intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay" đưa ra một vài giải pháp về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học, nhằm giúp người dạy và người học có thêm kiến thức và cách tiếp cận các kỹ năng mềm trong quá trình dạy và học, từ đó mang lại hiệu quả và chất lượng cao trong công tác giáo dục và đào tạo. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay

  1. GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG ĐÀO TẠO KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY Dương Thị Tuyết Trinh Trường Cao đẳng Vĩnh Long Tóm tắt: Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác dạy và học được nhiều nước trên thế giới chú trọng. Bởi lẽ, nó mang lại nhiều lợi ích thiết thực và mở ra triển vọng to lớn cho nền giáo dục nước nhà. Đặc biệt, ở các trường đại học, sinh viên luôn cần vận dụng tốt các kỹ năng tin học cơ bản như: viết báo cáo, làm tiểu luận, thiết kế slide, thuyết trình, tìm kiếm, chia sẻ tài liệu trên internet. Vì thế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy kỹ năng mềm cho người học ở các trường đại học là rất cần thiết giai đoạn hiện nay. Cũng vì lẽ đó, người nghiên cứu chọn đề tài:“Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay”. Thông qua bài viết, tác giả đưa ra một vài giải pháp về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học, nhằm giúp người dạy và người học có thêm kiến thức và cách tiếp cận các kỹ năng mềm trong quá trình dạy và học, từ đó mang lại hiệu quả và chất lượng cao trong công tác giáo dục và đào tạo. Từ khóa: kỹ năng, kỹ năng mềm, các dạng kỹ năng mềm, công nghệ thông tin, kỹ năng mềm trong công nghệ thông tin. 1. Đặt vấn đề Có thể nói, công nghệ thông tin là ngành nghề phát triển mạnh và vượt bậc hiện nay trên khắp toàn cầu. Sự phát triển này diễn ra liên tục không ngừng nên đòi hỏi nhân sự trong ngành phải chủ động nâng cao kiến thức và kể cả năng lực ứng dụng là rất cần thiết, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, công tác dạy và học là việc làm vô cùng quan trọng. Đây được xem là xu hướng tất yếu của thời đại khi mà công nghệ thông tin phát triển một cách mạnh mẽ và thần tốc. Thật sự mà nói, công nghệ thông tin mang lại nhiều lợi ích thiết thực và mở ra nhiều triển vọng to lớn cho nền giáo dục nước nhà. Chẳng những thế, công nghệ thông tin đang làm thay đổi đời sống hằng ngày của con người theo hướng tích cực, nhất là khi đất nước đang trong giai đoạn của công cuộc cách mạng lần thứ tư như hiện nay. Đặc biệt, ở các trường đại học, sinh viên luôn cần vận dụng tốt các kỹ năng tin học cơ bản như: viết báo cáo, làm tiểu luận, thiết kế slide, thuyết trình, tìm kiếm, chia sẻ tài liệu trên internet... Mặt khác, đứng trước xu thế toàn cầu hóa, giao lưu, hội nhập nên việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học là rất cần thiết. Đó cũng là lý do người viết chọn đề tài:“Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay”. Bài viết sẽ tập trung nghiên cứu một số khái niệm cơ bản về kỹ năng, kỹ năng mềm, công nghệ thông tin, kỹ năng công nghệ thông tin và đưa ra một vài giải pháp về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ 305
  2. năng mềm cho sinh viên nhằm giúp người dạy và người học có thêm kiến thức cũng như cách tiếp cận các kỹ năng mềm trong quá trình dạy và học, từ đó mang lại hiệu quả và chất lượng cao trong công tác giáo dục và đào tạo. 2. Cơ sở lý luận 2.1. Một số khái niệm cơ bản về “kỹ năng”, “kỹ năng mềm”, “công nghệ thông tin” Khái niệm “kỹ năng” Kỹ năng là một khái niệm khoa học phức tạp và được bàn luận rất nhiều, có nhiều cách hiểu khác nhau. Tính đến thời điểm hiện tại, hoàn toàn chưa có một định nghĩa thống nhất về năng. Có quan niệm định nghĩa rằng: Kỹ năng là khả năng của con người trong việc vận dụng kiến thức để thực hiện một nhiệm vụ nghề nghiệp mang tính kỹ thuật, giải quyết vấn đề tổ chức, quản lý, giao tiếp”. (Theo Wikipedia) Tuy nhiên, quan niệm khác lại định nghĩa rằng: Kỹ năng là một dạng hành động được thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những điều kiện sinh học - tâm lý khác của cá nhân như nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực của cá nhân... để đạt được kết quả theo mục đích hay tiêu chí đã định hoặc mức độ thành công theo chuẩn hay quy định. Một ý kiến khác cho rằng: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn biểu hiện năng lực của con người”. Như vậy, dù định nghĩa theo cách hiểu nào thì kỹ năng cũng được hiểu là “khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống”. Khái niệm “kỹ năng mềm” Có nhiều quan niệm định nghĩa khác nhau về kỹ năng mềm, tùy thuộc vào những lĩnh vực khác nhau mà góc nhìn của mỗi người có cách tiếp cận riêng. Theo tác giả Forland và Jeremy đưa ra quan điểm: “Kỹ năng mềm là một thuật ngữ thiên về mặt xã hội để chỉ những kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử hiệu quả trong giao tiếp giữa người với người” [3]. Nói khác đi, đó là kỹ năng liên quan đến việc con người hòa mình, chung sống và tương tác với cá nhân khác, nhóm, tập thể, tổ chức và cộng đồng. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa thì cho rằng: Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc, những yếu tố ảnh hưởng đến sự xác lập mối quan hệ với người khác. Kỹ năng mềm quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc. [7] Ngoài ra, kỹ năng mềm là những kỹ năng mà chúng dùng để tương tác với người khác trong xã hội. Chẳng hạn như, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian. Song, chúng chưa đủ để biến chúng ta thành người có trí tuệ tuyệt vời, mà nó chỉ hộ trợ chúng ta tương tác tốt với người khác, hay ảnh hưởng lên người khác và có thể giúp chúng ta có được sự giúp đỡ từ người khác. 306
  3. Kỹ năng mềm (soft skills) - trí tuệ cảm xúc: là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người - thường không được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm, càng không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt mà phụ thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người. Nhưng kỹ năng mềm lại quyết định chúng ta là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc. Từ những quan niệm trên, kỹ năng mềm có thể hiểu như sau: “Kỹ năng mềm tức là kỹ năng giúp chúng ta có thể điều khiển cảm xúc và hành vi cá nhân như lòng kiên nhẫn, sự tự tin, quản lý căng thẳng, quản lý sự tức giận...”. Nghĩa là, kỹ năng mềm tùy thuộc vào sự nắm bắt của mỗi người. Hay nói một cách khác, “Kỹ năng mềm là những gì thuộc về tính cách của mỗi con người, là khả năng thích ứng với những vấn đề trong thực tế để đưa đến sự thành công và được tồn tại độc lập với quan điểm hay kiến thức tích lũy trong sách vở”. Khái niệm “công nghệ thông tin” Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật tối tân - trọng điểm là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất đa dạng và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. Công nghệ thông tin hay thường được gọi là IT (Information Technology) là thuật ngữ bao gồm phần mềm, mạng lưới internet, hệ thống máy tính sử dụng cho phân phối và xử lý dữ liệu cũng giống như trao đổi, lưu trữ và dùng thông tin. Hay nói một cách khác: “Công nghệ thông tin là một thuật ngữ để chỉ tất cả các công nghệ được sử dụng để tạo, lưu trữ, trao đổi, xử lý và sử dụng thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau như dữ liệu văn bản, dữ liệu âm thanh, hình ảnh, trình diễn đa phương tiện”. 2.2. Tầm quan trọng của kỹ năng mềm đối với sinh viên Với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay, sự lên ngôi của khoa học công nghệ và sự biến động của tâm lý lứa tuổi, việc trang bị kỹ năng mềm để sinh viên sau khi ra trường tiếp tục tự nghiên cứu, tự học tập, tự rèn luyện kỹ năng chuyên môn và thực hiện triết lý “học tập suốt đời”, “học để chung sống”, “học để làm việc” là vô cùng quan trọng. Kỹ năng mềm giúp sinh viên thường xuyên cập nhật những thay đổi của khoa học, công nghệ, giúp các em có đủ kỹ năng để xử lý mọi tình huống xảy ra trong quá trình làm việc và cuộc sống hàng ngày. Được trang bị các kỹ năng mềm trong môi trường học tập, sinh viên sẽ tham gia chủ động, tích cực hơn các hoạt động xã hội, biết cách tổ chức chuyên nghiệp và sáng tạo các hoạt động ngoại khóa, nâng cao kết quả học tập, biết cách thiết lập các mối quan hệ thân thiện với mọi đối tượng, có nhiều hơn các cơ hội nghề nghiệp và chắc chắn rằng sẽ giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống một cách hiệu quả hơn. Như vậy, kỹ năng mềm là hành trang không thể thiếu của sinh viên để phát triển bản thân, cơ hội nghề nghiệp trong tương lai. 2.3. Mục tiêu phát triển chương trình kỹ năng mềm đối với sinh viên Để đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong tương lai, việc đào tạo kỹ năng mềm được đưa vào giảng dạy tại các trường đại học đã trở thành một yêu cầu của chuẩn đầu ra cho tất cả các chuyên ngành, nhất là ngành công nghệ thông tin. Theo chương trình đào tạo định 307
  4. hướng ứng dụng của từng khoa, từng bộ môn, sinh viên phải đáp ứng đầy đủ các chuẩn đầu ra về kiến thức, kỹ năng và thái độ. Bên cạnh chuẩn đầu ra về chuyên môn, về tin học và ngoại ngữ thì sinh viên phải có các kỹ năng mềm từ cơ bản đến nâng cao. Chương trình đào tạo kỹ năng mềm tại các trường đại học hiện nay tập trung vào các kỹ năng chính như: Kỹ năng học đại học, Kỹ năng làm việc nhóm và thuyết trình, Kỹ năng giao tiếp và Kỹ năng nghề nghiệp, Kỹ năng tư duy phản biện, Kỹ năng giải quyết vấn đề, Kỹ năng tư duy thiết kế và đổi mới sáng tạo,... Hoạt động giảng dạy, đào tạo kỹ năng mềm phải xuất phát từ nhu cầu sinh viên và nhu cầu thị trường lao động. Sinh viên chỉ có thể tích cực tham gia học tập nếu những kiến thức và kỹ năng mềm đó thật sự có ích, cần thiết cho nghề nghiệp, cho tương lai của họ. Sinh viên vừa tiếp cận được kiến thức, vừa rèn luyện kỹ năng, vừa được đào tạo một thái độ tích cực, từ đó hoàn chỉnh dần khả năng sau khi ra trường. Đây cũng là một trong những nền tảng cốt lõi làm nên chất lượng giáo dục trong môi trường đại học của học phần kỹ năng mềm. Sinh viên càng có nhiều kỹ năng sẽ càng có cơ hội thành công trong cuộc sống. 2.4. Các dạng kỹ năng mềm Hiện nay, kỹ năng mềm là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Theo Bộ Lao động Mỹ cùng Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Mỹ đã nghiên cứu kỹ năng mềm cơ bản trong công việc và đưa ra 13 kỹ năng nhằm giúp sinh viên đi đến thành công, cụ thể như sau: kỹ năng học và tự học, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn, kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động lực làm việc, kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp, kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ, kỹ năng làm việc đồng đội, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả, kỹ năng lãnh đạo bản thân. Nhận thấy được tầm quan trọng của kỹ năng mềm đối với tương lai nghề nghiệp của sinh viên Việt Nam, các trường đại học đã đề ra nhiệm vụ định hướng chương trình để trang bị kỹ năng mềm cho sinh viên trước khi các em ra trường. Trong đó, đáng chú ý nhất là những ba nhóm kỹ năng cần căn bản sau đây: Một là, nhóm kỹ năng nhận thức gồm có kỹ năng học và tự học, kỹ năng giải quyết vấn đề. Hai là, kỹ năng quản lý bản thân như là kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân, kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm. Ba là, kỹ năng xã hội bao gồm: kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng làm việc đồng đội, kỹ năng đàm phán, kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc. 2.5. Các dạng kỹ năng mềm trong công nghệ thông tin Thứ nhất là kỹ năng văn phòng cơ bản. Đây là kỹ năng căn bản nhất định cần phải có đối với sinh viên sắp ra trường để sẵn sàng đi làm như Word, Excel, PowerPoint, Outlook, ... giúp cho việc trình bày các thông số, thông tin một cách rõ ràng mạch lạc. Ví dụ như khi trình bày văn bản, bạn có thể sử dụng Word hoặc cần tính toán thì Excel sẽ là giải pháp tốt nhất và khi thuyết trình dùng PowerPoint trình bày chuyên nghiệp với nhiều tính năng, hoặc check email công việc dễ dàng khi có Outlook… 308
  5. Thứ hai là kỹ năng giao tiếp. Người làm bên công nghệ thông tin giỏi về tư duy lôgic, làm việc bài bản và độc lập, tuy nhiên họ lại rất kém trong giao tiếp, kỹ năng trình bày và sự thuyết phục. Công việc của họ thiên về “kỹ thuật” nên họ thường nhìn nhận mọi thứ qua “lăng kính kỹ thuật”. Cũng bởi kém trong kỹ năng giao tiếp nên họ rất khó tạo mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp khác. Vì thế, việc trang bị tốt kỹ năng giao tiếp chính là phương tiện giúp người làm công nghệ thông tin có thể xây dựng cầu nối với các đồng nghiệp, thuyết phục người khác chấp nhận ý kiến của mình và bày tỏ nhu cầu của cá nhân. Thứ ba là kỹ năng phân tích dữ liệu nhạy bén. Để thiết lập một hệ thống, hoặc quy trình triển khai lập trình phần mềm, khả năng phân tích tư duy đòi hỏi rất cao. Phân tích sữ liệu nhạy bén giúp não bộ nhanh chóng hình dung ngay các bước công việc cần làm, loại ngôn ngữ lập trình phù hợp, phương thức xây dựng hệ thống... Việc còn lại là thể hiện ra giấy những gì lập trình viên đã hình dung, chỉnh sửa, hoàn chỉnh kế hoạch và triển khai hiệu quả. Thứ tư là kỹ năng làm việc nhóm. Đây là một kỹ năng quan trọng và rất cần thiết đối với sinh viên công nghệ thông tin nói riêng và sinh viên nói chung. Những kỳ vọng đối với nhiệm vị trong ngành công nghê thông tin ngày một lớn, đòi hỏi tính chuyên môn sâu. Hơn nữa, công việc chủ yếu của lập trình viên là gia công phần mềm, lập trình viên chỉ làm một khâu nhỏ trong cả một dự án lớn, có khi làm việc nhóm với nhiều lập trình viên khác nhau trên thế giới, để phối hợp làm việc ăn ý với các thành viên khác đặc biệt là những người khác nền văn hóa, khác ngôn ngữ là rất quan trọng. Vì lẽ đó, một người không thể đáp ứng trọn vẹn mà cần phải có một đội ngữ nhiều người, mỗi người một khía cạnh, phối hợp lại tạo thành một tổng thể công việc hoàn chỉnh. Đó chính là lý do thực tế thôi thúc kỹ năng làm việc nhóm đối với ngành này. Vì vậy, việc trang bị kỹ năng này rất cần thiết cho sinh viên trước khi ra trường. Thứ năm là kỹ năng thuyết trình hiệu quả. Từ thông điệp yêu cầu về công việc được nhận, người làm việc ngành công nghệ thông tin sẽ phải lựa chọn nguồn lực phù hợp để xử lý công việc. Với những tình huống quen thuộc thì cứ thế áp dụng, nhưng khi đó là dự án mới, khách hàng mới, sản phẩm mới thì sẽ cần sự thuyết trình từ phía người thực hiện, như thế mọi người tin tưởng và chấp nhận dự án theo hướng triển khai ban đầu. Do đó, kỹ năng thuyết trình là không thể thiếu đối với người làm công nghệ thông tin. Thứ sáu là kỹ năng tự học. Như đã biết, công nghệ thông tin ngày càng phát triển nhanh và vượt bậc, khi đã chọn thì phải chuẩn bị tinh thần học tập suốt đời. Việc học từ trường lớp được đào tạo, các khóa tập huấn hoặc chủ động học trực tuyến từ mạng xã hội... tất cả đều cần kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi từ phía người học. Người dạy có thể dạy cho chúng ta kiến thức, cung cấp tài liệu, những để thấu hiểu và có thế vận dụng thành thạo thì chỉ có tự học mới giúp bản thân đạt được kỳ vọng mà mình mong muốn. Thứ bảy là phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo. Đối với ngành công nghệ thông tin, việc nghiên cứu tìm tòi để phát hiện ra cái mới bắt nhịp với thời đại là điều tất yếu, do vậy đòi hỏi người làm công nghệ phải có tư duy sáng tạo. Chẳng hạn, từ ngôn ngữ lập trình C ++, các lập trình viên có thể tạo ra những phần mềm về các game trò chơi, về âm nhạc, hoạt hình một cách đa dạng và phong phú nhằm phục vụ nhiều nhu cầu cụ thể khác nhau. Đây cũng được xem là một trong những kỹ năng quan trong góp phần tạo nên sự khác biệt về cấp độ năng lực giữa các nhà lập trình. 309
  6. Thứ tám là kỹ năng giải quyết vấn đề. Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng mà mỗi lập trình viên cần phải trang bị. Vì đặc thù của lĩnh vực công nghệ thông luôn luôn có nhiều thay đổi, luôn xuất hiện nhiều cái mới nhất nên người làm việc trong lĩnh vực này cần phải trang bị kỹ năng này để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng khi gặp những tình huống hay sự cố bất ngờ xảy ra trong công việc. Hơn thế, kỹ năng này còn đòi hỏi bản thân họ cần bình tĩnh, nhìn nhận, phân tích và đưa ra các phương án phù hợp để giải quyết sự vấn đề một các hợp lý nhất. Vì vậy, việc rèn cho mình kỹ năng này không chỉ cần thiết mà còn giúp bản thân họ tự tin hơn. Thứ chín là xử lý sự cố nhạy bén, linh hoạt. Đối với ngành công nghệ thông tin, việc phát sinh sự cố là điều đặc biệt chú trọng nhiều hơn những ngành nghề khác. Vì một sự cố nhỏ có thể ảnh hưởng cả một hệ thống lớn, chẳng hạn như: đứt đường truyền mạng, hoặc bị hacker thâm nhập dữ liệu máy tính, điện thoại... Vì thế, kỹ năng xử lý sự cố rất cần thiết cho người làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Điều đó nhắc nhở bản thân họ phải luôn luôn tích lũy kinh nghiệm dạn dày trong công việc, cập nhật những cải tiến tích cực một cách thường xuyên, sẵn sàng cho những phương án dự phòng để kịp thời xử lý khi gặp sự cố trong công việc. Thứ mười là khả năng làm việc dưới áp lực cao. Môi trường làm việc của nhân viên công nghệ thông tin có thể gặp nhiều áp lực. Phải thức khuya hàng tuần hoặc chỉ ngủ khoảng 4 giờ hay 5 giờ hàng ngày là điều không khó gặp phải. Điều này không tránh khỏi đem lại những mệt mỏi, stress trong công việc, dẫn đến hiệu suất kém. Ngoài ra, người làm công nghệ thông tin phải biết cách giúp bản thân mình thư giãn, thời gian rảnh tránh ôm máy tính liên tục. Thư giãn với khí trời sẽ giúp bạn thoải mái hơn rất nhiều. Thứ mười một là đức tính kiên nhẫn. Tùy vào dự án mà tiến độ thời gian hoàn thành không giống nhau, người lập trình có thể sửa một lỗi nhỏ phần mềm trong nửa giờ, nhưng khi lập trình một trò chơi có thể mất đến vài năm mới xong. Vì thế, thời gian dài hay ngắn cùng với việc vận dụng linh hoạt nhiều kiến thức công nghệ thông tin đan xen nhau khiến bản thân đôi khi mệt mỏi. Nhờ vào đức tính kiên nhẫn, tin tưởng vào thành quả trong tương lai sẽ giúp bản thân vững vàng cùng đồng đội đồng hành vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Thứ mười hai là biết lắng nghe và chấp nhận phê bình. Bản thân những người học công nghệ thông tin họ rất tin tưởng vào kiến thức chuyên môn của mình. Họ là người bảo thủ và khó chấp nhận ý kiến phê bình của người khác. Họ lúc nào cũng làm việc với một cái đầu “lạnh”. Điều đó sẽ giúp họ hỏi được nhiều điều và biến những điều phê bình thành những kinh nghiệm trong cuộc sống. Ngoài ra, còn rất nhiều các kỹ năng khác mà sinh viên công nghệ thông tin có thể trang bị thêm cho bản thân mình trước ngày ra trường như: kỹ năng viết đơn xin việc, kỹ năng phỏng vấn… 3. Thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay Theo khảo sát của một số chuyên gia nghiên cứu gần đây thì việc thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học ở nước ta 310
  7. đã và đang bắt nhịp với xu thế chung của giáo dục thế giới. Theo thống kê của một số nhà nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đều quan tâm đến kỹ năng mền và xem kỹ năng mềm rất cần thiết cho công việc trong tương lai chiếm đến 80,4%. Có một số em cho là bình thường chiếm 14,3% và còn lại là 5,3% xem kỹ năng mềm không quan trọng. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng cho rằng việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên cũng gặp phải một vài khó khăn đáng kể. Phần lớn những khó khăn đó xuất phát từ những khía cạnh sau đây: Trước hết, về chương trình đào tạo và giáo trình. Đối với vấn đề này đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn về đánh giá chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học qua Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT như sau: “Chương trình đào tạo một ngành học bao gồm: mục tiêu, chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học cần đạt được sau khi tốt nghiệp: nội dung, phương pháp và hoạt động đào tạo; điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, các hoạt động học thuật của đơn vị được giao nhiệm vụ triển khai đào tạo ngành đó”. Từ đây, có thể thấy rằng việc đào tạo kỹ năng cho sinh viên là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, môn học kiến thức về kỹ năng mềm ở một số trường đại học chỉ có các môn học về kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp, chưa có nhiều môn học về các kỹ năng khác. Việc giảng dạy của giảng viên cũng gặp nhiều khó khăn vì phần lớn nội dung của những môn học này do giảng viên tự soạn bài riêng và chỉ lưu hành nội bộ, chưa có một giáo trình chính thống hay tài liệu chính thống do Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp. Bên cạnh đó, việc dạy kỹ năng mềm lồng ghép vào các học phần trên lớp không phải là điều dễ dàng. Để làm được việc này, đòi hỏi giảng viên phải thực sự có khả năng tốt và nhiều phương pháp sáng tạo để sắp xếp thời gian khoa học và chọn lựa những kỹ năng cần thiết để đưa vào giảng dạy. Chưa kể đến việc có một vài giảng viên ở một vài trường đại học cho rằng việc giảng dạy kỹ năng mềm không phải là nhiệm vụ và trách nhiệm của họ. Thậm chí, chưa kể đến việc một số trường thật sự chưa có giảng viên cơ hữu chuyên về đào tạo kỹ năng mềm. Tiếp theo, với quy định của chuẩn đầu ra cho sinh viên đại học hiện nay phải đạt 25% thuộc về những kiến thức chuyên môn, còn lại 75% được quyết định bởi kỹ năng mềm. Qua đó càng cho thấy việc đào tạo kỹ năng mềm có một vị trí quan trọng và cần thiết phải đưa nội dung này vào trong chương trình đào tạo cho sinh viên đại học như một học phần chính thống và bắt buộc bởi lẽ đa số sinh viên hiện nay còn nhiều điểm yếu về giao tiếp, ứng xử, thực hành xã hội, hùng biện trước đám đông... Bên cạnh đó, sinh viên chính là đối tượng quan trọng quyết định việc phát triển kỹ năng mềm cho bản thân, nhưng vẫn còn một bộ phận sinh viên còn thờ ơ, không quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng mềm vì đánh giá chưa đúng vai trò của kỹ năng mềm nên vấn đề rèn luyện còn chưa tích cực, chưa ý thức được ý nghĩa của kỹ năng mềm, xem kỹ năng mềm là thứ bổ trợ có thì tốt, không có cũng không ảnh hưởng gì nhiều. Các em chỉ quan tâm đến kỹ năng mềm sau khi tốt nghiệp với mục đích xin việc làm để có được mức lương cao. Vì lẽ đó mà kỹ năng mềm sinh viên có vẫn chưa đủ độ sâu, do đốt cháy giai đoạn và không trải qua sự va chạm với thực tế. 311
  8. Thêm vào đó, trình độ kiến thức về công nghệ thông tin, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ của người dạy không đồng đều, thậm chí có người chỉ sử dụng máy tính với mục đích duy nhất là soạn thảo văn bản. Ngoài ra, vẫn còn một vài trường đại học không đủ điều kiện để trang bị cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho việc dạy học, nhất là phục vụ cho việc dạy tin học và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. 4. Giải pháp của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học hiện nay 4.1. Về phía nhà trường Để đáp ứng nhu cầu học tập và rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy kỹ năng mềm đạt hiệu quả cao thì lãnh đạo các trường đại học cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là, các trường đại học cần xem xét đầu tư xây dựng các tài liệu giáo trình về từng kỹ năng mềm cụ thể. Đặc biệt là các tài liệu này nên xem xét sự phù hợp với từng ngành học và mang tính thực tế cao. Đồng thời, để đào tạo được những sinh viên có khả năng thích ứng tốt, nhà trường nên xem xét hướng giảm tải lý thuyết và tăng kiến thức thực tế cũng như các tình huống thực hành trên các môn học chuyên ngành và kỹ năng trong thời gian tới. Bên cạnh đó phải biết lồng ghép giảng dạy kỹ năng mềm trong các môn học khác; khuyến khích áp dụng việc thực hành các kỹ năng mềm một cách thích hợp trong việc thảo luận các môn học chuyên ngành. Ngoài ra, cần soạn thảo tiêu chuẩn đánh giá năng lực về những kỹ năng mềm mà trường tiến hành đào tạo và có tham khảo ý kiến của nhà tuyển dụng. Có như vậy, kỹ năng mềm mới được đo lường và đánh giá khách quan, từ đó có thể giúp sinh viên định hướng rèn luyện những kỹ năng còn yếu kém. Hai là, thay đổi hoàn thiện chương trình đào tạo trên cơ sở bổ sung việc rèn luyện, trang bị những kỹ năng mềm cần thiết cho sinh viên phù hợp theo từng năm học bên cạnh đào tạo chuyên môn; tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến khích các hoạt động đoàn thể của Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên vừa đa dạng, phong phú thích hợp với nhiều đối tượng, sở thích, khả năng khác nhau của sinh viên qua đó rèn luyện thể chất và các kỹ năng mềm cho sinh viên. Ba là, thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo kỹ năng mềm cho cán bộ, nhân viên, giảng viên... tạo môi trường học tập, làm việc thân thiện, hiệu quả; tạo mối quan hệ tốt giữa lãnh đạo và cán bộ giảng viên, giữa giảng viên và sinh viên, giữa sinh viên và cán bộ các phòng ban. Đồng thời cũng thường xuyên tổ chức các ngày hội việc làm, các buổi giao lưu gặp gỡ giữa sinh viên và doanh nghiệp để nhà trường, sinh viên nắm bắt được nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Bốn là, phải có kế hoạch nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên, nhân viên như: Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho giảng viên, cán bộ công nhân viên trong nhà trường thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy kỹ năng mềm; đồng thời đổi mới phương pháp giảng dạy và quản lý thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của bộ, ngành về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy học thông qua các đợt sinh hoạt, hội thảo chuyên đề, dự giờ thăm lớp hoặc triển khai các cuộc thi 312
  9. có ứng dụng công nghệ thông tin do Bộ, ngành tổ chức. Bên cạnh đó, cần tạo thêm môi trường thuận lợi cho sinh viên trong việc học hỏi, rèn luyện những kỹ năng mềm phục vụ cho công việc và có thể đáp ứng ngay yêu cầu của đơn vị tuyển dụng. Năm là, phải lưu trữ đầy đủ các văn bản chỉ đạo về hoạt động dạy và học và các quy chế chuyên môn của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy kỹ năng mềm cho sinh viên. Phân công rõ trách nhiệm trong việc triển khai các văn bản đến các tổ trưởng bộ môn, giảng viên trong tổ một cách đầy đủ, kịp thời; phải có kế hoạch sưu tầm, ghi đĩa chứa các phần mềm hỗ trợ dạy học, quản lý để góp phần nâng cao trình độ về công nghệ thông tin cho giảng viên. Sáu là, tổ chức học tập chuyên đề dạy và học, hội giảng để nâng cao trình độ tin học cho đội ngũ giảng viên. Đây là một hoạt động rất quan trọng, điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay: thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, và phương pháp dạy và học, theo hướng lấy người học làm trung tâm, để đổi mới được điều này thì việc đưa công nghệ thông tin để kết hợp với các phương pháp đã đem lại hiệu quả cao trong dạy và học. Hướng dẫn sử dụng các thiết bị tin học và truy cập internet một cách hiệu quả, vì đây là nguồn thông tin khổng lồ để cho đơn vị nghiên cứu, học tập và trao đổi thông tin như thông qua hộp thư điện tử để trao đổi thông tin, giáo trình, bài giảng, giáo án, báo cáo… Bảy là, ứng dụng công nghệ thông tin đến với sinh viên. Nhà trường thường xuyên tổ chức các sân chơi cho sinh viên trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin, các em sẽ rất phấn khởi nhiệt tình tham gia và cùng với các thầy, cô nghiên cứu học hỏi, tìm tòi vận dụng để tìm ra những sáng tạo hấp dẫn hơn. Chẳng hạn như tổ chức “Câu lạc bộ ngoại ngữ có ứng dụng công nghệ thông tin”, “Câu lạc bộ tin học”, “Tìm ô đoán chữ”… Thông qua đó, rèn cho các em các kỹ năng mềm cần thiết qua các hình thức tổ chức này. Tám là, tổ chức tốt việc kiểm tra đánh giá kết quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy kỹ năng mềm đối với giảng viên. Việc làm này nhằm mục đích giúp nhà trường nắm bắt từ thực tế, từ đó rút kinh nghiệm để tìm biện pháp đạt hiệu quả tốt hơn giúp để phục vụ công tác giảng dạy của giảng viên cũng như việc học của sinh viên. 4.2. Về phía giảng viên Thứ nhất, cần phải nâng cao năng lực giảng dạy của bản thân, đặc biệt là năng lực về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đây là điều thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì chỉ khi năng lực của giảng viên được nâng cao thì khả năng về kỹ năng mềm của sinh viên tốt nghiệp mới được cải thiện. Thứ hai, phải giảng dạy bằng bài giảng điện tử. Giảng dạy bằng giáo án điện tử E- learning là hình thức được nhiều giảng viên chọn lựa. Phương pháp dạy học hiện đại này mang đến hiệu quả thiết thực trong việc truyền tải nội dung kiến thức, được giới chuyên gia giáo dục đánh giá cao và khuyến khích sử dụng. Giảng dạy thông qua E-learning sử dụng nhiều công cụ như video, hình ảnh, âm thanh,… giúp buổi học thêm sinh động, hấp dẫn hơn, khơi gợi hứng thú học tập của các em. Thứ ba, sử dụng thiết bị điện tử trong dạy học. Thiết bị điện tử là công cụ hỗ trợ đắc lực của người dạy lẫn người học trong quá trình dạy và học. Thông qua các thiết bị nghe, nhìn, việc dạy và học trở nên đơn giản và thú vị hơn rất nhiều. Theo đó, giảng viên không cần phải giảng 313
  10. bài liên miên, sinh viên không cần phải cặm cụi ghi ghi chép chép. Các hình ảnh, âm thanh sẽ kích thích hứng thú học tập của các em, làm tăng khả năng ghi nhớ và hiểu bài, giúp việc truyền tải kiến thức đạt hiệu quả cao hơn. Thứ tư, tra cứu thông tin, tài liệu qua mạng internet. Thật ra, kiến thức là vô hạn và hơn ai hết, giảng viên cần có kiến thức sâu rộng để truyền tải cho sinh viên của mình, giúp các em hiểu bài tốt hơn và tiến bộ từng ngày. Do đó, việc giảng viên cần nâng cao tinh thần tự học và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng là điều cần thiết đối với bản thân. Với thời đại 4.0 ngày nay, giảng viên có thể dễ dàng tra cứu thông tin và tìm kiếm tài liệu thông qua internet. Đây là kho dữ liệu khổng lồ, chứa đựng rất nhiều thông tin bất kỳ người dạy nào cũng cần đến. Thứ năm, tham khảo sách điện tử, giáo trình điện tử. Để có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, việc tham khảo sách điện tử và các giáo trình điện tử là vô cùng cần thiết. Chỉ với một thiết bị thông minh có kết nối internet, thầy cô có thể tìm thấy vô vàn đầu sách và giáo án điện tử được đăng tải trên những nguồn học liệu mở. Việc tham khảo này hoàn toàn mang tính chủ động, bất kể không gian hay thời gian. Thứ sáu, sử dụng email trong công tác giảng dạy. Việc sử dụng email trong công tác giảng dạy và truyền thông hiện nay đang trở nên phổ biến và cho nhiều hiệu quả tích cực. Thông qua email, giáo viên và học sinh có thể trao đổi kiến thức mà không cần phải gặp mặt trực tiếp. Email có thể chứa nhiều nội dung như văn bản, hình ảnh, tệp tin,… giúp quá trình trao đổi thông tin diễn ra dễ dàng và nhanh chóng hơn. 4.3. Về phía sinh viên Một là, bản thân các em sinh viên cần có ý nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong học tập để phục vụ nghề nghiệp của mình trong tương lai, đặc biệt là các kỹ năng mềm trong công nghệ thông tin. Đồng thời, sinh viên cũng phải hiểu kỹ năng mềm luôn luôn song hành với kỹ năng chuyên môn. Trên cơ sở nhận thức đó, những mặt thiếu hụt của bản thân, các em cần tự rèn luyện, tu dưỡng cho mình kỹ năng mềm thông qua nhiều hình thức và phương pháp thích hợp. Hai là, chủ động xây dựng kế hoạch học hỏi, rèn luyện kỹ năng mềm cho bản thân. Thường xuyên tham gia các hoạt động ngoại khóa, hoạt động tình nguyện bởi những hoạt động này tạo điều kiện cho các em phát triển, trao dồi đạo đức cũng như các kỹ năng cá nhân khác như kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, trình bày ý tưởng, kỹ năng phân tích vấn đề... Nếu sinh viên có được những kỹ năng mềm cần thiết sẽ góp phần không nhỏ vào sự thành công trong tương lai. Ba là, cần nghiên cứu, tìm hiểu các kỹ năng mềm thông qua kênh truyền thông của nhà trường, tổ chức, doanh nghiệp uy tín để tìm cơ hội tham gia, trau dồi kỹ năng mềm cho bản thân. Các hoạt động Đoàn, Hội cũng góp phần mang đến hiệu quả trong việc rèn luyện kỹ năng mềm do vậy sinh viên cũng cần phải tham gia khi còn ngồi trên giảng đường đại học. Bốn là, tích cực rèn luyện, bổ sung, hoàn thiện những kỹ năng mềm cần thiết cho bản thân; tận dung thời gian rảnh để rèn luyện các dạng kỹ năng mềm và kỹ năng mềm trong công nghệ thông tin đã được trình bày cụ thể bên trên để hành trang sau này thuận lơi hơn, mở ra nhiều cơ hội việc làm hơn trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. 314
  11. Năm là, tích cực tham gia các sân chơi có liên quan đến một số kỹ năng mềm trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin do nhà trường tổ chức. Vì thông qua sân chơi đó, rèn cho các em sinh viên các kỹ năng mềm cần thiết qua các hình thức tổ chức này. Đồng thời, sinh viên cũng phải không ngừng tự học, tự rèn những kiến thức cần thiết ngoài chuyên môn như công nghệ thông tin, ngoại ngữ nhằm phục vụ cho việc làm sau khi ra trường. 5. Kết luận Tóm lại, trước sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 và chuyển đổi số ngày càng phổ biến, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên ở các trường đại học là việc làm không thể thiếu. Bởi lẽ, sinh viên chính là nguồn nhân lực trong tương lai cần được trang bị đầy đủ các kỹ năng để thích ứng với sự phát triển của thời đại. Ngoài kiến thức chuyên môn, thì kỹ năng mềm là một trong những đòi hỏi quan trọng của nhà tuyển dụng. Bởi những kỹ năng này sẽ góp phần bổ trợ cho những kiến thức chuyên môn của người lao động nhằm tăng năng suất lao động tạo ra hiệu quả cao trong công việc. Đối với tất cả sinh viên ngành nghề gì cũng đều cần trang bị cho bản thân mình những “kỹ năng mềm” thật tốt để khi ra trường nó sẽ giúp ích cho bản thân rất nhiều. Nó không chỉ phục vụ cho công việc của bạn mà còn rất hữu ích cho cuộc sống nhiều áp lực của bạn sau này. Do đó, ngay từ khi còn học tập trên giảng đường, sinh viên cần hiểu rõ vai trò quan trọng của kỹ năng mềm, từ đó có ý thức hơn trong việc học tập, trau dồi và tự rèn luyện kỹ năng mềm cho chính mình. Thông qua kết quả nghiên cứu, phần nào giúp các trường đại học tiếp cận thêm một vài giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên, giúp người dạy và người học có thêm kiến thức cũng như cách tiếp cận các kỹ năng mềm trong quá trình dạy và học, từ đó mang lại hiệu quả và chất lượng cao trong công tác giáo dục và đào tạo. Đó là cũng chính là mong muốn của người nghiên cứu khi thực hiện bài viết này./. Tài liệu tham khảo 1. Toan Ánh (1993), Nếp cũ, NXB TP. Hồ Chí Minh. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo tại các trình độ của giáo dục đại học, Thông tư 04/2016/TT-BGDĐT, ngày 14 tháng 3 năm 2016. 3. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, H. 4. FLolan - Jeremy (2006), Managing Teams and Technology. UC Davis, Graduate School of Management. 5. Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đinh Thị Kim Thoa (2010), Giáo dục giá trị và kỹ năng sống cho học sinh phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Trần thị Bích Nga, Phạm Ngọc Sáu, Nguyễn Thị Thu Hà (2006), Xây dựng nhóm làm việc hiệu quả - Bản dịch tiếng Việt, NXB Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh. 7. Nguyễn Văn Phương, Bài giảng Kỹ năng làm việc nhóm, Học viện CNBCVT2. 8. Nguyễn Văn Phương, Bài giảng Kỹ năng thuyết trình, Học viện CNBCVT2. 315
  12. 9. Trần Mai Thanh (2019), Những yếu tố ảnh hưởng đến việc học tập kỹ năng mềm của sinh viên trong môi trường đại học, https://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/nhung-yeu-to- anh-huong-den-viec-hoc-tap-ky-nang-mem-cua-sinh-vien-trong-moi-truong-dai-hoc- 59005.htm, (truy cập 27/7/2022). 10. Vũ Hồng Vận, Trịnh Thị Thanh (2019), Thực trạng đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên một số trường khối kỹ thuật tại thành Phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Đại học Quốc tế Hồng Bàng, số 9, trang 73-81. 11. https://tuyensinh.daihoclongan.edu.vn/huong-nghiep/nganh-cong-nghe-thong-tin/ 30 -de- tro-thanh-sinh-vien-cong-nghe-thong-tin-can-co-nhung-ky-nang-gi.html (truy cập 26/7/2022). 12. https://hachium.com/blog/ung-dung-cong-nghe-thong-tin-trong-day-hoc/ (truy cập 26/7/2022). 316
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2