kiểm soát và đẩy lùi lạm phát:

Về cơ bản giữ được giá trị đối nội và đối ngoại của đồng kíp ổn định; lạm phát

cao đã được đẩy lùi; tỷ lệ lạm phát bình quân của năm 2000 là 23,14%, năm 2001 là

7,81%, năm 2002 là 10,63%, năm 2003 là 15,49%, năm 2004 là 10,46% (lạm phát đến

tháng 12 năm 2004 là 8,66%) và năm 2005 dự kiến khoảng 9%; trung bình 5 năm là

10,48%. Như vậy, tỷ lệ lạm phát tuy còn cao hơn kế hoạch, nhưng vẫn kiểm soát được.

Tỷ giá tương đối ổn định; Tốc độ mất giá của đồng Kíp Lào so với Đô la Mỹ năm

2001 là 10,7%, năm 2002 là 13,18%, năm 2003 là 5,1%, tốc độ mất giá của đồng Kíp so với

đồng Baht, năm 2001 là 1,1%, năm 2002 là 16,7%, năm 2003 là 8,2%. Tỷ lệ mất giá của

ngoại tệ so với Kíp năm 2004 là 0,8%, năm 2005 ước tính 1-2%. Chênh lệch giữa tỷ giá

trên thị trường chính thức với tỷ giá trên thị trường tự do thu hẹp đáng kể và có xu hướng

giảm dần (năm 2000 tỷ giá kíp/ USD bình quân trên thị trường tự do cao hơn tỷ giá chính

thức là 2,15%, năm 2001 là 1,5%, năm 2002 là 1,09%, năm 2003 là 0,77%, năm 2004 là

0,48%). Điều này cho thấy NHNN Lào đã có chủ động nhất định trong điều hành tỷ giá.

Đã có bước chủ động trong điều hành CSTT: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều

chỉnh linh hoạt. Do vậy đã từng bước kiểm soát được mức độ gia tăng tiền tệ sát với định

hướng đề ra. Năm 2001 M2 tăng 18,38%, năm 2002 tăng 27,1%, năm 2003 tăng 31,2% và

năm 2004 tăng 17% (Năm 2000 M2 tăng mạnh là do NHNN Lào cung ứng tiền để mua

ngoại tệ cho quỹ dự trữ khoảng 8 triệu USD và thanh toán tín phiếu NH Lào khoảng 38 tỷ

Kíp; năm 2004 thu hồi tín phiếu 45 tỷ Kíp, mua ngoại tệ là 13,2 triệu USD). Do vậy, về cơ

bản tốc độ tăng của M2 đã phù hợp với dự kiến kế hoạch trong tháng 5 năm 2004 công cụ

dự trữ bắt buộc đã được đổi mới theo hướng nhập 2 tài khoản thanh toán và dự trữ bắt buộc

vào một tài khoản giúp cho các NHTM sử dụng linh hoạt nguồn vốn hơn.

Đã thực hiện mục tiêu tăng đáng kể dự trữ ngoại tệ của Nhà nước từ mức 2,6

tuần nhập khẩu năm 2001 đến mức 6 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2004. Đây là yếu tố

cơ bản giúp cho ngân hàng Lào chủ động trong việc kiểm soát tỷ giá.

* Thị trường tiền tệ đã từng bước phát triển

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập từ tháng 7 năm 2000, các

giao dịch trên thị trường tuy chưa nhiều nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Nhất

là từ tháng 10 năm 2003 sau khi có sự thay đổi cơ chế tỷ giá, các NHTM cũng linh hoạt

trong mua bán ngoại tệ, thị trường hoạt động sôi nổi hơn. Thông qua thị trường này

NHNN Lào đã can thiệp kịp thời và có hiệu quả vào thị trường ngoại hối để ổn định giá

cả.

- Từ tháng 2 năm 2004 NHNN Lào đã thực hiện mua bán lại giấy tờ có giá với

các tổ chức tín dụng, tổng số phiên giao dịch trong năm 2004 là 71 phiên với tổng giá trị

giao dịch là 208,7 tỷ Kíp. Từ đầu năm 17/3 năm 2005 tổng số phiên giao dịch là 71

phiên với tổng giá trị giao dịch là 135,3 tỷ Kíp. Đây có thể nói là tiền đề quan trọng để

NHNN Lào hình thành công cụ nghiệp vụ thị trường mở cho điều hành CSTT.

- Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã được thực hiện từ tháng 12 năm

2002 với tổng giá trị giao dịch là 71,89 tỷ Kíp, số lượng thành viên tham gia giao dịch

chủ yếu là các NHTM nhà nước ngoài ra còn có sự tham gia của quỹ bảo vệ người gửi

tiền và bảo hiểm.

CSTT của Lào theo đuổi đa mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm

phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng

cao đời sống của nhân dân. Tùy từng thời điểm khác nhau mà một mục tiêu nào đó

trong hệ thống các mục tiêu trên được coi trọng hơn, trong thực tế những năm 1994-

1996, mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát đã được coi trọng, tỷ lệ lạm phát có

sự biến động từ một con số đến hai con số GDP trung bình ba năm là 7,3%, tình hình

kinh tế -xã hội tương đối ổn định, GDP trên đầu người trung bình là 340 USD/ đầu

người.

Những năm 1997-1999, như đã trình bày ở mục 2.1.2 về tình hình lạm phát trong giai

đoạn này, NHNN Lào nói riêng và Chính phủ Lào nói chung áp dụng các công cụ CSTT

thắt chặt để chống lạm phát kết hợp với việc tuyên truyền toàn dân chống lạm phát trong

vòng 20 tháng chiến tranh chống lạm phát mới kết thúc.

Còn những năm 2000 - 2004 thì ổn định tỷ giá lại được coi trọng hơn. Việc đeo

đuổi CSTT đa mục tiêu trong điều kiện kinh tế chuyển đổi là tương đối hợp lý do cơ cấu

kinh tế chưa hoàn thiện, hệ thống ngân hàng tài chính chưa phát triển, đồng thời nhu cầu

hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển là cần thiết.

Để đạt được những mục tiêu cuối cùng đó, NHNN Lào lựa chọn TPTTT - M2

làm mục tiêu trung gian (M2 bao gồm tiền mặt trong lưu thông tiền gửi không kỳ hạn của

các NHTM + tiền gửi có kỳ hạn + tiền gửi tiết kiệm + trái phiếu do NHTW). Đương nhiên

chúng ta có thể lý giải việc NHNN không dùng tỷ giá hay lãi suất thị trường làm mục tiêu

trung gian là vì: Mục tiêu trung gian là tỷ giá chỉ thực hiện được trong điều kiện là nền

kinh tế mở và trong khi thị trường tài chính Lào (bao gồm thị trường tiền tệ và thị

trường vốn) chưa phát triển, chưa hoàn thiện và ổn định thì mục tiêu trung gian là lãi

suất cũng chưa thực hiện được vì lãi suất lúc này chưa phản ánh khách quan mối quan

hệ cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời chúng ta cũng lý giải được việc NHNN

không chọn M1 hay M3 làm mục tiêu trung gian. NHNN không chọn M1 (= tiền mặt

trong lưu thông + tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM) vì M1 có phạm vi hẹp hơn M2

rất nhiều và NHNN không kiểm soát được hệ số tạo tiền và tổng mức tín dụng trong nền

kinh tế. Còn nếu chọn M3 (=M2 + trái phiếu, tín phiếu của kho bạc phát hành + thương

phiếu + trái phiếu của các công ty + cổ phiếu của các công ty cổ phần + các tài sản tài

chính khác) thì phạm vi lại quá rộng trong khi thị trường thứ cấp chưa phát triển, độ tin

cậy của các giấy tờ có giá không cao. Như vậy, việc lựa chọn M2 làm mục tiêu trung

gian trong thời gian này là hợp lý.

Từ việc chọn lựa mục tiêu của CSTT như trên, việc điều hành CSTT trong thời

gian qua đã đạt được những thành công đáng kể sau: đầu tiên là sự góp phần ổn định

kinh tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định sức mua của đồng Kíp. Sự

ổn định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Lào đạt

được tốc độ tăng trưởng tương đối và ổn định: năm 1995 tăng 7%, năm 1996 tăng 6,8%;

năm 1997 tăng 7,2%; năm 1998 tăng 4%; năm 1999 tăng 5,2%; năm 2000 tăng 5,81%;

năm 2001 tăng 5,7 %; năm 2002 tăng 5,91%; năm 2003 tăng 5,84%; năm 2004 tăng

6,2% dự kiến năm 2005 tăng 6,5-7%. Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.

cũng được hỗ trợ bằng các biện pháp cụ thể như: tỷ trọng cho vay đối với các thành

phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên, ưu tiên đầu tư tín dụng vào các ngành trọng

điểm, mũi nhọn, cho vay người nghèo.

Một thành công nữa là các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn

chỉnh, chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Thời

gian đầu, công cụ CSTT được sử dụng chủ yếu là các công cụ trực tiếp như hạn mức tín

dụng (NHNN qui định mức tăng trưởng tín dụng cho từng NHTM dựa vào qui mô hoạt

động của từng ngân hàng), công cụ kiểm soát lãi suất. Tuy nhiên, ngay trong việc sử

dụng công cụ trực tiếp cũng có những chuyển biến tích cực: NHNN qui định tỷ lệ lãi

suất cụ thể, tiếp đến đặt lãi suất, lãi suất cơ bản và cuối cùng là lãi suất thỏa thuận. Cho

đến nay, các công cụ trực tiếp được sử dụng ít đi, NHNN chủ yếu điều hành CSTT bằng

các công cụ gián tiếp như DTBB, chiết khấu, TCK, NVTTM.

2.3.2. Những hạn chế, tồn tại

1. Về điều hành CSTT

- Việc điều hành chính sách tiền tệ vần còn nhiều bất cập:

+ Các công cụ chính sách tiền tệ còn quá ít và chưa hoàn thiện. Hiện nay việc

điều hành CSTT chủ yếu dựa vào công cụ dự trữ bắt buộc và việc phát hành tín phiếu

NHNN Lào trong thời kỳ lạm phát cao. Các nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn, nghiệp vụ

thị trường mở chưa được sử dụng.

Đối với nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn hiện nay chưa ban hành qui chế hoạt

động. Thực tế NHNN Lào cho vay ngắn hạn do thiếu hụt khả năng thanh toán với lãi

suất cao (20 % với kỳ hạn 1 tuần, 30 % với kỳ hạn 1 tháng) và cho vay theo chỉ định

của Chính phủ với Ngân hàng Nông nghiệp (dư nợ cho vay chỉ định đến nay hơn 100 tỷ

kíp), với mức lãi suất qui định tùy thuộc vào danh mục đầu tư mức lãi suất thấp nhất là

5% / năm, cao nhất 12 % / năm. Nguyên nhân chủ yếu do (1) NHNN Lào chưa thực sự

thấy được vai trò của công cụ này trong việc hình thành hành lang dao động lãi suất thị

trường liên ngân hàng, do thị trường nội tệ ngân hàng chưa phát triển; (2) bản thân các

ngân hàng thương mại chưa có nhu cầu tiếp cận nguồn vốn này.

Đối với nghiệp vụ thị trường mở, trên thực tế các hoạt động mua bán có kỳ hạn

trái phiếu, tín phiếu kho bạc đã được thực hiện tương đối thường xuyên giữa NHNN

Lào với các NHTM, song NHNN Lào chưa biến hoạt động này thành một công cụ

NVTTM cho điều hành CSTT. Như chưa hình thành bộ phận dự báo vốn khả dụng,

chưa hình thành ban điều hành thị trường mở và chưa định hướng hoạt động này để điều

tiết vốn khả dụng của các NHTM theo mục tiêu chính sách tiền tệ. Nguyên nhân là do

NHNN Lào chưa thực sự quan tâm hình thành và sử dụng NVTTM cho điều hành

CSTT.

+ Việc kiểm soát lãi suất nền kinh tế của Ngân hàng Lào còn hạn chế: Chính

sách ưu đãi lãi suất đối với nền kinh tế của Ngân hàng Lào đã được tự do hóa từ trước

những năm 2000, song đến nay NHNN Lào chưa hình thành được lãi suất định hướng

cho lãi suất thị trường do chưa thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường

mở do vậy chưa tạo ra lãi suất định hướng cũng như điều tiết vốn khả dụng của các

NHTM kịp thời. Lãi suất danh nghĩa về huy động và cho vay hầu như không biến động

từ 2001, đến tháng 4/2004 lãi suất huy động bắt đầu hạ, nhưng lãi suất cho vay không hạ

(chỉ có lãi suất cho nay dài hạn bắt đầu hạ từ tháng 10/2004 từ mức 24% / năm xuống

23,4%/ năm), trong khi tỷ lệ lạm phát có sự biến động không nhỏ, dẫn đến lãi suất thực

trở nên quá lớn. Điều đó ảnh hưởng đáng kể khả năng mở rộng tín dụng có hiệu quả để

thúc đẩy sản xuất.

- Thị trường tiền tệ phát triển ở mức độ còn hạn chế:

Các định chế trung gian tham gia thị trường tiền tệ chỉ các NHTM, trên thị

trường chưa hình thành các tổ chức tài chính khác, như các công ty tài chính, các quỹ,

các công cụ hoạt động trên thị trường tiền tệ còn thiếu, thị trường thứ cấp chưa hình

thành. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể, nhưng các

hình thức giao dịch ít, chủ yếu chỉ thực hiện các giao dịch giao ngay, nguyên nhân chủ

yếu của thực trạng này là do các thành viên tham gia thị trường còn thiếu tính chủ động,

năng động, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, mặc dù đã tự do hóa lãi suất, nhưng

các NHTM chưa điều chỉnh lãi suất không linh hoạt theo diễn biến thị trường. Đồng

thời các thành viên tham gia thị trường chưa thực sự biết để có những nhu cầu sử dụng

đa dạng các công cụ thị trường tiền tệ - tài chính.

2. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng còn nhiều hạn chế

- Mức tăng trưởng tín dụng còn thấp theo mục tiêu: Thể hiện ở tốc độ tăng

trưởng tín dụng qua các năm: Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân trong 5 năm

khoảng 13%, trong đó từ năm 2001 đến năm 2003 tốc độ tăng trưởng tín dụng có nhiều

biến động phức tạp. Năm 2001 tăng 33,1%, năm 2002 tăng 4,6%, năm 2003 giảm (-

10%), 2004 (tháng 12) tăng 9,6% và năm 2005 tăng khoảng 18 % và có xu hướng giảm

dần.

- Về cơ cấu đầu tư tín dụng chưa tập trung phát triển nông lâm nghiệp - Một lĩnh

vực có nhiều tiềm năng: Tỷ trọng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp có xu

hướng giảm từ 12,7% năm 2000 xuống 11,9 năm 2004. Lĩnh vực đầu tư trang thiết bị có

xu hướng tăng lên phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế tương đối rõ nét. Tuy nhiên, với

đặc điểm kinh tế là nước nông nghiệp thì tỷ trọng đầu tư tín dụng 11,9% là quá thấp.

Nî N¦ í C NGOµ I/GDP

THU NG¢ N S¸ CH/GDP

TH¢ M Hô T THU¥ NG M¹ I/GDP

TH¢ M Hô T THU-CHI/GDP

Điều này đã có ảnh hưởng nhất định đến việc hạn chế tăng trưởng kinh tế.

Biểu 2.3: Tình hình nợ nước ngoài - Thu ngân sách Thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách/GDP từ 1998-

2004

Nguyên nhân của tình trạng trên là do:

1. Trong điều hành CSTT, NHNN Lào tập trung chủ yếu theo đuổi mục tiêu kiểm

soát lạm phát như mục tiêu CSTT đặt ra trong nghị quyết Đại hội VII. Do vậy, chưa thực

sự chú trọng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên đây không phải là nguyên nhân

chính.

2. Do các NHTM và Bộ Tài chính không thực hiện đúng các cam kết với ADB,

từ đó các điều kiện cho vay bị thắt chặt làm hạn chế tăng trưởng tín dụng. Song, chất

lượng tăng trưởng tín dụng có phần cải thiện hơn.

3. Nguyên nhân sâu xa là do chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, nhất

là doanh nghiệp nhà nước cũng rất yếu, lỗ lớn không có khả năng trả nợ ngân hàng. Đối

với các hộ nông dân thì thiếu kỹ thuật về trồng trọt, không có khả năng tự tìm kiếm thị

trường nên tiếp cận hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM. Mặt khác, năng

lực tài chính, khả năng quản trị điều hành và năng lực cán bộ tín dụng của các NHTM

nhà nước còn yếu: Nợ tồn đọng lớn,vốn tự có thấp, kinh doanh thiếu tính năng động.

Thêm vào đó, nợ tồn đọng của ngân sách đối với doanh nghiệp cũng là nguyên nhân

quan trọng làm nợ tồn đọng của các NHTM nhà nước tăng lên.

4. Cơ chế quản lý ngoại hối và hiệu lực thi hành còn nhiều hạn chế: Trên thị

trường Lào việc dùng ngoại tệ thanh toán mua bán hàng hóa với nhau không suy giảm,

mặc dù cơ chế quản lý ngoại hối có thắt chặt việc thanh toán này, song hiệu lực áp dụng

thấp. Thực tế NHNN Lào chưa kiểm soát được việc thanh toán với nhau bằng ngoại tệ

của các doanh nghiệp cũng như của dân cư. Do vậy, việc kiểm soát lạm phát qua việc

khống chế mức tăng tiền tệ của NHNN Lào bị hạn chế.

5. Về hoạt động thanh tra giám sát: Đã thực hiện việc thanh tra giám sát hoạt động

của các ngân hàng thương mại bằng các tiêu chí CAMELS (6 tiêu chí), bằng các hình

thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Tuy nhiên, trên thực tế các NHTM cung cấp

thông tin theo yêu cầu rất chậm và tính chính xác không cao nên ảnh hưởng rất lớn đến

công tác giám sát từ xa. Hầu hết việc thanh tra giám sát thực hiện tại chỗ và xuống tận

các chi nhánh của các NHTM. Bên cạnh đó, về cơ cấu tổ chức chưa hình thành bộ phận

thanh tra chuyên trách của NHNN Lào. Hiện nay nhiệm vụ này đang do Vụ Giám sát

các định chế tài chính và ngân hàng thực hiện. Nên phần nào cũng hạn chế công tác

thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN Lào.

6. Về cơ cấu tổ chức của NHNN Lào: Hiện nay NHNN Lào có 10 Vụ và 2 Văn

phòng đại diện tại tỉnh UĐômXay và ở tỉnh Pacsế. Chức năng của các Vụ tại Hội sở chính

tính chuyên trách chưa cao, chẳng hạn như Vụ Nghiên cứu Kinh tế đảm đương cả nhiệm vụ

quan hệ quốc tế, Vụ Giám sát các định chế tài chính và ngân hàng cũng thực hiện quá nhiều

chức năng. Bên cạnh đó, NHNN Lào chưa hình thành được trung tâm tin học riêng biệt, để

thực hiện hiện đại hóa công nghệ thanh toán và thông tin cho hệ thống ngân hàng. Với cơ

cấu tổ chức như vậy sẽ có những hạn chế nhất định trong việc thực hiện chức năng của một

NHTW.

7. Các hạn chế khác trong hoạt động của NHNN Lào:

- Trong quan hệ với ngân sách: Đến nay, về cơ bản Ngân hàng Lào đã hạn chế

đáng kể việc phát hành cho ngân sách (tháng 12 năm 2003 chỉ tạm ứng chính thức cho

ngân sách 3 tỷ kíp với thời hạn 3 tháng). Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu để nhận

nợ các công trình của Chính phủ do các ngân hàng thương mại đã cho vay là một hình

thức bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, làm cho

các NHTM bị động về nguồn vốn và bản thân kho bạc cũng bị động trong kế hoạch thu

chi ngân sách. Ngoài ra, các khoản thanh toán L/C đến hạn mà các NHTM đã phải

thanh toán cho nước ngoài nhưng đến nay Bộ Tài chính chưa thanh toán, làm ảnh hưởng

nguồn vốn kinh doanh của các NHTM.

- Nợ tồn đọng: Nợ của Chính phủ và nợ của một số doanh nghiệp đối với

NHNN Lào đã tồn đọng quá lâu chưa có hướng xử lý. Đến cuối năm 2004 nợ của Chính

phủ với NH là 1.256 tỷ Kíp tăng 249 tỷ Kíp so với cuối năm 2000, chủ yếu là do biến

động của tỷ giá, vì khoản nợ này là khoản vay 91.296 triệu USD phát sinh vay đã lâu.

Các khoản nợ của doanh nghiệp với NHNN Lào cuối năm 2004 khoảng 651 tỷ. Vấn đề

này cũng cần phải có giải pháp xử lý dứt điểm. Chúng ta có thể xem về thâm hụt thu -

chi /GDP liên quan đến nợ không sinh lời, kéo dài và nợ nước ngoài.

30

28

22

20.8 9

21 .8

22.7 0

19. 52

19.5 8

19. 76

18.7 2

18.2 6

15.

20

14 .3

13. 18

13 .1

13.1 3

13. 05

12. 5

10.9 1

11 .8

11. 41

10.1 2

12. 55

10

0

200 4

199 4

199 5

199 6

199 7

199 8

199 9

200 0

200 1

200 2

200 3

-3.8

- 5.1

- 7.78

- 6.4

-

- 7.8

- 8.35

- 8.

- 8.9

- 10

- 12.58

-

- 13.7

Tổng chi (%)

Thâm hụt (%)

Tổng thu (%)

Biểu 2.4: Tỷ lệ thu - chi ngân sách/ GDP từ năm 1994-2003

8. Năng lực hoạt động của các NHTM còn nhiều yếu kém.Vốn tự có của các

NHTM nhà nước thấp, lỗ kéo dài nên thực chất là vốn tự có âm kéo theo tỷ lệ đủ vốn -

18%. Chất lượng tài sản có thấp chủ yếu là các khoản đầu tư tín dụng với tỷ lệ nợ quá

hạn; theo tính toán hiện nay của NHNN Lào, tỷ lệ an toàn vốn cuối tháng 12 năm 2004

toàn hệ thống chỉ là 1,03% là quá thấp so với quy định tối thiểu 8% của tỷ lệ an toàn

vốn tối thiểu. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nói trên là do: (1); Ngân sách không

đủ tiền cấp vốn (2); Năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro của các NHTM còn hạn

chế, chưa năng động điều chỉnh lãi suất hợp lý với diễn biến của thị trường (lạm phát

trong 5 năm qua giảm thấp quá nhiều, nhưng các NHTM nhà nước vẫn để mức lãi suất

huy động và cho vay rất cao, nên càng làm tăng mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay)

và vốn tồn đọng nhiều. Hiện nay ba NHTM nhà nước đã lỗ khoảng 51 tỷ Kíp (chưa tính

dự phòng rủi ro, nếu tính thì lỗ khoảng 161 tỷ Kíp). (3); Các NHTM còn chịu sức ép về

những khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ.

- Nợ tồn đọng còn lớn: Tập trung chủ yếu của các NHTM nhà nước. Tuy đã

thực hiện chương trình cơ cấu lại nợ dưới sự giám sát của ADB, song tỷ lệ nợ quá hạn

lớn và gia tăng liên tục từ năm 2000 đến nay (năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư

nợ là 38 %, năm 2001 là 35,7%, năm 2002 là 41,9%, năm 2003 là 48%). Tính đến tháng

12 năm 2003 nợ quá hạn tăng 205% so với mức nợ quá hạn cuối năm 2000. Tình trạng

nợ quá hạn gia tăng trong hệ thống ngân hàng, phản ánh chất lượng tín dụng cho tăng

trưởng kinh tế không có hiệu quả, năng lực của doanh nghiệp cũng như ngân sách quá

yếu (66- 77% nợ có liên quan đến ngân sách). Đây chính là vật cản khiến các NHTM

không thể tăng đầu tư tín dụng (trong năm 2003 các ngân hàng hầu như không thực hiện

được cho vay, nợ tín dụng giảm 10 %). Do vậy, việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế

từ nguồn vốn ngân hàng bị hạn chế. Vấn đề này cần được xử lý sớm trong năm 2004,

nhưng đến nay tốc độ xử lý còn rất chậm.

Tóm lại: Những tồn tại nêu trên, ngoài những nguyên nhân do công tác điều

hành của ngân hàng Lào còn nhiều lúng túng và chưa có kế hoạch dài hạn, còn có

những nguyên nhân khác, thậm chí quan trọng hơn, như những khó khăn rất lớn của nền

kinh tế. Nổi bật là NS thâm hụt lớn, việc phát hành trái phiếu khống trả nợ cho các công

trình xây dựng cơ bản cao; Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhất là các doanh

nghiệp của Nhà nước (tỷ lệ nợ quá hạn vay ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước

chiếm trên 50%, thâm hụt cán cân thương mại lớn làm tăng luồng tiền trong lưu thông

gây áp lực lạm phát ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Lào [39].

Do CSTT của Lào theo đuổi đa mục tiêu nên đôi khi mục tiêu này lại triệt tiêu

mục tiêu kia, vì vậy, trong giai đoạn vừa qua, một số chỉ tiêu không đạt yêu cầu Chính

phủ đề ra, đặc biệt là mục tiêu lạm phát.

Bảng 2.18: Tình hình thực hiện chỉ tiêu lạm phát năm 1994-6/2005

Đơn vị tính: %

Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Chỉ tiêu % 10 10 7 7-8 10 < 50 < 60 7,4 10,6 15 8 9

6.7 19.6 15.8 19.5 90.1 128. 23.1 7.81 10.6 15.4 10.4 Thực hiện

%

Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Lào các năm từ 1994 - 2004

Tất nhiên có những ý kiến cho rằng, mặc dù không đạt chỉ tiêu đề ra nhưng có

những năm lạm phát lại ở mức hợp lý góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như năm

1996, 1997. ở đây luận văn đang muốn đề cập đến vấn đề dự báo và các biện pháp nhằm

kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nói chung và của NHNN nói riêng, thì rõ ràng rằng

khả năng dự báo lạm phát (cả về phương pháp tính và vấn đề thu thập, xử lý thông tin

về diễn biến trên thị trường) còn yếu kém; đồng thời, sự chỉ đạo và điều hành giá cả tiêu

dùng của nền kinh tế còn mang tính thụ động và hiệu quả không cao. Chính điều này đã

làm cho lạm phát thực tế những năm 1998 - 2000 quá xa với chỉ tiêu đề ra và gây nên

những ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế.

Sự đổi mới và nới lỏng tài chính trong những năm gần đây đã làm lu mờ sự khác

biệt giữa các khối lượng tiền và do vậy, tỷ lệ tăng trong từng khối lượng tiền như tỷ lệ tăng

của M2 và M3 đôi khi thể hiện những biến động khác nhau. Do đó, hiệu quả của tỷ lệ tăng

M2 với vai trò là một mục tiêu trung gian của CSTT được coi là bị giảm xuống. Hơn nữa,

mối quan hệ chi phối giữa mục tiêu hoạt động tiền cơ sở - với M2 ngày càng thiếu ổn

định làm cho việc sử dụng mục tiêu trung gian là M2 để điều hành CSTT bắt đầu có dấu

hiệu kém hiệu quả.

Một vấn đề cần quan tâm nữa là, hiện nay, mức độ Đô la hóa và Baht hóa ở Lào

tương đối cao, đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế

cũng như tới việc hoạch định và điều hành CSTT, chính sách tỷ giá. Đồng thời, Đô la

hóa và Baht hóa là làm cho mối quan hệ giữa TPTTT M2 với giá cả và sản lượng đôi khi

không tuân thủ theo những quy luật vốn có, vì vậy, mục tiêu trung gian là M2 đã không

phát huy hết tác dụng.

Về những hạn chế trong việc sử dụng các công cụ của CSTT: có thể nói hạn chế

lớn nhất trong việc thực thi CSTT ở Lào thời gian qua là việc xây dựng và sử dụng các

công cụ của CSTT. Hệ thống các công cụ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp, mới được

xây dựng và chưa có đủ điều kiện hoàn thiện, sự phối kết hợp các công cụ chưa thường

xuyên và thiếu hiệu quả. Một số hạn chế khác như việc xác định lượng tiền cung ứng

hàng năm chính xác và chưa kịp thời so với các biến động kinh tế, chính trị, khối lượng

cung ứng được dự đoán thường quá lớn so với nhu cầu thực tế, gây khó khăn trong việc

kiểm soát tốc độ tăng của TPTTT, tạo ra áp lực lạm phát đối với nền kinh tế hay sự phối

kết hợp trong việc sử dụng các chính sách chưa cao. Cụ thể như sau:

Đối với công cụ lãi suất: Gồm có lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay đối với

nền kinh tế. Lãi suất tái cấp vốn chưa có tác dụng mạnh trong việc điều tiết lãi suất cho

vay của các NHTM đối với nền kinh tế, bởi vì NHNN cho vay TCK đối với các NHTM

trên cơ sở các khế ước của NHTM với mức lãi suất tái cấp vốn thấp hơn lãi suất các

NHTM cho vay đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, các NHTM thường đem các khế ước

cho vay với lãi suất thấp để xin vay tái cấp vốn. Thêm vào đó, các công cụ nợ để

NHNN thực hiện tín dụng còn ít và NHNN chủ yếu cho vay tái cấp vốn đối với các

NHTM nhà nước nên hiệu quả của công cụ này không cao. Còn đối với lãi suất cho vay

đối với nền kinh tế: NHNN bỏ quy định về biên độ lãi suất cơ bản, nhưng hàng tháng

vẫn công bố lãi suất cơ bản để định hướng lãi suất thị trường; các NHTM ấn định lãi

suất cho vay đối với nền kinh tế theo cơ chế thỏa thuận phù hợp với quan hệ cung - cầu

vốn trên thị trường. Như vậy, về mặt định hướng là chúng ta đã thả nổi lãi suất nhưng

vẫn muốn có can thiệp hành chính vào điều tiết lãi suất bằng cách công bố lãi suất cơ

bản. Thực tế việc công bố lãi suất này dường như không có tác dụng gì và vì thế mức độ

can thiệp của NHNN đối với công cụ lãi suất rất hạn chế. Đồng thời, giữa lãi suất cho

vay ngoại tệ và cho vay bằng đồng Kíp có thời kỳ còn chênh lệch cao làm cho khách

hàng muốn vay ngoại tệ hơn vay Kíp để hưởng chênh lệch lãi suất, từ đó làm ảnh hưởng

đến thị trường tín dụng trong nước.

Đối với công cụ DTBB: NHNN chưa sử dụng công cụ này một cách chủ động

để điều chỉnh bơm thêm tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.

Đối với các công cụ hạn mức tín dụng: Việc phân bổ và quản lý hạn mức tín

dụng còn mang nặng tính chủ quan nên đã dẫn đến tình trạng có NHTM không sử dụng

hết hạn mức cho phép trong khi có NHTM lại thừa.

Đối với VNTTM: Do mới đi vào thực hiện nên hoạt động của thị trường mở vẫn

còn nhiều bất cập về pháp lý lẫn điều hành, về phía những người tham gia vào thị

trường cũng như các công cụ trên thị trường.

Bên cạnh những hạn chế trên, việc sử dụng các chính sách hỗ trợ cũng đem lại

không ít vướng mắc. CSTT đôi khi phải làm hộ công việc của các chính sách khác

thông qua các khoản tín dụng chỉ định hay khoanh nợ, xóa nợ, làm cho quy luật cung

ứng tiền bị sai lệch.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại

Thứ nhất, do nền kinh tế Lào đang trong thời kỳ chuyển đổi và mở cửa với xuất

phát điểm là một nền kinh tế yếu kém, lạc hậu, chính vì vậy việc tiếp cận với những nền

kinh tế thị trường nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Riêng đối với CSTT mới được xây

dựng và thực thi trong hơn 10 năm qua nên còn nhiều bỡ ngỡ cả về phương diện lý

thuyết lẫn thực tế (xem biểu 2.5).

Thứ hai, kinh tế hàng hóa Lào đang ở trong giai đoạn đầu nên thị trường chưa ổn

định, vì vậy, quy luật thị trường vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó. Quan hệ cung -

cầu trên thị trường còn bị tác động và can thiệp bởi nhiều yếu tố chủ quan, không theo

quy luật thị trường.

Thứ ba, thị trường tài chính, tiền tệ kém phát triển làm cho các công cụ của

CSTT khó có điều kiện phát huy hiệu quả (thị trường vốn nội địa còn nhiều hạn chế về qui

mô khối lượng, chủ thể và hàng hóa).

Thứ tư, NHNN chưa thực sự là cơ quan hoạch định CSTT mà về cơ bản chỉ là

cơ quan thực thi CSTT, thậm chí quá trình điều hành còn bị chi phối bởi các quyết định

của Chính phủ. CSTT phụ thuộc vào quá nhiều vào các chính sách khác, thậm chí làm hộ

công việc khác như chính sách hỗ trợ thông qua lãi suất, tỷ giá, khoanh nợ, xóa nợ của các

NHTM,... Thêm vào đó, còn có khá nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám

sát việc xây dựng, thực thi CSTT.

Thứ năm, sự thiếu hụt về thông tin cũng như khó khăn trong việc thu thập dữ

liệu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình xây dựng và thực thi CSTT. Độ chính xác

của các kết quả tính toán dự tính đưa ra không cao làm cho NHNN thường xuyên thụ

động điều chỉnh theo nhu cầu thị trường - điều này trái với bản chất CSTT là chủ động

tạo ra sự biến động về số lượng tiền tệ để hướng nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tới các

mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Thứ sáu, sự phối kết hợp giữa các Bộ, Ngành còn những hạn chế trong việc ban

hành các chính sách, văn bản hướng dẫn thi hành luật.

g d p

c u n g øn g t i Òn

l ¹ m ph ¸ t

c h Ø sè g i ¸ c ¶

Thứ bảy, trình độ cán bộ điều hành và thực thi CSTT còn chưa đồng đều.

Biểu 2.5: Tổng kết so sánh tỷ lệ tăng trưởng GDP, lạm phát,

cung ứng tiền và CPI từ 1993-2004

Chương 3

Định hướng và giải pháp trong thực hiện

chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát

ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

3.1. Định hướng xây dựng, phát triển và điều hành chính sách tiền tệ ở lào

giai đoạn 2005-2010

3.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và dự báo các chỉ tiêu phát triển của ngành ngân

hàng đến năm 2010

Kinh tế thế giới những năm qua có nhiều biến đổi không ngừng, các nước châu

á đang phát triển một cách mạnh mẽ và là điểm sáng của nền kinh tế thế giới, nước

CHDCND Lào cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển đó.

Trong nghị quyết của Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII, trong dự

báo chiến lược phát triển kinh tế- xã hội năm 2005 đến năm 2010 và phương hướng

nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2005, phải thực hiện được những con số

sau đây:

Tăng trưởng GDP so với năm 2004 tăng lên 6,5- 7%, GDP trên đầu

người cả năm 438 USD, tỷ lệ lạm phát trung bình năm không quá 8%, khối

lượng M2 không quá 17%, thu ngân sách đạt được 3.600 tỷ kíp hoặc bằng

12,8% của GDP tăng lên 23,8% thâm hụt ngân sách không quá 8% của GDP,

đầu tư phát triển kinh tế chiếm 28% của GDP, huy động đầu tư nước ngoài

không thấp hơn 500 triệu USD, xóa đói giảm nghèo cho 52.000 gia đình.Và

đến năm 2010 phải xây dựng cơ sở hạ tầng một cách vững chắc đặc biệt là

trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, xây dựng ngành công nghiệp cơ bản và

từng bước hiện đại hóa, dân số tăng lên 6,7 triệu người, GDP tăng trưởng

trung bình 7%, GDP trên đầu người trung bình 700- 750USD/ đầu người

[42].

Như vậy, nhiệm vụ đặt ra khá nặng nề. Bên cạnh những khó khăn, CHDCND

Lào cũng có nhiều thuận lợi cũng như cơ hội cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước Lào là một nước có nền chính trị ổn định, là điểm an toàn cho các nhà đầu tư. Sự

ổn định về chính trị và xã hội là nền tảng vững chắc và là nhân tố thuận lợi lớn cho phát

triển kinh tế của đất nước và đó là thế mạnh cần khai thác của Lào hiện nay. Thể chế

kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và đang hoạt động có hiệu quả. Những cơ chế

chính sách đã ban hành đã đi vào cuộc sống đảm bảo an toàn cho việc đầu tư mọi lĩnh

vực (cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài).

Tuy nhiên, về lạm phát tại Lào vẫn là một vấn đề đáng quan tâm, bởi chỉ số lạm

phát trong thời gian từ 1994-1998 nằm trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm cho dù điều

đó xảy ra là do cuộc khủng hoảng kinh tế chung của các nước châu á, mà đặc biệt là

Thái Lan, nước đối tác lớn nhất tại Lào. Hơn thế nữa, đầu tư nước ngoài tại Lào đã giảm

sút. Hệ thống ngân hàng của Lào phải được củng cố và phát triển theo hướng bền vững,

đảm bảo là cầu nối vững chắc cho các hoạt động kinh tế; phải giữ được ổn định hệ

thống tiền tệ, nâng cao vị thế của đồng kíp trong lĩnh vực thanh toán, chủ động kiểm

soát được lạm phát; tiếp tục củng cố vững chắc hệ thống ngân hàng và từng bước mở

rộng thêm các định chế tài chính khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho sản xuất trong nước,

phát triển thị trường tiền tệ và tạo dựng những điều kiện cần thiết cho việc phát triển thị

trường tiền tệ - thị trường vốn.

Trước những vấn đề đã nêu trên, để có thể đứng vững trong vòng xoáy của toàn

cầu hóa, góp phần đảm bảo hội nhập thành công của nền kinh tế, sức cạnh tranh của hệ

thống ngân hàng trên trường quốc tế cũng như góp phần thực hiện chiến lược phát triển

kinh tế của toàn ngành ngân hàng trong giai đoạn 2001- 2005 và đến năm 2010, mục

tiêu là:

- Đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm

phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống

nhân dân.

- Kiểm soát lạm phát ở mức một con số, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói

giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định nền kinh tế vĩ mô.

- Chủ động mở cửa thị trường tài chính, tham gia hội nhập quốc tế, tạo ra môi

trường cạnh tranh lành mạnh kết hợp với môi trường quản lý minh bạch rõ ràng.

Theo đó, nhiệm vụ được xác định bao gồm:

- Xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và có sức cạnh tranh,

đảm bảo điều kiện cho việc huy động và phân bổ vốn có hiệu quả ngồn vốn tín dụng ngân

hàng, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, nâng cao năng lực giám sát và quản lý, nâng

cao kỹ năng nghiệp vụ của toàn hệ thống ngang tầm khu vực

- Nâng cao vai trò của ngân hàng trong việc thúc đẩy triển khai các chủ trương

phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước như phát triển kinh tế theo ngành, theo vùng,

theo lĩnh vực.

Dự báo một số chỉ tiêu phát triển chủ yếu của ngành ngân hàng từ 2001-2005 và

đến 2010:

Dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: (1) Tăng trưởng kinh tế bình quân là

7,5%; (2) Lạm phát bình quân 8-9%; (3) Tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 13%; (4)

Tăng trưởng nhập khẩu là 12%; (5) Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 10%

GDP.

Đối với chỉ tiêu tiền tệ liên quan đến lĩnh vực ngân hàng có một số chỉ tiêu sau:

(1) Tăng trưởng tín dụng bình quân 21- 22%; (2) Huy động vốn tăng 26-27%; (3) Tăng

trưởng M2 bình quân năm 20- 21%; (4) Dự trữ ngoại hối 5,5% tháng nhập khẩu; (5)

Thâm hụt cán cân vãng lai bình quân 2,6% GDP; (6) Mức độ rủi ro vốn tự có/ Tổng tài

sản có trên 9% (đối với hệ thống NHTM); (7) Chất lượng tín dụng: Tỷ lệ nợ quá hạn dưới

4% (theo tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế); (8) Khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng

thương mại bình quân 14- 16%; (9) Đối với lượng tiền cung ứng trên thị trường: Giảm

tỷ trọng tiền mặt đưa vào cung ứng trên thị trường từ 70% xuống còn 50%; (10) Một số

NHTM phải có vốn tự có đầy đủ trong hoạt đông kinh doanh; (11) Nâng cao tỷ trọng

cán bộ ngân hàng có trình độ đại học và trên đại học từ 20% hiện nay lên 45% vào năm

2005 và 65% năm 2010.

3.1.2. Quan điểm điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới

- Tiếp tục điều hành CSTT một cách thận trọng nhằm đạt mục tiêu ổn định tiền

tệ, kiểm soát lạm phát ở mức không quá 9% góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường

sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ, nâng cao năng lực điều

hành CSTT trên cơ sở hoàn thiện hệ thống các công cụ CSTT, đảm bảo sự phối hợp

đồng bộ giữa các công cụ và sự phối hợp chặt chẽ giữa điều hành CSTT với các chính

sách kinh tế vĩ mô khác để NHNN Lào thực sự là người chỉ đạo thị trường tiền tệ và chủ

động điều hành CSTT trước những diễn biến bất thường của thị trường trước mắt và lâu

dài.

- Chính sách tín dụng được điều hành trên nguyên tắc hiệu quả, theo hướng tập

trung nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế

nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo,

doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã ở những vùng chuyển dịch cơ cấu và vùng sâu

vùng xa tiếp cận nguồn vốn ngân hàng được dễ dàng.

- Việc thực hiện nhiệm vụ cho vay chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đặt trong

tổng thể nhiệm vụ, định hướng trong giai đoạn tới, đặc biệt là gắn với nhiệm vụ ổn định

kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững. Do vậy, cho vay chuyển dịch cơ

cấu được thực hiện theo nguyên tắc gắn liền với mục tiêu kiểm soát lạm phát, đảm bảo

tăng trưởng kinh tế một cách ổn định.

- Nâng cao công nghệ thanh toán, thay đổi cơ cấu mệnh giá của đồng kíp để

thực hiện tốt chức năng trung tâm thanh toán của nền kinh tế, và nâng cấp công nghệ

thông tin trong hệ thống ngân hàng.

- Tăng cường công tác thanh tra giám sát và đổi mới hoạt động thanh tra của

NHNN Lào theo hướng thiết lập các thiết chế an toàn và xây dựng hệ thống thông tin để

thực hiện giám sát từ xa, nghiên cứu xây dựng hệ thống cảnh báo sớm.

- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý một cách kịp thời, đồng bộ và hợp lý

cho hoạt động của hệ thống ngân hàng cho phù hợp với điều kiện thực tế, trên nguyên

tắc an toàn, hiệu quả, xây dựng các khuôn khổ pháp luật cần thiết để từng bước xây

dựng và phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ theo hướng đảm bảo thị trường tiền

tệ đóng vai trò tiếp nhận, chuyển tải tác động của các quyết định điều tiết tiền tệ của

NHNN Lào đến cung cầu vốn của nên kinh tế, và tạo dựng các điều kiện cần thiết để

phát triển thị trường vốn.

- Đổi mới hoạt động của các NHTM: (1) Đổi mới cơ cấu quản lý, cơ cấu tổ chức,

nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài chính theo nguyên tắc đảm bảo hiệu

quả cao hạn chế rủi ro, thể hiện quyền tự chủ của các NHTM; (2) Cải cách công nghệ thông

tin để hiện đại hóa trong việc hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách tốt nhất và thông

qua hệ thống điều hành này NHNN Lào có thể kiểm soát được toàn bộ luồng vốn ra vào của

các NHTM; (3) Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ của các NHTM, nhằm hạn chế rủi

ro trong hoạt động.

- Nâng cao năng lực tài chính và quản lý điều hành các NHTM, đặc biệt là

NHTM quốc doanh xử lý nợ tồn đọng một cách dứt điểm trong năm 2006, đảm bảo

trong sạch bảng cân đối cho các NHTM, nợ quá hạn thấp hơn 5%. Trên cơ sở đó tạo cơ

sở vững chắc từng bước phát triển đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế [36].

3.1.3. Định hướng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở Lào giai đoạn

2000 - 2010

Đối với CSTT NHNN Lào thực hiện CSTT một cách hợp lý và linh hoạt và

quản lý mức cung ứng tiền tính trung bình 22%, tỷ lệ tín dụng tăng lên trung bình 20%.

Đảm bảo vững chắc mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở xóa bỏ các công cụ quản

lý hành chính, xây dựng và hoàn thiện các công cụ mới của CSTT, đưa toàn bộ hệ thống

từng bước tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế, cụ thể:

- Tạo dựng một khuôn khổ CSTT thích hợp, xác định rõ mục tiêu hoạt động,

mục tiêu trung gian cho điều hành CSTT nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu cuối

cùng.

- Nâng cao năng lực điều hành CSTT của NHNN Lào thông qua việc đổi mới

điều hành các công cụ. CSTT theo hướng nâng cao hiệu quả và tính nhạy bén của các

công cụ CSTT, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ và sự phối hợp chặt chẽ

trong điều hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để NHNN Lào thực sự là

người chỉ đạo thị trường tiền tệ.

- Xây dựng thị trường tiền tệ vững mạnh theo hướng đảm bảo thị trường tiền tệ

đóng vai trò tiếp nhận, chuyển tải tác động của các quyết định điều tiết tiền tệ của

NHNN Lào đến cung - cầu vốn của nền kinh tế.

- Xây dựng và hoàn thiện các nghiệp vụ thương mại, phát triển một số trung tâm

giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT giúp

NHNN Lào điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng thích hợp với yêu cầu

kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa giao

dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống kiểm soát chu chuyển vốn

quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài. Kiểm soát tiến tới xóa bỏ sử

dụng ngoại tệ trong thanh toán và tiết kiệm trong nội bộ tiến tới trên lãnh thổ CHDCND

Lào chỉ thanh toán bằng đồng Kíp Lào. Đa dạng hóa công cụ tài chính, các hình thức

đầu tư, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp biện pháp quản lý ngoại tệ

một cách hợp lý.

- Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi xuất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do

hóa có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng của NHNN

Lào (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản).

- Xây dựng và hoàn thiện NVTTM, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp

vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT giúp NHNN Lào điều tiết

kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung cấp phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ.

- Kiểm soát, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng Đô la hóa và Baht hóa trên

cơ sở nâng cao vị trí đồng kíp, đa dạng hóa các công cụ tài chính, các hình thức đầu tư,

phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp với các biện pháp quản lý ngoại tệ

một cách có hiệu quả.

- Hiện đại hóa hệ thống thanh toán bù trừ. Hoàn thiện việc nối mạng giữa các

trung tâm giao dịch lớn ở các vùng với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính

thuộc ngân hàng và phi ngân hàng trên từng vùng. Hệ thống thanh toán của NHNN Lào

cũng cung cấp dịch vụ thanh toán có hiệu quả cho hoạt động của thị trường tiền tệ, thị

trường tài chính và các giao dịch khác trong hoạt động kinh doanh ngoại hối.

- Đổi mới cơ cấu quản lý, nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài

chính cho các ngân hàng thương mại theo nguyên tắc đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong

hoạt động và quyền tự chủ trong kinh doanh của các ngân hàng.

- Tiếp tục nâng cao hơn nữa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ thanh

toán trong toàn hệ thống, đảm bảo thanh toán nhanh, kịp thời, và thông qua hệ thống

thanh toán này NHNN Lào có thể kiểm soát được toàn bộ luồng vốn ra vào hệ thống

[37].

3.2. Những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính

sách tiền tệ ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

3.2.1. Nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Lào

* Sự độc lập của NHTW CIB (Central Bank Independent) thể hiện:

1. Sự độc lập về mặt pháp lý cần được thiết lập rõ ràng và đồng bộ.

2. Sự độc lập mục tiêu có nghĩa là ủy ban CSTT của NHTW có thể độc lập và

quyết định mục tiêu lạm phát hay không sau khi đã tham vấn Chính phủ, vì nó mang

tính quyết định việc thực thi CSTT.

3. Trong thực tế, sự độc lập của NHTW trong việc điều hành CSTT với Chính

phủ, các sức ép chính trị và xã hội cũng cần được tăng cường. Trong nội dung này sự

can thiệp của Chính phủ vào CSTT cần được loại bỏ hoàn toàn. Thêm vào đó, cam kết

ổn định giá cả dưới góc độ chính trị cũng là quan trọng.

* Sự độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT nói chung và đặc biệt trong

trường hợp lựa chọn giải pháp sử dụng chính sách mục tiêu lạm phát là tối quan trọng, bởi

vì sự phụ thuộc về chính trị và kinh tế đã hạn chế các NHTW không thể lựa chọn mục

tiêu, chính sách mà không bị ảnh hưởng của Chính phủ. Điều này làm cho các đơn vị

kinh tế không tin tưởng vào CSTT của NHTW. Chính vì vậy, trong những năm gần đây

rất nhiều quốc gia đưa ra các kiến nghị về mặt pháp lý nhằm làm cho NHTW độc lập

hơn.

ở CHDCND Lào, Luật Ngân hàng đến nay đã có Luật Ngân hàng số 04 ngày

10/07/1990 và được sửa đổi thông qua Quốc hội và có hiệu lực 14/10/ 1999. Quy định

trong Điều 3, NHNN Lào, là cơ quan của Chính phủ làm tham mưu cho Chính phủ

trong việc quản lý vĩ mô CSTT trong cả nước...; ... bảo vệ giá trị đồng Kíp Lào trong

nước và quốc tế... [40, tr. 3]. Và một số điều chưa quy định chi tiết, đến nay Luật các tổ

chức tín dụng chưa xây dựng được. Nhưng đến ngày 22/3/2000 Chủ tịch nước

CHDCND Lào đã ký ban hành Nghị định số 02/ CHDCNDL về hoạt động của ngân

hàng thương mại.

Như vậy, sự độc lập của NHNN chưa đủ để có thể chủ động điều hành CSTT

quốc gia. Để nâng cao tính độc lập của NHNN Lào, luận văn đề nghị một số ý kiến sau

đây:

1. Nâng cao tính độc lập tương đối của NHNN trong việc thực thi CSTT tức

tăng cường chức năng NHTW của NHNN để NHNN thực hiện các công cụ của CSTT

một cách linh hoạt, tự chủ hơn. Điều này không có nghĩa là NHNN hoàn toàn độc lập

với Chính phủ nhưng NHNN phải được trao thêm nhiều quyền hạn và trách nhiệm trong

việc xây dựng và thực thi CSTT để từ đó đạt được mục tiêu nói chung và mục tiêu lạm

phát nói riêng mà Chính phủ cho rằng hợp lý.

2. Tách bạch các chức năng không thuộc về NHNN là rất ít như đã nêu trên.

Điều này hàm ý rằng việc vay mượn của Chính phủ từ NHNN là rất ít hoặc không có,

đồng thời việc Chính phủ can thiệp, chỉ định những khoản tín dụng cũng phải rất hạn

chế hoặc không có.

3. Nhiệm kỳ của Thống đốc NHNN ít nhất là 5 năm nếu không cần thiết phải

chuyển công tác.

3.2.2. Tăng cường khả năng dự báo lạm phát

Chính sách mục tiêu lạm phát là một khung đón đầu nhìn xa của CSTT dựa trên

dự báo lạm phát trung hạn. Đồng thời, đây là một hệ thống trong đó CSTT được điều

hành thường sử dụng lãi suất ngăn hạn là mục tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung

gian nhằm hội tụ lạm phát được dự báo trong tương lai vào gần mục tiêu lạm phát đã

được lựa chọn cho giai đoạn trung hạn. Do vậy, dự báo lạm phát chính xác có vai trò

thiết yếu cho một hệ thống lạm phát.

Nhưng, sự bất ổn định ngày càng tăng của môi trường kinh tế và tài chính làm

cho việc dự báo lạm phát trong tương lai trở nên khó khăn hơn. Hầu hết các NHTW đều

sử dụng nhiều mô hình trong đó bao gồm các mô hình cấu trúc, chuỗi thời gian, sưu tập

các chỉ số sức ép lạm phát nhằm tăng cường khả năng dự báo lạm phát.

- Trong thực tế ở CHDCND Lào, vấn đề dự báo lạm phát tương đối khó khăn. Cho

đến nay, việc tính chỉ số lạm phát CPI cũng còn đang có nhiều vấn đề cần xem xét lại.

Trong đó chủ yếu là nâng cao công tác phân tích dự báo đó là:

1. Hoàn thiện hệ thống thống kê của ngành ngân hàng: Xây dựng chế độ báo

cáo thống kê theo hướng yêu cầu các NHTM báo cáo chỉ tiêu, nâng cấp và hoàn thiện

công nghệ thông tin về thống kê.

2. Cần chú trọng đến việc trang bị đầy đủ các trang thiết bị cho việc phân tích

định lượng.

3. Cần bố trí cán bộ chuyên trách cho công việc phân tích và dự báo trên cơ sở

phân tích định tính và định lượng.

4. Có kế hoạch đào tạo cán bộ toàn diện nắm vững kiến thức về kinh tế vĩ mô

hiện đại, phân tích và lập chương trình tài chính, tiếp cận với phân tích dự báo theo mô

hình kinh tế lượng.

5. Xây dựng cơ chế phối hợp với các Bộ, ngành trong điều hành CSTT nhằm

hạn chế những tác động ngược chiều của các chính sách kinh tế vi mô, qua đó nâng cao

hiệu quả điều hành CSTT và quản lý ngoại hối cũng như khuyến khích sử dụng tiền

Kíp.

6. Xây dựng một hệ thống cảnh báo về những biến động bất thường về lãi suất,

tỷ giá và tăng trưởng tín dụng của NHNN đối với các TCTD.

Đây là giải pháp rất cần thiết trong quá trình nâng cao năng lực điều hành chính

sách tiền tệ. Đặc biệt trong giai đoạn thị trường tiền tệ chưa phát triển, năng lực tài

chính của các NHTM còn yếu và các công cụ điều hành gián tiếp NHNN còn hạn chế,

thì việc hình thành một hệ thống cảnh báo của NHNN Lào là rất cần thiết để đảm bảo

hiệu quả điều hành CSTT.

7. Phát triển thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu Chính phủ

- Trong năm 2006, NHNN Lào cần nghiên cứu ban hành cơ chế hoạt động cho

các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, xây dựng các qui định cho việc áp dụng các công cụ

phát sinh, như nghiệp vụ Swap, Forward, quyền lựa chọn, để tạo điều kiện đa dạng hóa

các hoạt động của thị trường.

- NHNN Lào cần chủ động tuyên truyền và hướng dẫn các chủ thể thị trường

hiểu và áp dụng các công cụ phát sinh của thị trường tiền tệ.

- Xây dựng thị trường thứ cấp của thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo tính thanh

khoản của các công cụ và khả năng thanh toán của các NHTM.

- Nâng cao năng lực quản lý vốn khả dụng của các NHTM, các NHTM cần hình

thành bộ phận quản lý vốn khả dụng của mình nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.

- Thị trường trái phiếu Chính phủ hiện nay đang ở mức rất sơ khai. Do vậy cần

phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, qua đó hình thành được đường lãi suất chỉ

đạo hiệu quả. Để phát triển thị trường này, trước hết cần:

+ Chấm dứt việc phát hành trái phiếu Chính phủ để nhận nợ cho các NHTM.

+ Việc phát hành cần thực hiện bằng kênh đấu thầu qua NHNN Lào. Đối tượng

mua chỉ là các định chế tài chính.

+ Ngân sách cần có kế hoạch về khối lượng phát hành hàng năm, có chia theo

quí và thông báo với các NHTM chủ động cân đối nguồn vốn, đầu tư trái phiếu chính

phủ một cách tự nguyện.

8. Giải pháp kiểm soát mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu tăng trưởng:

Kiểm soát mức độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đã định có tầm quan

trọng đặc biệt, không chỉ phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà còn kiểm soát được

lạm phát và giữ được sự phát triển an toàn của các NHTM. Để thực hiện được mục tiêu

này, NHNN Lào cần:

- Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện các công cụ CSTT, xử lý nợ tồn đọng, nâng

cao năng lực tài chính của các NHTM, năng lực tài chính của các doanh nghiệp. NHNN

Lào cần đánh giá, rà soát lại cơ chế tín dụng hiện tại, trên nguyên tắc nâng cao quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về việc cho vay của các NHTM. Việc giám sát chất lượng cho

vay cần yêu cầu các NHTM thực hiện theo các quy định về thiết chế an toàn. Không

nên qui định cứng nhắc các khoản vay đều phải có thế chấp. Việc thế chấp hay không

thế chấp do các NHTM tự xem xét quyết định.

- Đề nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện các cam kết với ADB, để hệ

thống ngân hàng có thể xem xét nới lỏng điều kiện cho vay một cách chủ động, đảm

bảo thực hiện đúng tốc độ tăng trưởng tín dụng dự kiến.

9. Nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra giám sát.

- NHNN Lào tiếp tục hoàn thiện các quy định về thanh tra giám sát theo nguyên

tắc. Nâng cấp hệ thống giám sát từ xa một cách hợp lý, tiếp tục đào tạo nâng cao năng

lực cán bộ thanh tra có chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng và được đào tạo cơ bản nghiệp

vụ thanh tra.

- Về xử lý nợ tồn đọng: Với mục tiêu xử lý dứt điểm nợ tồn đọng trong năm

2006, NHNN Lào phối hợp với Bộ Tài chính đề tạo cơ sở cho các NHTM có năng lực hoạt

động kinh doanh của mình trong nền kinh tế cạnh tranh và hội nhập.

(1) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng hiện nay. Bên cạnh

NHNN Lào cần nghiên cứu hình thành công ty mua bán nợ phù hợp với luật pháp của

Lào, đồng thời nghiên cứu xem xét tìm kiếm thêm các nguồn vốn khác của NHNN Lào

không vượt quá mức cung ứng tiền hàng năm để xóa các khoản nợ không có khả năng

thu hồi.

Mô hình tổ chức của công ty mua bán nợ có thể trực thuộc Chính phủ, có quyền

lực lớn, để thực hiện mua bán lại nợ đọng hiện nay của các NHTM, nhằm làm trong

sạch cán cân đối với tài sản của các NHTM. Nguồn vốn của công ty này có thể là từ

nguồn phát hành trái phiếu dài hạn của Chính phủ, của công ty, nguồn tài trợ của nước

ngoài và một phần đóng góp của các NHTM, hoặc từng NHTM có nợ tồn đọng hình

thành các công ty mua bán nợ riêng để tập trung xử lý nợ tồn đọng của mình;

(2) Việc xử lý nợ tồn đọng của các NHTM cần có sự phối hợp đồng bộ với việc cơ

cấu lại nợ và củng cố năng lực tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.

- Về nâng cao năng lực tài chính và hoạt động:

+ Để các NHTM nhà nước tạo được sức bật trong hoạt động vấn đề cần được

xử lý trong 2 năm 2006, 2007 là cấp hơn 700 tỷ kíp vốn điều lệ cho các NHTM nhà

nước xử lý nợ tồn đọng. Vì vậy, NHNN Lào cần phối hợp với Bộ Tài chính để xử lý

việc cấp vốn điều lệ và xử lý nợ tồn đọng của ngân sách nhà nước với các doanh

nghiệp, qua đó giảm nợ tồn đọng của các NHTM theo đúng với các cam kết với ADB.

Hiện nay, do ngân sách khó khăn, việc thực hiện cam kết với ADB không thực hiện

được đúng tiến độ. Vì vậy NHNN Lào cần nghiên cứu xây dựng phương án nâng cao

vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước từ nhiều nguồn khác nhau, có thể tính đến khả

năng thu hút nguồn vốn của tư nhân, của nước ngoài để nâng cao vốn điều lệ cho các

NHTM. Việc xây dựng phương án này nên tham khảo thêm kinh nghiệm của Việt Nam

và một số nước trong khu vực và thế giới.

+ Nâng cao hơn nữa chất lượng tài sản có bằng cách: Ngoài việc xử lý nhanh nợ

tồn đọng tiếp tục nâng cao năng lực thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng, của ban

thẩm định cho vay, chấm dứt việc cho vay theo chỉ định của cấp trên.

+ Các NHTM cần xem xét hình thành bộ phận quản lý nguồn vốn (bộ phận này

có trách nhiệm cân đối nguồn vốn của NH đảm bảo khả năng thanh khoản và không để

nguồn vốn dư thừa. Đồng thời tính toán và quyết định mức lãi suất cơ bản của NH).

+ Ngân hàng Nhà nước Lào cần ban hành thiết chế an toàn và phòng chống rủi

ro buộc các NHTM phải thực hiện theo đúng các qui định đó.

+ Mở rộng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án đổi mới công nghệ thanh toán

của ngân hàng từ nguồn tài trợ của các nước.

- Về mở rộng mạng lưới hoạt động:

+ Để thúc đẩy hoạt động sản xuất ở vùng sâu,vùng xa, hỗ trợ người nghèo có

vốn sản xuất, NHNN Lào cần bắt tay xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động của ngân

hàng chính sách, tạo dựng những điều kiện cần thiết để đến năm 2006 có thể thành lập

và đi vào hoạt động của ngân hàng.

+ Trong thời gian chưa thành lập được ngân hàng này, cần đánh giá xem xét lại

các quy định về hoạt động của các quĩ tín dụng nhân dân hiện nay, để tiếp tục hoàn

chỉnh mô hình hoạt động này cho phù hợp với đặc điểm phân bố dân cư của Lào.

+ NHNN Lào cần nghiên cứu xem xét khả năng cho phép các chi nhánh ngân

hàng nước ngoài mở rộng thêm chi nhánh ở những tỉnh, huyện, bản đang có tiềm năng

phát triển.

3.2.3. Kiểm soát các công cụ và chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu

điều hành

+ Công cụ lãi suất

Tỷ lệ lãi suất ngắn hạn thường được sử dụng là mục tiêu điều hành trong chính

sách mục tiêu lạm phát. Một tỷ lệ lãi suất ngắn hạn để được chọn là mục tiêu điều hành

phải thỏa mãn các điều kiện sau: (1) phải tồn tại một cơ chế mà lãi suất ngắn hạn có thể

đơn phương quyết định lãi suất dài hạn mà không có cơ chế ngược lại. (2) Cần thiết

phải có sự kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử dụng các công cụ chính sách thích hợp để

điều chỉnh lãi suất ngắn hạn. (3) NHTW có thể thông báo một cách có hiệu quả dự định

của mình tới dân chúng dưới góc độ là sự thay đổi trong mục tiêu điều hành sẽ tác động

tới lãi suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất dài hạn thông qua sự thay đổi trong dự đoán

lạm phát [52].

Xét trong điều kiện Lào hiện nay (căn cứ trên những phân tích về hạn chế trong

việc điều hành công cụ lãi suất thời gian qua), luận văn đề nghị lựa chọn lãi suất ngắn hạn

liên ngân hàng làm mục tiêu điều hành. Tuy nhiên, để lãi suất ngắn hạn liên ngân hàng của

Lào thỏa mãn các điều kiện cần phải thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng.

Luận văn đề nghị các giải pháp như sau:

- Tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho thị trường: rà soát và sửa đổi những

văn bản cũ, ban hành thêm những văn bản cần thiết mới.

- Tăng cường sự quản lý, giám sát của NHNN đối với TCTD về quản lý vốn

khả dụng NHNN có thể can thiệp kịp thời khi cần thiết.

- Mở rộng các thành viên tham gia thị trường theo hướng nới lỏng các tiêu

chuẩn được tham gia trên thị trường, đồng thời, thành lập các tổ chức môi giới tiền tệ và

các nhà kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp nhưng cũng phải chú ý đến trách nhiệm của

các tổ chức này trong việc tạo điều kiện thực hiện CSTT có hiệu quả.

- Mở rộng các loại hàng hóa trên thị trường như cho phép mua bán các giấy tờ

có giá dài hạn, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh thương

phiếu để đưa thương phiếu vào hoạt động, kết hợp với kho bạc nhà nước trong việc phát

hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc.

- Kết hợp thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng một thị trường liên ngân

hàng thống nhất.

- áp dụng công nghệ thanh toán điện tử trong việc thanh toán trên thị trường

liên ngân hàng.

Cơ chế truyền dẫn của CSTT nói đến hàng loạt các quá trình thông qua đó,

CSTT ảnh hưởng đến giá cả, số lượng của các công cụ tài chính và các hoạt động kinh

tế thực sự như lạm phát và tăng trưởng. Các kênh truyền dẫn tiền tệ có thể phân loại

thành kênh giá cả và kênh số lượng: kênh giá cả sau đó có thể chia thành các kênh nhỏ:

kênh lãi suất, kênh tỷ giá và kênh giá tài sản; kênh số lượng được chia thành kênh tiền

tệ và kênh tín dụng. Trong hệ thống mục tiêu lạm phát, kênh lãi suất đóng vai trò quan

trọng do lãi suất ngắn hạn được dùng làm mục tiêu điều hành để đạt được mục tiêu lạm

Tiêu dùng, Đầu tư

LS dài hạn thực

LS dài hạn danh nghĩa

i

G á c ả

T ổ n g c ầ u

Xuất khẩu nhập khẩu

Tỷ giá thực

Tỷ giá danh nghĩa

ệ t n ề i t h c á s h n í h C

a ĩ h g n h n a d n ạ h n ắ g n S L

phát.

Sơ đồ 3.1: Kênh truyền dẫn của lãi suất lên giá [52]

Để nâng cao hiệu quả của kênh lãi suất đối với nền kinh tế, luận văn đề nghị:

- Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Lào vì hoạt động của hệ

thống NHTM đóng vai trò quyết định đến hiệu quả tác động của CSTT: các NHTM

cạnh tranh với nhau trên thị trường tín dụng và tiền gửi thông qua chính sách lãi suất

của từng ngân hàng. Hiển nhiên nếu lãi suất huy động của ngân hàng A cao hơn ngân

hàng B thì ngân hàng A sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền hơn và nếu lãi suất

cho vay thấp hơn thì sẽ cho vay được nhiều hơn. Do đó ảnh hưởng tới mức lãi suất chung

trên thị trường liên ngân hàng.

- Về cơ chế điều hành lãi suất: như đã đề cập ở chương 2, từ 1/6/2002, NHNN

thực hiện chuyển cơ cấu lãi suất cơ bản sang cơ chế lãi suất thỏa thuận. Lãi suất thỏa

thuận nghĩa là lãi suất được xác định trên cơ sở sự nhất trí cho vay và người đi vay

trong thỏa thuận về một hợp đồng vay mượn. Nếu mức lãi suất này không bị khống chế

bởi biên độ quản lý thì mức lãi suất thỏa thuận trong các quan hệ vay mượn song phương

cũng không nằm ngoài mức lãi suất thị trường hình thành trên quan hệ cung cầu. Quá trình

tự do hóa lãi suất ở các nước cho thấy tùy thuộc tình hình phát triển kinh tế, mức độ phát

triển của thị trường tiền tệ ở mỗi nước mà chính sách những bước khác nhau trong quá

trình tự do hóa lãi suất. Tuy nhiên, ở bất kỳ nước nào, quá trình tự do hóa lãi suất chỉ được

xem là thành công nếu sau khi tự do hóa lãi suất hệ thống tiền tệ vẫn được ổn định, lãi suất

trên thị trường tiền tệ không có những dao động lớn do sự cạnh tranh quá mức của các

trung gian tài chính dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ, làm ảnh hưởng đến sự ổn

định kinh tế - xã hội, đến lợi ích của các nhà đầu tư, của người gửi tiền và các trung gian

tài chính. Chính vì vậy, quá trình tự do hóa lãi suất của Lào cần phải có những bước đi

thận trọng phù hợp với điều kiện của mình, đồng thời phải có sự phối hợp nhịp nhàng với

các công cụ khác.

Hơn nữa, trong điều kiện đồng Kíp Lào còn yếu thì cần thiết phải điều hành lãi

suất Kíp Lào cao hơn so với lãi suất quốc tế, đặc biệt phải cao hơn mức lãi suất USD,

Bath Thái Lan nhằm hạn chế tình trạng Đô la hóa và Bath hóa. Đồng thời, phải có cơ chế

điều chỉnh tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt và ổn định tương đối nhằm ngăn chặn tình

trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ và giảm thiểu rủi ro hối đoái cho các doanh nghiệp.

- Thị trường tiền tệ và thị trường tài chính phát triển không có sự can thiệp của

Chính phủ vào thị trường và không có sự sai lệch trong cơ cấu lãi suất là các điều kiện quan

trọng để nâng cao hiệu quả của cơ chế truyền dẫn của CSTT. Chính vì vậy, cần phải có

những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hai loại thị trường này. Quá trình mở cửa

thị trường tài chính, tiền tệ Lào phải được tiến hành dần dần theo từng bước một cách thận

trọng và nhất thiết không được để kíp Lào mất giá quá lớn bởi sự chênh lệch về tỷ giá hối

đoái hoặc lãi suất trong điều kiện mở cửa thị trường tiền tệ là nguyên nhân căn bản và tạo

cơ hội cho đầu cơ tiền tệ, gây nên tình trạng kinh tế "bong bóng", cuối cùng tất yếu sẽ dẫn

đến khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng kinh tế đất nước. Do vậy, thị trường tài chính và

thị trường tiền tệ Lào trong giai đoạn 2000 - 2010 cần phải được thúc đẩy phát triển theo

hướng sớm trở thành các thị trường có đầy đủ vốn, đầy đủ hàng hóa được quản lý tốt và

được điều tiết chặt chẽ - được chuẩn bị tương đối kỹ càng để từng bước mở cửa hội nhập

tài chính - tiền tệ khu vực và toàn cầu.

Việc thiết lập mối quan hệ giữa CSTT và mục tiêu điều hành chỉ là vấn đề liệu

NHTW có kiểm soát mục tiêu điều hành hay không? Việc phát triển một thị trường tiền

tệ ngắn hạn và các công cụ của CSTT gián tiếp rất quan trọng để tăng cường khả năng

kiểm soát của NHTW đối với mục tiêu điều hành.

+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM)

Trong thời gian tới, NVTTM sẽ được thực hiện theo hướng trở thành công cụ

chủ yếu trong điều hành CSTT do khả năng tác động linh hoạt, chủ động và thường xuyên

của nó. Đây là một kỹ thuật điều chỉnh lãi suất được ưa chuộng.

Để nghiệp vụ TTM phát triển theo ý đồ can thiệp của mình, NHNN cần:

- Thường xuyên rà soát các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cũng như các quy

định pháp luật liên quan đến hoạt động thị trường mới. NVTTM và điều chỉnh theo hướng

tạo điều kiện thuận lợi thu hút các thành viên tham gia thị trường. ở đây cần chú trọng đảm

bảo sự thông suốt về kỹ thuật giao dịch thông qua việc cải tiến, hoàn thiện chương trình

phần mềm giao dịch của Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Về phía các NHTM cần đảm

bảo đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu với các phương tiện nối mạng máy tính với trung

tâm giao dịch của thị trường đi đôi với nâng cao năng lực kinh doanh và hiểu biết nghiệp

vụ.

- Mở rộng các loại hàng hóa cho thị trường. Những loại hàng hóa mới có thể bổ

sung thêm là các chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, hối phiếu ngân hàng, các hợp đồng

bán - mua lại hay các trái phiếu Chính phủ vẫn còn thời hạn không quá mức quy định...

sau khi NHNN Lào đã đưa ra được các chuẩn mực đảm bảo chi trả và chuyển giao kịp

thời các loại giấy tờ có giá đó, tạo điều kiện để thị trường hoạt động có hiệu quả.

- Tăng số lượng các phiên giao dịch.

- Đa dạng hóa các phương thức giao dịch.

Tuy nhiên, những điều nêu trên vẫn chưa đủ, mà cần phải có sự phối kết hợp

uyển chuyển nhịp nhàng với các công cụ khác như công cụ tái cấp vốn hay dự trữ bắt

buộc.

+ Công cụ tái cấp vốn

Việc tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM phải được lựa chọn, tính toán cẩn

thận giữa hai công cụ NVTTM và tái cấp vốn, bởi vì nếu cả hai công cụ cùng được áp

dụng, chúng rất dễ triệt tiêu nhau. Việc các NHTM lựa chọn công cụ nào ở đây phụ

thuộc vào lãi suất chiết khấu và lãi suất trên thị trường mở. Nghiên cứu thực trạng thực

thi CSTT ở các nước theo đuổi chính sách mục tiêu lạm phát cho thấy hầu hết các nước

này đều coi trọng việc sử dụng NVTTM hơn. Xét về mặt lý thuyết, việc chọn lựa

NVTTM cũng hợp lý hơn vì đối với nghiệp vụ này, những thành viên tham gia thị

trường không biết trước được mức lãi suất sẽ là bao nhiêu, nên việc đặt giá thầu rất thận

trọng và như vậy, nó phản ánh sát thực hơn quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường.

Hơn nữa, trên thị trường mở, NHNN chủ động hơn trong việc thực hiện ý đồ can thiệp

của mình do họ chính là người đặt ra yêu cầu mua bán trên thị trường.

Chính vì vậy, luận văn đề nghị NHNN phải có những biện pháp để hạn chế việc

lui tới cửa sổ chiết khấu của các NHTM, đặc biệt phải chấm dứt tình trạng cho vay chỉ

định qua kênh tái cấp vốn vì đây là khoản vốn không xuất phát từ cầu vốn khả dụng của

các NHTM.

+ Công cụ dự trữ bắt buộc

Hiện tại và trong những năm tới công cụ dự trữ bắt buộc ở Lào vẫn có tác động

tới nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM và đồng thời cũng tác động đến hiệu quả của

CSTT. Vì vậy, cần phải có những biện pháp nâng cao hiệu quả điều tiết của công cụ

này. Luận văn đề nghị:

- Điều chỉnh cách tính dự trữ bắt buộc theo số dư tiền gửi của các TCTD tại Sở

Giao dịch NHNN và các chi nhánh NHNN.

- Cần phải có tiền gửi dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi trên 12 tháng. Việc

tăng diện tiền gửi phải chịu bắt buộc để NHNN Lào có thể kiểm soát chặt hơn lượng

tiền dự trữ tại các NHTM.

- Cần chú ý khi phối hợp sử dụng công cụ khác, đặc biệt khi cần có sự tác động

kép cả về giá cả và về lượng việc kết hợp giữa NVTTM với DTBB có hiệu quả rất

nhanh chóng.

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến thị

trường.

3.2.4. Tăng cường sự rõ ràng, tính nhất quán và tin cậy của chính sách tiền

tệ

Tính rõ ràng và nhất quán có vai trò thiết yếu để đảm bảo tính tin cậy của

CSTT. Chúng giúp cho dân chúng có thể hiểu được các quyết định của những người

làm chính sách. Do vậy, tạo động lực cho các nhà chính sách đạt tới mục tiêu lạm phát

và tăng độ tin tưởng của dân chúng vào việc đạt được mục tiêu lạm phát.

Như vậy, để nâng cao tính rõ ràng, nhất quán của CSTT, luận văn kiến nghị như

sau:

- Thứ nhất, NHNN phát hành một bản báo cáo về tình trạng lạm phát hoặc báo

cáo CSTT trong đó có bao gồm dự báo lạm phát và tăng trưởng kinh tế cho các năm sau

đó trình báo cáo này lên Quốc hội.

- Thứ hai, Quốc hội có thể chất vấn Thống đốc NHNN hoặc các thành viên của

Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia.

- Thứ ba, nếu tỷ lệ lạm phát lệch khỏi mục tiêu, Thống đốc ngân hàng phải báo

cáo lên Quốc hội hoặc Chính phủ giải thích nguyên nhân và dự định phương hướng điều

chỉnh của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia.

Mất lòng tin vào CSTT sẽ làm tăng dự đoán lạm phát. Tăng dự đoán lạm phát đến

lượt nó sẽ làm tăng chi phí đưa lạm phát trở về mức kiểm soát được; do vậy, sự đáng tin

cậy cũng rất quan trọng đối với CSTT. Tuy nhiên, nếu CSTT chỉ tập trung chủ yếu vào

mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả để tăng cường tính tin cậy của chính sách thì có thể xảy

ra những biến đổi trong ngắn hạn của đầu ra một cách không cần thiết do có một sự đánh

đổi ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng mặc dù không có sự đánh đổi ngược chiều dài

hạn giữa hai yếu tố này. Có thể có một sự đánh đổi nào đó giữa tính tin cậy và sự năng

động. Khi thực hiện một CSTT tự do, vấn đề không nhất quán sẽ nảy sinh. Trong trường hợp

này, tăng cung tiền tệ sẽ mang lại tỷ lệ lạm phát cao mà không tăng việc làm cũng như sản

lượng. Do vậy, chúng ta cần một cách thức thực hiện CSTT khoa học hơn để phản ánh mức

đổi tối ưu giữa tính tin cậy và sự năng động. Quy trình như vậy chính là nguyên tắc tự do

của CSTT. Các nhà làm chính sách thường cam kết với dân chúng và điều hành CSTT tuân

theo các quy tắc CSTT; do vậy, thị trường tài chính có thể tạo ra những dự đoán rõ ràng về

các hành động chính sách trong tương lai.

Mục tiêu lạm phát đôi khi cũng bị chỉ trích do chỉ quan tâm đến mục tiêu lạm

phát mà bỏ qua sản lượng. Tuy nhiên, sự chỉ trích này đặt không đúng chỗ. Xét về khía

cạnh lý thuyết, thậm chí nếu áp dụng mục tiêu lạm phát chặt chẽ, nghiên cứu sản lượng

vẫn rất quan trọng bởi vì sản lượng đóng vai trò xác định lạm phát trong tương lai.

NHTW sẽ vẫn phải quan tâm đến chỉ tiêu sản lượng trong chức năng phản ứng của

mình.

Một vấn đề khác liên quan đến độ tin cậy của CSTT là dân chúng hiểu tỷ lệ lạm

phát cơ sở đến mức độ nào. Cần có những cố gắng để phổ cập khái niệm này và mục đích

của mục tiêu lạm phát và tỷ lệ lạm phát cơ sở cũng như cố gắng tính ra tỷ lệ lạm phát cơ sở

chính xác hơn để có tính được lạm phát cơ sở tốt hơn.

3.2.5. Các bước thực hiện chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát

Các bước thực hiện chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Lào.

Thứ nhất: Xác định được cơ quan và thực hiện mục tiêu: Trong luận văn này

kiến nghị việc theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của CSTT và để

thực hiện mục tiêu này, NHNN Lào sử dụng chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát

được quy định trong Luật Ngân hàng và Chính phủ cũng phải quy định rõ ràng cơ quan

thực hiện mục tiêu là NHNN Lào

Thứ hai: Trong quá trình điều hành CSTT, NHNN lựa chọn công cụ trực tiếp

của CSTT là lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành kết hợp với các công cụ khác để

hướng tới mục tiêu đề ra.

Thứ ba: Trên cơ sở NHNN là cơ quan xây dựng và thực thi CSTT, NHNN phải

tính toán để đưa ra khung thời gian của mục tiêu, khung lạm phát mục tiêu. Như chúng

ta đã biết lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ mật thiết với nhau và đối với mỗi

quốc gia một tỷ lệ lạm phát thích hợp nào đó sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh

tế ở Lào, theo các nhà nghiên cứu thì tỷ lệ lạm phát thích hợp đủ để kích thích tăng

trưởng là 8-9%; chính vì vậy, luận văn đề nghị xác định khung lạm phát mục tiêu là 8-

10% và thời gian để đạt được mục tiêu là 2 năm.

Thứ tư: Định kỳ 3 tháng, NHNN Lào họp đánh giá tổng kết tình hình thực thi

chính sách để đưa ra định hướng điều hành cho giai đoạn tiếp theo.

3.3. Một số kiến nghị

Trước hết chúng ta cần xác định rằng để có thể đạt được mục tiêu đề ra không

chỉ sử dụng các biện pháp công cụ từ phía NHNN cụ thể là các công cụ của CSTT, mà

cần phải có hàng loạt những biện pháp tổng thể phối hợp trong việc hoạch định và thực

thi chính sách tài chính- tiền tệ quốc gia. Việc hoạch định và thực thi này lại phải đảm

bảo nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội và đồng thời phải tạo điều

kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ

mô đã xác định ở từng năm và cho cả giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, luận văn đưa ra

một số kiến nghị trong việc phối hợp thực thi chính sách này như sau:

1. Đối với Chính phủ

- Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho

các thành phần kinh tế phát triển, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc cho vay theo chỉ

định của Chính phủ.

- Chính phủ nên hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động của NHNN, chỉ

nên chỉ đạo hoạt động mang tính chất định hướng mà không nên theo tính định lượng.

Đồng thời, việc chỉ đạo điều hành CSTT phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời.

- Đề nghị xem xét thay đổi mệnh giá đồng Kíp cho hợp lý với từng giai đoạn có

tính kinh tế cao và hợp lý vì nó liên quan đến giá trị và tâm lý đến bản sắc dân tộc của

mình.

- Nên tập trung các chu chuyển tiền tệ qua một đầu mối quản lý duy nhất là

NHNN nhằm thực hiện chức năng NHTW tốt hơn trong việc thực hiện chính sách tiền

tệ quốc gia như:

+ Hoạt động tiết kiệm của Bưu điện và các tổ chức được phép hoạt động kinh

doanh về tài chính - tiền tệ phải báo cáo đều đặn, chính xác, đầy đủ cho NHNN một

cách kịp thời.

+ Việc tồn tại hệ thống kho bạc nhà nước nhằm tạo điều kiện để NHNN thực hiện

vai trò là ngân hàng của Chính phủ. Đồng thời, việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho

bạc và công trái nên thông qua hệ thống ngân hàng.

2. Đối với Quốc hội

Đến nay, Luật NHNN Lào đã và đang có hiệu lực thi hành. Đây là giai đoạn

hoạt động NHNN Lào gắn chặt với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thực hiện chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội với những đặc điểm có nhiều nhân tố mới bởi những thời

cơ và thách thức vận động đan xen rất mạnh mẽ và mang tính thời đại mới. Do những biến

đổi nhanh chóng và mang tính khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc

tế mà vai trò của Luật Ngân hàng cần phải được đổi mới để mở rộng đối tượng điều chỉnh,

tăng cường vị thế pháp lý và trách nhiệm cao hơn cho NHNN. Chính vì vậy, luận văn kiến

nghị sửa đổi Luật NHNN và xây dựng thêm Luật các TCTD theo hướng như sau:

+ CHDCND Lào hiện nay chưa có Luật Tổ chức tín dụng, vì vậy cần phải

nhanh chóng xây dựng Luật Các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng đáp ứng được

đòi hỏi của hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến tài chính - ngân hàng.

+ Sửa đổi Luật NHNN Lào

Nhìn chung, qua thực tế áp dụng, Luật NHNN đã thấy xuất hiện những hạn chế

sau:

- Quy định về vị thế của NHNN còn nhấn mạnh chủ yếu là cơ quan của Chính

phủ, quá coi nặng chức năng quản lý nhà nước trực tiếp, xem nhẹ vai trò là NHTW của

các ngân hàng. Quyền hạn của Thống đốc cũng thể hiện khá mờ nhạt và bị chia sẻ.

- Các quy định pháp lý về vận hành các công cụ của CSTT như: chiết khấu, tái

chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở lãi suất cơ bản, quản lý ngoại hối v.v.. chưa chi tiết,

vừa không rõ ràng, vừa thiếu điều kiện ràng buộc và mang nặng tính hành chính.

- Một số quy định cụ thể khác như quy định về lãi suất cơ bản, về hàng hóa của

nghiệp vụ thị trường mở cần xem xét để hủy bỏ hoặc phải định nghĩa lại.

Từ những hạn chế trên, luận văn kiến nghị sửa đổi như sau:

1. Vị thế của NHNN Lào cần được độc lập hoặc độc lập tương đối tùy điều kiện

phát triển. Tính độc lập không bao gồm việc NHNN không phải là cơ quan Chính phủ mà

chỉ độc lập tương đối trên nguyên tắc Chính phủ trao nhiều quyền hạn, trách nhiệm mới

cho NHNN và Thống đốc NHNN trên lĩnh các lĩnh vực: Xây dựng và trình dự án CSTT

quốc gia; chủ động sắp xếp bộ máy tổ chức và nhân sự; độc lập tương đối về tài chính

theo cơ chế đơn vị nộp NSNN.

2. Bổ sung các ràng buộc và sửa đổi theo chuẩn quốc tế các nội dung liên quan

đến nghiệp vụ NHTW như đã phân tích ở trên.

3. Đổi mới việc quy định về nghiệp vụ, về chức năng, về mô hình tổ chức, về mô

hình tổ chức của thanh tra ngân hàng để tránh song trùng lãnh đạo, mở rộng đối tượng thanh

tra và tổ chức lại bộ máy thanh tra phù hợp với nghiệp vụ mới.

4. Quy định minh bạch các quan hệ tiền tệ, tín dụng giữa NHTW với các Bộ,

ngành nhất là với Bộ Tài chính - trong đó những quy định quan trọng là: Quy định về

việc NHTW thống nhất quản lý ngoại hối, dự trữ quốc gia (cả ngoại tệ Xuất khẩu tài

nguyên và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu thông qua các NHTM), việc bắt buộc

Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản và thanh toán duy nhất qua hệ thống thanh toán

quốc gia của hệ thống NHTW.

5. Bỏ qua các quy định về trách nhiệm của Bộ, Hội đồng Nhân dân các cấp,...

trong việc tham gia giám sát hoạt động của NHTW.

3. Đối với các Bộ, Ngành có liên quan

- Cần tạo lập mối quan hệ thường xuyên giữa các Bộ, Ngành đặc biệt là Bộ Tài

chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan

trong việc xây dựng và ban hành hệ thống thông tư liên Bộ. Trong việc thu thập, cung

cấp và trao đổi thông tin cũng như việc cung cấp thông tin cho công chúng. Bộ Tài

chính và NHNN cần phải kết hợp chặt chẽ trong việc điều hành CSTT và chính sách tài

chính một cách hợp lý.

Kết luận

Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh

hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên

ngoài và việc thực hiện chính sách tiền tệ mục tiêu kiểm soát lạm phát đối với

CHDCND Lào là vấn đề rất mới. Trên cơ sở sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở cho phương pháp luận và tổng hợp các phương

pháp thống kê và miêu tả, tổng hợp, so sánh, luận văn đã đạt được những nhiệm vụ sau:

1. Hệ thống hóa lý luận về chính sách lạm phát, CSTT và chính sách mục tiêu

kiểm soát lạm phát.

2. Kinh nghiệm thực tiễn CSTT theo mục tiêu lạm phát ở một số nước trên thế

giới và bài học cho CHDCND Lào.

3. Đánh giá thực trạng lạm phát và những nguyên nhân gây ra lạm phát tại Lào

từ năm 1994 đến nay. Đồng thời, luận văn cũng tập trung phân tích, đánh giá thực trạng

điều hành CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này nhằm đưa ra được

những thành công và hạn chế trong việc lựa chọn phương thức điều hành CSTT.

4. Trên cơ sở những phân tích ở trên, luận văn đưa ra đề xuất theo đuổi chính

sách mục tiêu lạm phát trong việc thực thi CSTT tại Lào và hệ thống các giải pháp điều

kiện nhằm thực hiện chính sách này.

5. Để có được sự hỗ trợ đắc lực từ Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan hữu

quan khác, luận văn đưa ra các kiến nghị cần thiết để có thể thực hiện chính sách này tại

Lào.

Là công dân của nước CHDCND Lào lại nghiên cứu về một vấn đề còn khá

mới mẻ và phức tạp, hơn nữa còn hạn chế về ngôn ngữ và thời gian. Vì vậy, tác giả

mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia cũng

như tất cả những độc giả quan tâm đến vấn đề này để khi có điều kiện luận văn sẽ được

hoàn thiện hơn nữa.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Duệ (2000), Chính sách mục tiêu lạm phát, Nxb Thống kê, Hà Nội.

2. Hoàng Ngọc Hà (2001), "Nguyên nhân của tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay

và khuyến nghị hướng khắc phục", Ngân hàng, (12), tr.1-6.

3. Nguyễn Văn Hà - Lê Văn Tề, (2005), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

4. Phí Trọng Hiển (2005), "Lạm phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho

Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (323), tr. 53- 63.

5. Lê Xuân Hiếu (2004), "Lạm phát và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam", Ngân hàng,

(10), tr. 22-25.

6. Nguyễn Đắc Hưng (2001), "Mục tiêu lạm phát", Ngân hàng, (2), tr. 55-57.

7. Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Đồng Tiến (2005), "Kết hợp các chính sách kinh tế vĩ mô

trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt

Nam giai đoạn 1986 - 2004", Ngân hàng, (2), tr. 1.

8. Ngô Hưởng (2004), "Lạm phát hiện nay nguyên nhân và giải pháp kiềm chế", Ngân

hàng, (11), tr. 1-2.

9. Hoàng Xuân Kế (2004), "Lạm phát ở Việt Nam - Nguyên nhân và giải pháp",

Nghiên cứu kinh tế, (319), tr. 26-33.

10. Lý Minh Khai (2004), Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và phương pháp tính của Tổng cục

Thống kê hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.

11. Trần Mạch Kiên (2000), "Mục tiêu lạm phát một cách tiếp cận mới về chính sách

tiền tệ", Ngân hàng, (5), tr. 61- 62.

12. Nguyễn Đại Lai (2004), "Một số ý kiến về lạm phát và những giải pháp khắc phục",

Ngân hàng, (11), tr. 3- 4.

13. Lê Quốc Lý (2005), Lạm phát hành trình và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam,

Nxb Tài chính, Hà Nội.

14. Đỗ Thị Đức Minh (2005), Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách tiếp

cận trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo

khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.

15. S. Mishkin Frederic, Tiền tệ, ngân hàng, và thị trường tài chính, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Mùi (2004), "Sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ

nhằm kiểm soát lạm phát", Tài chính, (9), tr. 27-28.

17. Nguyễn Đăng Nam (2004), Một số giải pháp tài chính - tiền tệ để bình ổn giá cả kiềm

chế lạm phát, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.

18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Một số vấn đề cơ bản về tài chính - tiền tệ của

Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.

19. Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng kinh tế tài chính ở châu á 1997 - 1999, Nxb

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Minh Phong (2000), Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Dương Hồng Phương (2004), "Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong thời kỳ hội

nhập", Ngân hàng, (8), tr. 9-13.

22. Bùi Thiên Sơn (2004), Kinh nghiệm một số nước về kiểm soát và kiềm chế lạm phát

trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài

chính Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Sỹ (2005), "Nhận xét về quá trình kiểm soát lạm phát", Nghiên cứu

kinh tế, (2), tr. 53.

24. Hồ Khắc Tân (2001), "Tăng trưởng kinh tế và lạm phát", Tài chính, (10), tr. 36.

25. Trần Cao Thành (2000), Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 20 năm xây dựng và phát

triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Nguyễn Quang Thép (2001), "Sự lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ", Ngân hàng,

(5), tr. 59.

27. Nguyễn Đồng Tiến (2000), "Cần có cách nhìn nhận đúng đắn khi đánh giá lạm phát

ở Việt Nam", Ngân hàng, (9), tr. 19-22.

28. Nhật Trung (2004), "Những vấn đề chung về lạm phát cơ bản - kinh nghiệm của

Philippnes", Ngân hàng, (9), tr. 67- 69.

Tiếng Lào (dịch sang tiếng Việt)

29. Báo cáo thường niên năm 1997 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

30. Báo cáo thường niên năm 1998 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

31. Báo cáo thường niên năm 1999 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

32. Báo cáo thường niên năm 2000 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

33. Báo cáo thường niên năm 2001 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

34. Báo cáo thường niên năm 2002 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

35. Báo cáo thường niên năm 2003 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

36. Báo cáo thường niên năm 2004 - Ngân hàng Nhà nước Lào.

37. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng 2005- 2020.

38. Đánh giá về tình hình lạm phát ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2000

(5/2004).

39. Đánh giá hoạt động ngân hàng 5 năm 2001-2005 Ngân hàng Nhà nước Lào.

40. Ngân hàng Nhà nước Lào (2000), Luật Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,

Viêng Chăn.

41. Ngân hàng Nhà nước Lào (2000), Quyết định về hoạt động Ngân hàng Thương mại

nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn.

42. Văn kiện Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VII (2001).

Tiếng Anh

43. Alina Carare, Adrea Schaechter, Mark Stone, and Mark Zelmer, Establishing Initial

Conditions in Support of Inflation Targeting- IMF Working paper.

44. David Dodge Govermor of Reserve Bank of Canada "Inflation targeting in Canada:

Experience and Lesson: 5/2002.

45. Donald T Brash Govermor of Reserve Bank of New Zealand " Inflation targeting 14

years on" 5/2002.

46. Donald T Brash Govermor of Reserve Bank of New Zealand " Inflation targeting in

New Zealand 1988 - 2000" 9/2000.

47. "Economics"- P.A.Samuelsonva W,D. Norhaus- Xuất bản lần thứ 4, 1992, trang

587-588.

48. Edwin M. Truman- Inflation Targeting and the International Financial System-

9/2001.

49. Frederic S. Mishkin, Klaus Schmidt Hebbel- One decade of inflation targeting in the

world: what do we know and what do we need to know- Working paper 8397-

National Bureau of Economic Research 7/2001.

50. Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano and Sunil Sharma- Inflation targeting

as a Framework for Monetary Policy.

51. International Monetary Fund (IMF): Lao PDR: Recent ecomic development SM/88/26

1.1988. table 11.

52. Junggun Oh - Inflation Targeting: A New Monetary Policy Framework in Korea

10/2000.

Phụ lục

Việc thiết lập và thực hiện mục tiêu lạm phát ở các nước

Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện

9/94 Core CPI 2-3% 1 chu kỳ Chính phủ úc

kinh doanh và NHTW

6/99 Headline 1 năm Chính phủ Brazil 1999: 8% 2%

có sự tư 2000: 5% 2% vấn của

2001: 4% 2% NHTW

1991: 3-5% 1991: 22 Chính phủ Canada 2/91 Core CPI có loại

thàng và NHTW trừ giá thực phẩm, 1992: 2-4% năng lượng và thuế từ 1992 nhiều 6/1994: 1,5- gián thu năm 3,5%

1995-2001L: 1-

3%

1/91 Headline CPI 1991: 15-20% 1991-2000: 1 NHTW có Chi Lê

năm sự tư vấn 1992: 13-16% của Chính 2001-nay: 1993: 10-12% phủ không xác

1994: 9-11% định cụ thể

1995: 8%

Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện

1996: 6,6%

1997: 5,5%

1998:  4,5%

1999:  4,3%

2000:  3.5%

2001-nay: 2-4%

9/99 Headline CPI 1999: 15% 1 năm Chính phủ Colombi

và NHTW a 2000: 10%

2001: 8%

2002: 6%

1/98 Core CPI có loại 1998: 5,5-6,5% 1 năm NHTW Czech

trừ giá thực phẩm, 1999: 4-5% năng lượng và

2000: 3,5-5,5% thuế gián thu

2001: 2-4%

Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện

Core CPI có loại dài Trung bình 2% 93-95 NHTW Phần Lan 2/93

- trừ thuế gián thu, hạn 1996:

6/98 các khoản trợ giá, không xác

giá nhà và lãi suất định

thế chấp

Chính phủ 1/92 Headline 1992: 14-15% 1 năm Israel

có sự tư CPI 1993: 10% vấn của

1994: 8% NHTW

1995: 4-11%

1996: 8-10%

1997: 7-10%

1998: 7-10%

1994: 4%

2000: 3-4%

2001: 3-4%

1999: 13% 1 năm NHTW Mexico 1/99 Headline

CPI 2000 < 20%

2001: 6,5%

2002: 4,5%

Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện

NHTW có 1/94 Headline 1994: 14-20% 1 năm Peru

sự tư vấn CPI 1995: 9-11% của Chính 1996: 9,5- phủ 11,5%

1997: 8-10%

1998: 7,5-9%

1994: 5-6%

2000: 3,5-4%

2001: 2,5-3,5%

2002: 1,5-2,5%

10/9 1 năm 2000- Headline 1998: <9,5% NHTW Ba Lan

8 2002 nhiều CPI 199: 6,6-7,8% năm 2003: 2000: 5,4%- không xác 6,8% định

2001: <4%

3-6% Nhiều năm NHTW 2/200 Core CPI có loại Nam

0 trừ biến động lãi Phi

suất

Mục lục

T

rang

Mở đầu 1

5 Chương 1: lạm phát và chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm

phát

5 1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát

13 1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát

1.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số nước 34

trên thế giới và bài học kinh nghiệm

48 Chương 2: Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm

phát ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào từ năm 1994

đến nay

48 2.1. Thực trạng lạm phát ở Lào từ năm 1994 đến nay

2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở Lào 63

trong những năm qua

68 2.3. Đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đến nay

83 Chương 3: định hướng và giải pháp trong thực hiện chính sách tiền

tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở cộng hòa dân chủ nhân

dân lào

3.1. Định hướng xây dựng, phát triển và điều hành chính sách tiền tệ ở Lào 82

giai đoạn 2005 - 2010

3.2. Những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính 89

sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

104 3.3. Một số kiến nghị

Kết luận 10

7

Danh mục tài liệu tham khảo 108

phụ lục 112