VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THÚY HẰNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THÚY HẰNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯƠNG QUỲNH HOA
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi, vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
HỌC VIÊN
Trần Thúy Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁNError! Bookmark not defined.
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại ...................................................................................................................... 7
1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án. ........ 17
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
tại Tòa án .......................................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG .............................................. 27
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án ....................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang ........................ 50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
TUYÊN QUANG ..................................................................................................... 68
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại tại Tòa án .................................................................... 68
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại tại Tòa án .................................................................... 69
3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết hợp đồng kinh doanh thương
mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. ........................................... 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự BLDS
Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS
Biện pháp khẩn cấp tạm thời BPKCTT
Comprehenshive and Progresive Agreement for Trans- CPTTP
Pacific
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương
EVFTA Vietnam-European Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Châu Âu
HĐKDTM Hợp đồng Kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại KDTM
Tòa án nhân dân TAND
TCKDTM Tranh chấp KDTM
TTDS Tố tụng dân sự
TTTM Trọng tài thương mại
XHCN Xã hội chủ nghĩa
WTO World Trade Organisation
Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng
Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang giai đoạn năm 2015 - năm
2019 ........................................................................................................................... 52
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1: Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại ................................................................................................................................... 48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam đang được đổi mới và ngày càng
phát triển, đặc biệt khi nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)... các quan hệ kinh doanh thương
mại (KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo, sắc thái
mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp
KDTM cũng phát sinh ngày càng muôn màu, muôn vẻ và với số lượng lớn là điều
không tránh khỏi. Khi có những bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng
KDTM thì việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi
cho doanh nghiệp, thương nhân như giảm được chi phí giải quyết thấp nhất, thời
gian giải quyết nhanh nhất, vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các
doanh nghiệp, thương nhân đặc biệt quan tâm và cân nhắc thận trọng. Trong kinh
doanh, giữa các doanh nghiệp, thương nhân luôn phải có sự liên kết với nhau để
cùng nhau mang lại lợi nhuận, thông thường doanh nghiệp, thương nhân ký kết với
nhau hợp đồng nhằm xác định quyền và nghĩa vụ trong KDTM. Theo quy định pháp
luật thì các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã giao kết trong hợp
đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình.
Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hoạt động
KDTM là khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
khi tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền
kinh tế, các tranh chấp đó cần phải được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên
tắc khi tranh chấp trong KDTM xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa
thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách
giải quyết. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau và có yêu
cầu thì tranh chấp KDTM được giải quyết tại Trọng tài, theo tố tụng trọng tài hoặc
tại Tòa án nhân dân, theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS). Đối với Việt Nam các đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp KDTM bằng Toà án sau khi thương lượng, hoà giải không thành. Tuy
1
nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Toà án vẫn còn nhiều vấn đề đáng
quan tâm đó là: Các quy định pháp luật còn có những nhược điểm, bất cập, dẫn đến
việc áp dụng không đạt được tính thuyết phục; hướng dẫn của ngành Tòa án cũng
như quan điểm giải quyết không thống nhất giữa các cấp Tòa án làm cho hoạt động
xét xử của Toà án gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài
ngiên cứu với chủ đề: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang,
tỉnh Tuyên Quang”. Thông qua Luận văn này bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về vấn đề
nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các vấn đề liên quan đến tranh chấp KDTM và giải quyết tranh chấp KDTM
bằng thủ tục tư pháp không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý ở Việt Nam.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên quan
đến giải quyết tranh chấp KDTM trên phạm vi một địa bàn cụ thể và đã có những kết
luận xác đáng, những kiến nghị hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết
tranh chấp KDTM ở nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến các công trình
nghiên cứu tiêu biểu như “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam” Luận án Tiến sĩ của Đào Văn Hội năm 2003, Trường Đại học
Luật Hà Nội; “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Tòa án ở Việt
Nam” Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Vinh, năm 2002, Trường Đại học Luật
Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân - Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động” luận văn thạc sĩ luật học của Đinh
Thị Trang (2013) “Pháp luật về giải quyết kinh doanh thương mại theo thủ tục tố
tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đinh Ngọc
Thương(2016) “Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh thương mại vô hiệu
Theo pháp luật Việt Nam”. Khoa Luật thuộc Đại học Huế. Luận văn Thạc sĩ của
Phạm Thị Ban năm 2012, Trường Đại học Luật Hà Nội; “Thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” của Lê Thị
Oanh năm 2017, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó còn có nhiều bài nghiên
cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục áp
2
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam
hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2014);
“Xác định thẩm quyền giữa toà án và trọng tài trong quá trình thụ lý vụ án dân sự giải
quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại toà án và một số kiến nghị hoàn thiện”
của Bùi Thành Trung, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 12/2014;
“Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch” của Vũ Thị Lan Anh, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 3/2016.
Nhìn chung, các công trình đã chỉ ra sự cần thiết và giới thiệu khái quát về
mô hình tài phán tại Tòa án ở Việt Nam. Các công trình đã đề cập đến thủ tục tố
tụng giải quyết tranh chấp KDTM một cách khá chi tiết, đầy đủ, góp phần quan
trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là pháp luật Tố tụng
dân sự và các luật liên quan đến hoạt động KDTM; xác định thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp KDTM. Các công trình nghiên cứu cũng đưa ra
nhiều giải pháp có giá trị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các
tranh chấp KDTM. Đây là những tri thức quan trọng mà tác giả luận văn kế thừa
trong quá trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận,
thực trạng pháp luật và thực tiễn về giải quyết tranh chấp KDTM đang tiếp tục được
đặt ra và có nhu cầu cần được giải quyết. Cho tới thời điểm hiện tại chưa có một
công trình nào nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM từ thực tiễn
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang” làm luận văn thạc sĩ Luật. Với đề tài này tác giả sẽ
đi sâu nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM của Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang để kiến nghị các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp trong KDTM.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm,
3
đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật tại toà án nhân dân
thành phố Tuyên Quang, chỉ ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của nó, từ
đó luận văn đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân
dân cấp sơ thẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích để làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM
tại toà án nhân dân như khái niệm tranh chấp hợp đồng KDTM, khái niệm đặc điểm
của giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải
quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm.
- Làm sáng tỏ nội dung pháp luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
KDTM tại toà án nhân dân, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại toà án nhân dân và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải
quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm nói chung và toà
án nhân dân thành phố Tuyên Quang nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là:
+ Các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.
+ Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp
KDTM nói chung và giải quyết tranh chấp về hợp đồng KDTM nói riêng.
+ Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành có so sánh đối chiếu
với các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực liên quan tới hoạt động giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp huyện.
Nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang qua các năm từ năm
2015 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như trong quá trình giải quyết các
tranh chấp KDTM. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các
quan điểm chỉ đạo nêu trên.
Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng kết hợp các
phương pháp:
- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận
về giải quyết tranh chấp KDTM tại Chương 1.
- Phương pháp hệ thống hóa pháp luật giúp tổng hợp một cách đầy đủ, chính
xác các quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại tại Mục
1.3 Chương 1, Mục 2.1 Chương 2.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu trong
thực tiễn tình hình giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang làm cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng tại Mục 2.3, Chương 2.
- Phương pháp nghiên cứu bản án nhằm tóm lược một cách ngắn ngọn, xúc
tích bản án thực tiễn làm cơ sở đưa ra bình luận, đánh giá về hoạt động giải quyết
tranh chấp KDTM tại Mục 2.2 Chương 2.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề đã
nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận tại Chương 3.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về
giải quyết tranh chấp KDTM, việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng tố tụng tư
pháp. Chỉ ra những bất cập của hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM
bằng thủ tục tư pháp, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở
thành nguồn tư liệu tham khảo bổ ích cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật
trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng, đặc biệt là Tòa án các cấp vận dụng trong quá trình giải quyết các vụ án tranh
chấp hợp đồng KDTM, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
cơ cấu gồm 3 Chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại tại Tòa án.
+ Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải
quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử
sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.
+ Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nhằm
nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.
6
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
Khi nói tới hợp đồng, tức là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục
đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của các bên. Quan hệ KDTM được xác
lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng.
Trong đời sống xã hội, nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán gọi chung là giao
dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan và để điều chỉnh cũng như đảm bảo
tính hiệu lực của các giao dịch đó, pháp luật về hợp đồng ra đời và ngày càng chứng
tỏ được vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Có thể nói pháp luật về hợp đồng là một
trong những chế định lâu đời nhất liên quan đến hoạt động KDTM, dân sự. Để hiểu
như thế nào là hợp đồng KDTM thì cần tìm hiểu rõ các khái niệm về Hợp đồng là gì?
KDTM là gì? từ đó ta có thể hiểu rõ hơn về Hợp đồng trong lĩnh vực KDTM.
Khái niệm Hợp đồng
Theo Vũ Văn Mẫu, khế ước được tạo ra bởi sự ưng thuận giữa hai hoặc
nhiều bên kết ước. Hai điều kiện cần để tạo ra hợp đồng là người kết ước và chủ
đích của sự ưng thuận1. Trước tiên, về mặt chủ thể, người kết ước, hay chủ thể giao
kết hợp đồng là các bên tham gia vào một quan hệ hợp đồng, có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân. Trong một quan hệ hợp đồng, xuất hiện những cặp chủ thể tương ứng là
người có quyền (trái chủ) và người có nghĩa vụ (thụ trái). Một trái chủ có thể có
nhiều thụ trái và ngược lại, một thụ trái có thể có nhiều trái chủ.
Về mặt ý chí, chủ đích của sự ưng thuận hay mục đích của thỏa thuận có
1 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước; Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 56–57
7
nghĩa là các bên phải thỏa thuận với nhau về một việc xác định nào đó, ý chí của
mỗi bên phải cùng hướng về một mục đích, hay còn gọi là sự thống nhất ý chí,
nhưng không nhất thiết phải thỏa thuận về tất cả những vấn đề xoay quanh hay phát
sinh từ mối quan hệ của họ. Những vấn đề mà các bên chưa thỏa thuận, vì nhiều lý
do mà chủ yếu là do họ không thể lường trước những trường hợp phát sinh bất đồng
gặp phải trong tương lai, sẽ được dự liệu trong các quy định của pháp luật về chế
định hợp đồng. Ý chí của các bên cần đủ rõ ràng (không có nghĩa là không chấp
nhận sự ngầm định) và ăn nhập với nhau.
Và cuối cùng, sự thỏa thuận phải tạo lập một hệ quả pháp lý mới có khả năng
tạo thành hợp đồng. Có các bên kết ước và có sự thỏa thuận giữa các bên về một
việc xác định nào đó chưa đủ để tạo ra một hợp đồng. Hệ quả pháp lý được hiểu là
sự tạo lập, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi (và nghĩa vụ dân sự tương ứng)
hoặc một quan hệ pháp luật. Một thỏa thuận để được coi là hợp đồng, cần là một
trong những nguồn gốc phát sinh của nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ
ý chí của chủ thể) cả về mặt chủ quan và khách quan.
Khái niệm Kinh doanh thương mại
Theo từ điển tiếng Việt, “kinh doanh” được hiểu là tổ chức sản xuất, buôn
bán sao cho sinh lợi2. Như vậy, ở nghĩa phổ thông, kinh doanh không chỉ là buôn
bán mà bao gồm cả sản xuất. Hơn nữa, không phải tất cả các hoạt động sản xuất,
buôn bán đều là kinh doanh mà chỉ có những hoạt động sản xuất, buôn bán có sinh
lợi mới được coi là kinh doanh. Theo quy định của các văn bản pháp luật thì kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, khác với hành vi dân sự thuần thúy (cũng trao
đổi, cung ứng dịch vụ), mục tiêu chính của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận. Đối với
các doanh nghiệp, lợi nhuận được tạo ra khi số tiền thu được trong kinh doanh
(doanh thu) lớn hơn số tiền phải chi phí (chi phí kinh doanh), tiền bán ra trừ tiền chi
phí bằng lợi nhuận. Bất cứ hoạt động nào, cho dù về mặt hình thức giống kinh
2 Viện Ngôn ngữ, Từ điển Tiếng việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.
8
doanh nhưng mục tiêu của hoạt động đó không phải là tạo ra lợi nhuận đều không
phải là kinh doanh.
Còn thương mại được hiểu theo nghĩa thông thường là hoạt động trao đổi hay
giao lưu hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở thuận mua vừa bán. Sự ra đời và phát triển của
thương mại gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Khi có sự phân công lao động lần thứ ba
trong xã hội, thương nghiệp ra đời, xuất hiện tầng lớp chuyên mua bán các sản phẩm để
kiếm lời- các thương nhân, lúc đó thương mại được hình thành.
Như vậy có thể hiểu thương mại là khâu nối liền sản xuất với tiêu dùng thông
qua việc luân chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa người bán và người mua bao gồm
những hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ,…giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể
nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ
khác như trong hình thức thương mại trao đổi hàng hóa. Trong quá trình này, người
bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người
mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.
Khái niệm Hợp đồng kinh doanh thương mại
Mặc dù khái niệm hợp đồng KDTM (trước đây được gọi là hợp đồng kinh tế)
không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiên hành nhưng điều đó không
có nghĩa hợp đồng trong lĩnh vực KDTM không tồn tại. Bởi lẽ, khi còn các hoạt
động trong lĩnh vực KDTM được coi là một hành vi dân sự đặc thù thì vẫn có
những quy định riêng điều chỉnh các hợp đồng với tư cách là hình thức pháp lý của
các hoạt động thương mại (các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng thương
mại hay hợp đồng trong lĩnh vực thương mại).
Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực KDTM có những
điểm giống hợp đồng dân sự về bản chất. Hợp đồng KDTM đều là những giao dịch
có bản chất dân sự, thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận của các
bên; đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung khi tham gia giao kết hợp
đồng; đều có những vấn đề cơ bản như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu…
Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động KDTM nên hợp đồng
9
KDTM có những vấn đề được quy định có tính chất là sự phát triển tiếp tục những
quy định của dân luật truyền thống như: chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của
các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng…
Như vậy, có thể hiểu khái niệm hợp đồng KDTM là hình thức pháp lý của
hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên trong đó ít nhất một
trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân nhằm
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt
động thương mại.
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng kinh doanh thương mại
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng KDTM là thương nhân với thương nhân
hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu giao dịch, mua bán hàng
hóa và đều vì mục đích lợi nhuận. Điều 6 Luật Thương mại 2019 quy định thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có thể
là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Có những quan hệ trong
quan hệ hợp đồng trong KDTM đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (Hợp đồng
đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo
thương mại). Bên cạnh đó có những hợp đồng KDTM chỉ cần ít nhất một bên là
thương nhân (hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hoá,
hợp đồng môi giới thương mại).
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng KDTM. Hợp đồng KDTM có đối tượng
là hàng hóa (động sản hoặc bất động sản) và công việc - dịch vụ. Đối tượng của hợp
đồng KDTM không chỉ dừng lại ở hàng hóa hữu hình mà bao gồm cả các loại hình
vô hình như dịch vụ và các hoạt động sinh lợi khác. Đối tượng của hợp đồng
KDTM phải không thuộc trường hợp danh mục hàng hóa bị cấm.
Thứ ba, về hình thức hợp đồng KDTM. Hợp đồng KDTM có thể xác lập
bằng văn bản, bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên đối với những trường
hợp bắt buộc bằng văn bản thì hợp đồng KDTM phải được xác lập bằng văn bản.
Thông thường các hợp đồng KDTM được xác lập bằng văn bản để đảm bảo sự an
10
toàn và dễ giải quyết khi xảy ra tranh chấp, nhưng đối với những hợp đồng đơn
giản, việc mua bán cần diễn ra nhanh chóng thì các bên có thể xác lập hợp đồng
bằng lời nói hoặc bằng một hành vi cụ thể. Luật Thương mại năm 2019 cho phép
các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm
điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu. Thư điện tử và các hình thức thông tin điện
tử khác cũng được coi là hình thức văn bản. Tuy nhiên đối với một số hợp đồng mà
pháp luật quy định phải bằng hình thức văn bản thì các bên phải xác lập hợp đồng
bằng văn bản, chẳng hạn như hợp đồng cung ứng dịch vụ (theo Điều 74 Luật
Thương mại năm 2019), hợp đồng nhượng quyền thương mại (theo Điều 285 Luật
Thương mại năm 2019).
Thứ tư, mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng KDTM là lợi nhuận.
Trường hợp có chủ thể hợp đồng không nhằm mục đích lợi nhuận, thì hợp đồng
được áp dụng Luật Thương mại khi bên không nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn
áp dụng Luật Thương mại.
Thứ năm, lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng KDTM là các hoạt động
thương mại được quy định tại Điều 2 Luật Thương mại năm 2019, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt động có liên quan
đến thương mại khác.
Thứ sáu, nội dung của hợp đồng KDTM là tổng hợp các điều khoản mà các
bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều khoản này xác định những
quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp đồng. Mỗi loại hợp đồng
có những quy định nhất định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ như đối với hợp đồng
mua bán thì điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả. Pháp luật đề cao sự
thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của hợp đồng phải tuân theo
những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được quy định tại Bộ luật Dân
sự năm 2015. Loại trừ những điều khoản của pháp luật có nội dung mang tính bắt
buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung khác với nội dung quy
định trong pháp luật. Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi
phụ lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của
11
phụ lục không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với
nội dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều
khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng
đã được sửa đổi.
Thứ bảy, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng KDTM.
Ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì có sự phân biệt giữa
Luật Dân sự và Luật Thương mại thì hợp đồng KDTM được điều chỉnh chủ yếu bởi
Luật Thương mại. Nhưng ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ thì loại hợp
đồng này được điều chỉnh bới Bộ luật Dân sự. Ở Việt Nam, trước năm 2005, khi
còn tồn tại hai hệ thống pháp luật về hợp đồng (hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân
sự) độc lập tương đối với nhau thì những nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng
thương mại được ghi nhận trọng các văn bản về hợp đồng kinh tế mà điển hình là
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực, nội
dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại được quy định trong một hệ
thống văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự gồm Luật
Thương mại năm 2019, Bộ luật Dân sự năm 2015, các luật chuyên ngành có liên
quan và các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam có tham gia. Trong đó Luật
Thương mại là nguồn luật chính về mặt nội dung điều chỉnh hợp đồng KDTM.
Những vấn đề nào Luật Thương mại năm 2019 và các luật chuyên ngành không quy
định thì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam có tham gia, có liên quan như:
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định đối tác,…Luật chuyên ngành khác bao
gồm các luật áp dụng cho từng lĩnh vực cụ thể ví dụ như Luật Đầu tư năm 2014,
Luật Dầu khí sửa đổi bổ sung năm 2008, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000,
Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Chứng khoán năm 2019, và các văn bản pháp luật
khác như các Nghị quyết, hướng dẫn, tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao. Trong một
số trường hợp khi không có quy định cụ thể trong Luật thì có thể áp dụng tập quán
thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một
12
vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận
để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương
mại
1.1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại.
Tranh chấp KDTM là một trong những hệ quả của hoạt động KDTM, là một
hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Tranh
chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống
kinh tế-xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khái niệm này được sử dụng
rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và ngày càng chiếm giữ vị
trí “thống lĩnh” thay thế khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc
của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Tại Việt Nam, khái niệm
tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định tại Điều 238 Luật Thương mại
(1997): "Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Theo đó, nội
hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại (1997) rất hẹp so
với quan niệm về thương mại trên thế giới.
Luật Thương mại (2019) định nghĩa “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Điều 3, khoản 1,
Luật Thương mại 2019) nhưng không đưa ra khái niệm về tranh chấp KDTM. Tuy
nhiên, đạo luật này lại đưa ra các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Theo Điều 4, Khoản 16, Luật Doanh nghiệp (2014) thì: “Kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lời”. BLTTDS (2004, sửa đổi bổ sung năm 2011) đã liệt kê các tranh chấp về KDTM
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. BLTTDS (2015) thì không liệt kê mà chỉ đưa
ra khái niệm. BLTTDS (2004) không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” độc
13
lập mà sử dụng chung thuật ngữ “tranh chấp KDTM” nhưng nội dung của các tranh
chấp về KDTM được quy định tại Điều 29 BLTTDS (2004) thực chất là các tranh chấp
thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại (2019). Điều này cho thấy, mặc
dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan
niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy
định trong các văn bản pháp luật tương đối nhất quán.
Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất
đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan đến
lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại.
Theo quan điểm của tác giả, có thể định nghĩa một cách ngắn gọn tranh chấp
KDTM như sau: “Tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột
về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động
KDTM”.
Hợp đồng trong KDTM là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với
nhau hoặc với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ các bên trong lĩnh vực thương mại. Trong thực tế bắt đầu từ khi kí kết cho
đến khi kết thúc hợp đồng thường trải qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn trong
đó là một mắt xích rất quan trọng nên khi một mắt xích nào đó có vấn đề sẽ ảnh
hưởng đến hợp đồng được kí kết giữa các bên và trực tiếp đến lợi ích của các chủ
thể. Nếu vấn đề đó không được giải quyết sẽ làm phát sinh tranh chấp về hợp đồng.
Theo quan điểm của tác giả, có thể đưa ra một khái niệm về tranh chấp hợp
đồng KDTM như sau: “Tranh chấp hợp đồng KDTM là sự mâu thuẫn, bất đồng hay
xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng”.
1.1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại.
- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn
(bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ
thể. Quan hệ kinh doanh thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương
mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại,
các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề
14
ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu. Các quan hệ kinh doanh thương mại
có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực
tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm: (i)
Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho
thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; (ii) Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận; (iii) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
(vi)Tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật có quy định.
- Thứ hai, về phạm vi tranh chấp: Những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động KDTM. Căn cứ phát sinh tranh chấp hợp
đồng KDTM là hành vi vi phạm hợp đồng. Tranh chấp KDTM phải là những mâu
thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
- Thứ ba, về chủ thể tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng KDTM chủ yếu là
những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân)
với nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp KDTM, trong
những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân)
cũng có thể là chủ thể của tranh chấp KDTM khi trong các giao dịch bên không có
mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Về bản chất, hoạt động không
nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là
hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn
áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và
15
tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp
KDTM. Tranh chấp KDTM đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền
kinh tế thị trường. Khi tranh chấp KDTM phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết
một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể,
góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động KDTM, bảo đảm trật tự
pháp luật, kỷ cương xã hội.
- Thứ tư, về tính chất của tranh chấp: Tranh chấp KDTM có tính chất đa
dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức
tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong
nền kinh tế thị trường. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường
xuyên, liên tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế
khiến cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến
nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh
chấp trong mối quan hệ khác.
1.1.2.3. Phân loại các tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
- Theo phạm vi lãnh thổ, có thể phân chia làm tranh chấp hợp đồng KDTM
trong nước và tranh chấp hợp đồng KDTM có yếu tố nước ngoài.
- Theo chủ thể, có thể phân chia làm tranh chấp hợp đồng KDTM giữa hai
bên và giữa nhiều bên.
- Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên:
+ Tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo
quy định của hợp đồng.
+ Tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo
quy định hợp đồng.
- Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh chấp hiện tại là tranh chấp đã
xảy ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp tương lai được hiểu là tranh chấp có thể xảy
ra và việc giải quyết được dự liệu trong một điều khoản của hợp đồng.
- Tranh chấp theo nghiệp vụ giao dịch:
+ Tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá
+ Tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá
16
+ Tranh chấp liên quan đến điều khoản thanh toán
- Tranh chấp dựa trên tính chất pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý
và hiệu lực của hợp đồng)
+ Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng (vi
phạm nguyên tắc ký kết; căn cứ ký kết không hợp pháp; chủ thể ký kết hợp đồng
không hợp pháp, hợp lệ).
+ Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
+ Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng.
- Tranh chấp trong tiến trình thực hiện hợp đồng.
+ Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
+ Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng (do người bán không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình như đã thoả thuận trong hợp
đồng; do người mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
trong hợp đồng).
1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án.
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án
Mối quan hệ trong hoạt động kinh tế tương đối đa dạng và phức tạp vừa
mang tính xung đột, vừa mang tính hợp tác. Tuy nhiên, khi các chủ thể kinh tế tham
gia trong quan hệ hợp đồng đều biết rằng việc có thể xảy ra tranh chấp và việc lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp đó cũng là vấn đề đặt lên hàng đầu, có thể
ngay trong thỏa thuận tại Hợp đồng cũng có thể tại thời điểm có tranh chấp. Phương
thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước được tiến
hành theo trình tự, thủ tục luật định, nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định
của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo
thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án là việc Tòa án có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết để giải quyết các mâu thuẫn phát
sinh từ các hợp đồng KDTM mà các bên không tự giải quyết bằng các thương
lượng, không có thỏa thuận hòa giải thương mại hay trọng tài mà một trong các bên
tranh chấp có khởi kiện vụ án ra Tòa án có thẩm quyền.
17
Như vậy, khi các tranh chấp hợp đồng phát sinh do bất đồng giữa các chủ
thể trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên không thể tự thỏa thuận, tự liên
hệ với nhau để hòa giải, đồng thời đã sử dụng các phương thức khác trong tranh
chấp hợp đồng thương mại để giải quyết nhưng mang không lại kết quả thì có thể
nộp đơn đến Tòa án, yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp về hợp đồng.
1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án.
Theo những phân tích trên, khi một trong các bên khởi kiện ra Tòa án yêu
cầu giải quyết những vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của họ hay quyền lợi của họ bị
xâm phạm trong khi giao kết hợp đồng thì thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng
KDTM tại Tòa án được bắt đầu.
Thứ nhất, về trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp Hợp đồng KDTM tại
Tòa án. Các trình tự, thủ tục giải quyết đối với những vụ án này thường cũng tuân
thủ đúng theo BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành mà pháp luật Việt Nam
quy định. Thể hiện qua các cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) đến các thủ tục xem xét
lại bản án, quyết định (Giám đốc thẩm hoặc Tái thẩm).
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án luôn tôn
trọng quyền sự định đoạt của các đương sự.
Trong quan hệ kinh doanh, các chủ thể luôn muốn đảm bảo được quyền tự
do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh, không muốn ai can
thiệp vào hoạt động kinh doanh đúng pháp luật của hộ, kể cả Nhà nước. Các bên
tranh chấp có quyền lựa chọn phương thức để giải quyết tranh chấp sao cho có lợi
cho bản thân. Tòa án giải quyết chỉ khi các đương sự yêu cầu hoặc trường hợp thỏa
thuận bằng Trọng tài vô hiệu. Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có quyền tự quyết
định việc có khởi kiện hay không, đưa ra các yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp cho mình, tùy thuộc vào phạm vi và mức độ khác nhau. Kể cả khi đưa vụ án ra
giải quyết thì các đương sự vẫn có quyền thay đổi, bổ sung hoặc thậm chí có thể rút
yêu cầu khởi kiện.
Ngoài ra, trước khi khởi kiện, đương sự có quyền mời Luật sư hay người nào
đó chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, phương án khởi kiện và có thể thay mặt đương sự tham
gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại Tòa án mà không cần trực
18
tiếp phải có mặt tại Tòa khi khởi kiện.
Thứ ba, tính cưỡng chế khi giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án.
Sau khi được Tòa án ra Bản án hoặc Quyết định thì buộc các bên phải thực
hiện đúng theo Bản án hoặc Quyết định đó. Đồng thời, việc thi hành này sẽ có biện
pháp cưỡng chế nếu các bên không tự nguyện thi hành án. Đây là điểm là một ưu
điểm so các phương thức giải quyết khác trong tranh chấp KDTM, lợi ích của bên
bị xâm phạm được đảm bảo. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án
thì cũng có một số điểm hạn chế nhất định. Các thủ tục giải quyết tranh chấp thông
qua Tòa án thường dài hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Đồng thời,
trong hoạt động KDTM thì việc xét xử công khai tại Tòa án không phù hợp (có thể
làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ các bí mật kinh doanh…).
Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng
cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài.
1.2.3. Bản chất của giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
thông qua Tòa án
Về bản chất, phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án là một phương
thức mang ý chí quyền lực nhà nước, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Khi vụ án tranh chấp có
Quyết định hoặc bản án của tòa án có hiệu lực thì bắt buộc đương sự phải thực thi
và có thể kèm theo các biện pháp cưỡng chế thi hành. Bởi vậy, các đương sự thường
lựa chọn Tòa án là nơi giải quyết cuối cùng để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng khi không thành công trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hòa giải
Như vậy, bản chất của giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM thông qua Tòa án
được thể hiện như sau:
Thứ nhất, cơ quan tài phán nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp. Tòa
án được nhà nước giao quyền lực để mang lại sự công bằng khi xã hội ngày càng
phát triển, việc phát sinh nhiều tranh chấp trong hoạt động KDTM là không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều phương thức để lựa chọn giải quyết
tranh chấp nhanh chóng, ngắn gọn, tốn ít chi phí nhưng không đảm bảo được quyền
lợi cuối cùng của họ có thể lấy lại được. Do đó, phán quyết của tòa án được đảm
19
bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm quyền, thủ tục, các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp KDTM của pháp luật tố tụng nhất là các quy định
của BLTTDS năm 2015. Bởi, Tòa án là cơ quan nhân danh quyền lực của nhà nước,
tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp bằng con đường
Tòa án thì Tòa án phải căn cứ thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục nhằm tạo sự
công bằng, nghiêm minh, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba, Tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai. Việc
xét xử công khai này một mặt thể hiện tính dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân
kiểm tra, giám sát được các hoạt động của Tòa án, của các chủ thể tiến hành tố tụng,
qua đó phát hiện những thiếu sót hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án, bảo
vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân theo quy định của pháp luật, mặt
khác qua xét xử công khai còn có tác dụng tuyên truyền pháp luật cho quần chúng
nhân dân trong nhận thức về pháp luật.
Như vậy, có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và
giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử và tuyên truyền, giáo dục ý thức
pháp luật cho người dân.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án có thể thực hiện qua hai cấp xét
xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật còn có thể
được xét lại theo thủ tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Vì khi bản án hoặc quyết
định giải quyết vụ án tranh chấp của Tòa án sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu
lực pháp luật ngay mà được dự liệu một thời gian nhất định cho các đương sự suy
nghĩ về quyền lợi của mình có đã đảm bảo hay chưa và các đương sự có thể kháng
cáo; đồng thời Viện kiểm sát có thể kháng nghị khi cho rằng nhận định của Tòa án
chưa chính xác. Chính vì vậy, bản án hoặc quyết định của Tòa án có thể sẽ phải
được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm và có thể xem xét theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự; đồng thời đảm bảo
Tòa án giải quyết đúng vấn đề cần giải quyết và đưa ra phán quyết cuối cùng chính
20
xác nhất.
Thứ năm, tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo
đa số.
Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở việc bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ,
khách quan của việc nghiên cứu, giải quyết các vụ án dân sự và bảo đảm tính đúng
đắn, công bằng, khách quan của các bản án và quyết định của Tòa án, tránh được
tính chủ quan, độc đoán và tùy tiện trong hoạt động xét xử. Đồng thời, pháp luật tố
tụng dân sự nước ta chỉ thừa nhận việc xét xử do Hội đồng xét xử thực hiện, mà
không thừa nhận việc xét xử do một cá nhân thực hiện.
Hội đồng xét xử giải quyết vụ án tranh chấp Hợp đồng KDTM cũng như các
vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật gồm: một Thẩm phán và hai Hội
thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, Tòa án quyết định theo đa số,
theo đó Hội đồng xét xử dựa vào cách biểu quyết theo đa số để giải quyết các vấn
đề. Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Sau khi biểu quyết, người chiếm thiểu
số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào hồ sơ.
Vì vậy, trong thời gian gần đây, hầu hết các doanh nghiệp khi xảy ra tranh chấp
thường chọn con đường giải quyết thông qua Tòa án để đảm bảo tính minh bạch cũng
như lợi ích của các bên. Tuy nhiên, không thể chắc chắn một điều là tất cả các doanh
nghiệp khi tranh chấp đều biết các thủ tục cũng như quá trình giải quyết một vụ án
tranh chấp KDTM như thế nào là đúng theo pháp luật nước ta quy định.
1.2.4. Vai trò của giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án
Thứ nhất, Tòa án đưa ra phán quyết có tính chính xác và tính khả thi cao.
Đặc điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tố tụng tư pháp là tính
quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan tư pháp có quyền nhân danh ý chí quyền lực
của Nhà nước khi xét xử các vụ tranh chấp. Các bản án và quyết định của Tòa án
nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng và chấp
hành. Trong trường hợp bản án không được tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế
bởi quyền lực nhà nước.
21
Thứ hai, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân, đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp hợp đồng KDTM là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng
pháp luật của một bộ phận tổ chức, cá nhân còn rất hạn chế. Khi giải quyết tranh
chấp KDTM, Toà án có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là bên thứ ba,
là cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp đã được yêu cầu. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp trên cơ sở áp dụng pháp luật hiện hành, Toà án sẽ nhân danh
quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để đưa ra bản án hoặc quyết định
có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực
hiện. Bản án, quyết định của toà án được cơ quan thi hành án của Nhà nước bảo
đảm thi hành. Điều này nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức chấp
hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân có liên quan, đồng thời đảm bảo sự nghiêm
minh của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên
quan trong từng vụ án cụ thể.
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại
Tòa án
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương
mại tại Tòa án
Ban đầu, quan hệ giữa con người với con người được điều chỉnh bởi tập
quán, thông lệ thói quen và nhiều quy tắc xử sự khác,… Pháp luật - công cụ pháp lý
xã hội ra đời khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, xã hội trở nên phức
tạp, đặc biệt một trình đọ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt là khi trong xã
hội có sự phân hóa thành các giai cấp có lợi ích đối lập nhau, các công cụ pháp lý
xã hội khác như tập quán, đạo đức, tính điều tôn giáo … không còn đủ khả năng
duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những điều
kiện như vậy, nhà nước đã ban hành ra pháp luật (thừa nhận những quy định đã có
trong xã hội là pháp luật và bảo đảm cho chúng được thực hiện, nhà nước còn tiến
hành đặt ra những quy định pháp luật mới) để tổ chức và quản lý xã hội vừa để bảo
vệ lợi ích của xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Pháp luật được
hiểu là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm
22
thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà
nước3.
Tranh chấp Hợp đồng KDTM là việc phát sinh mâu thuẫn, bất đồng từ hoạt
động sản xuất, cung ứng dịch vụ,…Việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng KDTM tại
Tòa án là các bên tranh chấp thông qua phương thức này thực hiện các thủ tục thích
hợp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng của mình. Pháp luật giải quyết tranh chấp Hợp
đồng KDTM tại Tòa án là các quy định điều chỉnh quy trình tiến hành giải quyết
tranh chấp đó.
Như vậy, pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án là
tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mâu
thuẫn phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa
án nhằm phân xử để làm rõ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi
phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm.
1.3.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh
doanh thương mại tại Tòa án
Những nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
KDTM theo thủ tục tố tụng bao gồm những nhóm quy phạm sau: Nhóm quy phạm
quy định nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Toà án; Nhóm quy
phạm quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp HĐKDTM; Nhóm quy phạm quy
định về trình tự, thủ tục trong giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.
Thứ nhất, về nguyên tắc trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM.
Các nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chỉ đạo, hướng dẫn việc giải quyết các
tranh chấp hợp đồng KDTM và được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật về thủ
tục giải quyết các vụ án KDTM. Cụ thể, đó là các nguyên tắc như: Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc xét
xử công khai, Xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho nhân
dân được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa. Là một Tòa
3 Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2019, tr 22.
23
chuyên trách độc lập thuộc Tòa án cấp tỉnh, trong hoạt động xét xử các vụ án
KDTM, Tòa Kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng: nguyên tắc tôn
trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự; Nguyên tắc bình đẳng
trước pháp luật; Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ; Nguyên tắc hòa giải; Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp
thời; Nguyên tắc xét xử công khai.
Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM. Khi xảy
ra tranh chấp, không phải lúc nào Toà án cũng có thẩm quyền giải quyết. Toà án chỉ
giải quyết khi có yêu cầu của đương sự (nguyên tắc quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự) và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ở nước ta, hệ thống Toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Để
tránh chồng chéo thì việc phân định thẩm quyền giữa các Toà án là rất quan trọng,
tránh tình trạng một vụ án có thể được rất nhiều Toà thụ lý hoặc không có Toà án
nào thụ lý. Điều này cũng góp phần làm cho Toà án giải quyết nhanh chóng và đúng
đắn các vụ việc. Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giữa các Toà án một cách
hợp lý còn tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình, giảm bớt phiền phức cho đương sự.
Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền của các Toà án một cách hợp lý và khoa
học còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn,
nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ công chức Toà án và các điều kiện khác, trên cơ sở
đó có kế hoạch đáp ứng bảo đảm cho toà án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM là quyền xem xét giải quyết
các tranh chấp hợp đồng KDTM, quyền ra quyết định khi giải quyết các tranh chấp
đó theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền của Toà án gồm: thẩm quyền theo vụ
việc; thẩm quyền theo cấp; thẩm quyền theo lãnh thổ; thẩm quyền theo sự lựa chọn
của nguyên đơn, người yêu cầu.
Thứ ba, về trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM.
BLTTDS quy định cụ thể trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp được áp dụng để giải
quyết các tranh chấp KDTM từ giai đoạn khởi kiện đến giai đoạn thụ lý, giải quyết
24
vụ án tại hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm). Bên cạnh đó còn có thủ tục đặc
biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm… để đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp hợp
đồng nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật.
Trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay không có quy định riêng
về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo thủ tục sơ thẩm mà Tòa án cấp sơ
thẩm sẽ áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết sơ thẩm vụ án dân sự
nói chung để giải quyết các tranh chấp KDTM. Do đó, giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM theo thủ tục sơ thẩm cũng mang những đặc điểm chung của giải quyết
vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm, cụ thể:
- Là thủ tục cơ bản của tố tụng dân sự được tiến hành theo một trình tự, thủ
tục nhất định quy định trong BLTTDS (2015) bao gồm các bước như khởi kiện, thụ
lý vụ án, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm.
- Là thủ tục tố tụng đầu tiên giải quyết tranh chấp của các bên đương sự nên
phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định không phải là phán quyết cuối
cùng, đương sự vẫn có quyền kháng cáo, Viện Kiểm sát nhân dân vẫn có quyền
kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm.
Bên cạnh những đặc điểm chung của thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự, thủ tục sơ
thẩm vụ án KDTM cũng có một số đặc điểm riêng sau:
- Về chủ thể khởi kiện vụ án KDTM: Đối với vụ án KDTM chủ thể khởi kiện
chủ yếu là cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh (trừ một số trường hợp pháp luật có
quy định khác), đó là các cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng kí
kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. Ngoài
ra, còn một yêu cầu nữa đối với chủ thể khởi kiện vụ án KDTM đó là khi tham gia quan
hệ KDTM đòi hỏi các bên chủ thể của quan hệ đó đều có mục đích lợi nhuận.
- Về các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện: Kèm theo đơn khởi
kiện người khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, đối với vụ án KDTM do chủ thể khởi kiện chủ
yếu là cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh nên khi nộp đơn khởi kiện, người nộp
đơn khởi kiện thường nộp kèm theo giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, điều lệ
hoạt động của pháp nhận… để chứng minh tư cách chủ thể của mình.
25
- Về trình tự, thủ tục tố tụng: Trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp được
tiến hành quy định trong BLTTDS (2015). Tuy nhiên, giải quyết các tranh chấp hợp
đồng KDTM căn cứ theo quy định của Luật Thương mại và các văn bản quy phạm
pháp luật khác về thương mại, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3, Điều 4, Luật
Thương mại (2019). Giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự căn cứ theo quy định của
BLDS và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến dân sự.
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM: Do yêu cầu của phát triển sản xuất,
kinh doanh, thời hạn việc giải quyết vụ án KDTM được pháp luật quy định ngắn hơn
thời hạn giải quyết các vụ án dân sự, vụ án hôn nhân gia đình và vụ án lao động.
- Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong quá trình giải quyết các vụ
án KDTM nếu đương sự có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì Tòa án mới
xem xét có ra quyết định áp dụng BPKCTT hay không.
- Về án phí: Việc giải quyết vụ án KDTM thường là vụ án có giá ngạch và
không có trường hợp nào được miễn án phí và mức án phí phải nộp trong các vụ án
KDTM thường có mức khởi điểm lớn hơn mức án phí của vụ án dân sự, vụ án hôn
nhân gia đình và vụ án lao động.
Tiểu kết chương 1
Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, các tranh chấp KDTM nói chung cũng như tranh chấp hợp đồng KDTM nói
riêng diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực với những nguyên nhân
khác nhau mà chủ yếu là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ
thể trong hoạt động KDTM.
Do sự đa dạng của các tranh chấp hợp đồng KDTM mà cần phân biệt loại tranh
chấp này với tranh chấp hợp đồng dân sự. Đây là điều kiện cần và đủ để làm cơ sở cho
việc xác định quan hệ tranh chấp khi giải quyết loại tranh chấp này trên thực tế.
Tranh chấp hợp đồng thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và
nghĩa vụ do không thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng hợp đồng thương mại giữa các
chủ thể tham gia hoạt động thương mại hoặc có liên quan đến hoạt động thương mại.
Có bốn hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM là: thương lượng,
26
hòa giải, tố tụng trọng tài và tố tụng tư pháp. Mỗi hình thức đều có những đặc điểm
cũng như những ưu, nhược điểm nhất định.
Ở Việt Nam, hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM bằng tố tụng
tư pháp được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn vì đây là một hình thức mang ý
chí quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước.
Phán quyết của Tòa án mang tính bắt buộc đối với các bên, đảm bảo việc giải quyết
tranh chấp được công bằng, chính xác, khách quan.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Chương 1,
chúng ta có thể nhận diện những tranh chấp nào là tranh chấp hợp đồng KDTM
cũng như hiểu rõ lịch sử hình thành, phát triển và những nội dung cơ bản của pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo thủ tục tố tụng.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án
2.1.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại
Tòa án
2.1.1.1. Nguyên tắc Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải quyết tranh chấp
trên cơ sở các quy định của pháp luật, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của
pháp luật.
Nguyên tắc này thể hiện ở việc phán quyết của tòa án được đảm bảo thi
hành, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của
mình thì sẽ bị cưỡng chế. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại dựa trên
các quy định về hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định.
Quá trình xét xử nhằm giải quyết tranh chấp diễn ra công khai, minh bạch, có sự
tham gia của các bên có liên quan. Đồng thời tòa án giải quyết tranh chấp trên cơ sở
27
xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
2.1.1.2. Nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự
Việc tôn trọng quyền tự do định đoạt của các đương sự bắt nguồn từ nguyên
tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân. Nguyên tắc này được ghi nhận
tại Điều 5, BLTTDS (2015):
“ 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không
phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”.
Khi xảy ra các tranh chấp KDTM, Tòa án chỉ thụ lý và giải quyết vụ việc khi
đương sự có yêu cầu. Nhà nước không tự tiện đưa các tranh chấp của các bên ra Tòa
án để giải quyết. Cá nhân, pháp nhân có quyền khởi kiện vụ án KDTM theo thủ tục
do pháp luật quy định để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của mình. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự
được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng: họ có thể khởi kiện
hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của
đương sự không chỉ dừng lại ở việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc
thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án,
khi quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2.1.1.3. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý
cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 16 của Hiến pháp (2013) có ghi rõ mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Điều 51 của Hiến pháp (2013) có quy định cụ thể về
các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Pháp luật công nhận
quyền bình đẳng của các chủ thể khi họ tham gia quan hệ sản xuất, kinh doanh.
28
Điều 8, BLTTDS (2015) cũng có quy định về quyền bình đẳng trước pháp luật của
các đương sự:
“1. Trong tố tụng dân sự, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.
Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án.
2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự”.
Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng tư pháp có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, các thành viên của thương trường và các chủ thể của quan hệ pháp luật KDTM.
2.1.1.4. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập
chứng cứ
Điều 6, Khoản 2, BLTTDS (2015) quy định:
“2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ
tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy
định”.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp
hợp đồng KDTM. Khác với thủ tục giải quyết các vụ án hình sự, khi giải quyết các
tranh chấp hợp đồng KDTM, Tòa án chủ yếu căn cứ vào chứng cứ mà các đương sự
cung cấp. Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ và chứng minh để bảo
vệ quyền lợi của mình. Tòa án sẽ nghe các bên trình bày và xác minh các chứng cứ.
Tòa án không tiến hành xét hỏi như trong tố tụng hình sự. Các bên có quyền và
nghĩa vụ trình bày những gì họ cho là cần thiết. Tòa án không bắt buộc phải thu
thập chứng cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi cần thiết, để làm rõ
thêm yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Theo quy định của BLTTDS hiện hành, Tòa án chỉ tiến hành thu thập, xác
minh chứng cứ trong một số trường hợp, như:
- Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản
29
khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng (Điều 98, Khoản 1, BLTTDS (2015);
- Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến
hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án
(Điều 99, Khoản 1, BLTTDS (2015);
- Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai
của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương
sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng
với nhau (Điều 100, Khoản 1, BLTTDS (2015).
Trên thực tế, việc tự thu thập tài liệu, chứng cứ của đương sự gặp rất nhiều
khó khăn do nhiều trường hợp, các cơ quan tổ chức cá nhân không hợp tác trong
việc giao nộp tài liệu chứng cứ. Pháp luật TTDS cũng chưa hướng dẫn cụ thể
trường hợp nào được coi là đã áp dụng biện pháp cần thiết nhưng không thể tự mình
thu thập được chứng cứ. Do đó, đương sự gặp nhiều trở ngại trong việc thu thập tài
liệu, chứng cứ cũng là cơ sở đề để nghị Tòa án thu thập chứng cứ.
2.1.1.5. Nguyên tắc hòa giải
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng tư pháp được quy định tại Điều 10,
BLTTDS (2015): “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận
lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này”.
Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự
định đoạt của đương sự. Do đó, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một
biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hòa giải có ý
nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống
đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải
quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM. Việc thực hiện tốt thủ tục hòa giải sẽ hạn
chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước cũng như của công dân, hạn
chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS (2015) cũng quy định cụ
thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn
bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa. Đối với những vụ án đòi bồi thường do
30
gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước hoặc những vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch
trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Tòa án không được hòa giải.
Việc hòa giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các vụ án kinh tế, đặc biệt là
ở cấp sơ thẩm. Việc hòa giải được thực hiện chủ yếu dựa vào kỹ năng, kinh nghiệm
của các Thẩm phán. Xu hướng chung của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ
đúng - sai giữa các doanh nghiệp chưa hoặc chưa biết quan tâm đúng mức đến vấn
đề mà các đương sự hướng tới là lợi nhuận (nhiều hay ít nhưng phải có lợi). Đó là
điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân nhượng, hợp tác trong kinh doanh của
các đương sự. Việc hòa giải không thành có thể dẫn đến căng thẳng giữa các đương
sự. Khi việc hòa giải không thành thì mâu thuẫn giữa các đương sự sẽ tăng lên bội
phần và việc kiến tạo sự thương lượng, thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai
đoạn tố tụng tiếp sau sẽ kém hiệu quả.
2.1.1.6. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Để đáp ứng yêu cầu của hoạt động KDTM, việc Tòa án giải quyết tranh chấp
hợp đồng KDTM không những cần bảo đảm đúng pháp luật mà còn phải nhanh
chóng, kịp thời, dứt điểm, tránh tình trạng kéo dài, đảm bảo bồi thường kịp thời cho
bên bị vi phạm. BLTTDS hiện hành có quy định cụ thể về thời hạn ở các giai đoạn
tố tụng, như: thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử,
thời hạn ban hành quyết định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết
theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm... Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ
việc trong thời hạn luật định. Tuy nhiên, có một số Tòa án vẫn còn tình trạng để án
KDTM tồn đọng quá thời hạn xét xử. Điều 203, BLTTDS (2015) quy định:
“ 1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo
thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời
hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời
hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
31
nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a
khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản
này.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn
chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa
án có hiệu lực pháp luật....”.
Tuy nhiên, thực tế giải quyết các vụ án KDTM cho thấy quy định này của
pháp luật TTDS là bất hợp lý do một số vụ án có tính chất phức tạp như đương sự
không hợp tác, không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập hay đương sự
không còn ở địa phương hoặc đương sự cố tình lẩn tránh không hợp tác; có trường
hợp đương sự ở nước ngoài (Trung Quốc) thì cần phải làm thủ tục ủy thác tư pháp,
thu thập thêm chứng cứ... Vì lẽ đó, BLTTDS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị
xét xử các vụ án KDTM ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án dân sự, vụ án
hôn nhân gia đình là hoàn toàn bất hợp lý, gây áp lực cho các Thẩm phán trong giải
quyết các vụ án KDTM sơ thẩm.
2.1.1.7. Nguyên tắc xét xử công khai
Xét xử công khai là nguyên tắc hiến định đối với hoạt động của Tòa án và
được cụ thể hóa tại BLTTDS (2015). Điều 15, Khoản 2, BLTTDS (2015) quy định:
“2. Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước,
giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí
mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự
theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử kín.”
Theo quy định này, về nguyên tắc, Tòa án phải xét xử công khai trong hoạt
động xét xử của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, như cần giữ bí
mật kinh doanh cho đương sự, Tòa án có thể xét xử kín theo yêu cầu chính đáng của
đương sự.
Bí mật của đương sự trong tranh chấp KDTM thường là bí quyết kinh doanh
như phát minh, sáng chế… có liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của người
kinh doanh. Nếu các bí mật đó bị tiết lộ có thể làm doanh nghiệp gặp khó khăn
trong kinh doanh, thậm chí là giải thể, phá sản. Chính vì vậy, đương sự có thể yêu
32
cầu Tòa án xét xử kín vụ án KDTM. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định về
việc đưa vụ án đó ra xét xử công khai hay xét xử kín.
Việc thực hiện nguyên tắc này đã tạo điều kiện cho các bên đương sự được
đảm bảo bí mật KDTM của mình. Mặc dù kết quả của việc giải quyết tranh chấp
như thế nào thì việc xét xử kín cũng góp phần làm cho uy tín, bí mật kinh doanh của
doanh nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều. Do vậy, đây là quy định hoàn toàn phù
hợp với thực tiễn.
Khoản 3 Điều 13 BLTTDS năm 2015 quy định cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của
pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên,
giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của
đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Tuy nhiên hiện nay ngoại trừ trường hợp
bí mật kinh doanh được quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2018 và Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005. Trong khi đó khái niệm bí mật nghề nghiệp, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn và lý giải cụ thể. Thực tế
xét xử cho thấy, nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng KDTM nhưng có liên quan đến
một người có danh tiếng trong xã hội như ca sĩ, nghệ sĩ thì việc xét xử không đảm
bảo yếu tố giữ bí mật cá nhân của những người này, làm cho danh tiếng của họ bị
ảnh hưởng dù không liên quan trực tiếp đến tranh chấp đó.
2.1.2. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án
Để xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi giải quyết các vụ án
KDTM, Tòa án phải xác định được yêu cầu của đương sự thuộc nhóm quan hệ tranh
chấp KDTM trong quan hệ tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) để từ đó có sự phân
định thẩm quyền giữa Tòa án với cơ quan tài phán khác (trọng tài), hay giữa các
Tòa án với nhau. Do đó, để giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án, thì
yêu cầu đặt ra là Tòa án phải xác định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM của mình, cụ thể.
2.1.2.1. Thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc
Điều 30 BLTTDS (2015) quy định những tranh chấp KDTM thuộc thẩm
33
quyền giải quyết của Tòa án gồm:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản
trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn
giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ theo quy định trên, tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án trong từng trường hợp được xác định như sau:
Một là, tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 1, BLTTDS
(2015) nếu có đủ ba yếu tố:
- Phát sinh giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau.
- Các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.
- Phát sinh trong hoạt động KDTM.
Hai là, tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 2, 3, 4, BLTTDS
(2015) nếu phát sinh trong các lĩnh vực:
- Tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ.
- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
- Tranh chấp liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Loại tranh chấp hợp đồng KDTM thứ hai này không bắt buộc một hoặc các
bên phải có đăng ký kinh doanh. Đối với tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều
34
30, Khoản 2, BLTTDS (2015) thì bắt buộc các bên tranh chấp đều phải có mục đích
lợi nhuận. Còn đối với tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 3, 4,
BLTTDS (2015) thì khi tham gia giao dịch liên quan đến chuyển nhượng vốn góp,
cổ phần hoặc tham gia vào các hoạt động của công ty, mặc nhiên các bên đã hướng
đến việc tìm kiếm lợi nhuận.
Ba là, tranh chấp hợp đồng KDTM được quy định tại các văn bản pháp luật
khác thì được coi là tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 5, BLTTDS
(2015).
Theo quy định tại Điều 30, khoản 5, BLTTDS có thể xảy ra hai trường hợp sau:
trường hợp thứ nhất là tranh chấp giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục
đích lợi nhuận, nhưng chưa được quy định tại Điều 30, khoản 1; trường hợp thứ hai là
tranh chấp giữa các bên mà cả hai cùng có mục đích lợi nhuận, nhưng chỉ một bên có
đăng ký kinh doanh, hoặc cả hai đều không có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, dù
thuộc trường hợp thứ nhất hay trường hợp thứ hai thì văn bản đó phải chỉ rõ đó là tranh
chấp KDTM. Khi chưa có hướng dẫn cụ thể của Tòa án cấp trên thì việc áp dụng thống
nhất quy định này trong thực tiễn vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Ví dụ: Doanh nghiệp tư nhân Phú Gia có thỏa thuận với Trần Minh Lâm (cá
nhân, không có đăng ký kinh doanh) để anh Lâm vận chuyển máy tính, linh kiện điện
tử từ trụ sở công ty tại thành phố Tuyên Quang đến địa chỉ của khách hàng tại huyện
Na Hang (cách thành phố Tuyên Quang 120 km) bằng xe ô tô thuộc sở hữu của anh
Lâm. Hai bên có lập hợp đồng thể hiện nội dung anh Lâm vận chuyển hàng cho doanh
nghiệp Phú Gia theo chuyến. Vào ngày 12/8/2019, khi thực hiện hợp đồng, trong quá
trình vận chuyển anh Lâm đã làm hỏng một số lượng máy tính, thiết bị điện tử do
không cẩn thận trong việc bảo quản hàng hóa. Doanh nghiệp Phú Gia đã yêu cầu anh
Lâm bồi thường nhưng anh Lâm nhất định không trả tiền. Doanh nghiệp Phú Gia đã
khởi kiện ra Tòa án.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: quan hệ pháp luật tranh chấp giữa doanh nghiệp
Phú Gia với anh Lâm là tranh chấp về hợp đồng dân sự vận chuyển tài sản bởi vì chỉ có
doanh nghiệp Phú Gia có đăng ký kinh doanh.
Quan điểm thứ hai cho rằng: quan hệ pháp luật tranh chấp giữa doanh nghiệp
35
Phú Gia với anh Lâm là tranh chấp về hợp đồng KDTM vì cả doanh nghiệp Trường
Xuân và anh Cường đều tham gia vào quan hệ này nhằm mục đích lợi nhuận mặc dù
anh Lâm không có đăng ký kinh doanh.
Quan điểm của tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai vì quan hệ pháp luật
trong vụ án này là tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hóa phát sinh trong hoạt
động KDTM giữa Doanh nghiệp tư nhân Phú Gia (có đăng ký kinh doanh) với cá nhân
anh Lâm (không có đăng ký kinh doanh) nhưng đều có mục đích sinh lợi nhuận, điều
này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 30, khoản 5 BLTTDS (2015). Đồng thời,
căn cứ phát sinh quan hệ tranh chấp là do hành vi vi phạm hợp đồng của cá nhân anh
Lâm.
2.1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án theo cấp
Hệ thống Tòa án tại địa phương gồm hai cấp là: Tòa án nhân dân cấp huyện
(quận) và Tòa án nhân dân cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương). Tùy thuộc
vào từng tính chất của vụ việc mà Tòa án nhân dân các cấp sẽ có thẩm quyền xét xử
trong phạm vi quyền hạn của mình.
(i) Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện:
Điều 35, Khoản 1, BLTTDS (2015) quy định thẩm quyền giải quyết
TCKDTM tại Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:
“1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những tranh chấp sau đây:
b) Tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của
Bộ luật này”
Theo đó, Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp huyện (Điều 36, Khoản 1, BLTTDS (2015).
(ii) Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh:
Điều 37, BLTTDS (2015) quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh như sau:
36
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1
và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này.
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện
quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên
để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp
huyện.”
Như vậy, theo quy định này, các tranh chấp KDTM được quy định tại Điều
30, các khoản 2, 3, 4, 5, BLTTDS (2015) sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh. Tuy nhiên, đối với các vụ việc KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện, khi xét thấy cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết
hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện, thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh
cũng có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc KDTM đó.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh được cơ cấu bởi các Tòa chuyên trách khác nhau,
như: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế… Do vậy, để phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của mình, các Tòa chuyên trách có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân
sự khác nhau. Điều 38, khoản 3, BLTTDS (2015) quy định về thẩm quyền của các
Tòa chuyên trách - Tòa án nhân dân cấp tỉnh như sau:
“3. Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:
a) Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37
của Bộ luật này.”
2.1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Vấn đề xác định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ chỉ được đặt ra khi các
bên tranh chấp có trụ sở hoặc nơi đăng kí ở khác địa phương. Về nguyên tắc, các
bên không được lựa chọn Toà án để giải quyết vụ tranh chấp, mà pháp luật tố tụng
37
sẽ quy định loại thẩm quyền này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định,
pháp luật cho phép các bên được thoả thuận với nhau về Tòa án xét xử vụ tranh
chấp; hoặc nếu không có sự thoả thuận trước đó thì nguyên đơn có quyền đơn
phương lựa chọn Toà án giải quyết vụ tranh chấp. Quy định này nhằm bảo đảm tính
khả thi của quyền khởi kiện và giúp quá trình giải quyết tranh chấp được thuận lợi,
tiết kiệm thời gian, công sức và tiền bạc cho các bên có tranh chấp.
Như vậy, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là giới hạn do pháp luật quy
định xác định chức năng giải quyết các vụ việc KDTM của Tòa án theo đơn vị hành
chính lãnh thổ. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định Tòa án có nghĩa vụ
giải quyết các vụ việc KDTM theo yêu cầu của đương sự khi họ khởi kiện. Thẩm
quyền của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo các tiêu chí sau:
1) Theo thỏa thuận
2) Theo sự lựa chọn của đương sự.
3) Nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở chính.
Nhìn chung, pháp luật tố tụng của nước ta quy định về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp KDTM theo lãnh thổ của Tòa án cũng khá tương đồng với pháp luật của
các nước trên thế giới.
2.1.2.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là giới hạn do luật
định cho các chủ thể trong việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là
hình thức pháp luật đưa ra các quy định về các Tòa án có thẩm quyền giải quyết và
nguyên đơn được lựa chọn theo ý chí của mình.
Thực chất của thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn là ngoại lệ của
những quy tắc chung về thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật TTDS, bên cạnh
những tranh chấp nguyên đơn bắt buộc phải khởi kiện tại Tòa án đã quy định thì
pháp luật trao quyền chủ động cho nguyên đơn được tự mình quyết định chọn Tòa
án để khởi kiện một số tranh chấp khác.
Quy định này hướng đến mục tiêu là tạo sự thuận lợi cho nguyên đơn bảo vệ
quyền của họ. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn được quy
38
định trong BLTTDS được chia thành hai loại: lựa chọn có điều kiện và lựa chọn
không có điều kiện. Việc pháp luật quy định thẩm quyền theo sự lựa chọn của
nguyên đơn là nhằm tăng cường quyền chủ động của công dân trong việc bảo vệ
quyền lợi của mình trước Tòa án, đồng thời giúp Tòa án áp dụng thống nhất các quy
định về thẩm quyền xét xử.
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án
Một là: Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại
Giai đoạn khởi kiện là giai đoạn đầu tiên để bắt đầu quy trình giải quyết
tranh chấp hợp đồng thương mại, khi một trong các bên có quyền đưa đơn khởi kiện
lên Tòa án có thẩm quyền nhằm giải quyết tranh chấp của họ, yêu cầu hoặc buộc
bên còn lại phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Quyền khởi kiện này được quy
định tại Điều 186 BLTTDS năm 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là
người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình”. Quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức chỉ phát sinh khi các quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, và khi bên khởi kiện thực hiện hành vi khởi kiện
đến tòa án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan tòa án trực tiếp giải quyết tranh chấp
cũng như để bảo vệ các quyền lợi của bên khởi kiện. Đồng thời pháp luật dân sự
Việt Nam chỉ thừa nhận đối với những chủ thể có thực quyền khởi kiện mới có thể
khởi kiện tranh chấp tại Tòa án (quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp để khởi kiện). Đây là yêu cầu bắt buộc để hạn chế các tranh chấp bị đưa ra tòa
án không đúng thực quyền. Việc khởi kiện của người khởi kiện được thực hiện bởi
hành vi gửi đơn khởi kiện đến Tòa án.
Đơn khởi kiện là hình thức biểu đạt yêu cầu của người khởi kiện đến tòa án
nhằm mục đích yêu cầu tòa án giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong hoạt động kinh
doanh thương mại. Đơn khởi kiện phải thể hiện rõ nội dung vụ việc và những yêu
cầu của người khởi kiện đối với Tòa án và là sơ sở quan trọng để Tòa án xem xét,
quyết định việc có thụ lý hay không thụ lý. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện
được quy định tại Điều 189 BLTTDS 2015.
39
Ngoài đơn khởi kiện ra, khi một bên yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp của
mình họ còn phải gửi kèm các tài liệu, chứng cứ để chứng minh căn cứ khởi kiện.
Tuy mỗi tranh chấp khác nhau có một nội dung khác nhau song hầu hết mỗi vụ án
tranh chấp KDTM được Tòa án chấp nhận thụ lý giải quyết đều phải đáp ứng đủ các
tài liệu cơ bản như: (i) Đơn khởi kiện do người có quyền khởi kiện bị xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp; (ii) Tài liệu về tư cách pháp lý của người khởi kiện, của
các đương sự và người có liên quan khác như: giấy phép kinh doanh, điều lệ hoạt
động, quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp, văn bản ủy quyền; (iii)
Hợp đồng hoặc văn bản, tài liệu giao dịch có giá trị như hợp đồng kèm theo phụ lục
hợp đồng (nếu có); (iv) Tài liệu về đảm bảo thực hiện hợp đồng như: hợp đồng cầm
cố, thế chấp tài sản, biên bản giao nhận hàng, các biên bản nghiệm thu, các chứng
từ thanh toán, biên bản thanh lý hợp đồng, các biên bản làm việc về công nợ; (v)
Trong từng trường hợp cụ thể còn có các tài liệu giao dịch khác.
Phương thức gửi đơn và thủ tục nhận đơn khởi kiện của Tòa án được quy
định tại Điều 190 và 191 BLTTDS năm 2015. Theo đó, người khởi kiện gửi đơn
khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền
giải quyết vụ án bằng các phương thức như: (i) Nộp trực tiếp tại Tòa án; (ii) Gửi
đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; (iii) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện
tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Đồng thời, Tòa án qua bộ phận
tiếp nhận đơn phải nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án
hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án
nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản
giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy
xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch
vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải
gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện. Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng
phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho
người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Để hạn chế việc
40
thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền, khi nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán sẽ
kiểm tra và chú trọng đến các bản hợp đồng được giao kết trực tiếp giữa các bên để
xác định trong hợp đồng các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
hay không. Nếu có căn cứ cho thấy trong vụ tranh chấp đó các bên đã có thỏa thuận
trọng tài thì Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 để từ chối thụ lý
vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án
thẩm phán mới phát hiện các bên đã có thỏa thuận trọng tài trước đó, thì lúc này
thẩm phán phải ra quyết định đình chỉ vụ án, trả lại hồ sơ khởi kiện cho đương sự
theo Điều 192, Điều 217 và Điều 218 BLTTDS 2015.
Tuy nhiên, theo quy định Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì
tùy từng trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không
thực hiện được thì Tòa án vẫn có thể thụ lý vụ án. Sau khi tiến hành thụ lý vụ án,
thẩm phán ra thông báo thụ lý vụ án. Thông báo này sẽ được chuyển đến các đương
sự và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc (Điều 196 BLTTDS
2015). Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý
vụ án tranh chấp KDTM nhìn chung đã đầy đủ và đảm bảo cho một quy trình tố
tụng chung tại Tòa án, tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ, song khi áp dụng thực tế
vẫn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.
Hai là: Hòa giải và chuẩn bị xét xử tại Tòa án
Trình tự thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử chủ yếu đề cập đến thời hạn
chuẩn bị xét xử và những công việc mà tòa án cần phải thực hiện trước khi mở
phiên tòa công khai. Thời hạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian cần thiết để Tòa
án tiến hành lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải vụ án và xem
xét để đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn này được tính từ ngày Tòa án thụ lý đến ngày
Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Điều 203 BLTTDS 2015. Thời hạn chuẩn
bị xét xử đối với vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại là hai tháng. Trong trường
hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể gia
hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá một tháng. Việc quy định thời hạn
như vậy nhằm đảm bảo yêu cầu thời gian giải quyết vụ án được nhanh chóng và kịp
thời.
41
Thực tế tại Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết những vụ án tranh chấp hợp
đồng thương mại cần khoảng thời gian ít nhất bốn tháng, thậm chí có những vụ án
kéo dài hàng năm do thiếu nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do đương sự kháng cáo
lên tòa phúc thẩm. Đối với quy định này không có chế tài cụ thể cho vi phạm của
Tòa án nên dù có quy định về thời hạn xét xử hay không thì cũng không giới hạn
được thời hạn xét xử thực tế của tòa án. Do tính chất phức tạp của vụ án, Tòa án
thường tìm cách trì hoãn việc xét xử án cũng như kéo dài thời gian giải quyết án,
gây ảnh hưởng đến các đương sự.
Trong thời gian chuẩn bị cho công tác xét xử, Tòa án tiến hành các công
việc chủ yếu như phải chuyển thông báo thụ lý đến các đương sự và Viện kiểm sát
cùng cấp. Sau đó, theo quy định của luật tố tụng, sau khi thụ lý vụ án, để phục vụ
cho công tác xét xử được thuận lợi tòa án có quyền yêu cầu đương sự cung cấp, bổ
sung chứng cứ hoặc Tòa án tự mình tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ làm căn
cứ cho việc giải quyết vụ án theo quy định khoản 2 Điều 6 BLTTDS 2015. Tuy
nhiên các quy định của hòa giải và chuẩn bị xét xử chỉ được quy định trong phần
quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, mà không có quy định cụ thể
nào.
Thực tiễn, công tác xét xử cho thấy, việc tiến hành thu thập chứng cứ của
Tòa án lại được áp dụng chủ yếu ở giai đoạn này, mặc dù các quy định về thẩm
quyền thu thập chứng cứ của Tòa án và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự
khá rõ ràng, song việc thực hiện trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân
là vì không có một chế tài cụ thể nào buộc đương sự phải đưa ra các chứng cứ liên
quan đến hoạt động tranh chấp hợp đồng, nên gây nhiều khó khăn cho công tác xét
xử. Có trường hợp đương sự đến giai đoạn Tòa đưa ra quyết định, bản án khi thấy
không có lợi cho mình thì mới cung cấp bằng chứng mới, hoặc sử dụng bằng chứng
đó để kháng cáo lên Tòa án ở cấp phúc thẩm.
Ngoài ra ở giai đoạn này, Tòa án còn phải tiến hành hòa giải để các đương
sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Hòa giải là thủ tục bắt buộc
để giải quyết không chỉ các vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại mà ở bất cứ vụ
án tranh chấp nào thì Tòa án cũng sẽ tiến hành tổ chức các buổi hòa giải nhằm mục
42
đích để giúp các bên tranh chấp tự tiến hành thỏa thuận với nhau về nội dung tranh
chấp. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp không được hòa giải hoặc không tiến
hành hòa giải được. Khi vụ án ở trong trường hợp không thể hòa giải được thì Tòa
án quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không cần phải hòa giải. Các vụ án tranh chấp
hợp đồng thương mại sau đây không tiến hành hòa giải được:
- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
- Đương sự không thể tham gia được vì lý do chính đang.
- Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.
Thực tiễn công tác xét xử cho thấy, đặc biệt là ở cấp sơ thẩm, hòa giải là
giai đoạn hết sức quan trọng, từ đây có thể cho thấy mức độ mâu thuẫn của tranh
chấp cũng như đánh giá khả năng giải quyết mâu thuẫn của các bên tranh chấp, đòi
hỏi người giải quyết phải nỗ lực, các bên phải có thiện chí tháo gỡ mâu thuẫn. Tuy
nhiên, kỹ năng hòa giải của các Thẩm phán ở nhiều nơi hiện nay còn chưa tốt. Việc
hòa giải hiện nay hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Xu hướng
chung của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ đúng sai giữa các doanh nghiệp
chứ không phải quan tâm đến vấn đề lợi nhuận. Trong khi đó, giải quyết vấn đề lợi
nhuận lại là cách hiệu quả nhất để thực hiện hòa giải. Nếu việc hòa giải không thành
có thể dẫn đến mâu thuẫn tranh chấp ngày càng trầm trọng thêm và việc thúc đẩy sự
thương lượng tự thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau
sẽ kém hiệu quả.
Kết thúc việc hòa giải tại Tòa án đồng thời kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử
tòa án ra một các các quyết định tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS 2015: (i) Công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự; (ii) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; (iii) Đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự; (iv) Đưa vụ án ra xét xử. Tòa án tổ chức hòa giải và các
bên tranh chấp hòa giải thành, các vấn đề tranh chấp được các bên thỏa thuận với
nhau về cách thức giải quyết thì tòa án lập biên bản hòa giải thành, theo khoản 5 Điều
211 BLTTDS 2015. Thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà
không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một
thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự. Nếu có vấn đề cần bổ sung, thay thế, điều chỉnh thì các bên phải có
43
văn bản yêu cầu Tòa án bổ sung trước khi Tòa án ban hành quyết định công nhận sự
thỏa thuận theo Điều 212 BLTTDS. Việc hòa giải thành một vụ án tranh chấp KDTM
không chỉ giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn đơn giản hóa thủ tục, tiết
kiệm thời gian và công sức, tiền bạc cho các đương sự. Đây cũng là ưu điểm của thủ
tục tố tụng tại Tòa án, trường hợp các bên đương sự mặc dù đã tiến hành các thủ tục
khiếu nại song vẫn có thể tự do thỏa thuận lại với nhau lại với nhau về cách giải quyết
tranh chấp.
Trong trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận với nhau được, thì
Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong trường hợp ở buổi hòa giải đầu tiên các bên không thể thỏa thuận được với
nhau về các vấn đề tranh chấp thì Tòa án có thể tổ chức thêm một vài buổi hòa giải
nữa, thông thường Tòa án có thể tổ chức hai hoặc ba buổi hòa giải cho một vụ tranh
chấp, cho đến khi việc hòa giải không đạt hiệu quả thì Tòa án quyết định đưa vụ án
ra xét xử công khai, bắt đầu giai đoạn kế tiếp của quy trình giải quyết vụ án. Ở giai
đoạn này, trong trường hợp vì những lý do khách quan, Tòa án có quyền ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 214 BLTTDS về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Về quy định BLTTDS 2015 chỉ nêu
chung chung tại Điều 216: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm
đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa
án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp”.
Đặc biệt là việc BLTTDS 2015 có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ
án được tính bắt đầu lại kể từ khi Tòa án có quyết định tiếp tục giải quyết vụ án tạm
đình chỉ. Do đó, phía Tòa án khi thụ lý, giải quyết vụ án thường lợi dụng nhược
điểm này của BLTTDS 2015 để tác động, trì hoãn việc giải quyết việc giải quyết vụ
án. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chậm trễ trong giải
quyết tranh chấp hợp đồng thương mại hiện nay. Ngoài việc Tòa án có quyền ra
44
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi đương sự thỏa thuận được
với nhau về các vấn đề giải quyết đối với tranh chấp trước khi mở phiên tòa hoặc
Tòa án có quyền ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp có yếu tố
khách quan gây cản trở quá trình giải quyết vụ án thì tòa án cũng có thể ban hành
quyết định đình chỉ vụ án trong các trường hợp được quy định tại Điều 217
BLTTDS 2015. Theo đó trường hợp tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án là trường
hợp kết thúc vụ án khi tranh chấp không còn chứ không phải là trường hợp tòa án
giải quyết vụ án triệt để, các bên vẫn có thể khởi kiện lại vụ án tranh chấp của họ.
Về thời hiệu giải quyết vụ án, theo Điều 184, BLTTDS 2015, thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ
luật dân sự. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời
hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi
Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Mặc dù thời hiệu
không phải là một điều kiện thụ lý vụ án nhưng Tòa án phải xem xét khi trường hợp
có đương sự yêu cầu áp dụng. Khi thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết và một trong các
bên yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án phải ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, giữa Luật Thương mại và các Luật chuyên ngành còn nhiều vấn đề
mâu thuẫn về thời hiệu khởi kiện nên việc Tòa án xem xét, đánh giá vấn đề này gặp
nhiều khó khăn.
Ba là: Đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm
Trong trường hợp đương sự trong vụ án không có thay đổi nào khác cũng
như không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết các nội dung tranh chấp thì
thẩm phán trực tiếp thụ lý vụ án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai
của tòa án. Nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử được quy định tại Điều 220
BLTTDS 2015. Quyết định này được giao cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng
cấp trong thời hạn ba ngày từ khi ra quyết định. Sau thời hạn một tháng kể từ ngày
ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tòa án phải mở phiên tòa xét xử công
khai vụ án.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án cần giải quyết các vấn đề khi nguyên đơn, bị
đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình giải
45
quyết vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại của Tòa án bắt đầu từ khi bên khởi
kiện có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bất đồng liên
quan đến hợp đồng KDTM với bên bị kiện. Theo quy định tại Điều 70, Điều 71,
Điều 73 BLTTDS 2015 về quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng
mặt có lý do chính đáng thì hoãn phiên tòa, đến lần thứ hai mà vắng mặt thì tòa án
giải quyết vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Đối với trường hợp tại phiên tòa nguyên đơn trong vụ án có đơn xin rút đơn
khởi kiện hoặc phát hiện một hoặc một số các tình huống được quy định tại Điều
214 BLTTDS 2015, thì Tòa án ra quyết định đình chỉ tại phiên tòa. Đối với trường
hợp tại phiên tòa các đương sự trong vụ án lại thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án thì tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên
tòa. Bản chất của quyết định đình chỉ tại phiên tòa hoặc quyết định công nhận sự
thỏa thuận tại phiên tòa giống như một bản án nhưng cách thức giải quyết hậu quả
của các quyết định này lại giống quyết định đình chỉ hoặc quyết định công nhận
thông thường. Đối với quyết định đình chỉ, các bên vẫn có quyền kháng cáo, Viện
kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đối với quyết định công
nhận các bên có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Tuy nhiên, các thủ tục cấp, tổng đạt quyết định này lại giống như là một bản
án. Do đó đối với trường hợp tòa án đình chỉ vụ án tại phiên tòa hoặc công nhận sự
thỏa thuận tại phiên tòa sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, các thủ tục tố
tụng diễn ra lâu hơn trường hợp Tòa án đình chỉ vụ án, hoặc công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự trước đó. Trường hợp đương sự không có thỏa thuận nào
khác hoặc không có thay đổi nào khác thì Tòa án quyết định phân xử trên cơ sở các
tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, sự đánh giá và nhận định của hội đồng xét xử.
Thủ tục tranh tụng theo pháp luật TTDS được quy định từ Điều 247 đến Điều
363 BLTTDS hiện hành. Thủ tục tranh tụng được tiến hành tuần tự theo các bước:
Trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; hỏi
để xác định yêu cầu của đương sự và về sự thỏa thuận của các đương sự; các bên
46
đương sự trình bày về nội dung vụ án và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình; hỏi để làm rõ những vấn đề mà đương sự trình bày về nội dung vụ án và
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; hỏi để làm rõ những vấn đề mà đương
sự trình bày chưa rõ hoặc có mâu thuẫn; công bố tài liệu của vụ án, xem xét vật
chứng. Mục đích của tranh tụng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ của các bên trong tranh chấp KDTM, bên cạnh đó, nhờ có hệ thống những quy
định về tranh tụng hết sức chặt chẽ mà các chủ thể có thể tự mình hoặc thông qua
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trình bày ý kiến, đưa ra những
chứng cứ, tài liệu, lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Trên
sở sở tranh tụng sẽ giúp HĐXX giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và chính
xác.
Việc phát biểu, tranh luận, đối đáp được thực hiện theo Điều 260 – 263
BLTTDS 2015. Bản chất của việc tranh luận là đối đáp giữa các bên đương sự về
chứng cứ, lý lẽ và quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp các
bên có ý kiến khác nhau về yêu cầu, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật và quan
điểm giải quyết vụ án thì theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, các đương sự
đối đáp với nhau. Vì vậy, Chủ tọa phiên tòa điều khiển việc đối đáp của các bên
đương sự tập trung vào những vấn đề mâu thuẫn và giải quyết nội dung vụ án. Phát
biểu của các bên khi tranh luận chính là việc các bên thể hiện quan điểm của mình
về việc đánh giá chứng cứ, đánh giá yêu cầu của mình là đúng đắn, có cơ sở. Trên
cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra và hỏi tại phiên tòa, trong phần tranh luận,
thông qua các quy định của pháp luật, các đương sự đưa ra lý lẽ, lập luận chứng
minh cho HĐXX, đương sự phía còn lại và những người tham gia tố tụng thấy yêu
cầu và sự phản đối yêu cầu của mình là đúng đắn và phía đương sự bên kia phải có
nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình. Cuối cùng, đại diện Viện kiểm sát đưa ra ý kiến
về việc giải quyết vụ án tức phát biểu cả về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án.
Quan điểm của Kiểm sát viên là một trong những hướng để HĐXX cân nhắc khi
nghị án, để đưa ra bản án có căn cứ và đúng pháp luật.
Kết quả giải quyết vụ án được thể hiện trên bản án, có nội dung và hình thức
được quy định tại Điều 266 BLTTDS 2015.
47
Sơ đồ 2.1: Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại
48
2.1.4 Một số đánh giá đối với các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án
Tòa án là cơ quan tài phán của Nhà nước áp dụng pháp luật để xét xử trong
trường hợp xảy ra tranh chấp hợp đồng KDTM phát sinh giữa các chủ thể mà họ
không thể tự giải quyết được với nhau và một bên có đơn khởi kiện yêu cầu can
thiệp của tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về
giải quyết tranh chấp thương mại nói chung cũng như tranh chấp hợp đồng KDTM
nói riêng tương đối đồng bộ và toàn diện, đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với
thực tế, có tính dự báo và hoàn thiện về nội dung. Theo đó, Tòa án chỉ giải quyết
tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền của mình theo quy định tại Điều 30 BLTTDS
2015 và giữa các bên không có thỏa thuận về phương thức Trọng tài. Ngoài ra,
thẩm quyền của của Tòa án còn được phân định theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ và
theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, Tòa án có thẩm quyền áp dụng
pháp luật với vai trò là bên thứ ba, là cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp được
yêu cầu. Việc giải quyết tranh chấp trên cơ sở quy định pháp luật hiện hành. Tòa án
sẽ nhân danh quyền lực Nhà nước để ban hành bản án hoặc quyết định có giá trị bắt
buộc thi hành với các bên đương sự bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án được tiến hành theo
thủ tục tố tụng tư pháp tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Một
trong những điểm đặc thù khi giải quyết hợp đồng KDTM tại Tòa án là phải tuân
thủ những nguyên tắc cơ bản như đã phân tích ở trên. Do đó, bên cạnh pháp luật về
thủ tục tố tụng, pháp luật nội dung là nguồn luật quan trọng để Tòa án áp dụng khi
xét xử tranh chấp nói chung và tranh chấp hợp đồng KDTM nói riêng.
Các văn bản chủ yếu mà Tòa án thường dùng làm căn cứ pháp lý để giải
quyết tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc thẩm quyền của mình gồm: Bộ luật dân sự
2015, Luật Thương mại 2019, Luật Kinh doanh bất động sản 2014, Luật Chứng
khoán 2019, Luật Du lịch 2005, Luật Dược 2016, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật
Xây dựng 2014, Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020, Luật Đầu tư công
2019, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000… Hệ thống các văn bản pháp luật khá đầy
49
đủ và chặt chẽ này là cơ sở cho việc Tòa án giải quyết các tranh chấp hợp đồng
KDTM được nhanh chóng, chính xác, hiệu quả cao.
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa
án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
2.2.1. Tổng quan về Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang nằm trên địa bàn phố Tuyên Quang
có tổng diện tích đất tự nhiên là 11921.00 ha, nằm ở trung tâm của tỉnh Tuyên
Quang. Toàn thành phố có đường quốc lộ 2 và quốc lộ 37 chạy qua và cùng với các
tuyến đường liên huyện liên xã, phường tạo thành mạch máu giao thông chính nối
liền các huyện, xã trong khu vực, trung tâm thành phố đồng thời nối liền với các
tỉnh bạn. thuận lợi cho việc lưu thông và phát triển kinh tế, văn hoá, hệ thống giao
thông liên xã, phường, liên thôn đã được trải nhựa và bê tông. Thành phố Tuyên
Quang là trung tâm kinh tế - xã hội của tỉnh, có mật độ dân số cao nhất tỉnh, có trình
độ dân trí cao và tương đối đồng đều. Kinh tế của thành phố tiếp tục phát triển, tốc
độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt trên 17%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét
theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Công nghiệp có chuyển biến tích cực, một số dự án công nghiệp, nhà máy quy mô
lớn hoàn thành và đưa vào sử dụng. Dịch vụ, du lịch từng bước trở thành ngành
kinh tế quan trọng; quan tâm đầu tư, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích
lịch sử - văn hóa. Sản xuất nông nghiệp chuyển dịch mạnh theo hướng sản xuất
hàng hóa gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm, giúp cho nhiều hộ nông
dân có thu nhập cao từ sản xuất nông nghiệp. Những đặc điểm về điều kiện địa lý tự
nhiên, kinh tế - xã hội trên của thành phố Tuyên Quang đã tác động tích cực tới chất
lượng giải quyết các vụ án nói chung và vụ án tranh chấp KDTM nói riêng của Tòa
án nhân dân thành phố Tuyên Quang nói riêng, cụ thể: Tạo điều kiện thuận lợi trong
việc đi thu thập chứng cứ, tiện lợi cho người dân đi lại trong quá trình giải quyết vụ
án, nhận thức của người dân cao nên việc tuyên truyền, giải thích pháp luật có hiệu
quả. Do vậy, tỷ lệ hòa giải thành các vụ án cao.
Tuy nhiên, kinh tế phát triển làm cho các tranh chấp KDTM ngày càng nhiều
về cả tính chất cũng như số lượng. Do vậy trong những năm qua tỷ lệ án KDTM của
50
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang tăng và tính chất ngày càng phức tạp.
Đáp ứng nhu cầu thực tiễn Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang có tổng
số biên chế được phân bổ là 20 người, có 01 Chánh án, 02 phó Chánh án. Đơn vị có
08 Thẩm phán, 07 thư ký và 02 chức danh khác. Hợp đồng lao động theo Nghị định
68/CP có 03 người.
Về trình độ chuyên môn, 100% Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký của
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có trình độ cử nhân Luật, trong đó có 01
người có trình độ thạc sỹ Luật. Về trình độ lý luận chính trị, 100% Thẩm phán cuả
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở
lên, trong đó có 02 người có trình độ cao cấp lý luận chính trị.
Về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác: các
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có trụ sở làm việc đạt yêu cầu, theo đúng
mẫu thiết kế, tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu cầu công tác của Tòa án nhân dân tối cao;
hiện tại có đơn vị Tòa án thành phố Tuyên Quang lượng án hàng năm phải giải
quyết khoảng 650 vụ án. Về trang thiết bị kỹ, phương tiện: Được sự quan tâm của
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã mua sắm,
được cấp phát tài sản theo đề án gồm: ô tô, máy tính, máy photo, giá đựng tài liệu,
bàn ghế, xe máy công... cơ bản đáp ứng được nhu cầu về trang thiết bị để phục vụ
cho công tác chuyên môn.
2.2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng thương
mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
Trong giai đoạn 2015- 2019 tại thành phố Tuyên Quang, cùng với số lượng
các hoạt động KDTM ngày càng nhiều hơn, thì số vụ tranh chấp hợp đồng KDTM
cũng dần có xu hướng tăng cả về số vụ việc, lẫn tính chất phức tạp. Điều này đặt ra
yêu cầu đối với Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang cần đẩy mạnh và hoàn
thiện công tác xét xử, nhằm giải quyết nhanh chóng, triệt để các vụ việc, nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong hoạt động thương mại,
góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giúp các doanh nghiệp nhanh chóng ổn
định kinh doanh sản xuất, và đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
51
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang đã đạt được một số kết quả nhất định trong công tác xét xử giải quyết
tranh chấp hợp đồng thương mại, thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng kinh
doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang giai đoạn
năm 2015 - năm 2019
Số vụ án đã giải quyết Thụ Số vụ án Tỷ lệ giải Tạm Công Năm lý Chuyển Đình Xét còn lại quyết (%) đình nhận thỏa (vụ) hồ sơ chỉ xử chỉ thuận
12 - 2015 3 2 - 1 6 50%
14 - 2016 5 3 - - 6 57%
22 - 2017 5 4 - 4 9 59%
25 - 2018 6 6 - 9 4 84%
31 - 2019 6 13 - 7 3 90%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2015 - 2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Tuyên Quang).
- Năm 2015: thụ lý tổng số 12 vụ, đã giải quyết 6 vụ, đạt tỷ lệ 50% (xét xử: 3
vụ; công nhận hòa giải thành: 2 vụ; Đình chỉ: 01 vụ).
- Năm 2016: thụ lý tổng số 14 vụ, đã giải quyết 8 vụ, đạt tỷ lệ 57% (xét xử: 5
vụ; công nhận hòa giải thành: 3 vụ).
- Năm 2017: thụ lý tổng số 22 vụ, đã giải quyết 13 vụ, đạt tỷ lệ 59% (xét xử:
5 vụ; công nhận hòa giải thành: 4 vụ; đình chỉ: 4 vụ).
- Năm 2018: thụ lý tổng số 25 vụ, đã giải quyết 21 vụ, đạt tỷ lệ 84% (xét xử:
06 vụ; công nhận hòa giải thành: 06 vụ; đình chỉ: 09 vụ).
- Năm 2019: thụ lý tổng số 31 vụ, đã giải quyết 26 vụ, đạt tỷ lệ 90% (trong
đó: xét xử: 02 vụ; công nhận hòa giải thành: 08 vụ; đình chỉ: 05 vụ).
Như vậy, thông qua những số liệu trên có thể thấy, những năm qua, tình hình
tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đang
ngày càng diễn biến phức tạp. Năm 2015, số vụ án mà Tòa án đã thụ lý là 12 vụ, thì
52
đến năm 2019, số vụ thụ lý đã tăng lên đến 31 vụ. Như vậy, năm 2019 số vụ án
tranh chấp hợp đồng KDTM đã tăng 258,3% so với năm 2015, và dự báo năm 2020
sẽ còn tiếp tục tăng. Các vụ án Tòa án thụ lý và giải quyết chủ yếu là các tranh chấp
hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng thế chấp, tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa bên cạnh đó còn một số loại việc tranh chấp khác chiếm tỷ lệ rất ít như:
tranh chấp hợp đồng góp vốn và chuyển nhượng góp vốn, tranh chấp hợp đồng về
thuê, cho thuê, thuê mua.
Trước tình hình đó, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã có nhiều cố
gắng trong công tác xét xử giải quyết tranh chấp về hợp đồng KDTM. Trên cơ sở
các quy định của pháp luật TTDS và chỉ tiêu của ngành Tòa án, có thể đánh giá
công tác giải quyết án KDTM của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đạt
được kết quả rất đáng ghi nhận, đặc biệt không có vụ án nào quá hạn luật định (vi
phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử) và vi phạm thời hạn tố tụng khác. Cụ thể là tỷ lệ
giải quyết vụ việc trong giai đoạn 2015 – 2017 luôn có tỷ lệ trên 50%. Năm 2018, tỷ
lệ giải quyết án là 84% và năm 2019 đạt tỷ lệ giải quyết là 90%. Dù số vụ án thụ lý
ngày càng tăng nhưng thông qua công tác xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên
Quang đã phần nào giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, bảo vệ quyền lợi của các
bên liên quan. Mặc dù khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải,
nhưng số vụ hòa giải thành được công nhận vẫn rất thấp. Năm 2015 có 2 vụ hòa giải
thành, đến năm 2017 là 4 vụ. Năm 2019 có 13 vụ án hòa giải thành. So với số vụ án
thụ lý và đưa ra xét xử thì số vụ hòa giải thành như vậy là thấp. Nguyên nhân là vì
trong nhiều vụ án, công tác hòa giải chỉ mang tính chất hình thức, thủ tục, vì bên bị
kiện đã tỏ thái độ bất hợp tác ngay từ khi bắt đầu thủ tục giải quyết tranh chấp, do
đó họ cũng không có mặt trong quá trình hòa giải. Đây là vấn đề phổ biến xảy ra
trong thực tiễn xét xử ở Tuyên Quang, dẫn đến việc tổ chức các buổi hòa giải không
cần thiết gây lãng phí tiền bạc, thời gian của các bên và của Tòa án.
Nhìn chung, các vụ án tranh chấp KDTM nói chung và tranh chấp hợp đồng
KDTM nói riêng được Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang chú trọng thực
hiện, áp dụng đúng các quy định của BLTTDS 2015 cũng như các quy định về pháp
luật nội dung để giải quyết một cách khách quan, chính xác, về cơ bản đảm bảo
53
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Đảm bảo các nguyên tắc giải
quyết tranh chấp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp và đảm bảo về trình tự thủ tục
giải quyết tranh chấp. Công tác hòa giải được đặc biệt coi trọng nhằm giải quyết
mâu thuẫn giữa các bên đương sự, củng cố đoàn kết trong nhân dân, góp phần đảm
bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2.2.2.1. Về nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Khi giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM, Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang luôn định hướng theo nguyên tắc hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi
để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc. Trong suốt các giai
đoạn của quá trình tố tụng Tòa án luôn tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt
của các đương sự: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải
quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình
hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã
hội.
Ví dụ: Vụ án KDTM thụ lý số: 09/2018/TLST-KDTM ngày 05 tháng 6 năm
2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng sản xuất và thi công công việc”.
Nội dung vụ án : Ngày 14/06/2011 Công ty TNHH MTV Phú Gia ký hợp
đồng số 17/HĐKT/2011 thuê Công ty TNHH Hiệp Phú sản xuất và thi công bê tông
nhựa Asphanlt hạt trung dày 7cm tại công trình đường số 4 Thị trấn Vĩnh Lộc,
huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang tổng giá trị 1.505.093.525 đồng. Sau khi ký
hợp đồng Công ty TNHH MTV Phú Gia đã chuyển khoản 800.000.000 đồng tương
ứng 50% giá trị hợp đồng ( theo điều 5 hợp đồng) và Công ty TNHH Hiệp Phú đã
tiến hành tổ chức thi công đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng được nghiệm thu tại
biên bản làm việc ngày 09/7/2011 và biên bản xác định khối lượng ngày 10/7/2011.
Ngày 12/7/2011 hai bên tiến hành thanh lý hợp đồng Công ty TNHH MTV Phú Gia
còn phải trả cho Công ty TNHH Hiệp Phú số tiền là 705.093.525 đồng nhưng Công
ty TNHH MTV Phú Gia đã không thanh toán nốt số tiền còn lại và đến ngày
01/10/2011 Công ty TNHH Hiệp Phú đã chủ động làm biên bản đối chiếu công nợ
theo quy định. Từ khi đối chiếu công nợ Công ty TNHH Hiệp Phú nhiều lần làm
văn bản đề nghị Công ty TNHH MTV Phú Gia thanh toán và đến ngày 28/7/2014
54
Công ty TNHH MTV Phú Gia đã trả thêm 50.000.000 đồng. Ngày 30/9/2015 Công
ty TNHH Hiệp Phú đã làm đối chiếu công nợ xác nhận Công ty TNHH MTV Phú
Gia còn phải trả Công ty TNHH Hiệp Phú là 655.093.525 đồng (nợ gốc). Đến ngày
22/5/2018 do thời hạn hợp đồng kết thúc đã lâu, Công ty TNHH Hiệp Phú đã nhiều
lần gửi văn bản, gọi điện trực tiếp cho Ông Hà Ngọc Tân giám đốc Công ty TNHH
MTV Phú Gia đề nghị thanh toán hết số tiền còn lại nhưng công ty TNHH Một
thành viên Phú Gia vẫn không thực hiện việc thanh toán. Vì vậy công ty TNHH
Hiệp Phú yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty TNHH MTV Phú Gia trả nợ cho
Công ty TNHH Hiệp Phú số tiền nợ gốc và lãi theo điều 5 hợp đồng số
17/HĐKT/2011 ngày 14/6/2011, cụ thể như sau:
- Tiền nợ gốc theo hợp đồng 17/HĐKT/2011: 655.093.525 đồng
- Tiền lãi theo điều 5 hợp đồng số 17/HĐKT/2011: 503.077.386 đồng
+ Tính từ ngày 12/7/2011 đến tháng 28/7/2014: 273.576.288 đồng
+ Tính từ ngày 28/7/2014 đến tháng 5/2018: 229.501.098 đồng
Tổng số tiền Công ty TNHH MTV Phú Gia phải trả cho Công ty TNHH
Hiệp Phú là: 1.158.170.911đ (Một tỷ, một trăm năm mươi tám triệu, một trăm bảy
mươi ngàn, chín trăm mười một đồng).
Sau khi thụ lý vụ án, các đương sự có văn bản trình bày ý kiến về nội dung
vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã thông báo cho các bên đương sự
về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải. Tại phiên hòa giải ngày 06/7/2018 bị đơn Công ty TNHH một thành viên Phú
Gia xác nhận việc công ty TNHH Hiệp Phú trình bày quá trình hai bên mua bán
hàng hoá và xác nhận công nợ là đúng. Lý do Công ty TNHH MTV Phú Gia chưa
thanh toán được số tiền hàng còn nợ là do hiện nay Công ty TNHH MTV Phú Gia
đang trong tình trạng khó khăn đứng bên bờ vực phá sản không có đủ khả năng
thanh toán số tiền lãi mà công ty TNHH Hiệp Phú mà chỉ có thể thanh toán số tiền
nợ gốc là 655.093.525 đồng. Nguyên đơn Công ty TNHH Hiệp Phú đồng ý để cho
bên Công ty TNHH MTV Phú Gia thanh toán số tiền nợ gốc là 655.093.525 đồng
mà không yêu cầu thanh toán lãi cho công ty TNHH Hiệp Phú. Tòa án đã lập biên
bản hòa giải thành 06/7/2018 về việc các đương sự thoả thuận được với nhau về
55
việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Đã hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, không có
đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó nên Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang đã căn cứ vào biên bản hòa giải thành ngày 06 tháng 7 năm 2018 về
việc các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án
KDTM sơ thẩm thụ lý số: 09/2018/TLST-KDTM ngày 05 tháng 6 năm 2018 về việc
“Tranh chấp hợp đồng sản xuất và thi công công việc” ra quyết định số
11/2018/QĐKDTM-ST ngày 16 tháng 7 năm 2018 về việc công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự giữa Công ty TNHH Hiệp Phú và công ty TNHH một thành viên
Phú Gia, theo đó Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phú Gia phải trả cho
Công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Phú số tiền nợ gốc là 655.093.525 đồng (Sáu
trăm năm mươi lăm triệu, không trăm chín mươi ba nghìn, năm trăm hai mươi lăm
đồng).
Như vậy, việc Toàn án nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết
định công nhận sự thỏa thuận của đương sự hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc
“quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” theo Điều 5 BLTTDS 2015. Theo
đó, việc Công ty TNHH Hiệp Phú và công ty TNHH một thành viên Phú Gia là thỏa
thuận giải quyết vụ án là hoàn toàn tự nguyên. Việc xác định công nợ đã rõ ràng từ
sau khi thanh lý hợp đồng và xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Cả hai bên
đương sự đều thừa nhận toàn bộ công nợ hợp pháp, không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên được Tòa án công nhận. Quyết định
công nhận sự thỏa thuận này của hai bên Công ty có hiệu lực pháp luật ngay sau khi
được ban hành ngày 16/7/2018 và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
2.2.2.2. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp KDTM của Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang cũng tuân theo các quy định của pháp luật TTDS.
Ví dụ: Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng
giữa Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) với
công ty TNHH một thành viên Phát An Hưng. Hợp đồng giữa hai bên được giao kết
56
và thực hiện giải ngân tiền vay tại Chi nhánh của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh
Tuyên Quang. Khi ký kết hợp đồng, các bên không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án
nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp. Đến hạn trả nợ, công ty TNHH
một thành viên Phát An Hưng không trả được nợ nên Ngân hàng nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam đã khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng với
Công ty TNHH một thành viên Phát An Hưng tại Tòa án thành phố Tuyên Quang
nơi có Chi nhánh của ngân hàng tại tỉnh Tuyên Quang.
Tại Bản án số 21/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Tuyên Quang về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn:
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank). Địa chỉ: Số
2, Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Tạ Quang Trung - Chức vụ: Giám đốc
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Tuyên
Quang (Theo giấy ủy quyền số 510/QĐ-HĐTV-PC 19/6/2014 của chủ tịch Hội
đồng thành viên Agribank).
Địa chỉ: Số 112 - đường Nguyễn Văn Cừ, phường Minh Xuân, thành phố
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
* Bị đơn: Công ty TNHH một thành viên Phát An Hưng
Địa chỉ: Số nhà 558, tổ 02 (nay là tổ 1), phường Nông Tiến, thành phố Tuyên
Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Minh Hiểu, sinh năm 1960 – Chức
vụ: Giám đốc.
Nội dung vụ án: Ngày 29/6/2011 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Tuyên Quang đã ký kết hợp đồng tín dụng hạn mức
số 8100 - LAV 201100793 giữa bên cho vay tiền là Ngân hàng và bên vay là Công
ty TNHH một thành viên Phát An Hưng. Thời hạn hạn mức 12 tháng (từ ngày
29/6/2011 đến ngày 19/6/2012), lãi xuất tại thời điểm ký hạn mức 19%/ năm. Tổng
số tiền hạn mức 1.400.000.000đ (Một tỷ bốn trăm triệu đồng). Tổng số tiền ngân
hàng đã giải ngân cho Công ty là 1.400.000.000đ. Tài sản bảo đảm cho khoản vay
là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất (nhà xây 03 tầng) theo Hợp đồng
57
thế chấp tài sản số 01/HĐTC ngày 29/6/2011 đã ký giữa ngân hàng với công ty và
anh Điệp, chị Hường có đăng ký giao dịch tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng
đất chi nhánh thành phố Tuyên Quang.
Do điều kiện khách quan, Công ty hoạt động không hiệu quả nên không
thanh toán được cho ngân hàng các khoản nợ đúng hạn. Bên ngân hàng đã tạo điều
kiện gia hạn nợ nhiều lần để Công ty khắc phục khó khăn nhưng cũng không khắc
phục được, ngân hàng đã có nhiều Biên bản làm việc với Công ty và bên có tài sản
bảo đảm là anh Điệp và chị Hường yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thế
chấp đã ký kết nhưng phía công ty cũng không trả được và bên có tài sản bảo đảm
không hợp tác để xử lý tài sản thế chấp. Do vậy, Ngân hàng đã có đơn khởi kiện
yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang giải quyết buộc Công ty TNHH
MTV Phát An Hưng phải thực nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng theo hợp
đồng tín dụng hạn mức số 8100 - LAV 201100793 ngày 29/6/2011 đã ký giữa Ngân
hàng với công ty. Nếu công ty không thanh toán được tiền thì ngân hàng có quyền
yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm của ông Hoàng Mạnh
Điệp và bà Nguyễn Thị Hường đã được đăng ký thế chấp ngày 29/6/2011, và nếu số
tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Agribank thông qua
Agribank - Chi nhánh tỉnh Tuyên Quang có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân
sự xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty để thu hồi nợ
theo quy định.
Qúa trình giải quyết và tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện và đề nghị Tòa án giải quyết: Yêu cầu công ty TNHH một thành viên Phát
An Hưng có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền tạm tính đến hết ngày 25/11/2019
là 2.716.731.528 đồng (Hai tỷ bảy trăm mười sáu triệu bẩy trăm ba mươi mốt nghìn
năm trăm hai mươi tám đồng). Trong đó: Nợ gốc là 1.400.000.000đ (Một tỷ bốn
trăm triệu đồng); nợ lãi là 1.316.731.528đ (một tỷ ba trăm mười sáu triệu bẩy trăm
ba mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi tám đồng).
Trường hợp Công ty không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên
thì ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm
của ông Hoàng Mạnh Điệp và bà Nguyễn Thị Hường đã được đăng ký thế chấp
58
ngày 29/6/2011.
Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ
cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý bất
kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty để thu hồi nợ theo quy
định.
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã căn cứ vào các Điều 30, 35, 39,
147, 227, 228, 271, 273 - BLTTDS; các Điều 117, 299, 317, 319, 320, 323 BLDS;
Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tin dụng; Điều 179 Luật đất đai; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên Phát An Hưng có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tổng số tiền nợ tính đến ngày
25/11/2019 là: 2.716.731.528 đồng (hai tỷ bẩy trăm mười sáu triệu bẩy trăm ba
mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi tám đồng). Trong đó: Nợ gốc là 1.400.000.000
đồng (Một tỷ bốn trăm triệu đồng); nợ lãi là 1.316.731.528 đồng (một tỷ ba mười
sáu triệu bẩy trăm ba mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi tám đồng).
Kể từ ngày 26/11/2019, công ty còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số
tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng số 8100-LAV201100793 ngày 29/6/2011 đã ký giữa công ty với
Ngân hàng cho đến khi thanh toán hết số nợ gốc.
Trường hợp Công ty không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ và lãi
phát sinh cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân
sự phát mại tài sản thế chấp của khoản vay nói trên là: Quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN637912 do UBND
thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố Tuyên Quang) cấp ngày 23/02/2009 mang
tên hộ ông Hoàng Mạnh Điệp và bà Nguyễn Thị Hường, thửa đất số 04, diện tích
98.3m2, tờ bản đồ số QH khu dân cư xóm 12, thuộc tổ 12 (nay là tổ 5), phường
Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang (theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và
59
tài sản gắn liền với đất số 01 ngày 29/6/2011).
Qua vụ việc này, có thể nhận định, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang
đã thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật. Hợp đồng tín
dụng trên có hoạt động giải ngân tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
tỉnh Tuyên Quang, trụ sở tại thành phố Tuyên Quang. Tranh chấp này phát sinh từ
hoạt động tín dụng, cụ thể là cho vay của Chi nhánh. Theo điểm b, Khoản 1 Điều 40
BLTTDS 2015: “Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi
nhánh giải quyết”. Về thẩm quyền theo cấp tại Điều 37 BLTTDS, Tòa án nhân dân
cấp huyện có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án này. Do đó, Tòa án nhân dân
thành phố Tuyên Quang là nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết vụ án theo lựa chọn
của nguyên đơn.
2.2.2.3. Về thủ tục giải quyết tranh chấp.
Cơ bản các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại do Tòa án nhân dân
thành phố Tuyên Quang thụ lý giải quyết đều xác định đúng thẩm quyền và đảm
bảo đúng trình tự tố tụng quy định. Có những vụ án Tòa án phải xác định và giải
quyết rất nhiều quy định về trình tự thủ tục tố tụng để giải quyết đảm bảo theo quy định
của pháp luật như:
Vụ án KDTM thụ lý số: 03/2018/TLST - KDTM ngày 29 tháng 01 năm 2018
về Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn Công ty Cổ phần lâm
sản và khoáng sản Tuyên Quang và bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương
mại Phúc Sơn 6;
Nội dung vụ án: Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, ngày 02/01/2012
Công ty TNHH MTV xây dựng Phúc Sơn 6 (nay là Công ty TNHH xây dựng
thương mại Phúc Sơn 6) do đại diện là ông Đỗ Hải Hưng đã ký Hợp đồng mua bán
hàng hóa số: 17/HĐKT-CT với Công ty CPLS&KS Tuyên Quang, theo hợp đồng
Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 nhận mua đá vật liệu xây dựng của Công ty
CPLS&KS Tuyên Quang. Thực hiện hợp đồng đã được ký kết giữa hai bên Công ty
CPLS&KS Tuyên Quang đã giao bán và Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 đã
nhận mua. Trong quá trình thực hiện việc mua bán hàng hóa theo hợp đồng, hai bên
60
tiến hành vừa giao hàng vừa trả tiền và đối chiếu công nợ; theo Biên bản đối chiếu
công nợ lập ngày 30/01/2013 thì tính đến thời điểm ngày 30/01/2013 Công ty
TNHH XD và thương mại Phúc Sơn 6 còn nợ Công ty CPLS&KS Tuyên Quang số
tiền là: 171.320.000đ; đến ngày 30/3/2013 hai bên lại tiến hành đối chiếu công nợ
tiếp, đến thời điểm này Công ty TNHH XD và thương mại Phúc Sơn 6 còn nợ Công
ty CPLS&KS Tuyên Quang số tiền là: 104.580.000đ. Sau đó Công ty TNHH XD và
Thương mại Phúc Sơn 6 vẫn tiếp tục mua hàng và trả tiền nhưng không ký biên bản
đối chiếu công nợ, theo số liệu được theo dõi trong sổ sách kế toán thì tính từ thời
điểm đó cho đến nay Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 vẫn còn nợ Công ty
CPLS&KS Tuyên Quang số tiền là: 171.021.000đ (Một trăm bảy mươi mốt triệu
không trăm hai mươi mốt nghìn đồng chẵn); Công ty CPLS&KS Tuyên Quang đã
xuất đủ Hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 tương
ứng với số hàng hóa đã xuất bán.
Để đôn đốc việc thanh toán, trả nợ tiền hàng Công ty CPLS&KS Tuyên
Quang đã giao cho cán bộ trực tiếp liên hệ với Công ty TNHH XD và Thương mại
Phúc Sơn 6 để đòi nợ rất nhiều lần, Công ty CPLS&KS Tuyên Quang cũng đã gửi
12 văn bản đòi nợ đến Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 qua đường Bưu Điện
là: Văn bản số 26/CV-CT ngày 28/01/2013; Văn bản số 129/CV-CT ngày
23/5/2013; Văn bản số 143/CV-CT ngày 04/6/2013; Văn bản số 192/CV-CT ngày
08/8/2013; Văn bản số 267/CV-CT ngày 29/11/2013; Văn bản số 282/CV-CT ngày
16/12/2013; Văn bản số 283/CV-CT ngày 25/11/2014; Văn bản số 215/CV-CT
ngày 10/12/2015; Văn bản số 217/CV-CT ngày 25/11/2016 ; Văn bản số 158/CV-
CT ngày 21/8/2017; Văn bản số 201/CV-CT ngày 14/10/2017; Văn bản số 242/CV-
CT ngày 04/12/2017 gửi tới Công ty TNHH XD và Thương mại Phúc Sơn 6 đề nghị
Công ty TNHH XD và Thương mại Phúc Sơn 6 đến trước ngày 12/12/2017 phải
thanh toán hết tiền nợ cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang.
Tuy nhiên Công ty TNHH XD và Thương mại Phúc Sơn 6 vẫn cố tình không
thanh toán số tiền còn nợ mua hàng cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang theo
đúng nội dung hợp đồng đã ký kết và cũng không có bất kỳ ý kiến gì bằng văn bản
gửi lại cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang.
Vì vậy Công ty CPLS&KS Tuyên Quang khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân
61
thành phố Tuyên Quang xem xét giải quyết:
Buộc bị đơn Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 thanh toán số tiền hàng
còn nợ là: 171.021.000đ (Một trăm bảy mươi mốt triệu không trăm hai mươi mốt
nghìn đồng chẵn); cộng với tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua hàng
theo qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tính từ ngày 01/01/2013 đến
ngày 10/01/2018 là 99.845.315đ (Chín mươi chín triệu tám trăm bốn mươi năm
nghìn ba trăm mười năm đồng./.)
Tổng cộng số tiền nợ mua hàng và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền mua hàng là: 270.866.315đồng (Hai trăm bảy mươi triệu tám trăm sáu mươi sáu
nghìn ba trăm mười năm đồng), và tiền lãi tiếp tục phát sinh do trả chậm tiếp theo
cho đến khi thanh toán hết số tiền còn nợ cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang.
Từ khi thụ lý hồ sơ Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã tống đạt các
văn bản tố tụng qua đường bưu điện có báo phát cho công ty nhưng bị đơn không
đến làm việc nên Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã ủy thác cho Tòa án
nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành tống đạt các văn bản tố
tụng cho bị đơn đến Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang để giải quyết việc
kiện của nguyên đơn, tuy nhiên tại trụ sở của bị đơn không có người làm việc nên Tòa
án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành niêm yết các văn bản tố
tụng đối với bị đơn theo quy định của pháp luật, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại Tòa mà
không có lý do chính đáng. Do vậy Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên
tòa xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng với quy định của pháp luật.
Tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu
công ty TNHH XD và thương mại Phúc Sơn 6 phải trả số tiền còn nợ là
171.021.000đ và rút một phần yêu cầu về lãi suất chỉ yêu cầu công ty TNHH XD và
thương mại Phúc Sơn 6 trả tiền lãi theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy
định là 9%/năm từ lãi tính từ ngày 05/01/2013 đến ngày 27/9/2013 với số tiền là
83.673.762 đồng. Tổng cộng số tiền là 254.694.761 đồng làm tròn 254.694.800
đồng.
Tại bản án số 16/2018/KDTM –ST ngày 27 tháng 9 năm 2018 về việc
“Tranh chấp về Hợp đồng mua bán hàng hóa” của Tòa án nhân dân thành phố
62
Tuyên Quang đã quyết định như sau:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 30, Điểm b Khoản 1 Điều 35, Điểm b Khoản 1
Điều 39, Khoản 1 Điều 273 và Khoản 1 Điều 280 của BLTTDS 2015. Căn cứ Điều
24, Điều 50, Điều 292, Điều 306 và Điều 319 của Luật Thương năm 2019. Căn cứ
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Lâm sản và
khoáng sản Tuyên Quang.
Buộc bị đơn Công ty TNHH Xây dựng và thương mại Phúc Sơn 6 phải có
trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ phần Lâm sản và khoáng sản
Tuyên Quang số tiền nợ gốc còn thiếu là 171.021.000đ (Một trăm bảy mươi mốt
triệu không trăm hai mươi mốt nghìn đồng) và tiền lãi suất chậm trả là 83.673.762đ.
Tổng cộng là 254.694.762đ làm tròn là 254.694.800đ (Hai trăm năm mươi tư triệu
sáu trăm chín mươi tư nghìn tám trăm đồng).
Nhận định về vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có thẩm
quyền giải quyết vụ án này do hợp đồng mua bán hàng hóa tại trụ sở của Công ty cổ
phần Lâm sản và khoáng sản Tuyên Quang. Đối chiếu điểm g, Khoản 1, Điều 40
BLTTDS 2015, nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện
giải quyết. Về mặt thủ tục tố tụng, Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần qua
đường bưu điện cho bị đúng theo quy định pháp luật nhưng không được phản hồi.
Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã thực hiện thủ tục ủy thác thu
thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để tống
đạt văn bản theo Điều 105 BLTTDS 2015. Theo Điều này, Tòa án nhận được quyết
định ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn
01 tháng, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn
bản cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác. Theo đó, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh
Yên đã thực hiện niêm yết văn bản tố tụng đúng theo Quyết định ủy thác, quy định
tại Điều 179 BLTTDS 2015. Cuối cùng, vụ án được xét xử vắng mặt bị đơn khi việc
niêm yết công khai Quyết định đưa vụ án ra xét xử đã hợp lệ nhưng bị đơn không
63
có mặt theo Điều 228 BLTTDS 2015.
Qua một số ví dụ trên cho thấy, nhìn chung việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đều được thực hiện đúng
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo kết quả giải quyết chính xác,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp của chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như phân tích ở trên, qua thực tiễn xét
xử từ những năm 2015 đến thời điểm hiện tại, các tranh chấp hợp đồng KDTM diễn
ra ngày càng phức tạp dẫn tới việc giải quyết loại tranh chấp này gặp những khó
khăn, vướng mắc nhất định. Với thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tác giả
xin đưa ra một số bất cập, hạn chế trong giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM như
sau:
2.2.3.1. Xác định thiếu người tham gia tố tụng
Sau khi thụ lý vụ án, bên cạnh việc xác định quan hệ tranh chấp, Tòa án phải
xác định rõ, đầy đủ người tham gia tố tụng và tư cách của đương sự là nguyên đơn, bị
đơn hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong một số vụ án KDTM sợ
thẩm, đặc biệt là vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, một thực tế mắc phải đối với
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đó là bỏ lọt người tham
gia tố tụng, cụ thể là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố
tụng, dẫn đến vi phạm tố tụng, đưa ra quyết định không đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ
của các bên đương sự.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Tuyên Quang, bị đơn là Công ty
TNHH Phát An Hưng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị
Phương; Công ty TNHH Phát An Hưng đã ký các hợp đồng tín dụng với Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Tuyên Quang. Tài sản bảo đảm
cho các khoản vay gồm nhà đất của bà Nguyễn Thị Phương. Trong quá trình giải
quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản
64
thế chấp trên nhưng không xem xét những người đang thực tế sinh sống trên đất và
những người có tên trong số hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên người sử dụng đất: hộ bà Nguyễn Thị Phương để đưa họ vào tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này là vi phạm
tố tụng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của đương sự.
2.2.3.2 Việc xét xử theo thủ tục rút gọn rất hạn chế
BLTTDS 2015 đã có quy định về việc giải quyết hợp tranh chấp Hợp đồng
KDTM tại Tòa án theo thủ tục rút gọn đối với một số vụ án có tình tiết đơn giản, đáp
ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 317 BLTTDS 2015. Đây là quy định tiến
bộ, đơn giản hóa thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án, tiết kiệm
khá nhiều chi phí cho các bên đương sự cũng như cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu bản các các năm gần đây của Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang, có thể thấy quy định này vẫn chưa được áp dụng trong quá trình giải
quyết vụ án tranh chấp hợp đồng KDTM. Việc Tòa án không có sự phân loại vụ án
tranh chấp hợp đồng KDTM để giải quyết theo thủ tục phù hợp đã gây lãng phí rất
nhiều thời gian cho đương sự. Đồng thời, cho thấy quá trình áp dụng pháp luật trong
giải quyết hợp đồng KDTM của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang chưa thực
sự hiệu quả.
2.3.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế áp dụng pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án thành phố Tuyên Quang
Thứ nhất, Pháp luật về TTDS nói chung và pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM hiện nay tương đối đầy đủ, nhưng chưa thực sự hoàn thiện.
Nhiều văn bản pháp luật chưa được đổi mới dẫn đến không theo kịp sự chuyển biến
của kinh tế - xã hội, khiến cho khi phát sinh tranh chấp thì không có quy định để
giải quyết. Đây là khe hở dẫn đến việc nhiều cá nhân, tổ chức tận dụng để thu lợi
mà gây thiệt hại đến các chủ thể khác trong hoạt động KDTM. Đồng thời trong
nhiều quy định pháp luật có sự chồng chéo, không thống nhất dẫn đến khi Tòa án áp
dụng quy định pháp luật trong công tác xét xử thì không biết nên áp dụng luật nào
cho đúng. Hoặc quá trình xét xử và áp dụng pháp luật do quá nhiều quy định chồng
chéo dẫn đến áp dụng như thế nào là tùy vào quan điểm cá nhân của thẩm phán.
65
Dẫn đến có những xung đột trong xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, cũng như có tình
trạng vụ việc có tính chất giống nhau nhưng cách xét xử và giải quyết ở các nơi lại
khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các tranh chấp
trong KDTM.
Thứ hai, năng lực, trình độ, kinh nghiệm và nhận thức của đội ngũ Thẩm
phán còn chưa thống nhất. Việc giải quyết các vụ án đôi khi còn mang nặng cảm
tính, việc đánh giá các khía cạnh của bản án cũng như áp dụng quy định pháp luật
còn chưa khách quan. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ khác trong Tòa án như hội thẩm
nhân dân, thư ký tòa còn chưa được trang bị đầy đủ về hiểu biết pháp lý cũng như
kinh nghiệm, dẫn đến trong công tác xét xử còn lúng túng hoặc còn thiếu sót. Công
tác thông báo cho các đương sự, các cơ quan có liên quan thông qua phương tiện
thông tin còn chưa đúng, dẫn đến nhiều trường hợp đương sự tìm cách trốn tránh
không nhận các giấy tờ của Tòa án và lấy đó làm căn cứ để chống đối quá trình xét
xử cũng như quyết định của Tòa án.
Thứ ba, nhận thức pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận
người dân còn hạn chế nên có phần ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết các vụ án
KDTM nói chung và vụ án tranh chấp hợp đồng KDTM nói riêng.
Thứ tư, tổ chức, biên chế của Tòa án tuy đã được quan tâm và tiếp tục được
kiện toàn song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là trong điều kiện khối
lượng công việc phải thực hiện ngày càng tăng.
66
Tiểu kết chương 2
Hiện nay, hệ thống pháp luật về giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM
nói riêng tương đối đồng bộ và toàn diện, đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với
thực tế, có tính dự báo và có nội dung rõ ràng. Những quy định này đảm bảo các
tranh chấp về dân sự nói chung và tranh chấp hợp đồng KDTM nói riêng được thụ
lý nhanh chóng và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, nhằm mục đích cao nhất là
bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM trong những năm qua trên
địa bàn thành phố Tuyên Quang cho thấy Tòa án nhân dân các cấp đã chú trọng
thực hiện, áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng cũng như các quy định
về pháp luật nội dung để giải quyết một cách khách quan, chính xác, đặc biệt không
có vụ án nào vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử và vi phạm thời hạn tố tụng khác.
Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM đạt được những kết quả đáng ghi nhận,
về cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi, duy trì ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, từ thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo thủ tục sơ
thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang cho thấy tồn tại một số bất cập,
hạn chế như: việc xác định những tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án; thời hạn chuẩn bị xét xử; việc thu thập và cung cấp chứng cứ; về tranh
chấp trong nội bộ công ty; việc xác định thiếu người tham gia tố tụng.
Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên là do hệ thống pháp luật vẫn có
sự chồng chéo và thiếu thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong khi nhận thức
pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của người dân còn hạn chế; năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ, công chức Ngành Tòa án nhân dân
chưa được nâng cao; tổ chức, biên chế của Tòa án tuy đã được quan tâm và tiếp tục
được kiện toàn song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
67
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại tại Tòa án
Khẳng định mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động KDTM càng ngày
càng trở nên phức tạp hơn. Sự phát triển của kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập không
chỉ đem lại cơ hội mà còn cả thách thức cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt
động thương mại. Việc vi phạm dẫn đến tranh chấp trong hợp đồng KDTM ngày càng
phổ biến. Việc áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM trên thực
tế còn gặp nhiều khó khăn. Quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia
vào hoạt động KDTM còn chưa được đảm bảo, việc tranh chấp kéo dài dẫn đến lãng
phí, thiệt hại cho các bên và cho Nhà nước. Xuất phát từ những vấn đề trên, đối với
công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, trong đó có giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại Tòa án cần tập trung vào một số điểm sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng KDTM nhằm hỗ trợ các tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động KDTM trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng
KDTM.
Hợp đồng KDTM là một chế định pháp luật quan trọng thể hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên liên quan trong việc thỏa thuận, thực hiện và chấm dứt thực
hiện hoạt động KDTM. Hoàn thiện pháp luật về KDTM, bên cạnh việc cụ thể hóa
quan điểm của Đảng và Nhà nước trong quản lý kinh tế, còn phải căn cứ vào những
văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký với tổ chức quốc tế, cụ thể là việc điều
chỉnh hành lang pháp lý cho phù hợp để thúc đẩy hoạt động hợp tác và đầu tư quốc
tế ở Việt Nam. Cần phải đảm bảo và phát huy nguyên tắc công bằng, bình đẳng đối
với tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động KDTM. Tôn trọng quyền tự định đoạt
của các bên, đặc biệt trong hoạt động tố tụng cần phải tiến hành một cách khách
quan, công bằng, thiện chí đối với các bên.
68
Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá một cách thường xuyên, bài bản các quy định
pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM để kịp thời sửa đổi, bổ sung. Về
bản chất, hợp đồng KDTM là một giao dịch dân sự, nên giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM chính là giải quyết tranh chấp giao dịch trong dân sự. Tuy nhiên, đặc
thù của hợp đồng KDTM là yếu tố thương mại, do đó, tranh chấp KDTM cũng có
những đặc trưng riêng cần có biện pháp giải quyết phù hợp. Theo tác giả, cần thúc
đẩy hoạt động nghiên cứu pháp lý và xem xét để áp dụng linh hoạt nhiều phương
thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, thường xuyên bổ sung và hoàn thiện
hành lang pháp lý về hoạt động KDTM trong tương lai.
Cần nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về tố tụng
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo hướng đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của cả hai bên, tránh trường hợp có những điều khoản còn có khe hở tạo
điều kiện cho một bên lợi dụng làm thiệt hại cho bên khác. Tăng thêm thẩm quyền
cho Viện kiểm sát trong hoạt động xét xử, tránh trường hợp xét xử theo cảm tính
hoặc theo quan điểm cá nhân của thẩm phán gây ra những trường hợp sai sót làm
bức xúc cho các bên tham gia tranh chấp. Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng KDTM cũng góp phần vào việc củng cố và phát triển hệ thống
cơ quan xét xử, nâng cao năng lực, kinh nghiệm và trách nhiệm của đội ngũ thẩm
phán và các cán bộ khác. Góp phần hoàn thiện Ngành Tư pháp Việt Nam hướng đến
mục tiêu cải cách Tư pháp trong giai đoạn tiếp theo.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh
doanh thương mại tại Tòa án
3.2.1. Bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử theo vụ việc của Tòa án.
Khoản 5 Điều 30 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử
đổi với các tranh chấp khác về KDTM. Theo tác giả, quy định này có thể áp dụng
trong những trường hợp tranh chấp có một bên không có đăng ký kinh doanh và
không vì mục đích lợi nhuận nhưng lại chọn Luật Thương mại năm 2019 là luật áp
dụng. Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động thương mại càng phát
triển đa dạng về nội dung và hình thức, nên không thể không kể đến việc phát sinh
những tranh chấp thuộc trường hợp kể trên.
69
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một văn bản nào đưa ra kiến giải cụ thể đối với
quy định tại khoản 5 Điều 30 BLTTDS, dẫn đến khi áp dụng trong thực tế nhiều vụ
việc thì thẩm phán sẽ nhìn nhận tranh chấp dưới góc độ dân sự chứ không phải dưới
góc độ thương mại, điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự là người không có đăng ký kinh doanh và không vì mục đích lợi nhuận. Hoặc
trường hợp khi thương nhân người Việt Nam có hợp đồng với đối tác nước ngoài là
tổ chức không vì mục đích lợi nhuận thì nếu xảy ra tranh chấp do đối tác nước ngoài
cố tình vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì dễ nhầm lẫn sang tranh chấp dân sự, từ đó,
ảnh hưởng đến quyền lợi của thương nhân người Việt Nam. Theo tác giả, nên bổ
sung quy định hướng dẫn cụ thể các trường hợp khác là những trường hợp nào, phù
hợp với tình hình và xu thế phát triển của nền kinh tế. Đây là một yêu cầu hợp lý và
thiết thực giúp tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động xét xử trong tương lai.
3.2.2. Sửa đổi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại
Theo quy định của BLTTDS 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM
là hai tháng kể từ ngày thụ lý. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại
khách quan thì có thể được gia hạn thêm một tháng. Như tác giả đã phân tích ở trên,
thời hạn chuẩn bị giải quyết vụ án tranh chấp KDTM như vậy là quá ngắn. Do đó,
cần sửa đổi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với loại tranh chấp này lên bốn
tháng (tương tự như đối với các vụ án dân sự).
3.2.3. Hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung quy định về thu thập, cung cấp tài liệu,
chứng cứ
Theo quan điểm của tác giả, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ nội
dung “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh” (Điều 91
BLTTDS 2015) cũng như nội dung “những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người
đều biết” (Điều 92 BLTTDS 2015). Đồng thời, cũng cần phải nghiên cứu, ban hành
quy định về chế tài trong trường hợp “phải” thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu
chứng cứ nhưng đương sự cố tình không thực hiện để nâng cao trách nhiệm của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ. Mở rộng thêm, tác giả đề xuất
70
việc ban hành Luật cung cấp thông tin để làm rõ quyền, nghĩa vụ của những người
liên quan trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ.
3.2.4. Bổ sung quy định về thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại.
Như đã trình bày ở trên, trong nhiều Luật chuyên ngành như Luật Hàng hải,
Luật Bảo hiểm xã hội quy định về thời hiệu có sự khác biệt với quy định tại Luật
Thương mại. Đồng thời xét trên thực tế xét xử, thì trong nhiều vụ án, quy định thời
hiệu cần có sự linh hoạt hơn vì hoạt động KDTM hiện nay là khá đa dạng, với nhiều
hình thức và nhiều mặt hàng kinh doanh khác nhau có tính chất và đặc thù riêng. Vì
vậy, quy định thời hiệu cần bổ sung trong những trường hợp cụ thể nào thì có thể
điều chỉnh một cách linh hoạt. Tránh xảy ra trường hợp bên bị đơn lợi dụng quy
định về thời hiệu khiến cho bên nguyên đơn không thể khởi kiện, gây thiệt hại cho
bên nguyên đơn.
3.2.5. Bổ sung hướng dẫn về trường hợp bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình
Như đã trình bày, việc không có quy định cụ thể về khái niệm bí mật nghề
nghiệp, bí mật cá nhân, bí mật gia đình khiến việc áp dụng trên thực tiễn gặp rất
nhiều khó khăn. Tác giả đề tài kiến nghị cần bổ sung những khái niệm trên một
cách cụ thể vào trong hoạt động TTDS. Dưới góc độ so sánh với pháp luật nước
ngoài, nhiều quốc gia trên thế giới rất chú trọng đảm bảo quyền riêng tư và bí mật
cá nhân, bí mật nghề nghiệp, bí mật gia đình của công dân. Trong xu thế cải cách
Tư pháp và dân chủ hóa, tôn trọng quyền con người của pháp luật Việt Nam thì việc
bổ sung này là hoàn toàn hợp lý và cần thiết.
3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết hợp đồng kinh doanh thương mại
tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.
3.3.1. Nội dung trình bày tại thông báo thụ lý cần được chú trọng
Đối với giai đoạn thụ lý vụ án, theo thực tế thì việc gửi thông báo thụ lý đến các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp chỉ mang tính hình thức. Tuy nhiên, theo quy định
của pháp luật thì việc thông báo thụ lý vụ án là khi Tòa án chính thức xác nhận thẩm
quyền thụ lý vụ án, trên cơ sở đó thông báo cho bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
71
liên quan biết về việc tranh chấp, đồng thời phải có nghĩa vụ chứng minh, cung cấp tài
liệu, chứng cứ hoặc có quan điểm phản hồi đến cơ quan Tòa án và nguyên đơn.
Pháp luật quy định tại Điều 196 BLTTDS 2015 và theo thực tế thì thông báo
thụ lý tại các Tòa án rất đơn giản và ngắn gọn chỉ thể hiện được yêu cầu của nguyên
đơn và các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp. Chính vì vậy, trong một số
trường hợp bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và kể cả Viện kiểm sát
cũng không thể nắm rõ được nội dung mà nguyên đơn đưa ra trong vụ án tranh
chấp. Như vậy, khi gửi thông báo thụ lý đến các đương sự không mang lại kết quả
cao. Bởi khi bị đơn và Viện kiểm sát tiếp nhận được thông báo thụ lý thì chỉ có thể
biết được nguyên đơn đang khởi kiện vụ án tranh chấp gì và hoàn toàn thụ động
trước việc tòa án thụ lý vụ án, chỉ chờ tòa án tiếp tục giải quyết.
Ở giai đoạn này, pháp luật cần quy định chi tiết hơn đối với một số trường
hợp bắt buộc khi gửi thông báo thụ lý đến, yêu cầu bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan (bao gồm các tổ chức, cá nhân, cơ quan,…liên quan đến vụ án). Khi
gửi thông báo thụ lý đến các đương sự, tòa án có thể ghi chi tiết nội dung của
nguyên đơn yêu cầu tại đơn khởi kiện, có thể kèm theo các tài liệu, chứng cứ mà
nguyên đơn cung cấp có thể bằng bản photo để bị đơn cũng như Viện kiểm sát có
thể nắm bắt, có căn cứ để trình bày ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện theo
quy định của pháp luật được ghi tại thông báo thụ lý. Hiện nay, nên quy định theo
hướng mở đối với thông báo thụ lý vụ án nhằm rút ngắn thời gian giải quyết vụ án,
việc này không chỉ để bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Viện kiểm sát
nắm rõ nội dung càng tạo điều kiện cho các đương sự bác bỏ, tranh luận, đấu tranh
và thậm chí có thể căn cứ các tài liệu, chứng cứ mà các bên cung cấp thì Tòa án có
thể theo đó đưa ra phán quyết trước khi hòa giải hoặc đưa vụ án ra xét xử. Hoàn
thiện pháp luật theo như trình bày trên không chỉ rút ngắn được thời gian khởi kiện
mà lại ít tốn kém về tiền bạc, công sức và đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, đồng
thời mang tính chất công khai, công bằng cho các đương sự.
3.3.2. Nâng cao chất lượng hòa giải tại Tòa án nhân dân cấp huyện
Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự
định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan
72
hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một
biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc
hòa giải trong tố tụng được quy định tại Điều 10 BLTTDS, theo đó: “Toà án có
trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận
với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Hòa giải tại Tòa án nhân dân cấp huyện có ý nghĩa hết sức quan trọng, được
thực hiện nhằm mục đích gắn kết lại với nhau, giữ gìn tình đoàn kết trong việc phát
triển kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết trong KDTM. Đồng thời, nếu hòa giải tốt
thì sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả Nhà nước lẫn công dân ngay tại thời điểm
ban đầu. Ngoài ra, việc hòa giải quan trong vì đây là giai đoạn được thực hiện ở các
giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại
phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải.
Việc hòa giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán nhưng
không đầu tư, hướng dẫn, đào tạo có bài bản, đặc biệt tại các Tòa án cấp huyện.
Trên thực tế, mục đích các đương sự muốn hướng đến đó là lợi nhuận (dù ít hay
nhiều) đó là điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân nhượng hợp tác trong kinh
doanh của các bên đương sự, tuy nhiên các Thẩm phán lại luôn đề cao việc làm rõ
việc đúng sai trong tranh chấp.
Như vậy, cần đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ hòa giải tại các Tòa án
cấp huyện, đây là nền tảng để các vụ án tranh chấp được giải quyết triệt để, nhanh
chóng mà không bị kháng cáo, kháng nghị. Bởi vì việc hòa giải không thành, các
chủ thể tham gia kinh tế sẽ mất sự đoàn kết, gắn bó, càng căng thẳng hơn lúc ban
đầu, từ đó muốn các bên cùng nhau thương lại, thỏa thuận ở các giai đoạn tố tụng
tiếp theo sẽ không hiệu quả và không dễ dàng so với ban đầu.
3.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của những cán bộ tiến hành tố tụng tại địa
phương
Các Thẩm phán cần được tham dự các buổi tập huấn chuyên sâu cho từng
lĩnh vực cụ thể do Tòa án các cấp tổ chức nhằm bồi dưỡng kiến thức về pháp luật,
vẫn dụng pháp luật sao cho phù hợp với thực tế. Cần chú trọng học hỏi kiến thức về
về lĩnh vực KDTM trong nước cũng như quốc tế, kiến thức về tin học, ngoại ngữ.
73
Hiện nay, trình độ chuyên môn của các Thẩm phán đều phản ánh khá chân
thực qua thực tiễn xét xử, thấy rõ được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều
yếu kém, nhất là đối với lĩnh vực giải quyết tranh chấp Hợp đồng thương mại trong
đó liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm, tín dụng, vận tải,…Điều này cho thấy trước đây
nền kinh tế nước ta chưa phát triển, chưa hội nhập nên không chú trọng đến lĩnh vực
này vì vậy công tác tập huấn còn nhiều khuyết điểm. Do đó, các Thẩm phán cần
được tổ chức các buổi tập huấn một cách chuyên sâu hơn, mở rộng hơn đối với từng
lĩnh vực cụ thể, mới mang lại kết quả cao trong công tác giải quyết các vụ án phức
tạp, đa dạng như hiện nay.
Mặt khác, không chỉ tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng mà còn bồi
dưỡng lý luận chính trị cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Hội
thẩm nhân dân, nhất là tập trung đào tạo cán bộ chủ chốt, lãnh đạo quản lý trong
diện đã quy hoạch, bảo đảm được đội ngũ nòng cốt sau này. Đồng thời, khuyến
khích cán bộ công chức học ngoại ngữ, tin học để nâng cao năng lực, trình độ về
mọi mặt, đặc biệt đối với những cán bộ trẻ có khả năng tiếp thu nhanh, giao tiếp tốt
nhằm đảm bảo khả năng giải quyết vụ việc trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh
tế như hiện nay.
3.3.4. Nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Trước tiên, Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng trong bộ máy
Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Trong giai đoạn xét xử,
Thẩm phán giữ vị trí quan trọng – là trung tâm trong hoạt động tố tụng. Đồng thời,
Thẩm phán luôn là người có trình độ, được đào tạo về pháp luật cũng như cách thức
giải quyết các vụ án chuyên sâu hơn. Chính vì vậy, các Thẩm phán cần tự rèn luyện
bản thân, tạo tính chuyên nghiệp trong công việc, cần có đạo đức tốt,…để chất
lượng xét xử trong các vụ án có kết quả cao và đảm bảo tính công bằng đối với
công dân.
Đối với Hội thẩm nhân dân thì trên thực tế tại Tòa án nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, hầu hết các hội thẩm là cán bộ chủ chốt hoặc đại
diện các phòng Ban, ngành đoàn thể tại huyện, tuy nhiên không phải hội thẩm nào
cũng có trình độ cử nhân chuyên ngành luật nhưng hội thẩm vẫn chiếm số lượng
74
nhiều hơn Thẩm phán khi tham gia tại phiên Tòa xét xử. Do đó, Tòa án nhân dân
cấp huyện cần xem xét, lựa chọn các Hội thẩm có trình độ cũng như chuyên môn,
kinh nghiệm nhằm đảm bảo chất lượng khi tham gia giải quyết các vụ án tranh chấp
hợp đồng KDTM này, vì đây là các vụ án tương đối khó, không chỉ áp dụng kiến
thức trên thực tế mà còn áp dụng kiến thức pháp luật, khả năng nghiên cứu các tài
liệu, chứng cứ nhằm đưa ra phán quyết chính xác nhất. Bên cạnh đó, cần nâng cao
mức thù lao cho các Hội thẩm nhân dân để động viên, khuyến khích tinh thần làm
việc của họ tốt hơn.
3.3.5. Nâng cao công tác tuyên truyền, công tác giáo dục pháp luật tại địa phương
Tòa án nhân dân cấp huyện cần phối hợp với các xã (phường) tại địa phương
kiện toàn đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên pháp luật. Cần nâng cao cán bộ
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật cả về chất lượng lẫn số lượng. Tổ chức
các buổi tập huấn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật, kỹ năng truyền đạt,
tuyên truyền phải theo từng nhóm đối tượng sao cho phù hợp với thực tế cuộc sống.
Ngoài ra, việc tuyên truyền cần được nhân rộng không chỉ trực tiếp mà còn qua đài
truyền hình, đài truyền thanh, bảng biểu,…nhưng việc này cần có sự phối hợp giữa
các ban ngành thì mới mang lại hiệu quả. Ngoài ra, cán bộ ngành Tòa án sắp xếp
thời gian phù hợp trực tiếp tuyên truyền đến người dân qua các buổi tập huấn do xã
(phường) tổ chức.
Tích cực, chủ động tuyên truyền tại địa phương nơi có nền kinh tế đang phát
triển, nơi có khả năng phát sinh các tranh chấp khi tham gia trong hoạt động
KDTM. Ở các thôn cũng nên nhóm thành từng nhóm đối tượng để tuyên truyền cho
phù hợp. Ví dụ, với nội dung liên quan đến KDTM thì cần sắp xếp những đối tượng
liên quan trong một buổi tuyên truyền để tiếp thu nội dung văn bản pháp luật hiệu
quả hơn.
Vấn đề tuyên truyền tại địa phương luôn đóng vai trò rất quan trọng, góp
phần rất lớn trong việc giải quyết các vụ án nhanh chóng. Một khi công dân nói
chung cũng như các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế đã hiểu và nắm rõ pháp luật
thì khi có tranh chấp họ sẽ dễ dàng lựa chọn đúng phương thức, thẩm quyền và trình
tự thủ tục tố tụng nếu lựa chọn con đường Tòa án.
Việc thiếu hiểu biết về pháp luật trong khi giao kết Hợp đồng trong hoạt
động KDTM là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tranh chấp. Tuy việc
75
gia tăng sản xuất trong kinh doanh không liên quan đến việc hiểu biết về pháp luật
nhưng trong hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng sẽ giao kết các
hợp đồng nhằm trao đổi dịch vụ, hàng hóa, đáp ưng nhu cầu của doanh nghiệp trong
hoạt động sản xuất. Chính vì vậy, khi am hiểu pháp luật sẽ tăng khả năng nhận thức
và khả năng vận dụng pháp luật, tạo hành lang pháp lý an toàn cho doanh nghiệp, tổ
chức ngày càng phát triển bền vững hơn.
3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm sát đối với hoạt động tố tụng
của Toà án
Song song với việc đào tạo, để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ công
chức Tòa án, nhất là đội ngũ Thẩm phán thì việc tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, kiểm sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động
xét xử của Tòa án là việc làm cần thiết. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đảm bảo
quá trình tố tụng tư pháp được tiến hành đúng quy định của pháp luật, giảm tối đa
lượng án xử oan, sai. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Cũng chính vì thế mà bản
thân các Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên môn để làm sao tuyên bản án được
chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật, được xã hội thừa nhận.
3.3.7. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan trong
việc giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
Hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn thành phố Tuyên Quang có ảnh
hưởng lớn đến tình hình an ninh, chính trị của địa phương. Sự phối hợp giữa Tòa án
với chính quyền cơ sở và các cơ quan hữu quan là rất quan trọng, giúp cho kết quả
giải quyết vụ việc được dứt điểm, nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó, phải đẩy
mạnh các hoạt động Bổ trợ tư pháp như: luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch...
góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém
hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả thu thập, đánh giá chứng cứ và khi xét
xử có thể sẽ đưa ra phán quyết không đúng pháp luật.
3.3.8. Thực hiện công khai hóa bản án của Tòa án
Cần từng bước công bố tất cả những bản án đã được Tòa án xét xử một cách
rộng rãi. Mục đích của việc công bố phán quyết của Tòa án nhằm làm cho công
chúng thấy rõ quan điểm của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật để xét xử và giám
sát chất lượng của Thẩm phán khi tuyên bản án đó. Công khai bản án là một trong
76
những yêu cầu của nền tư pháp minh bạch.
Thứ nhất, việc công khai bản án sẽ củng cố việc áp dụng thống nhất pháp
luật. Trong thực tế, rất nhiều vấn đề pháp lý chưa được rõ ràng nhưng Tòa án vẫn
phải giải quyết. Do vậy, thường có nhiều quan điểm khác nhau và các Thẩm phán
có thể đưa ra những phán quyết không thống nhất. Ví dụ như việc tính lãi đối với
khoản tiền do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Quan điểm thứ nhất cho rằng
khoản lãi này được tính bằng cách lấy lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương
tương ứng với thời gian chậm thanh toán nhân với số tiền chậm thanh toán. Quan
điểm thứ hai cho rằng lãi chậm thanh toán được tính bởi lãi suất do ngân hàng trung
ương công bố tại thời điểm xét xử nhân với khoản tiền chậm thanh toán. Hai quan
điểm trên đều được chấp nhận.
Thứ hai, việc công khai bản án tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lập pháp.
Thực tế cho thấy: khi xây dựng một quy phạm pháp luật, các nhà làm luật thường
xuất phát từ một hoàn cảnh pháp lý cụ thể. Trong khi đó, một bản án cho biết một
hoàn cảnh pháp lý cụ thể và giải pháp tương ứng của Tòa án. Do vậy, việc công bố
bản án cho phép các nhà lập pháp biết thực trạng pháp luật của đất nước và đánh giá
tính hợp lý của quy phạm ghi nhận trong bản án được công bố đối với một hoàn
cảnh pháp lý cụ thể.
Thứ ba, việc công khai bản án yêu cầu đội ngũ Thẩm phán phải nâng cao
năng lực, trình độ, chuyên môn, tạo cho công tác xét xử minh bạch hơn, sẽ làm
giảm hiện tượng Thẩm phán tùy tiện trong hoạt động tố tụng.
Thứ tư, việc công bố bản án rộng rãi giúp cho người dân, doanh nhân dễ
dàng tiếp cận hơn với công lý. Tất cả mọi người dân đều có quyền tra cứu, nghiên
cứu các bản án nhằm làm tăng nhận thức của người dân, doanh nghiệp đối với pháp
luật và gần gũi hơn với Tòa án. Đồng thời, họ cũng tìm ra cho mình cách hành xử
khôn ngoan để không xảy ra tranh chấp trong những tình huống tương tự. Điều này
không những làm giảm chi phí của họ khi giao dịch mà còn có thể làm giảm sức ép
khối lượng công việc giải quyết tranh chấp đối với Tòa án.
77
Tiểu kết chương 3
Vấn đề nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM theo tố tụng tư pháp nói riêng đã, đang và sẽ luôn là vấn đề
rất được quan tâm, nhất là khi nền kinh tế nước ta đang phát triển ngày càng mạnh,
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong hoàn cảnh đó, các tranh chấp
hợp đồng KDTM cũng không ngừng tăng cả về số lượng vụ việc cũng như mức độ
phức tạp. Do vậy, thực tế đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng giải quyết
loại tranh chấp này bằng tố tụng tư pháp.
Từ thực tiễn những bất cập, hạn chế phát sinh trong quá trình giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM, tại Chương 3 của luận văn, tác giả tập trung đi sâu phân tích
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại
Tòa án. Đó là việc thống nhất nội hàm của khái niệm KDTM trong toàn bộ các văn
bản pháp luật của hệ thống pháp luật hiện hành; sửa đổi cách lập pháp về thẩm
quyền của Tòa án theo hướng loại trừ; sửa đổi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử
vụ án giải quyết tranh chấp KDTM; quy định về chứng minh, chứng cứ và việc áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Hệ thống pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM theo tố tụng tư pháp. Pháp luật thương mại ngày càng được hoàn
thiện sẽ tạo điều kiện cho Toà án có cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng để giải quyết các tranh
chấp hợp đồng KDTM trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Để công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo tố tụng tư pháp đạt
hiệu quả cao, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của mọi công dân, tác giả đã nêu
ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng KDTM tại Tòa án. Theo đó, công chức Tòa án nhân dân thành phố nói
riêng và ngành Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán,
phải thường xuyên học tập nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng
như phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Đây là một trong những giải pháp cấp thiết
được đặt lên hàng đầu nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc giải quyết các
tranh chấp KDTM, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, kinh tế của đất
nước.
78
KẾT LUẬN
Các hoạt động kinh tế luôn có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự
tồn tại cũng như phát triển của xã hội. Trong hoạt động kinh doanh thường khó
tránh khỏi các tranh chấp do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tranh chấp hợp đồng
KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các chủ thể tham gia quá trình của hoạt động KDTM. Ở nước ta, một trong các
phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM được đương sự ưu tiên lựa
chọn là tố tụng tư pháp tại Tòa án.
Trong phạm vi đề tài của luận văn “Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh
doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang”,
tác giả đã phân tích rõ ràng, cụ thể những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về việc
giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM. Qua đó, có thể thấy được cái nhìn khái quát
về thực trạng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM ở nước ta
hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích một số bất cập, hạn chế của hệ thống
pháp luật trong việc giải quyết các loại tranh chấp này, nhận xét nguyên nhân của
những bất cập đó để có định hướng, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.
Luận văn cũng đưa ra những giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
các tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. Đây
là yêu cầu cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là
mục tiêu trong chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta.
Việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp này có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo công bằng cho các thành phần kinh tế được tự do cạnh tranh
trên cơ sở luật pháp, tạo niềm tin cho các thương nhân nước ngoài đầu tư kinh
doanh vào Việt Nam. Điều đó góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế của địa
phương nói riêng cũng như của đất nước nói chung, góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thông qua luận văn, tác giả hi vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ trong
79
công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp KDTM bằng thủ
tục tư pháp tại Tòa án, đảm bảo cho hoạt động này có vai trò tích cực hơn nữa trong
xã hội hiện đại, đồng thời là giải pháp tốt cho các doanh nghiệp khi có tranh chấp
xảy ra./.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản pháp luật, Nghị quyết:
1. Bộ luật Dân sự 2015
2. Bộ luật Tố dụng dân sự 2015.
3. Luật Thương mại 2005.
4. Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
5. Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
6. Kết Luận 92-KL/TƯ của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.
7. Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”.
B. Sách chuyên khảo:
8. LS Trương Nhật Quang (2018), Pháp luật về Hợp đồng - Các vấn đề pháp lý cơ
bản, NXB Dân trí.
9. Nguyễn Thị Hồng Nhung (chủ biên, 2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
10. PSG.TS Nguyễn Viết Tý, TS Nguyễn Thị Dung (chủ biên, 2018), “Giáo trình
Luật Thương mại Việt Nam Tập 1”, NXB Tư pháp.
11. TS Nguyễn Thị Dung (chủ biên, 2018) Pháp luật về Hợp đồng trong Thương
mại và Đầu tư - Những vấn đề pháp lý cơ bản, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
C. Tạp chí:
81
12. Bùi Thành Trung (2014), “Xác định thẩm quyền giữa toà án và trọng tài trong
quá trình thụ lí vụ án dân sự giải quyết tranh chấp về KDTM tại Toà án và một số
kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, (12).
13. Nguyễn Như Phát (2001), “Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (11).
14. Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11).
15. Vũ Gia Trưởng (2016), Những vướng mắc khi giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng trong kinh doanh thương mại tại tòa án, Nghề Luật.Học viện Tư pháp, Số
2/2016, tr. 34 - 38.
16. Vũ Thị Lan Anh (2016), “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch”, Tạp chí Nghề Luật, (03), tr. 11 - 16.
D. Luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ:
17. Cung Mỹ Anh (2008), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy
định của BLTTDS - Những vướng mắc và giải pháp khắc phục, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
18. Đào Văn Hội (2003), Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội.
19. Lê Thanh Khánh (2018), Thẩm quyền của tòa án trong quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.
20. Lê Thị Oanh (2017), Thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp KDTM và thực tiễn
thực hiện tại Tòa án, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
82
21. Phạm Thị Ban (2012), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
22. Trần Thị Mơ (2016), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo pháp
luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Trần Văn Hùng (2016), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo pháp
luật tố tụng dân sự từ thực tiễn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội.
E. Bản án, Quyết định của Tòa án
24. Bản án số: 09/2018/TLST-KDTM ngày 05 tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh
chấp hợp đồng sản xuất và thi công công việc”.
25. Bản án số: 21/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” .
26. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 01/2014/KDTM-ST
ngày 03 tháng 11 năm 2014 về “V/v tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.
27. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 14/2015/KDTM-ST
ngày 24 tháng 8 năm 2015 về “V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang.
F. Báo cáo của Tòa án
28. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2015), Báo cáo tổng kết công tác Tòa
án năm 2015 và nhiệm vụ công tác năm 2016.
29. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2016), Báo cáo tổng kết công tác Tòa
án năm 2016 và nhiệm vụ công tác năm 2017.
30. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2017), Báo cáo tổng kết công tác Tòa
án năm 2017 và nhiệm vụ công tác năm 2018.
83
31. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2018), Báo cáo sơ kết công tác Tòa
án năm 2018 và nhiệm vụ công tác năm 2019.
32. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2019), Báo cáo tổng kết công tác Tòa
án năm 2019 và nhiệm vụ công tác năm 2020.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành
BLTTDS, Hà Nội.