VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÚY HẰNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI

TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN

DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÚY HẰNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI

TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN

DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi, vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi

cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi

phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

HỌC VIÊN

Trần Thúy Hằng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP

ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁNError! Bookmark not defined.

1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương

mại ...................................................................................................................... 7

1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án. ........ 17

1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại

tại Tòa án .......................................................................................................... 22

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA

ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG .............................................. 27

2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại tại Tòa án ....................................................................................... 27

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang ........................ 50

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ

TUYÊN QUANG ..................................................................................................... 68

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng

kinh doanh thương mại tại Tòa án .................................................................... 68

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng

kinh doanh thương mại tại Tòa án .................................................................... 69

3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết hợp đồng kinh doanh thương

mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. ........................................... 71

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự BLDS

Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS

Biện pháp khẩn cấp tạm thời BPKCTT

Comprehenshive and Progresive Agreement for Trans- CPTTP

Pacific

Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương

EVFTA Vietnam-European Free Trade Agreement

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Châu Âu

HĐKDTM Hợp đồng Kinh doanh thương mại

Kinh doanh thương mại KDTM

Tòa án nhân dân TAND

TCKDTM Tranh chấp KDTM

TTDS Tố tụng dân sự

TTTM Trọng tài thương mại

XHCN Xã hội chủ nghĩa

WTO World Trade Organisation

Tổ chức Thương mại Thế giới

DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Bảng

Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang giai đoạn năm 2015 - năm

2019 ........................................................................................................................... 52

Sơ đồ

Sơ đồ 2.1: Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại ................................................................................................................................... 48

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam đang được đổi mới và ngày càng

phát triển, đặc biệt khi nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO),

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)... các quan hệ kinh doanh thương

mại (KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo, sắc thái

mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp

KDTM cũng phát sinh ngày càng muôn màu, muôn vẻ và với số lượng lớn là điều

không tránh khỏi. Khi có những bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng

KDTM thì việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi

cho doanh nghiệp, thương nhân như giảm được chi phí giải quyết thấp nhất, thời

gian giải quyết nhanh nhất, vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các

doanh nghiệp, thương nhân đặc biệt quan tâm và cân nhắc thận trọng. Trong kinh

doanh, giữa các doanh nghiệp, thương nhân luôn phải có sự liên kết với nhau để

cùng nhau mang lại lợi nhuận, thông thường doanh nghiệp, thương nhân ký kết với

nhau hợp đồng nhằm xác định quyền và nghĩa vụ trong KDTM. Theo quy định pháp

luật thì các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã giao kết trong hợp

đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ của mình.

Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hoạt động

KDTM là khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

khi tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền

kinh tế, các tranh chấp đó cần phải được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên

tắc khi tranh chấp trong KDTM xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa

thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách

giải quyết. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau và có yêu

cầu thì tranh chấp KDTM được giải quyết tại Trọng tài, theo tố tụng trọng tài hoặc

tại Tòa án nhân dân, theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự

(BLTTDS). Đối với Việt Nam các đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết

tranh chấp KDTM bằng Toà án sau khi thương lượng, hoà giải không thành. Tuy

1

nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Toà án vẫn còn nhiều vấn đề đáng

quan tâm đó là: Các quy định pháp luật còn có những nhược điểm, bất cập, dẫn đến

việc áp dụng không đạt được tính thuyết phục; hướng dẫn của ngành Tòa án cũng

như quan điểm giải quyết không thống nhất giữa các cấp Tòa án làm cho hoạt động

xét xử của Toà án gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài

ngiên cứu với chủ đề: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh

thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang,

tỉnh Tuyên Quang”. Thông qua Luận văn này bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về vấn đề

nêu trên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Các vấn đề liên quan đến tranh chấp KDTM và giải quyết tranh chấp KDTM

bằng thủ tục tư pháp không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý ở Việt Nam.

Cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên quan

đến giải quyết tranh chấp KDTM trên phạm vi một địa bàn cụ thể và đã có những kết

luận xác đáng, những kiến nghị hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết

tranh chấp KDTM ở nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến các công trình

nghiên cứu tiêu biểu như “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị

trường ở Việt Nam” Luận án Tiến sĩ của Đào Văn Hội năm 2003, Trường Đại học

Luật Hà Nội; “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Tòa án ở Việt

Nam” Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Vinh, năm 2002, Trường Đại học Luật

Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân - Thực

trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động” luận văn thạc sĩ luật học của Đinh

Thị Trang (2013) “Pháp luật về giải quyết kinh doanh thương mại theo thủ tục tố

tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đinh Ngọc

Thương(2016) “Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh thương mại vô hiệu

Theo pháp luật Việt Nam”. Khoa Luật thuộc Đại học Huế. Luận văn Thạc sĩ của

Phạm Thị Ban năm 2012, Trường Đại học Luật Hà Nội; “Thẩm quyền của Tòa án về

tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” của Lê Thị

Oanh năm 2017, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó còn có nhiều bài nghiên

cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục áp

2

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam

hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2014);

“Xác định thẩm quyền giữa toà án và trọng tài trong quá trình thụ lý vụ án dân sự giải

quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại toà án và một số kiến nghị hoàn thiện”

của Bùi Thành Trung, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 12/2014;

“Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở

giao dịch” của Vũ Thị Lan Anh, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 3/2016.

Nhìn chung, các công trình đã chỉ ra sự cần thiết và giới thiệu khái quát về

mô hình tài phán tại Tòa án ở Việt Nam. Các công trình đã đề cập đến thủ tục tố

tụng giải quyết tranh chấp KDTM một cách khá chi tiết, đầy đủ, góp phần quan

trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là pháp luật Tố tụng

dân sự và các luật liên quan đến hoạt động KDTM; xác định thẩm quyền của Tòa án

trong việc giải quyết tranh chấp KDTM. Các công trình nghiên cứu cũng đưa ra

nhiều giải pháp có giá trị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các

tranh chấp KDTM. Đây là những tri thức quan trọng mà tác giả luận văn kế thừa

trong quá trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận,

thực trạng pháp luật và thực tiễn về giải quyết tranh chấp KDTM đang tiếp tục được

đặt ra và có nhu cầu cần được giải quyết. Cho tới thời điểm hiện tại chưa có một

công trình nào nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM từ thực tiễn

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực

kinh doanh thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang” làm luận văn thạc sĩ Luật. Với đề tài này tác giả sẽ

đi sâu nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM của Tòa án nhân

dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang để kiến nghị các giải pháp nâng cao

hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp trong KDTM.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ

bản về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm,

3

đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật tại toà án nhân dân

thành phố Tuyên Quang, chỉ ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của nó, từ

đó luận văn đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao

hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân

dân cấp sơ thẩm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích để làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM

tại toà án nhân dân như khái niệm tranh chấp hợp đồng KDTM, khái niệm đặc điểm

của giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải

quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm.

- Làm sáng tỏ nội dung pháp luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm.

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng

KDTM tại toà án nhân dân, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM tại toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, chỉ ra những thành tựu,

hạn chế và nguyên nhân của nó.

- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM tại toà án nhân dân và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải

quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm nói chung và toà

án nhân dân thành phố Tuyên Quang nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài có đối tượng nghiên cứu là:

+ Các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.

+ Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp

KDTM nói chung và giải quyết tranh chấp về hợp đồng KDTM nói riêng.

+ Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân

dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

4

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành có so sánh đối chiếu

với các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực liên quan tới hoạt động giải quyết tranh

chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp huyện.

Nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang qua các năm từ năm

2015 đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách

của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp

luật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như trong quá trình giải quyết các

tranh chấp KDTM. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các

quan điểm chỉ đạo nêu trên.

Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng kết hợp các

phương pháp:

- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận

về giải quyết tranh chấp KDTM tại Chương 1.

- Phương pháp hệ thống hóa pháp luật giúp tổng hợp một cách đầy đủ, chính

xác các quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại tại Mục

1.3 Chương 1, Mục 2.1 Chương 2.

- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu trong

thực tiễn tình hình giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang làm cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng tại Mục 2.3, Chương 2.

- Phương pháp nghiên cứu bản án nhằm tóm lược một cách ngắn ngọn, xúc

tích bản án thực tiễn làm cơ sở đưa ra bình luận, đánh giá về hoạt động giải quyết

tranh chấp KDTM tại Mục 2.2 Chương 2.

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề đã

nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận tại Chương 3.

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về

giải quyết tranh chấp KDTM, việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng tố tụng tư

pháp. Chỉ ra những bất cập của hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM

bằng thủ tục tư pháp, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về

giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở

thành nguồn tư liệu tham khảo bổ ích cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật

trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố

tụng, đặc biệt là Tòa án các cấp vận dụng trong quá trình giải quyết các vụ án tranh

chấp hợp đồng KDTM, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả công tác

giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án các cấp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có

cơ cấu gồm 3 Chương:

Chương 1: Lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực

kinh doanh thương mại tại Tòa án.

+ Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải

quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử

sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.

+ Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nhằm

nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh

thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.

6

Chương 1

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI

TÒA ÁN

1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng kinh doanh thương mại

1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại

Khi nói tới hợp đồng, tức là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục

đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của các bên. Quan hệ KDTM được xác

lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng.

Trong đời sống xã hội, nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán gọi chung là giao

dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan và để điều chỉnh cũng như đảm bảo

tính hiệu lực của các giao dịch đó, pháp luật về hợp đồng ra đời và ngày càng chứng

tỏ được vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Có thể nói pháp luật về hợp đồng là một

trong những chế định lâu đời nhất liên quan đến hoạt động KDTM, dân sự. Để hiểu

như thế nào là hợp đồng KDTM thì cần tìm hiểu rõ các khái niệm về Hợp đồng là gì?

KDTM là gì? từ đó ta có thể hiểu rõ hơn về Hợp đồng trong lĩnh vực KDTM.

Khái niệm Hợp đồng

Theo Vũ Văn Mẫu, khế ước được tạo ra bởi sự ưng thuận giữa hai hoặc

nhiều bên kết ước. Hai điều kiện cần để tạo ra hợp đồng là người kết ước và chủ

đích của sự ưng thuận1. Trước tiên, về mặt chủ thể, người kết ước, hay chủ thể giao

kết hợp đồng là các bên tham gia vào một quan hệ hợp đồng, có thể là cá nhân hoặc

pháp nhân. Trong một quan hệ hợp đồng, xuất hiện những cặp chủ thể tương ứng là

người có quyền (trái chủ) và người có nghĩa vụ (thụ trái). Một trái chủ có thể có

nhiều thụ trái và ngược lại, một thụ trái có thể có nhiều trái chủ.

Về mặt ý chí, chủ đích của sự ưng thuận hay mục đích của thỏa thuận có

1 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước; Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 56–57

7

nghĩa là các bên phải thỏa thuận với nhau về một việc xác định nào đó, ý chí của

mỗi bên phải cùng hướng về một mục đích, hay còn gọi là sự thống nhất ý chí,

nhưng không nhất thiết phải thỏa thuận về tất cả những vấn đề xoay quanh hay phát

sinh từ mối quan hệ của họ. Những vấn đề mà các bên chưa thỏa thuận, vì nhiều lý

do mà chủ yếu là do họ không thể lường trước những trường hợp phát sinh bất đồng

gặp phải trong tương lai, sẽ được dự liệu trong các quy định của pháp luật về chế

định hợp đồng. Ý chí của các bên cần đủ rõ ràng (không có nghĩa là không chấp

nhận sự ngầm định) và ăn nhập với nhau.

Và cuối cùng, sự thỏa thuận phải tạo lập một hệ quả pháp lý mới có khả năng

tạo thành hợp đồng. Có các bên kết ước và có sự thỏa thuận giữa các bên về một

việc xác định nào đó chưa đủ để tạo ra một hợp đồng. Hệ quả pháp lý được hiểu là

sự tạo lập, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi (và nghĩa vụ dân sự tương ứng)

hoặc một quan hệ pháp luật. Một thỏa thuận để được coi là hợp đồng, cần là một

trong những nguồn gốc phát sinh của nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ

ý chí của chủ thể) cả về mặt chủ quan và khách quan.

Khái niệm Kinh doanh thương mại

Theo từ điển tiếng Việt, “kinh doanh” được hiểu là tổ chức sản xuất, buôn

bán sao cho sinh lợi2. Như vậy, ở nghĩa phổ thông, kinh doanh không chỉ là buôn

bán mà bao gồm cả sản xuất. Hơn nữa, không phải tất cả các hoạt động sản xuất,

buôn bán đều là kinh doanh mà chỉ có những hoạt động sản xuất, buôn bán có sinh

lợi mới được coi là kinh doanh. Theo quy định của các văn bản pháp luật thì kinh

doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình

đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường

nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, khác với hành vi dân sự thuần thúy (cũng trao

đổi, cung ứng dịch vụ), mục tiêu chính của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận. Đối với

các doanh nghiệp, lợi nhuận được tạo ra khi số tiền thu được trong kinh doanh

(doanh thu) lớn hơn số tiền phải chi phí (chi phí kinh doanh), tiền bán ra trừ tiền chi

phí bằng lợi nhuận. Bất cứ hoạt động nào, cho dù về mặt hình thức giống kinh

2 Viện Ngôn ngữ, Từ điển Tiếng việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.

8

doanh nhưng mục tiêu của hoạt động đó không phải là tạo ra lợi nhuận đều không

phải là kinh doanh.

Còn thương mại được hiểu theo nghĩa thông thường là hoạt động trao đổi hay

giao lưu hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở thuận mua vừa bán. Sự ra đời và phát triển của

thương mại gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Khi có sự phân công lao động lần thứ ba

trong xã hội, thương nghiệp ra đời, xuất hiện tầng lớp chuyên mua bán các sản phẩm để

kiếm lời- các thương nhân, lúc đó thương mại được hình thành.

Như vậy có thể hiểu thương mại là khâu nối liền sản xuất với tiêu dùng thông

qua việc luân chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa người bán và người mua bao gồm

những hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ,…giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể

nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ

khác như trong hình thức thương mại trao đổi hàng hóa. Trong quá trình này, người

bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người

mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.

Khái niệm Hợp đồng kinh doanh thương mại

Mặc dù khái niệm hợp đồng KDTM (trước đây được gọi là hợp đồng kinh tế)

không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiên hành nhưng điều đó không

có nghĩa hợp đồng trong lĩnh vực KDTM không tồn tại. Bởi lẽ, khi còn các hoạt

động trong lĩnh vực KDTM được coi là một hành vi dân sự đặc thù thì vẫn có

những quy định riêng điều chỉnh các hợp đồng với tư cách là hình thức pháp lý của

các hoạt động thương mại (các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng thương

mại hay hợp đồng trong lĩnh vực thương mại).

Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực KDTM có những

điểm giống hợp đồng dân sự về bản chất. Hợp đồng KDTM đều là những giao dịch

có bản chất dân sự, thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận của các

bên; đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung khi tham gia giao kết hợp

đồng; đều có những vấn đề cơ bản như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện

pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu…

Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động KDTM nên hợp đồng

9

KDTM có những vấn đề được quy định có tính chất là sự phát triển tiếp tục những

quy định của dân luật truyền thống như: chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của

các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng…

Như vậy, có thể hiểu khái niệm hợp đồng KDTM là hình thức pháp lý của

hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên trong đó ít nhất một

trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân nhằm

xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt

động thương mại.

1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng kinh doanh thương mại

Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng KDTM là thương nhân với thương nhân

hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu giao dịch, mua bán hàng

hóa và đều vì mục đích lợi nhuận. Điều 6 Luật Thương mại 2019 quy định thương

nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương

mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có thể

là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Có những quan hệ trong

quan hệ hợp đồng trong KDTM đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (Hợp đồng

đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo

thương mại). Bên cạnh đó có những hợp đồng KDTM chỉ cần ít nhất một bên là

thương nhân (hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hoá,

hợp đồng môi giới thương mại).

Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng KDTM. Hợp đồng KDTM có đối tượng

là hàng hóa (động sản hoặc bất động sản) và công việc - dịch vụ. Đối tượng của hợp

đồng KDTM không chỉ dừng lại ở hàng hóa hữu hình mà bao gồm cả các loại hình

vô hình như dịch vụ và các hoạt động sinh lợi khác. Đối tượng của hợp đồng

KDTM phải không thuộc trường hợp danh mục hàng hóa bị cấm.

Thứ ba, về hình thức hợp đồng KDTM. Hợp đồng KDTM có thể xác lập

bằng văn bản, bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên đối với những trường

hợp bắt buộc bằng văn bản thì hợp đồng KDTM phải được xác lập bằng văn bản.

Thông thường các hợp đồng KDTM được xác lập bằng văn bản để đảm bảo sự an

10

toàn và dễ giải quyết khi xảy ra tranh chấp, nhưng đối với những hợp đồng đơn

giản, việc mua bán cần diễn ra nhanh chóng thì các bên có thể xác lập hợp đồng

bằng lời nói hoặc bằng một hành vi cụ thể. Luật Thương mại năm 2019 cho phép

các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá

trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm

điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu. Thư điện tử và các hình thức thông tin điện

tử khác cũng được coi là hình thức văn bản. Tuy nhiên đối với một số hợp đồng mà

pháp luật quy định phải bằng hình thức văn bản thì các bên phải xác lập hợp đồng

bằng văn bản, chẳng hạn như hợp đồng cung ứng dịch vụ (theo Điều 74 Luật

Thương mại năm 2019), hợp đồng nhượng quyền thương mại (theo Điều 285 Luật

Thương mại năm 2019).

Thứ tư, mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng KDTM là lợi nhuận.

Trường hợp có chủ thể hợp đồng không nhằm mục đích lợi nhuận, thì hợp đồng

được áp dụng Luật Thương mại khi bên không nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn

áp dụng Luật Thương mại.

Thứ năm, lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng KDTM là các hoạt động

thương mại được quy định tại Điều 2 Luật Thương mại năm 2019, bao gồm mua

bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt động có liên quan

đến thương mại khác.

Thứ sáu, nội dung của hợp đồng KDTM là tổng hợp các điều khoản mà các

bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều khoản này xác định những

quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp đồng. Mỗi loại hợp đồng

có những quy định nhất định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ như đối với hợp đồng

mua bán thì điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả. Pháp luật đề cao sự

thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của hợp đồng phải tuân theo

những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được quy định tại Bộ luật Dân

sự năm 2015. Loại trừ những điều khoản của pháp luật có nội dung mang tính bắt

buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung khác với nội dung quy

định trong pháp luật. Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi

phụ lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của

11

phụ lục không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với

nội dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều

khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng

đã được sửa đổi.

Thứ bảy, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng KDTM.

Ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì có sự phân biệt giữa

Luật Dân sự và Luật Thương mại thì hợp đồng KDTM được điều chỉnh chủ yếu bởi

Luật Thương mại. Nhưng ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ thì loại hợp

đồng này được điều chỉnh bới Bộ luật Dân sự. Ở Việt Nam, trước năm 2005, khi

còn tồn tại hai hệ thống pháp luật về hợp đồng (hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân

sự) độc lập tương đối với nhau thì những nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng

thương mại được ghi nhận trọng các văn bản về hợp đồng kinh tế mà điển hình là

Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực, nội

dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại được quy định trong một hệ

thống văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự gồm Luật

Thương mại năm 2019, Bộ luật Dân sự năm 2015, các luật chuyên ngành có liên

quan và các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam có tham gia. Trong đó Luật

Thương mại là nguồn luật chính về mặt nội dung điều chỉnh hợp đồng KDTM.

Những vấn đề nào Luật Thương mại năm 2019 và các luật chuyên ngành không quy

định thì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015.

Các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam có tham gia, có liên quan như:

Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định

khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định đối tác,…Luật chuyên ngành khác bao

gồm các luật áp dụng cho từng lĩnh vực cụ thể ví dụ như Luật Đầu tư năm 2014,

Luật Dầu khí sửa đổi bổ sung năm 2008, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000,

Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Chứng khoán năm 2019, và các văn bản pháp luật

khác như các Nghị quyết, hướng dẫn, tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao. Trong một

số trường hợp khi không có quy định cụ thể trong Luật thì có thể áp dụng tập quán

thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một

12

vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận

để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương

mại

1.1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại.

Tranh chấp KDTM là một trong những hệ quả của hoạt động KDTM, là một

hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Tranh

chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống

kinh tế-xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khái niệm này được sử dụng

rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và ngày càng chiếm giữ vị

trí “thống lĩnh” thay thế khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc

của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về

quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Tại Việt Nam, khái niệm

tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định tại Điều 238 Luật Thương mại

(1997): "Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Theo đó, nội

hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại (1997) rất hẹp so

với quan niệm về thương mại trên thế giới.

Luật Thương mại (2019) định nghĩa “Hoạt động thương mại là hoạt động

nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc

tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Điều 3, khoản 1,

Luật Thương mại 2019) nhưng không đưa ra khái niệm về tranh chấp KDTM. Tuy

nhiên, đạo luật này lại đưa ra các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.

Theo Điều 4, Khoản 16, Luật Doanh nghiệp (2014) thì: “Kinh doanh là việc

thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản

xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh

lời”. BLTTDS (2004, sửa đổi bổ sung năm 2011) đã liệt kê các tranh chấp về KDTM

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. BLTTDS (2015) thì không liệt kê mà chỉ đưa

ra khái niệm. BLTTDS (2004) không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” độc

13

lập mà sử dụng chung thuật ngữ “tranh chấp KDTM” nhưng nội dung của các tranh

chấp về KDTM được quy định tại Điều 29 BLTTDS (2004) thực chất là các tranh chấp

thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại (2019). Điều này cho thấy, mặc

dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan

niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy

định trong các văn bản pháp luật tương đối nhất quán.

Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất

đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan đến

lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại.

Theo quan điểm của tác giả, có thể định nghĩa một cách ngắn gọn tranh chấp

KDTM như sau: “Tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột

về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động

KDTM”.

Hợp đồng trong KDTM là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với

nhau hoặc với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và

nghĩa vụ các bên trong lĩnh vực thương mại. Trong thực tế bắt đầu từ khi kí kết cho

đến khi kết thúc hợp đồng thường trải qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn trong

đó là một mắt xích rất quan trọng nên khi một mắt xích nào đó có vấn đề sẽ ảnh

hưởng đến hợp đồng được kí kết giữa các bên và trực tiếp đến lợi ích của các chủ

thể. Nếu vấn đề đó không được giải quyết sẽ làm phát sinh tranh chấp về hợp đồng.

Theo quan điểm của tác giả, có thể đưa ra một khái niệm về tranh chấp hợp

đồng KDTM như sau: “Tranh chấp hợp đồng KDTM là sự mâu thuẫn, bất đồng hay

xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các chủ thể tham gia quan hệ

hợp đồng”.

1.1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại.

- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn

(bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ

thể. Quan hệ kinh doanh thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương

mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại,

các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề

14

ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện

quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu. Các quan hệ kinh doanh thương mại

có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực

tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về

quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm: (i)

Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho

thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng

đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng

đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá

khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; (ii) Tranh chấp về

quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều

có mục đích lợi nhuận; (iii) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,

giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,

giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;

(vi)Tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật có quy định.

- Thứ hai, về phạm vi tranh chấp: Những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ

giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động KDTM. Căn cứ phát sinh tranh chấp hợp

đồng KDTM là hành vi vi phạm hợp đồng. Tranh chấp KDTM phải là những mâu

thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động

nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc

tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

- Thứ ba, về chủ thể tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng KDTM chủ yếu là

những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân)

với nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp KDTM, trong

những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân)

cũng có thể là chủ thể của tranh chấp KDTM khi trong các giao dịch bên không có

mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Về bản chất, hoạt động không

nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là

hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn

áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và

15

tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp

KDTM. Tranh chấp KDTM đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền

kinh tế thị trường. Khi tranh chấp KDTM phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết

một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể,

góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động KDTM, bảo đảm trật tự

pháp luật, kỷ cương xã hội.

- Thứ tư, về tính chất của tranh chấp: Tranh chấp KDTM có tính chất đa

dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức

tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong

nền kinh tế thị trường. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường

xuyên, liên tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế

khiến cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến

nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh

chấp trong mối quan hệ khác.

1.1.2.3. Phân loại các tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại

- Theo phạm vi lãnh thổ, có thể phân chia làm tranh chấp hợp đồng KDTM

trong nước và tranh chấp hợp đồng KDTM có yếu tố nước ngoài.

- Theo chủ thể, có thể phân chia làm tranh chấp hợp đồng KDTM giữa hai

bên và giữa nhiều bên.

- Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên:

+ Tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo

quy định của hợp đồng.

+ Tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo

quy định hợp đồng.

- Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh chấp hiện tại là tranh chấp đã

xảy ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp tương lai được hiểu là tranh chấp có thể xảy

ra và việc giải quyết được dự liệu trong một điều khoản của hợp đồng.

- Tranh chấp theo nghiệp vụ giao dịch:

+ Tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá

+ Tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá

16

+ Tranh chấp liên quan đến điều khoản thanh toán

- Tranh chấp dựa trên tính chất pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý

và hiệu lực của hợp đồng)

+ Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng (vi

phạm nguyên tắc ký kết; căn cứ ký kết không hợp pháp; chủ thể ký kết hợp đồng

không hợp pháp, hợp lệ).

+ Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng

+ Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng.

- Tranh chấp trong tiến trình thực hiện hợp đồng.

+ Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng

+ Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng (do người bán không thực

hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình như đã thoả thuận trong hợp

đồng; do người mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình

trong hợp đồng).

1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án.

1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án

Mối quan hệ trong hoạt động kinh tế tương đối đa dạng và phức tạp vừa

mang tính xung đột, vừa mang tính hợp tác. Tuy nhiên, khi các chủ thể kinh tế tham

gia trong quan hệ hợp đồng đều biết rằng việc có thể xảy ra tranh chấp và việc lựa

chọn phương thức giải quyết tranh chấp đó cũng là vấn đề đặt lên hàng đầu, có thể

ngay trong thỏa thuận tại Hợp đồng cũng có thể tại thời điểm có tranh chấp. Phương

thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước được tiến

hành theo trình tự, thủ tục luật định, nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định

của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo

thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.

Giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án là việc Tòa án có thẩm

quyền tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết để giải quyết các mâu thuẫn phát

sinh từ các hợp đồng KDTM mà các bên không tự giải quyết bằng các thương

lượng, không có thỏa thuận hòa giải thương mại hay trọng tài mà một trong các bên

tranh chấp có khởi kiện vụ án ra Tòa án có thẩm quyền.

17

Như vậy, khi các tranh chấp hợp đồng phát sinh do bất đồng giữa các chủ

thể trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên không thể tự thỏa thuận, tự liên

hệ với nhau để hòa giải, đồng thời đã sử dụng các phương thức khác trong tranh

chấp hợp đồng thương mại để giải quyết nhưng mang không lại kết quả thì có thể

nộp đơn đến Tòa án, yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp về hợp đồng.

1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án.

Theo những phân tích trên, khi một trong các bên khởi kiện ra Tòa án yêu

cầu giải quyết những vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của họ hay quyền lợi của họ bị

xâm phạm trong khi giao kết hợp đồng thì thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng

KDTM tại Tòa án được bắt đầu.

Thứ nhất, về trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp Hợp đồng KDTM tại

Tòa án. Các trình tự, thủ tục giải quyết đối với những vụ án này thường cũng tuân

thủ đúng theo BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành mà pháp luật Việt Nam

quy định. Thể hiện qua các cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) đến các thủ tục xem xét

lại bản án, quyết định (Giám đốc thẩm hoặc Tái thẩm).

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án luôn tôn

trọng quyền sự định đoạt của các đương sự.

Trong quan hệ kinh doanh, các chủ thể luôn muốn đảm bảo được quyền tự

do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh, không muốn ai can

thiệp vào hoạt động kinh doanh đúng pháp luật của hộ, kể cả Nhà nước. Các bên

tranh chấp có quyền lựa chọn phương thức để giải quyết tranh chấp sao cho có lợi

cho bản thân. Tòa án giải quyết chỉ khi các đương sự yêu cầu hoặc trường hợp thỏa

thuận bằng Trọng tài vô hiệu. Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có quyền tự quyết

định việc có khởi kiện hay không, đưa ra các yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

hợp cho mình, tùy thuộc vào phạm vi và mức độ khác nhau. Kể cả khi đưa vụ án ra

giải quyết thì các đương sự vẫn có quyền thay đổi, bổ sung hoặc thậm chí có thể rút

yêu cầu khởi kiện.

Ngoài ra, trước khi khởi kiện, đương sự có quyền mời Luật sư hay người nào

đó chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, phương án khởi kiện và có thể thay mặt đương sự tham

gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại Tòa án mà không cần trực

18

tiếp phải có mặt tại Tòa khi khởi kiện.

Thứ ba, tính cưỡng chế khi giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án.

Sau khi được Tòa án ra Bản án hoặc Quyết định thì buộc các bên phải thực

hiện đúng theo Bản án hoặc Quyết định đó. Đồng thời, việc thi hành này sẽ có biện

pháp cưỡng chế nếu các bên không tự nguyện thi hành án. Đây là điểm là một ưu

điểm so các phương thức giải quyết khác trong tranh chấp KDTM, lợi ích của bên

bị xâm phạm được đảm bảo. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án

thì cũng có một số điểm hạn chế nhất định. Các thủ tục giải quyết tranh chấp thông

qua Tòa án thường dài hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Đồng thời,

trong hoạt động KDTM thì việc xét xử công khai tại Tòa án không phù hợp (có thể

làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ các bí mật kinh doanh…).

Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng

cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài.

1.2.3. Bản chất của giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại

thông qua Tòa án

Về bản chất, phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án là một phương

thức mang ý chí quyền lực nhà nước, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải

quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Khi vụ án tranh chấp có

Quyết định hoặc bản án của tòa án có hiệu lực thì bắt buộc đương sự phải thực thi

và có thể kèm theo các biện pháp cưỡng chế thi hành. Bởi vậy, các đương sự thường

lựa chọn Tòa án là nơi giải quyết cuối cùng để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp,

chính đáng khi không thành công trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hòa giải

Như vậy, bản chất của giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM thông qua Tòa án

được thể hiện như sau:

Thứ nhất, cơ quan tài phán nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp. Tòa

án được nhà nước giao quyền lực để mang lại sự công bằng khi xã hội ngày càng

phát triển, việc phát sinh nhiều tranh chấp trong hoạt động KDTM là không thể

tránh khỏi. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều phương thức để lựa chọn giải quyết

tranh chấp nhanh chóng, ngắn gọn, tốn ít chi phí nhưng không đảm bảo được quyền

lợi cuối cùng của họ có thể lấy lại được. Do đó, phán quyết của tòa án được đảm

19

bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế.

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các

quy định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm quyền, thủ tục, các

nguyên tắc giải quyết tranh chấp KDTM của pháp luật tố tụng nhất là các quy định

của BLTTDS năm 2015. Bởi, Tòa án là cơ quan nhân danh quyền lực của nhà nước,

tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp bằng con đường

Tòa án thì Tòa án phải căn cứ thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục nhằm tạo sự

công bằng, nghiêm minh, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ ba, Tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai. Việc

xét xử công khai này một mặt thể hiện tính dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân

kiểm tra, giám sát được các hoạt động của Tòa án, của các chủ thể tiến hành tố tụng,

qua đó phát hiện những thiếu sót hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án, bảo

vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân theo quy định của pháp luật, mặt

khác qua xét xử công khai còn có tác dụng tuyên truyền pháp luật cho quần chúng

nhân dân trong nhận thức về pháp luật.

Như vậy, có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và

giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử và tuyên truyền, giáo dục ý thức

pháp luật cho người dân.

Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án có thể thực hiện qua hai cấp xét

xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật còn có thể

được xét lại theo thủ tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Vì khi bản án hoặc quyết

định giải quyết vụ án tranh chấp của Tòa án sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu

lực pháp luật ngay mà được dự liệu một thời gian nhất định cho các đương sự suy

nghĩ về quyền lợi của mình có đã đảm bảo hay chưa và các đương sự có thể kháng

cáo; đồng thời Viện kiểm sát có thể kháng nghị khi cho rằng nhận định của Tòa án

chưa chính xác. Chính vì vậy, bản án hoặc quyết định của Tòa án có thể sẽ phải

được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm và có thể xem xét theo thủ tục giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự; đồng thời đảm bảo

Tòa án giải quyết đúng vấn đề cần giải quyết và đưa ra phán quyết cuối cùng chính

20

xác nhất.

Thứ năm, tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo

đa số.

Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở việc bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ,

khách quan của việc nghiên cứu, giải quyết các vụ án dân sự và bảo đảm tính đúng

đắn, công bằng, khách quan của các bản án và quyết định của Tòa án, tránh được

tính chủ quan, độc đoán và tùy tiện trong hoạt động xét xử. Đồng thời, pháp luật tố

tụng dân sự nước ta chỉ thừa nhận việc xét xử do Hội đồng xét xử thực hiện, mà

không thừa nhận việc xét xử do một cá nhân thực hiện.

Hội đồng xét xử giải quyết vụ án tranh chấp Hợp đồng KDTM cũng như các

vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật gồm: một Thẩm phán và hai Hội

thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai

Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, Tòa án quyết định theo đa số,

theo đó Hội đồng xét xử dựa vào cách biểu quyết theo đa số để giải quyết các vấn

đề. Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Sau khi biểu quyết, người chiếm thiểu

số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào hồ sơ.

Vì vậy, trong thời gian gần đây, hầu hết các doanh nghiệp khi xảy ra tranh chấp

thường chọn con đường giải quyết thông qua Tòa án để đảm bảo tính minh bạch cũng

như lợi ích của các bên. Tuy nhiên, không thể chắc chắn một điều là tất cả các doanh

nghiệp khi tranh chấp đều biết các thủ tục cũng như quá trình giải quyết một vụ án

tranh chấp KDTM như thế nào là đúng theo pháp luật nước ta quy định.

1.2.4. Vai trò của giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án

Thứ nhất, Tòa án đưa ra phán quyết có tính chính xác và tính khả thi cao.

Đặc điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tố tụng tư pháp là tính

quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan tư pháp có quyền nhân danh ý chí quyền lực

của Nhà nước khi xét xử các vụ tranh chấp. Các bản án và quyết định của Tòa án

nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,

tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng và chấp

hành. Trong trường hợp bản án không được tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế

bởi quyền lực nhà nước.

21

Thứ hai, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân, đảm

bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh

chấp hợp đồng KDTM là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng

pháp luật của một bộ phận tổ chức, cá nhân còn rất hạn chế. Khi giải quyết tranh

chấp KDTM, Toà án có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là bên thứ ba,

là cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp đã được yêu cầu. Trong quá trình giải

quyết tranh chấp trên cơ sở áp dụng pháp luật hiện hành, Toà án sẽ nhân danh

quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để đưa ra bản án hoặc quyết định

có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực

hiện. Bản án, quyết định của toà án được cơ quan thi hành án của Nhà nước bảo

đảm thi hành. Điều này nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức chấp

hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân có liên quan, đồng thời đảm bảo sự nghiêm

minh của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên

quan trong từng vụ án cụ thể.

1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại

Tòa án

1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương

mại tại Tòa án

Ban đầu, quan hệ giữa con người với con người được điều chỉnh bởi tập

quán, thông lệ thói quen và nhiều quy tắc xử sự khác,… Pháp luật - công cụ pháp lý

xã hội ra đời khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, xã hội trở nên phức

tạp, đặc biệt một trình đọ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt là khi trong xã

hội có sự phân hóa thành các giai cấp có lợi ích đối lập nhau, các công cụ pháp lý

xã hội khác như tập quán, đạo đức, tính điều tôn giáo … không còn đủ khả năng

duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những điều

kiện như vậy, nhà nước đã ban hành ra pháp luật (thừa nhận những quy định đã có

trong xã hội là pháp luật và bảo đảm cho chúng được thực hiện, nhà nước còn tiến

hành đặt ra những quy định pháp luật mới) để tổ chức và quản lý xã hội vừa để bảo

vệ lợi ích của xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Pháp luật được

hiểu là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm

22

thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà

nước3.

Tranh chấp Hợp đồng KDTM là việc phát sinh mâu thuẫn, bất đồng từ hoạt

động sản xuất, cung ứng dịch vụ,…Việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng KDTM tại

Tòa án là các bên tranh chấp thông qua phương thức này thực hiện các thủ tục thích

hợp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm đảm

bảo quyền và lợi ích chính đáng của mình. Pháp luật giải quyết tranh chấp Hợp

đồng KDTM tại Tòa án là các quy định điều chỉnh quy trình tiến hành giải quyết

tranh chấp đó.

Như vậy, pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án là

tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mâu

thuẫn phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa

án nhằm phân xử để làm rõ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi

phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm.

1.3.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh

doanh thương mại tại Tòa án

Những nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng

KDTM theo thủ tục tố tụng bao gồm những nhóm quy phạm sau: Nhóm quy phạm

quy định nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Toà án; Nhóm quy

phạm quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp HĐKDTM; Nhóm quy phạm quy

định về trình tự, thủ tục trong giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.

Thứ nhất, về nguyên tắc trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM.

Các nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chỉ đạo, hướng dẫn việc giải quyết các

tranh chấp hợp đồng KDTM và được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật về thủ

tục giải quyết các vụ án KDTM. Cụ thể, đó là các nguyên tắc như: Khi xét xử,

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc xét

xử công khai, Xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho nhân

dân được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa. Là một Tòa

3 Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2019, tr 22.

23

chuyên trách độc lập thuộc Tòa án cấp tỉnh, trong hoạt động xét xử các vụ án

KDTM, Tòa Kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng: nguyên tắc tôn

trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự; Nguyên tắc bình đẳng

trước pháp luật; Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu

thập chứng cứ; Nguyên tắc hòa giải; Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp

thời; Nguyên tắc xét xử công khai.

Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM. Khi xảy

ra tranh chấp, không phải lúc nào Toà án cũng có thẩm quyền giải quyết. Toà án chỉ

giải quyết khi có yêu cầu của đương sự (nguyên tắc quyền quyết định và tự định

đoạt của đương sự) và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Ở nước ta, hệ thống Toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Để

tránh chồng chéo thì việc phân định thẩm quyền giữa các Toà án là rất quan trọng,

tránh tình trạng một vụ án có thể được rất nhiều Toà thụ lý hoặc không có Toà án

nào thụ lý. Điều này cũng góp phần làm cho Toà án giải quyết nhanh chóng và đúng

đắn các vụ việc. Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giữa các Toà án một cách

hợp lý còn tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của mình, giảm bớt phiền phức cho đương sự.

Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền của các Toà án một cách hợp lý và khoa

học còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn,

nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ công chức Toà án và các điều kiện khác, trên cơ sở

đó có kế hoạch đáp ứng bảo đảm cho toà án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM là quyền xem xét giải quyết

các tranh chấp hợp đồng KDTM, quyền ra quyết định khi giải quyết các tranh chấp

đó theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền của Toà án gồm: thẩm quyền theo vụ

việc; thẩm quyền theo cấp; thẩm quyền theo lãnh thổ; thẩm quyền theo sự lựa chọn

của nguyên đơn, người yêu cầu.

Thứ ba, về trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM.

BLTTDS quy định cụ thể trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp được áp dụng để giải

quyết các tranh chấp KDTM từ giai đoạn khởi kiện đến giai đoạn thụ lý, giải quyết

24

vụ án tại hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm). Bên cạnh đó còn có thủ tục đặc

biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm… để đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp hợp

đồng nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật.

Trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay không có quy định riêng

về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo thủ tục sơ thẩm mà Tòa án cấp sơ

thẩm sẽ áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết sơ thẩm vụ án dân sự

nói chung để giải quyết các tranh chấp KDTM. Do đó, giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM theo thủ tục sơ thẩm cũng mang những đặc điểm chung của giải quyết

vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm, cụ thể:

- Là thủ tục cơ bản của tố tụng dân sự được tiến hành theo một trình tự, thủ

tục nhất định quy định trong BLTTDS (2015) bao gồm các bước như khởi kiện, thụ

lý vụ án, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm.

- Là thủ tục tố tụng đầu tiên giải quyết tranh chấp của các bên đương sự nên

phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định không phải là phán quyết cuối

cùng, đương sự vẫn có quyền kháng cáo, Viện Kiểm sát nhân dân vẫn có quyền

kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm.

Bên cạnh những đặc điểm chung của thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự, thủ tục sơ

thẩm vụ án KDTM cũng có một số đặc điểm riêng sau:

- Về chủ thể khởi kiện vụ án KDTM: Đối với vụ án KDTM chủ thể khởi kiện

chủ yếu là cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh (trừ một số trường hợp pháp luật có

quy định khác), đó là các cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng kí

kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. Ngoài

ra, còn một yêu cầu nữa đối với chủ thể khởi kiện vụ án KDTM đó là khi tham gia quan

hệ KDTM đòi hỏi các bên chủ thể của quan hệ đó đều có mục đích lợi nhuận.

- Về các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện: Kèm theo đơn khởi

kiện người khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp

của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, đối với vụ án KDTM do chủ thể khởi kiện chủ

yếu là cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh nên khi nộp đơn khởi kiện, người nộp

đơn khởi kiện thường nộp kèm theo giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, điều lệ

hoạt động của pháp nhận… để chứng minh tư cách chủ thể của mình.

25

- Về trình tự, thủ tục tố tụng: Trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp được

tiến hành quy định trong BLTTDS (2015). Tuy nhiên, giải quyết các tranh chấp hợp

đồng KDTM căn cứ theo quy định của Luật Thương mại và các văn bản quy phạm

pháp luật khác về thương mại, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3, Điều 4, Luật

Thương mại (2019). Giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự căn cứ theo quy định của

BLDS và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến dân sự.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM: Do yêu cầu của phát triển sản xuất,

kinh doanh, thời hạn việc giải quyết vụ án KDTM được pháp luật quy định ngắn hơn

thời hạn giải quyết các vụ án dân sự, vụ án hôn nhân gia đình và vụ án lao động.

- Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong quá trình giải quyết các vụ

án KDTM nếu đương sự có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì Tòa án mới

xem xét có ra quyết định áp dụng BPKCTT hay không.

- Về án phí: Việc giải quyết vụ án KDTM thường là vụ án có giá ngạch và

không có trường hợp nào được miễn án phí và mức án phí phải nộp trong các vụ án

KDTM thường có mức khởi điểm lớn hơn mức án phí của vụ án dân sự, vụ án hôn

nhân gia đình và vụ án lao động.

Tiểu kết chương 1

Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ở Việt Nam

hiện nay, các tranh chấp KDTM nói chung cũng như tranh chấp hợp đồng KDTM nói

riêng diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực với những nguyên nhân

khác nhau mà chủ yếu là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ

thể trong hoạt động KDTM.

Do sự đa dạng của các tranh chấp hợp đồng KDTM mà cần phân biệt loại tranh

chấp này với tranh chấp hợp đồng dân sự. Đây là điều kiện cần và đủ để làm cơ sở cho

việc xác định quan hệ tranh chấp khi giải quyết loại tranh chấp này trên thực tế.

Tranh chấp hợp đồng thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và

nghĩa vụ do không thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng hợp đồng thương mại giữa các

chủ thể tham gia hoạt động thương mại hoặc có liên quan đến hoạt động thương mại.

Có bốn hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM là: thương lượng,

26

hòa giải, tố tụng trọng tài và tố tụng tư pháp. Mỗi hình thức đều có những đặc điểm

cũng như những ưu, nhược điểm nhất định.

Ở Việt Nam, hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM bằng tố tụng

tư pháp được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn vì đây là một hình thức mang ý

chí quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước.

Phán quyết của Tòa án mang tính bắt buộc đối với các bên, đảm bảo việc giải quyết

tranh chấp được công bằng, chính xác, khách quan.

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Chương 1,

chúng ta có thể nhận diện những tranh chấp nào là tranh chấp hợp đồng KDTM

cũng như hiểu rõ lịch sử hình thành, phát triển và những nội dung cơ bản của pháp

luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo thủ tục tố tụng.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG

2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại tại Tòa án

2.1.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại

Tòa án

2.1.1.1. Nguyên tắc Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải quyết tranh chấp

trên cơ sở các quy định của pháp luật, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của

pháp luật.

Nguyên tắc này thể hiện ở việc phán quyết của tòa án được đảm bảo thi

hành, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của

mình thì sẽ bị cưỡng chế. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại dựa trên

các quy định về hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định.

Quá trình xét xử nhằm giải quyết tranh chấp diễn ra công khai, minh bạch, có sự

tham gia của các bên có liên quan. Đồng thời tòa án giải quyết tranh chấp trên cơ sở

27

xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

2.1.1.2. Nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự

Việc tôn trọng quyền tự do định đoạt của các đương sự bắt nguồn từ nguyên

tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân. Nguyên tắc này được ghi nhận

tại Điều 5, BLTTDS (2015):

“ 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm

quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có

đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi

kiện, đơn yêu cầu đó.

2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt,

thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không

phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”.

Khi xảy ra các tranh chấp KDTM, Tòa án chỉ thụ lý và giải quyết vụ việc khi

đương sự có yêu cầu. Nhà nước không tự tiện đưa các tranh chấp của các bên ra Tòa

án để giải quyết. Cá nhân, pháp nhân có quyền khởi kiện vụ án KDTM theo thủ tục

do pháp luật quy định để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính

đáng của mình. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự

được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng: họ có thể khởi kiện

hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền

chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự

nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của

đương sự không chỉ dừng lại ở việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc

thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án,

khi quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

2.1.1.3. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật

Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý

cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 16 của Hiến pháp (2013) có ghi rõ mọi công dân

đều bình đẳng trước pháp luật. Điều 51 của Hiến pháp (2013) có quy định cụ thể về

các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Pháp luật công nhận

quyền bình đẳng của các chủ thể khi họ tham gia quan hệ sản xuất, kinh doanh.

28

Điều 8, BLTTDS (2015) cũng có quy định về quyền bình đẳng trước pháp luật của

các đương sự:

“1. Trong tố tụng dân sự, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không

phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn

hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.

Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và

nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án.

2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện

quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự”.

Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng tư pháp có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh

tế, các thành viên của thương trường và các chủ thể của quan hệ pháp luật KDTM.

2.1.1.4. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập

chứng cứ

Điều 6, Khoản 2, BLTTDS (2015) quy định:

“2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ

tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy

định”.

Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp

hợp đồng KDTM. Khác với thủ tục giải quyết các vụ án hình sự, khi giải quyết các

tranh chấp hợp đồng KDTM, Tòa án chủ yếu căn cứ vào chứng cứ mà các đương sự

cung cấp. Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ và chứng minh để bảo

vệ quyền lợi của mình. Tòa án sẽ nghe các bên trình bày và xác minh các chứng cứ.

Tòa án không tiến hành xét hỏi như trong tố tụng hình sự. Các bên có quyền và

nghĩa vụ trình bày những gì họ cho là cần thiết. Tòa án không bắt buộc phải thu

thập chứng cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi cần thiết, để làm rõ

thêm yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.

Theo quy định của BLTTDS hiện hành, Tòa án chỉ tiến hành thu thập, xác

minh chứng cứ trong một số trường hợp, như:

- Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản

29

khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng (Điều 98, Khoản 1, BLTTDS (2015);

- Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến

hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án

(Điều 99, Khoản 1, BLTTDS (2015);

- Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai

của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương

sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng

với nhau (Điều 100, Khoản 1, BLTTDS (2015).

Trên thực tế, việc tự thu thập tài liệu, chứng cứ của đương sự gặp rất nhiều

khó khăn do nhiều trường hợp, các cơ quan tổ chức cá nhân không hợp tác trong

việc giao nộp tài liệu chứng cứ. Pháp luật TTDS cũng chưa hướng dẫn cụ thể

trường hợp nào được coi là đã áp dụng biện pháp cần thiết nhưng không thể tự mình

thu thập được chứng cứ. Do đó, đương sự gặp nhiều trở ngại trong việc thu thập tài

liệu, chứng cứ cũng là cơ sở đề để nghị Tòa án thu thập chứng cứ.

2.1.1.5. Nguyên tắc hòa giải

Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng tư pháp được quy định tại Điều 10,

BLTTDS (2015): “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận

lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy

định của Bộ luật này”.

Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự

định đoạt của đương sự. Do đó, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan

hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một

biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hòa giải có ý

nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống

đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải

quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM. Việc thực hiện tốt thủ tục hòa giải sẽ hạn

chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước cũng như của công dân, hạn

chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS (2015) cũng quy định cụ

thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn

bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa. Đối với những vụ án đòi bồi thường do

30

gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước hoặc những vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch

trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Tòa án không được hòa giải.

Việc hòa giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các vụ án kinh tế, đặc biệt là

ở cấp sơ thẩm. Việc hòa giải được thực hiện chủ yếu dựa vào kỹ năng, kinh nghiệm

của các Thẩm phán. Xu hướng chung của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ

đúng - sai giữa các doanh nghiệp chưa hoặc chưa biết quan tâm đúng mức đến vấn

đề mà các đương sự hướng tới là lợi nhuận (nhiều hay ít nhưng phải có lợi). Đó là

điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân nhượng, hợp tác trong kinh doanh của

các đương sự. Việc hòa giải không thành có thể dẫn đến căng thẳng giữa các đương

sự. Khi việc hòa giải không thành thì mâu thuẫn giữa các đương sự sẽ tăng lên bội

phần và việc kiến tạo sự thương lượng, thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai

đoạn tố tụng tiếp sau sẽ kém hiệu quả.

2.1.1.6. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời

Để đáp ứng yêu cầu của hoạt động KDTM, việc Tòa án giải quyết tranh chấp

hợp đồng KDTM không những cần bảo đảm đúng pháp luật mà còn phải nhanh

chóng, kịp thời, dứt điểm, tránh tình trạng kéo dài, đảm bảo bồi thường kịp thời cho

bên bị vi phạm. BLTTDS hiện hành có quy định cụ thể về thời hạn ở các giai đoạn

tố tụng, như: thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử,

thời hạn ban hành quyết định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết

theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm... Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ

việc trong thời hạn luật định. Tuy nhiên, có một số Tòa án vẫn còn tình trạng để án

KDTM tồn đọng quá thời hạn xét xử. Điều 203, BLTTDS (2015) quy định:

“ 1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo

thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:

a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời

hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời

hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại

khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử

31

nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a

khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản

này.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn

chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa

án có hiệu lực pháp luật....”.

Tuy nhiên, thực tế giải quyết các vụ án KDTM cho thấy quy định này của

pháp luật TTDS là bất hợp lý do một số vụ án có tính chất phức tạp như đương sự

không hợp tác, không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập hay đương sự

không còn ở địa phương hoặc đương sự cố tình lẩn tránh không hợp tác; có trường

hợp đương sự ở nước ngoài (Trung Quốc) thì cần phải làm thủ tục ủy thác tư pháp,

thu thập thêm chứng cứ... Vì lẽ đó, BLTTDS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị

xét xử các vụ án KDTM ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án dân sự, vụ án

hôn nhân gia đình là hoàn toàn bất hợp lý, gây áp lực cho các Thẩm phán trong giải

quyết các vụ án KDTM sơ thẩm.

2.1.1.7. Nguyên tắc xét xử công khai

Xét xử công khai là nguyên tắc hiến định đối với hoạt động của Tòa án và

được cụ thể hóa tại BLTTDS (2015). Điều 15, Khoản 2, BLTTDS (2015) quy định:

“2. Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước,

giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí

mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự

theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử kín.”

Theo quy định này, về nguyên tắc, Tòa án phải xét xử công khai trong hoạt

động xét xử của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, như cần giữ bí

mật kinh doanh cho đương sự, Tòa án có thể xét xử kín theo yêu cầu chính đáng của

đương sự.

Bí mật của đương sự trong tranh chấp KDTM thường là bí quyết kinh doanh

như phát minh, sáng chế… có liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của người

kinh doanh. Nếu các bí mật đó bị tiết lộ có thể làm doanh nghiệp gặp khó khăn

trong kinh doanh, thậm chí là giải thể, phá sản. Chính vì vậy, đương sự có thể yêu

32

cầu Tòa án xét xử kín vụ án KDTM. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định về

việc đưa vụ án đó ra xét xử công khai hay xét xử kín.

Việc thực hiện nguyên tắc này đã tạo điều kiện cho các bên đương sự được

đảm bảo bí mật KDTM của mình. Mặc dù kết quả của việc giải quyết tranh chấp

như thế nào thì việc xét xử kín cũng góp phần làm cho uy tín, bí mật kinh doanh của

doanh nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều. Do vậy, đây là quy định hoàn toàn phù

hợp với thực tiễn.

Khoản 3 Điều 13 BLTTDS năm 2015 quy định cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của

pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên,

giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của

đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Tuy nhiên hiện nay ngoại trừ trường hợp

bí mật kinh doanh được quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2018 và Luật Sở hữu

trí tuệ năm 2005. Trong khi đó khái niệm bí mật nghề nghiệp, bí mật cá nhân, bí

mật gia đình hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn và lý giải cụ thể. Thực tế

xét xử cho thấy, nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng KDTM nhưng có liên quan đến

một người có danh tiếng trong xã hội như ca sĩ, nghệ sĩ thì việc xét xử không đảm

bảo yếu tố giữ bí mật cá nhân của những người này, làm cho danh tiếng của họ bị

ảnh hưởng dù không liên quan trực tiếp đến tranh chấp đó.

2.1.2. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại tại Tòa án

Để xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi giải quyết các vụ án

KDTM, Tòa án phải xác định được yêu cầu của đương sự thuộc nhóm quan hệ tranh

chấp KDTM trong quan hệ tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) để từ đó có sự phân

định thẩm quyền giữa Tòa án với cơ quan tài phán khác (trọng tài), hay giữa các

Tòa án với nhau. Do đó, để giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án, thì

yêu cầu đặt ra là Tòa án phải xác định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM của mình, cụ thể.

2.1.2.1. Thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc

Điều 30 BLTTDS (2015) quy định những tranh chấp KDTM thuộc thẩm

33

quyền giải quyết của Tòa án gồm:

“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá

nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,

tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch

về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công

ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản

trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với

nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn

giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

5. Các tranh chấp khác về kinh doanh thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm

quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.

Căn cứ theo quy định trên, tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc thẩm quyền

giải quyết của Tòa án trong từng trường hợp được xác định như sau:

Một là, tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 1, BLTTDS

(2015) nếu có đủ ba yếu tố:

- Phát sinh giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau.

- Các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.

- Phát sinh trong hoạt động KDTM.

Hai là, tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 2, 3, 4, BLTTDS

(2015) nếu phát sinh trong các lĩnh vực:

- Tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ.

- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch

về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

- Tranh chấp liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp

nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

Loại tranh chấp hợp đồng KDTM thứ hai này không bắt buộc một hoặc các

bên phải có đăng ký kinh doanh. Đối với tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều

34

30, Khoản 2, BLTTDS (2015) thì bắt buộc các bên tranh chấp đều phải có mục đích

lợi nhuận. Còn đối với tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 3, 4,

BLTTDS (2015) thì khi tham gia giao dịch liên quan đến chuyển nhượng vốn góp,

cổ phần hoặc tham gia vào các hoạt động của công ty, mặc nhiên các bên đã hướng

đến việc tìm kiếm lợi nhuận.

Ba là, tranh chấp hợp đồng KDTM được quy định tại các văn bản pháp luật

khác thì được coi là tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc Điều 30, Khoản 5, BLTTDS

(2015).

Theo quy định tại Điều 30, khoản 5, BLTTDS có thể xảy ra hai trường hợp sau:

trường hợp thứ nhất là tranh chấp giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục

đích lợi nhuận, nhưng chưa được quy định tại Điều 30, khoản 1; trường hợp thứ hai là

tranh chấp giữa các bên mà cả hai cùng có mục đích lợi nhuận, nhưng chỉ một bên có

đăng ký kinh doanh, hoặc cả hai đều không có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, dù

thuộc trường hợp thứ nhất hay trường hợp thứ hai thì văn bản đó phải chỉ rõ đó là tranh

chấp KDTM. Khi chưa có hướng dẫn cụ thể của Tòa án cấp trên thì việc áp dụng thống

nhất quy định này trong thực tiễn vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

Ví dụ: Doanh nghiệp tư nhân Phú Gia có thỏa thuận với Trần Minh Lâm (cá

nhân, không có đăng ký kinh doanh) để anh Lâm vận chuyển máy tính, linh kiện điện

tử từ trụ sở công ty tại thành phố Tuyên Quang đến địa chỉ của khách hàng tại huyện

Na Hang (cách thành phố Tuyên Quang 120 km) bằng xe ô tô thuộc sở hữu của anh

Lâm. Hai bên có lập hợp đồng thể hiện nội dung anh Lâm vận chuyển hàng cho doanh

nghiệp Phú Gia theo chuyến. Vào ngày 12/8/2019, khi thực hiện hợp đồng, trong quá

trình vận chuyển anh Lâm đã làm hỏng một số lượng máy tính, thiết bị điện tử do

không cẩn thận trong việc bảo quản hàng hóa. Doanh nghiệp Phú Gia đã yêu cầu anh

Lâm bồi thường nhưng anh Lâm nhất định không trả tiền. Doanh nghiệp Phú Gia đã

khởi kiện ra Tòa án.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: quan hệ pháp luật tranh chấp giữa doanh nghiệp

Phú Gia với anh Lâm là tranh chấp về hợp đồng dân sự vận chuyển tài sản bởi vì chỉ có

doanh nghiệp Phú Gia có đăng ký kinh doanh.

Quan điểm thứ hai cho rằng: quan hệ pháp luật tranh chấp giữa doanh nghiệp

35

Phú Gia với anh Lâm là tranh chấp về hợp đồng KDTM vì cả doanh nghiệp Trường

Xuân và anh Cường đều tham gia vào quan hệ này nhằm mục đích lợi nhuận mặc dù

anh Lâm không có đăng ký kinh doanh.

Quan điểm của tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai vì quan hệ pháp luật

trong vụ án này là tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hóa phát sinh trong hoạt

động KDTM giữa Doanh nghiệp tư nhân Phú Gia (có đăng ký kinh doanh) với cá nhân

anh Lâm (không có đăng ký kinh doanh) nhưng đều có mục đích sinh lợi nhuận, điều

này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 30, khoản 5 BLTTDS (2015). Đồng thời,

căn cứ phát sinh quan hệ tranh chấp là do hành vi vi phạm hợp đồng của cá nhân anh

Lâm.

2.1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án theo cấp

Hệ thống Tòa án tại địa phương gồm hai cấp là: Tòa án nhân dân cấp huyện

(quận) và Tòa án nhân dân cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương). Tùy thuộc

vào từng tính chất của vụ việc mà Tòa án nhân dân các cấp sẽ có thẩm quyền xét xử

trong phạm vi quyền hạn của mình.

(i) Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện:

Điều 35, Khoản 1, BLTTDS (2015) quy định thẩm quyền giải quyết

TCKDTM tại Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:

“1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ

thẩm những tranh chấp sau đây:

b) Tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của

Bộ luật này”

Theo đó, Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với

nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải

quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án

nhân dân cấp huyện (Điều 36, Khoản 1, BLTTDS (2015).

(ii) Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh:

Điều 37, BLTTDS (2015) quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh như sau:

36

“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

những vụ việc sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1

và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này.

2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện

quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên

để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp

huyện.”

Như vậy, theo quy định này, các tranh chấp KDTM được quy định tại Điều

30, các khoản 2, 3, 4, 5, BLTTDS (2015) sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh. Tuy nhiên, đối với các vụ việc KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân

dân cấp huyện, khi xét thấy cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết

hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện, thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh

cũng có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc KDTM đó.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh được cơ cấu bởi các Tòa chuyên trách khác nhau,

như: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế… Do vậy, để phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ của mình, các Tòa chuyên trách có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân

sự khác nhau. Điều 38, khoản 3, BLTTDS (2015) quy định về thẩm quyền của các

Tòa chuyên trách - Tòa án nhân dân cấp tỉnh như sau:

“3. Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:

a) Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh

thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37

của Bộ luật này.”

2.1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

Vấn đề xác định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ chỉ được đặt ra khi các

bên tranh chấp có trụ sở hoặc nơi đăng kí ở khác địa phương. Về nguyên tắc, các

bên không được lựa chọn Toà án để giải quyết vụ tranh chấp, mà pháp luật tố tụng

37

sẽ quy định loại thẩm quyền này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định,

pháp luật cho phép các bên được thoả thuận với nhau về Tòa án xét xử vụ tranh

chấp; hoặc nếu không có sự thoả thuận trước đó thì nguyên đơn có quyền đơn

phương lựa chọn Toà án giải quyết vụ tranh chấp. Quy định này nhằm bảo đảm tính

khả thi của quyền khởi kiện và giúp quá trình giải quyết tranh chấp được thuận lợi,

tiết kiệm thời gian, công sức và tiền bạc cho các bên có tranh chấp.

Như vậy, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là giới hạn do pháp luật quy

định xác định chức năng giải quyết các vụ việc KDTM của Tòa án theo đơn vị hành

chính lãnh thổ. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định Tòa án có nghĩa vụ

giải quyết các vụ việc KDTM theo yêu cầu của đương sự khi họ khởi kiện. Thẩm

quyền của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo các tiêu chí sau:

1) Theo thỏa thuận

2) Theo sự lựa chọn của đương sự.

3) Nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở chính.

Nhìn chung, pháp luật tố tụng của nước ta quy định về thẩm quyền giải quyết

tranh chấp KDTM theo lãnh thổ của Tòa án cũng khá tương đồng với pháp luật của

các nước trên thế giới.

2.1.2.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn

Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là giới hạn do luật

định cho các chủ thể trong việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh

chấp hợp đồng KDTM. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là

hình thức pháp luật đưa ra các quy định về các Tòa án có thẩm quyền giải quyết và

nguyên đơn được lựa chọn theo ý chí của mình.

Thực chất của thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn là ngoại lệ của

những quy tắc chung về thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật TTDS, bên cạnh

những tranh chấp nguyên đơn bắt buộc phải khởi kiện tại Tòa án đã quy định thì

pháp luật trao quyền chủ động cho nguyên đơn được tự mình quyết định chọn Tòa

án để khởi kiện một số tranh chấp khác.

Quy định này hướng đến mục tiêu là tạo sự thuận lợi cho nguyên đơn bảo vệ

quyền của họ. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn được quy

38

định trong BLTTDS được chia thành hai loại: lựa chọn có điều kiện và lựa chọn

không có điều kiện. Việc pháp luật quy định thẩm quyền theo sự lựa chọn của

nguyên đơn là nhằm tăng cường quyền chủ động của công dân trong việc bảo vệ

quyền lợi của mình trước Tòa án, đồng thời giúp Tòa án áp dụng thống nhất các quy

định về thẩm quyền xét xử.

2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại tại Tòa án

Một là: Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại

Giai đoạn khởi kiện là giai đoạn đầu tiên để bắt đầu quy trình giải quyết

tranh chấp hợp đồng thương mại, khi một trong các bên có quyền đưa đơn khởi kiện

lên Tòa án có thẩm quyền nhằm giải quyết tranh chấp của họ, yêu cầu hoặc buộc

bên còn lại phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Quyền khởi kiện này được quy

định tại Điều 186 BLTTDS năm 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự

mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là

người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình”. Quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức chỉ phát sinh khi các quyền

và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, và khi bên khởi kiện thực hiện hành vi khởi kiện

đến tòa án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan tòa án trực tiếp giải quyết tranh chấp

cũng như để bảo vệ các quyền lợi của bên khởi kiện. Đồng thời pháp luật dân sự

Việt Nam chỉ thừa nhận đối với những chủ thể có thực quyền khởi kiện mới có thể

khởi kiện tranh chấp tại Tòa án (quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp

pháp để khởi kiện). Đây là yêu cầu bắt buộc để hạn chế các tranh chấp bị đưa ra tòa

án không đúng thực quyền. Việc khởi kiện của người khởi kiện được thực hiện bởi

hành vi gửi đơn khởi kiện đến Tòa án.

Đơn khởi kiện là hình thức biểu đạt yêu cầu của người khởi kiện đến tòa án

nhằm mục đích yêu cầu tòa án giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong hoạt động kinh

doanh thương mại. Đơn khởi kiện phải thể hiện rõ nội dung vụ việc và những yêu

cầu của người khởi kiện đối với Tòa án và là sơ sở quan trọng để Tòa án xem xét,

quyết định việc có thụ lý hay không thụ lý. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện

được quy định tại Điều 189 BLTTDS 2015.

39

Ngoài đơn khởi kiện ra, khi một bên yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp của

mình họ còn phải gửi kèm các tài liệu, chứng cứ để chứng minh căn cứ khởi kiện.

Tuy mỗi tranh chấp khác nhau có một nội dung khác nhau song hầu hết mỗi vụ án

tranh chấp KDTM được Tòa án chấp nhận thụ lý giải quyết đều phải đáp ứng đủ các

tài liệu cơ bản như: (i) Đơn khởi kiện do người có quyền khởi kiện bị xâm phạm

quyền và lợi ích hợp pháp; (ii) Tài liệu về tư cách pháp lý của người khởi kiện, của

các đương sự và người có liên quan khác như: giấy phép kinh doanh, điều lệ hoạt

động, quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,

quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp, văn bản ủy quyền; (iii)

Hợp đồng hoặc văn bản, tài liệu giao dịch có giá trị như hợp đồng kèm theo phụ lục

hợp đồng (nếu có); (iv) Tài liệu về đảm bảo thực hiện hợp đồng như: hợp đồng cầm

cố, thế chấp tài sản, biên bản giao nhận hàng, các biên bản nghiệm thu, các chứng

từ thanh toán, biên bản thanh lý hợp đồng, các biên bản làm việc về công nợ; (v)

Trong từng trường hợp cụ thể còn có các tài liệu giao dịch khác.

Phương thức gửi đơn và thủ tục nhận đơn khởi kiện của Tòa án được quy

định tại Điều 190 và 191 BLTTDS năm 2015. Theo đó, người khởi kiện gửi đơn

khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền

giải quyết vụ án bằng các phương thức như: (i) Nộp trực tiếp tại Tòa án; (ii) Gửi

đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; (iii) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện

tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Đồng thời, Tòa án qua bộ phận

tiếp nhận đơn phải nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án

hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án

nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản

giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.

Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy

xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch

vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải

gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện. Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng

phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho

người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Để hạn chế việc

40

thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền, khi nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán sẽ

kiểm tra và chú trọng đến các bản hợp đồng được giao kết trực tiếp giữa các bên để

xác định trong hợp đồng các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

hay không. Nếu có căn cứ cho thấy trong vụ tranh chấp đó các bên đã có thỏa thuận

trọng tài thì Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 để từ chối thụ lý

vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án

thẩm phán mới phát hiện các bên đã có thỏa thuận trọng tài trước đó, thì lúc này

thẩm phán phải ra quyết định đình chỉ vụ án, trả lại hồ sơ khởi kiện cho đương sự

theo Điều 192, Điều 217 và Điều 218 BLTTDS 2015.

Tuy nhiên, theo quy định Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì

tùy từng trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không

thực hiện được thì Tòa án vẫn có thể thụ lý vụ án. Sau khi tiến hành thụ lý vụ án,

thẩm phán ra thông báo thụ lý vụ án. Thông báo này sẽ được chuyển đến các đương

sự và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc (Điều 196 BLTTDS

2015). Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý

vụ án tranh chấp KDTM nhìn chung đã đầy đủ và đảm bảo cho một quy trình tố

tụng chung tại Tòa án, tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ, song khi áp dụng thực tế

vẫn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.

Hai là: Hòa giải và chuẩn bị xét xử tại Tòa án

Trình tự thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử chủ yếu đề cập đến thời hạn

chuẩn bị xét xử và những công việc mà tòa án cần phải thực hiện trước khi mở

phiên tòa công khai. Thời hạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian cần thiết để Tòa

án tiến hành lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải vụ án và xem

xét để đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn này được tính từ ngày Tòa án thụ lý đến ngày

Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Điều 203 BLTTDS 2015. Thời hạn chuẩn

bị xét xử đối với vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại là hai tháng. Trong trường

hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể gia

hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá một tháng. Việc quy định thời hạn

như vậy nhằm đảm bảo yêu cầu thời gian giải quyết vụ án được nhanh chóng và kịp

thời.

41

Thực tế tại Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết những vụ án tranh chấp hợp

đồng thương mại cần khoảng thời gian ít nhất bốn tháng, thậm chí có những vụ án

kéo dài hàng năm do thiếu nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do đương sự kháng cáo

lên tòa phúc thẩm. Đối với quy định này không có chế tài cụ thể cho vi phạm của

Tòa án nên dù có quy định về thời hạn xét xử hay không thì cũng không giới hạn

được thời hạn xét xử thực tế của tòa án. Do tính chất phức tạp của vụ án, Tòa án

thường tìm cách trì hoãn việc xét xử án cũng như kéo dài thời gian giải quyết án,

gây ảnh hưởng đến các đương sự.

Trong thời gian chuẩn bị cho công tác xét xử, Tòa án tiến hành các công

việc chủ yếu như phải chuyển thông báo thụ lý đến các đương sự và Viện kiểm sát

cùng cấp. Sau đó, theo quy định của luật tố tụng, sau khi thụ lý vụ án, để phục vụ

cho công tác xét xử được thuận lợi tòa án có quyền yêu cầu đương sự cung cấp, bổ

sung chứng cứ hoặc Tòa án tự mình tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ làm căn

cứ cho việc giải quyết vụ án theo quy định khoản 2 Điều 6 BLTTDS 2015. Tuy

nhiên các quy định của hòa giải và chuẩn bị xét xử chỉ được quy định trong phần

quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, mà không có quy định cụ thể

nào.

Thực tiễn, công tác xét xử cho thấy, việc tiến hành thu thập chứng cứ của

Tòa án lại được áp dụng chủ yếu ở giai đoạn này, mặc dù các quy định về thẩm

quyền thu thập chứng cứ của Tòa án và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự

khá rõ ràng, song việc thực hiện trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân

là vì không có một chế tài cụ thể nào buộc đương sự phải đưa ra các chứng cứ liên

quan đến hoạt động tranh chấp hợp đồng, nên gây nhiều khó khăn cho công tác xét

xử. Có trường hợp đương sự đến giai đoạn Tòa đưa ra quyết định, bản án khi thấy

không có lợi cho mình thì mới cung cấp bằng chứng mới, hoặc sử dụng bằng chứng

đó để kháng cáo lên Tòa án ở cấp phúc thẩm.

Ngoài ra ở giai đoạn này, Tòa án còn phải tiến hành hòa giải để các đương

sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Hòa giải là thủ tục bắt buộc

để giải quyết không chỉ các vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại mà ở bất cứ vụ

án tranh chấp nào thì Tòa án cũng sẽ tiến hành tổ chức các buổi hòa giải nhằm mục

42

đích để giúp các bên tranh chấp tự tiến hành thỏa thuận với nhau về nội dung tranh

chấp. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp không được hòa giải hoặc không tiến

hành hòa giải được. Khi vụ án ở trong trường hợp không thể hòa giải được thì Tòa

án quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không cần phải hòa giải. Các vụ án tranh chấp

hợp đồng thương mại sau đây không tiến hành hòa giải được:

- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

- Đương sự không thể tham gia được vì lý do chính đang.

- Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.

Thực tiễn công tác xét xử cho thấy, đặc biệt là ở cấp sơ thẩm, hòa giải là

giai đoạn hết sức quan trọng, từ đây có thể cho thấy mức độ mâu thuẫn của tranh

chấp cũng như đánh giá khả năng giải quyết mâu thuẫn của các bên tranh chấp, đòi

hỏi người giải quyết phải nỗ lực, các bên phải có thiện chí tháo gỡ mâu thuẫn. Tuy

nhiên, kỹ năng hòa giải của các Thẩm phán ở nhiều nơi hiện nay còn chưa tốt. Việc

hòa giải hiện nay hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Xu hướng

chung của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ đúng sai giữa các doanh nghiệp

chứ không phải quan tâm đến vấn đề lợi nhuận. Trong khi đó, giải quyết vấn đề lợi

nhuận lại là cách hiệu quả nhất để thực hiện hòa giải. Nếu việc hòa giải không thành

có thể dẫn đến mâu thuẫn tranh chấp ngày càng trầm trọng thêm và việc thúc đẩy sự

thương lượng tự thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau

sẽ kém hiệu quả.

Kết thúc việc hòa giải tại Tòa án đồng thời kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử

tòa án ra một các các quyết định tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS 2015: (i) Công nhận

sự thỏa thuận của các đương sự; (ii) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; (iii) Đình

chỉ giải quyết vụ án dân sự; (iv) Đưa vụ án ra xét xử. Tòa án tổ chức hòa giải và các

bên tranh chấp hòa giải thành, các vấn đề tranh chấp được các bên thỏa thuận với

nhau về cách thức giải quyết thì tòa án lập biên bản hòa giải thành, theo khoản 5 Điều

211 BLTTDS 2015. Thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà

không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một

thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự. Nếu có vấn đề cần bổ sung, thay thế, điều chỉnh thì các bên phải có

43

văn bản yêu cầu Tòa án bổ sung trước khi Tòa án ban hành quyết định công nhận sự

thỏa thuận theo Điều 212 BLTTDS. Việc hòa giải thành một vụ án tranh chấp KDTM

không chỉ giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn đơn giản hóa thủ tục, tiết

kiệm thời gian và công sức, tiền bạc cho các đương sự. Đây cũng là ưu điểm của thủ

tục tố tụng tại Tòa án, trường hợp các bên đương sự mặc dù đã tiến hành các thủ tục

khiếu nại song vẫn có thể tự do thỏa thuận lại với nhau lại với nhau về cách giải quyết

tranh chấp.

Trong trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận với nhau được, thì

Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Trong trường hợp ở buổi hòa giải đầu tiên các bên không thể thỏa thuận được với

nhau về các vấn đề tranh chấp thì Tòa án có thể tổ chức thêm một vài buổi hòa giải

nữa, thông thường Tòa án có thể tổ chức hai hoặc ba buổi hòa giải cho một vụ tranh

chấp, cho đến khi việc hòa giải không đạt hiệu quả thì Tòa án quyết định đưa vụ án

ra xét xử công khai, bắt đầu giai đoạn kế tiếp của quy trình giải quyết vụ án. Ở giai

đoạn này, trong trường hợp vì những lý do khách quan, Tòa án có quyền ra quyết

định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 214 BLTTDS về tạm đình

chỉ giải quyết vụ án dân sự.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải

quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức,

cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Về quy định BLTTDS 2015 chỉ nêu

chung chung tại Điều 216: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm

đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa

án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho

đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp”.

Đặc biệt là việc BLTTDS 2015 có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ

án được tính bắt đầu lại kể từ khi Tòa án có quyết định tiếp tục giải quyết vụ án tạm

đình chỉ. Do đó, phía Tòa án khi thụ lý, giải quyết vụ án thường lợi dụng nhược

điểm này của BLTTDS 2015 để tác động, trì hoãn việc giải quyết việc giải quyết vụ

án. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chậm trễ trong giải

quyết tranh chấp hợp đồng thương mại hiện nay. Ngoài việc Tòa án có quyền ra

44

quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi đương sự thỏa thuận được

với nhau về các vấn đề giải quyết đối với tranh chấp trước khi mở phiên tòa hoặc

Tòa án có quyền ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp có yếu tố

khách quan gây cản trở quá trình giải quyết vụ án thì tòa án cũng có thể ban hành

quyết định đình chỉ vụ án trong các trường hợp được quy định tại Điều 217

BLTTDS 2015. Theo đó trường hợp tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án là trường

hợp kết thúc vụ án khi tranh chấp không còn chứ không phải là trường hợp tòa án

giải quyết vụ án triệt để, các bên vẫn có thể khởi kiện lại vụ án tranh chấp của họ.

Về thời hiệu giải quyết vụ án, theo Điều 184, BLTTDS 2015, thời hiệu khởi

kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ

luật dân sự. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời

hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi

Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Mặc dù thời hiệu

không phải là một điều kiện thụ lý vụ án nhưng Tòa án phải xem xét khi trường hợp

có đương sự yêu cầu áp dụng. Khi thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết và một trong các

bên yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án phải ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ

án. Tuy nhiên, giữa Luật Thương mại và các Luật chuyên ngành còn nhiều vấn đề

mâu thuẫn về thời hiệu khởi kiện nên việc Tòa án xem xét, đánh giá vấn đề này gặp

nhiều khó khăn.

Ba là: Đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm

Trong trường hợp đương sự trong vụ án không có thay đổi nào khác cũng

như không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết các nội dung tranh chấp thì

thẩm phán trực tiếp thụ lý vụ án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai

của tòa án. Nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử được quy định tại Điều 220

BLTTDS 2015. Quyết định này được giao cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng

cấp trong thời hạn ba ngày từ khi ra quyết định. Sau thời hạn một tháng kể từ ngày

ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tòa án phải mở phiên tòa xét xử công

khai vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án cần giải quyết các vấn đề khi nguyên đơn, bị

đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình giải

45

quyết vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại của Tòa án bắt đầu từ khi bên khởi

kiện có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bất đồng liên

quan đến hợp đồng KDTM với bên bị kiện. Theo quy định tại Điều 70, Điều 71,

Điều 73 BLTTDS 2015 về quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn, người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng

mặt có lý do chính đáng thì hoãn phiên tòa, đến lần thứ hai mà vắng mặt thì tòa án

giải quyết vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Đối với trường hợp tại phiên tòa nguyên đơn trong vụ án có đơn xin rút đơn

khởi kiện hoặc phát hiện một hoặc một số các tình huống được quy định tại Điều

214 BLTTDS 2015, thì Tòa án ra quyết định đình chỉ tại phiên tòa. Đối với trường

hợp tại phiên tòa các đương sự trong vụ án lại thỏa thuận được với nhau về việc giải

quyết vụ án thì tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên

tòa. Bản chất của quyết định đình chỉ tại phiên tòa hoặc quyết định công nhận sự

thỏa thuận tại phiên tòa giống như một bản án nhưng cách thức giải quyết hậu quả

của các quyết định này lại giống quyết định đình chỉ hoặc quyết định công nhận

thông thường. Đối với quyết định đình chỉ, các bên vẫn có quyền kháng cáo, Viện

kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đối với quyết định công

nhận các bên có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm.

Tuy nhiên, các thủ tục cấp, tổng đạt quyết định này lại giống như là một bản

án. Do đó đối với trường hợp tòa án đình chỉ vụ án tại phiên tòa hoặc công nhận sự

thỏa thuận tại phiên tòa sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, các thủ tục tố

tụng diễn ra lâu hơn trường hợp Tòa án đình chỉ vụ án, hoặc công nhận sự thỏa

thuận của các đương sự trước đó. Trường hợp đương sự không có thỏa thuận nào

khác hoặc không có thay đổi nào khác thì Tòa án quyết định phân xử trên cơ sở các

tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, sự đánh giá và nhận định của hội đồng xét xử.

Thủ tục tranh tụng theo pháp luật TTDS được quy định từ Điều 247 đến Điều

363 BLTTDS hiện hành. Thủ tục tranh tụng được tiến hành tuần tự theo các bước:

Trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; hỏi

để xác định yêu cầu của đương sự và về sự thỏa thuận của các đương sự; các bên

46

đương sự trình bày về nội dung vụ án và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của

mình; hỏi để làm rõ những vấn đề mà đương sự trình bày về nội dung vụ án và

chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; hỏi để làm rõ những vấn đề mà đương

sự trình bày chưa rõ hoặc có mâu thuẫn; công bố tài liệu của vụ án, xem xét vật

chứng. Mục đích của tranh tụng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa

vụ của các bên trong tranh chấp KDTM, bên cạnh đó, nhờ có hệ thống những quy

định về tranh tụng hết sức chặt chẽ mà các chủ thể có thể tự mình hoặc thông qua

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trình bày ý kiến, đưa ra những

chứng cứ, tài liệu, lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Trên

sở sở tranh tụng sẽ giúp HĐXX giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và chính

xác.

Việc phát biểu, tranh luận, đối đáp được thực hiện theo Điều 260 – 263

BLTTDS 2015. Bản chất của việc tranh luận là đối đáp giữa các bên đương sự về

chứng cứ, lý lẽ và quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp các

bên có ý kiến khác nhau về yêu cầu, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật và quan

điểm giải quyết vụ án thì theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, các đương sự

đối đáp với nhau. Vì vậy, Chủ tọa phiên tòa điều khiển việc đối đáp của các bên

đương sự tập trung vào những vấn đề mâu thuẫn và giải quyết nội dung vụ án. Phát

biểu của các bên khi tranh luận chính là việc các bên thể hiện quan điểm của mình

về việc đánh giá chứng cứ, đánh giá yêu cầu của mình là đúng đắn, có cơ sở. Trên

cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra và hỏi tại phiên tòa, trong phần tranh luận,

thông qua các quy định của pháp luật, các đương sự đưa ra lý lẽ, lập luận chứng

minh cho HĐXX, đương sự phía còn lại và những người tham gia tố tụng thấy yêu

cầu và sự phản đối yêu cầu của mình là đúng đắn và phía đương sự bên kia phải có

nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình. Cuối cùng, đại diện Viện kiểm sát đưa ra ý kiến

về việc giải quyết vụ án tức phát biểu cả về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án.

Quan điểm của Kiểm sát viên là một trong những hướng để HĐXX cân nhắc khi

nghị án, để đưa ra bản án có căn cứ và đúng pháp luật.

Kết quả giải quyết vụ án được thể hiện trên bản án, có nội dung và hình thức

được quy định tại Điều 266 BLTTDS 2015.

47

Sơ đồ 2.1: Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại

48

2.1.4 Một số đánh giá đối với các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp

đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án

Tòa án là cơ quan tài phán của Nhà nước áp dụng pháp luật để xét xử trong

trường hợp xảy ra tranh chấp hợp đồng KDTM phát sinh giữa các chủ thể mà họ

không thể tự giải quyết được với nhau và một bên có đơn khởi kiện yêu cầu can

thiệp của tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về

giải quyết tranh chấp thương mại nói chung cũng như tranh chấp hợp đồng KDTM

nói riêng tương đối đồng bộ và toàn diện, đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với

thực tế, có tính dự báo và hoàn thiện về nội dung. Theo đó, Tòa án chỉ giải quyết

tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền của mình theo quy định tại Điều 30 BLTTDS

2015 và giữa các bên không có thỏa thuận về phương thức Trọng tài. Ngoài ra,

thẩm quyền của của Tòa án còn được phân định theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ và

theo sự lựa chọn của nguyên đơn.

Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, Tòa án có thẩm quyền áp dụng

pháp luật với vai trò là bên thứ ba, là cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp được

yêu cầu. Việc giải quyết tranh chấp trên cơ sở quy định pháp luật hiện hành. Tòa án

sẽ nhân danh quyền lực Nhà nước để ban hành bản án hoặc quyết định có giá trị bắt

buộc thi hành với các bên đương sự bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.

Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án được tiến hành theo

thủ tục tố tụng tư pháp tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Một

trong những điểm đặc thù khi giải quyết hợp đồng KDTM tại Tòa án là phải tuân

thủ những nguyên tắc cơ bản như đã phân tích ở trên. Do đó, bên cạnh pháp luật về

thủ tục tố tụng, pháp luật nội dung là nguồn luật quan trọng để Tòa án áp dụng khi

xét xử tranh chấp nói chung và tranh chấp hợp đồng KDTM nói riêng.

Các văn bản chủ yếu mà Tòa án thường dùng làm căn cứ pháp lý để giải

quyết tranh chấp hợp đồng KDTM thuộc thẩm quyền của mình gồm: Bộ luật dân sự

2015, Luật Thương mại 2019, Luật Kinh doanh bất động sản 2014, Luật Chứng

khoán 2019, Luật Du lịch 2005, Luật Dược 2016, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật

Xây dựng 2014, Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020, Luật Đầu tư công

2019, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000… Hệ thống các văn bản pháp luật khá đầy

49

đủ và chặt chẽ này là cơ sở cho việc Tòa án giải quyết các tranh chấp hợp đồng

KDTM được nhanh chóng, chính xác, hiệu quả cao.

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa

án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang

2.2.1. Tổng quan về Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang nằm trên địa bàn phố Tuyên Quang

có tổng diện tích đất tự nhiên là 11921.00 ha, nằm ở trung tâm của tỉnh Tuyên

Quang. Toàn thành phố có đường quốc lộ 2 và quốc lộ 37 chạy qua và cùng với các

tuyến đường liên huyện liên xã, phường tạo thành mạch máu giao thông chính nối

liền các huyện, xã trong khu vực, trung tâm thành phố đồng thời nối liền với các

tỉnh bạn. thuận lợi cho việc lưu thông và phát triển kinh tế, văn hoá, hệ thống giao

thông liên xã, phường, liên thôn đã được trải nhựa và bê tông. Thành phố Tuyên

Quang là trung tâm kinh tế - xã hội của tỉnh, có mật độ dân số cao nhất tỉnh, có trình

độ dân trí cao và tương đối đồng đều. Kinh tế của thành phố tiếp tục phát triển, tốc

độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt trên 17%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét

theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp.

Công nghiệp có chuyển biến tích cực, một số dự án công nghiệp, nhà máy quy mô

lớn hoàn thành và đưa vào sử dụng. Dịch vụ, du lịch từng bước trở thành ngành

kinh tế quan trọng; quan tâm đầu tư, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích

lịch sử - văn hóa. Sản xuất nông nghiệp chuyển dịch mạnh theo hướng sản xuất

hàng hóa gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm, giúp cho nhiều hộ nông

dân có thu nhập cao từ sản xuất nông nghiệp. Những đặc điểm về điều kiện địa lý tự

nhiên, kinh tế - xã hội trên của thành phố Tuyên Quang đã tác động tích cực tới chất

lượng giải quyết các vụ án nói chung và vụ án tranh chấp KDTM nói riêng của Tòa

án nhân dân thành phố Tuyên Quang nói riêng, cụ thể: Tạo điều kiện thuận lợi trong

việc đi thu thập chứng cứ, tiện lợi cho người dân đi lại trong quá trình giải quyết vụ

án, nhận thức của người dân cao nên việc tuyên truyền, giải thích pháp luật có hiệu

quả. Do vậy, tỷ lệ hòa giải thành các vụ án cao.

Tuy nhiên, kinh tế phát triển làm cho các tranh chấp KDTM ngày càng nhiều

về cả tính chất cũng như số lượng. Do vậy trong những năm qua tỷ lệ án KDTM của

50

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang tăng và tính chất ngày càng phức tạp.

Đáp ứng nhu cầu thực tiễn Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang có tổng

số biên chế được phân bổ là 20 người, có 01 Chánh án, 02 phó Chánh án. Đơn vị có

08 Thẩm phán, 07 thư ký và 02 chức danh khác. Hợp đồng lao động theo Nghị định

68/CP có 03 người.

Về trình độ chuyên môn, 100% Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký của

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có trình độ cử nhân Luật, trong đó có 01

người có trình độ thạc sỹ Luật. Về trình độ lý luận chính trị, 100% Thẩm phán cuả

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở

lên, trong đó có 02 người có trình độ cao cấp lý luận chính trị.

Về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác: các

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có trụ sở làm việc đạt yêu cầu, theo đúng

mẫu thiết kế, tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu cầu công tác của Tòa án nhân dân tối cao;

hiện tại có đơn vị Tòa án thành phố Tuyên Quang lượng án hàng năm phải giải

quyết khoảng 650 vụ án. Về trang thiết bị kỹ, phương tiện: Được sự quan tâm của

Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã mua sắm,

được cấp phát tài sản theo đề án gồm: ô tô, máy tính, máy photo, giá đựng tài liệu,

bàn ghế, xe máy công... cơ bản đáp ứng được nhu cầu về trang thiết bị để phục vụ

cho công tác chuyên môn.

2.2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng thương

mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang

Trong giai đoạn 2015- 2019 tại thành phố Tuyên Quang, cùng với số lượng

các hoạt động KDTM ngày càng nhiều hơn, thì số vụ tranh chấp hợp đồng KDTM

cũng dần có xu hướng tăng cả về số vụ việc, lẫn tính chất phức tạp. Điều này đặt ra

yêu cầu đối với Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang cần đẩy mạnh và hoàn

thiện công tác xét xử, nhằm giải quyết nhanh chóng, triệt để các vụ việc, nhằm đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong hoạt động thương mại,

góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giúp các doanh nghiệp nhanh chóng ổn

định kinh doanh sản xuất, và đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

51

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang đã đạt được một số kết quả nhất định trong công tác xét xử giải quyết

tranh chấp hợp đồng thương mại, thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng kinh

doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang giai đoạn

năm 2015 - năm 2019

Số vụ án đã giải quyết Thụ Số vụ án Tỷ lệ giải Tạm Công Năm lý Chuyển Đình Xét còn lại quyết (%) đình nhận thỏa (vụ) hồ sơ chỉ xử chỉ thuận

12 - 2015 3 2 - 1 6 50%

14 - 2016 5 3 - - 6 57%

22 - 2017 5 4 - 4 9 59%

25 - 2018 6 6 - 9 4 84%

31 - 2019 6 13 - 7 3 90%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2015 - 2019 của Tòa án nhân dân

thành phố Tuyên Quang).

- Năm 2015: thụ lý tổng số 12 vụ, đã giải quyết 6 vụ, đạt tỷ lệ 50% (xét xử: 3

vụ; công nhận hòa giải thành: 2 vụ; Đình chỉ: 01 vụ).

- Năm 2016: thụ lý tổng số 14 vụ, đã giải quyết 8 vụ, đạt tỷ lệ 57% (xét xử: 5

vụ; công nhận hòa giải thành: 3 vụ).

- Năm 2017: thụ lý tổng số 22 vụ, đã giải quyết 13 vụ, đạt tỷ lệ 59% (xét xử:

5 vụ; công nhận hòa giải thành: 4 vụ; đình chỉ: 4 vụ).

- Năm 2018: thụ lý tổng số 25 vụ, đã giải quyết 21 vụ, đạt tỷ lệ 84% (xét xử:

06 vụ; công nhận hòa giải thành: 06 vụ; đình chỉ: 09 vụ).

- Năm 2019: thụ lý tổng số 31 vụ, đã giải quyết 26 vụ, đạt tỷ lệ 90% (trong

đó: xét xử: 02 vụ; công nhận hòa giải thành: 08 vụ; đình chỉ: 05 vụ).

Như vậy, thông qua những số liệu trên có thể thấy, những năm qua, tình hình

tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đang

ngày càng diễn biến phức tạp. Năm 2015, số vụ án mà Tòa án đã thụ lý là 12 vụ, thì

52

đến năm 2019, số vụ thụ lý đã tăng lên đến 31 vụ. Như vậy, năm 2019 số vụ án

tranh chấp hợp đồng KDTM đã tăng 258,3% so với năm 2015, và dự báo năm 2020

sẽ còn tiếp tục tăng. Các vụ án Tòa án thụ lý và giải quyết chủ yếu là các tranh chấp

hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng thế chấp, tranh chấp hợp đồng mua bán

hàng hóa bên cạnh đó còn một số loại việc tranh chấp khác chiếm tỷ lệ rất ít như:

tranh chấp hợp đồng góp vốn và chuyển nhượng góp vốn, tranh chấp hợp đồng về

thuê, cho thuê, thuê mua.

Trước tình hình đó, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã có nhiều cố

gắng trong công tác xét xử giải quyết tranh chấp về hợp đồng KDTM. Trên cơ sở

các quy định của pháp luật TTDS và chỉ tiêu của ngành Tòa án, có thể đánh giá

công tác giải quyết án KDTM của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đạt

được kết quả rất đáng ghi nhận, đặc biệt không có vụ án nào quá hạn luật định (vi

phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử) và vi phạm thời hạn tố tụng khác. Cụ thể là tỷ lệ

giải quyết vụ việc trong giai đoạn 2015 – 2017 luôn có tỷ lệ trên 50%. Năm 2018, tỷ

lệ giải quyết án là 84% và năm 2019 đạt tỷ lệ giải quyết là 90%. Dù số vụ án thụ lý

ngày càng tăng nhưng thông qua công tác xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên

Quang đã phần nào giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, bảo vệ quyền lợi của các

bên liên quan. Mặc dù khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải,

nhưng số vụ hòa giải thành được công nhận vẫn rất thấp. Năm 2015 có 2 vụ hòa giải

thành, đến năm 2017 là 4 vụ. Năm 2019 có 13 vụ án hòa giải thành. So với số vụ án

thụ lý và đưa ra xét xử thì số vụ hòa giải thành như vậy là thấp. Nguyên nhân là vì

trong nhiều vụ án, công tác hòa giải chỉ mang tính chất hình thức, thủ tục, vì bên bị

kiện đã tỏ thái độ bất hợp tác ngay từ khi bắt đầu thủ tục giải quyết tranh chấp, do

đó họ cũng không có mặt trong quá trình hòa giải. Đây là vấn đề phổ biến xảy ra

trong thực tiễn xét xử ở Tuyên Quang, dẫn đến việc tổ chức các buổi hòa giải không

cần thiết gây lãng phí tiền bạc, thời gian của các bên và của Tòa án.

Nhìn chung, các vụ án tranh chấp KDTM nói chung và tranh chấp hợp đồng

KDTM nói riêng được Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang chú trọng thực

hiện, áp dụng đúng các quy định của BLTTDS 2015 cũng như các quy định về pháp

luật nội dung để giải quyết một cách khách quan, chính xác, về cơ bản đảm bảo

53

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Đảm bảo các nguyên tắc giải

quyết tranh chấp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp và đảm bảo về trình tự thủ tục

giải quyết tranh chấp. Công tác hòa giải được đặc biệt coi trọng nhằm giải quyết

mâu thuẫn giữa các bên đương sự, củng cố đoàn kết trong nhân dân, góp phần đảm

bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

2.2.2.1. Về nguyên tắc giải quyết tranh chấp.

Khi giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM, Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang luôn định hướng theo nguyên tắc hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi

để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc. Trong suốt các giai

đoạn của quá trình tố tụng Tòa án luôn tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt

của các đương sự: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải

quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình

hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã

hội.

Ví dụ: Vụ án KDTM thụ lý số: 09/2018/TLST-KDTM ngày 05 tháng 6 năm

2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng sản xuất và thi công công việc”.

Nội dung vụ án : Ngày 14/06/2011 Công ty TNHH MTV Phú Gia ký hợp

đồng số 17/HĐKT/2011 thuê Công ty TNHH Hiệp Phú sản xuất và thi công bê tông

nhựa Asphanlt hạt trung dày 7cm tại công trình đường số 4 Thị trấn Vĩnh Lộc,

huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang tổng giá trị 1.505.093.525 đồng. Sau khi ký

hợp đồng Công ty TNHH MTV Phú Gia đã chuyển khoản 800.000.000 đồng tương

ứng 50% giá trị hợp đồng ( theo điều 5 hợp đồng) và Công ty TNHH Hiệp Phú đã

tiến hành tổ chức thi công đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng được nghiệm thu tại

biên bản làm việc ngày 09/7/2011 và biên bản xác định khối lượng ngày 10/7/2011.

Ngày 12/7/2011 hai bên tiến hành thanh lý hợp đồng Công ty TNHH MTV Phú Gia

còn phải trả cho Công ty TNHH Hiệp Phú số tiền là 705.093.525 đồng nhưng Công

ty TNHH MTV Phú Gia đã không thanh toán nốt số tiền còn lại và đến ngày

01/10/2011 Công ty TNHH Hiệp Phú đã chủ động làm biên bản đối chiếu công nợ

theo quy định. Từ khi đối chiếu công nợ Công ty TNHH Hiệp Phú nhiều lần làm

văn bản đề nghị Công ty TNHH MTV Phú Gia thanh toán và đến ngày 28/7/2014

54

Công ty TNHH MTV Phú Gia đã trả thêm 50.000.000 đồng. Ngày 30/9/2015 Công

ty TNHH Hiệp Phú đã làm đối chiếu công nợ xác nhận Công ty TNHH MTV Phú

Gia còn phải trả Công ty TNHH Hiệp Phú là 655.093.525 đồng (nợ gốc). Đến ngày

22/5/2018 do thời hạn hợp đồng kết thúc đã lâu, Công ty TNHH Hiệp Phú đã nhiều

lần gửi văn bản, gọi điện trực tiếp cho Ông Hà Ngọc Tân giám đốc Công ty TNHH

MTV Phú Gia đề nghị thanh toán hết số tiền còn lại nhưng công ty TNHH Một

thành viên Phú Gia vẫn không thực hiện việc thanh toán. Vì vậy công ty TNHH

Hiệp Phú yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty TNHH MTV Phú Gia trả nợ cho

Công ty TNHH Hiệp Phú số tiền nợ gốc và lãi theo điều 5 hợp đồng số

17/HĐKT/2011 ngày 14/6/2011, cụ thể như sau:

- Tiền nợ gốc theo hợp đồng 17/HĐKT/2011: 655.093.525 đồng

- Tiền lãi theo điều 5 hợp đồng số 17/HĐKT/2011: 503.077.386 đồng

+ Tính từ ngày 12/7/2011 đến tháng 28/7/2014: 273.576.288 đồng

+ Tính từ ngày 28/7/2014 đến tháng 5/2018: 229.501.098 đồng

Tổng số tiền Công ty TNHH MTV Phú Gia phải trả cho Công ty TNHH

Hiệp Phú là: 1.158.170.911đ (Một tỷ, một trăm năm mươi tám triệu, một trăm bảy

mươi ngàn, chín trăm mười một đồng).

Sau khi thụ lý vụ án, các đương sự có văn bản trình bày ý kiến về nội dung

vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã thông báo cho các bên đương sự

về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa

giải. Tại phiên hòa giải ngày 06/7/2018 bị đơn Công ty TNHH một thành viên Phú

Gia xác nhận việc công ty TNHH Hiệp Phú trình bày quá trình hai bên mua bán

hàng hoá và xác nhận công nợ là đúng. Lý do Công ty TNHH MTV Phú Gia chưa

thanh toán được số tiền hàng còn nợ là do hiện nay Công ty TNHH MTV Phú Gia

đang trong tình trạng khó khăn đứng bên bờ vực phá sản không có đủ khả năng

thanh toán số tiền lãi mà công ty TNHH Hiệp Phú mà chỉ có thể thanh toán số tiền

nợ gốc là 655.093.525 đồng. Nguyên đơn Công ty TNHH Hiệp Phú đồng ý để cho

bên Công ty TNHH MTV Phú Gia thanh toán số tiền nợ gốc là 655.093.525 đồng

mà không yêu cầu thanh toán lãi cho công ty TNHH Hiệp Phú. Tòa án đã lập biên

bản hòa giải thành 06/7/2018 về việc các đương sự thoả thuận được với nhau về

55

việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đã hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, không có

đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó nên Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang đã căn cứ vào biên bản hòa giải thành ngày 06 tháng 7 năm 2018 về

việc các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án

KDTM sơ thẩm thụ lý số: 09/2018/TLST-KDTM ngày 05 tháng 6 năm 2018 về việc

“Tranh chấp hợp đồng sản xuất và thi công công việc” ra quyết định số

11/2018/QĐKDTM-ST ngày 16 tháng 7 năm 2018 về việc công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự giữa Công ty TNHH Hiệp Phú và công ty TNHH một thành viên

Phú Gia, theo đó Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phú Gia phải trả cho

Công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Phú số tiền nợ gốc là 655.093.525 đồng (Sáu

trăm năm mươi lăm triệu, không trăm chín mươi ba nghìn, năm trăm hai mươi lăm

đồng).

Như vậy, việc Toàn án nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết

định công nhận sự thỏa thuận của đương sự hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc

“quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” theo Điều 5 BLTTDS 2015. Theo

đó, việc Công ty TNHH Hiệp Phú và công ty TNHH một thành viên Phú Gia là thỏa

thuận giải quyết vụ án là hoàn toàn tự nguyên. Việc xác định công nợ đã rõ ràng từ

sau khi thanh lý hợp đồng và xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Cả hai bên

đương sự đều thừa nhận toàn bộ công nợ hợp pháp, không vi phạm điều cấm của

pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên được Tòa án công nhận. Quyết định

công nhận sự thỏa thuận này của hai bên Công ty có hiệu lực pháp luật ngay sau khi

được ban hành ngày 16/7/2018 và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục

phúc thẩm.

2.2.2.2. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

Việc xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp KDTM của Tòa án nhân

dân thành phố Tuyên Quang cũng tuân theo các quy định của pháp luật TTDS.

Ví dụ: Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng

giữa Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) với

công ty TNHH một thành viên Phát An Hưng. Hợp đồng giữa hai bên được giao kết

56

và thực hiện giải ngân tiền vay tại Chi nhánh của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh

Tuyên Quang. Khi ký kết hợp đồng, các bên không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án

nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp. Đến hạn trả nợ, công ty TNHH

một thành viên Phát An Hưng không trả được nợ nên Ngân hàng nông nghiệp và

Phát triển nông thôn Việt Nam đã khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng với

Công ty TNHH một thành viên Phát An Hưng tại Tòa án thành phố Tuyên Quang

nơi có Chi nhánh của ngân hàng tại tỉnh Tuyên Quang.

Tại Bản án số 21/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân

thành phố Tuyên Quang về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn:

Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank). Địa chỉ: Số

2, Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Tạ Quang Trung - Chức vụ: Giám đốc

Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Tuyên

Quang (Theo giấy ủy quyền số 510/QĐ-HĐTV-PC 19/6/2014 của chủ tịch Hội

đồng thành viên Agribank).

Địa chỉ: Số 112 - đường Nguyễn Văn Cừ, phường Minh Xuân, thành phố

Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

* Bị đơn: Công ty TNHH một thành viên Phát An Hưng

Địa chỉ: Số nhà 558, tổ 02 (nay là tổ 1), phường Nông Tiến, thành phố Tuyên

Quang, tỉnh Tuyên Quang.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Minh Hiểu, sinh năm 1960 – Chức

vụ: Giám đốc.

Nội dung vụ án: Ngày 29/6/2011 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Tuyên Quang đã ký kết hợp đồng tín dụng hạn mức

số 8100 - LAV 201100793 giữa bên cho vay tiền là Ngân hàng và bên vay là Công

ty TNHH một thành viên Phát An Hưng. Thời hạn hạn mức 12 tháng (từ ngày

29/6/2011 đến ngày 19/6/2012), lãi xuất tại thời điểm ký hạn mức 19%/ năm. Tổng

số tiền hạn mức 1.400.000.000đ (Một tỷ bốn trăm triệu đồng). Tổng số tiền ngân

hàng đã giải ngân cho Công ty là 1.400.000.000đ. Tài sản bảo đảm cho khoản vay

là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất (nhà xây 03 tầng) theo Hợp đồng

57

thế chấp tài sản số 01/HĐTC ngày 29/6/2011 đã ký giữa ngân hàng với công ty và

anh Điệp, chị Hường có đăng ký giao dịch tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng

đất chi nhánh thành phố Tuyên Quang.

Do điều kiện khách quan, Công ty hoạt động không hiệu quả nên không

thanh toán được cho ngân hàng các khoản nợ đúng hạn. Bên ngân hàng đã tạo điều

kiện gia hạn nợ nhiều lần để Công ty khắc phục khó khăn nhưng cũng không khắc

phục được, ngân hàng đã có nhiều Biên bản làm việc với Công ty và bên có tài sản

bảo đảm là anh Điệp và chị Hường yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thế

chấp đã ký kết nhưng phía công ty cũng không trả được và bên có tài sản bảo đảm

không hợp tác để xử lý tài sản thế chấp. Do vậy, Ngân hàng đã có đơn khởi kiện

yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang giải quyết buộc Công ty TNHH

MTV Phát An Hưng phải thực nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng theo hợp

đồng tín dụng hạn mức số 8100 - LAV 201100793 ngày 29/6/2011 đã ký giữa Ngân

hàng với công ty. Nếu công ty không thanh toán được tiền thì ngân hàng có quyền

yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm của ông Hoàng Mạnh

Điệp và bà Nguyễn Thị Hường đã được đăng ký thế chấp ngày 29/6/2011, và nếu số

tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Agribank thông qua

Agribank - Chi nhánh tỉnh Tuyên Quang có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân

sự xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty để thu hồi nợ

theo quy định.

Qúa trình giải quyết và tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu

khởi kiện và đề nghị Tòa án giải quyết: Yêu cầu công ty TNHH một thành viên Phát

An Hưng có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền tạm tính đến hết ngày 25/11/2019

là 2.716.731.528 đồng (Hai tỷ bảy trăm mười sáu triệu bẩy trăm ba mươi mốt nghìn

năm trăm hai mươi tám đồng). Trong đó: Nợ gốc là 1.400.000.000đ (Một tỷ bốn

trăm triệu đồng); nợ lãi là 1.316.731.528đ (một tỷ ba trăm mười sáu triệu bẩy trăm

ba mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi tám đồng).

Trường hợp Công ty không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên

thì ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm

của ông Hoàng Mạnh Điệp và bà Nguyễn Thị Hường đã được đăng ký thế chấp

58

ngày 29/6/2011.

Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ

cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý bất

kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty để thu hồi nợ theo quy

định.

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã căn cứ vào các Điều 30, 35, 39,

147, 227, 228, 271, 273 - BLTTDS; các Điều 117, 299, 317, 319, 320, 323 BLDS;

Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tin dụng; Điều 179 Luật đất đai; Nghị quyết số

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định

về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên Phát An Hưng có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng nông

nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tổng số tiền nợ tính đến ngày

25/11/2019 là: 2.716.731.528 đồng (hai tỷ bẩy trăm mười sáu triệu bẩy trăm ba

mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi tám đồng). Trong đó: Nợ gốc là 1.400.000.000

đồng (Một tỷ bốn trăm triệu đồng); nợ lãi là 1.316.731.528 đồng (một tỷ ba mười

sáu triệu bẩy trăm ba mươi mốt nghìn năm trăm hai mươi tám đồng).

Kể từ ngày 26/11/2019, công ty còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số

tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp

đồng tín dụng số 8100-LAV201100793 ngày 29/6/2011 đã ký giữa công ty với

Ngân hàng cho đến khi thanh toán hết số nợ gốc.

Trường hợp Công ty không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ và lãi

phát sinh cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân

sự phát mại tài sản thế chấp của khoản vay nói trên là: Quyền sử dụng đất và tài sản

gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN637912 do UBND

thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố Tuyên Quang) cấp ngày 23/02/2009 mang

tên hộ ông Hoàng Mạnh Điệp và bà Nguyễn Thị Hường, thửa đất số 04, diện tích

98.3m2, tờ bản đồ số QH khu dân cư xóm 12, thuộc tổ 12 (nay là tổ 5), phường

Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang (theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và

59

tài sản gắn liền với đất số 01 ngày 29/6/2011).

Qua vụ việc này, có thể nhận định, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang

đã thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật. Hợp đồng tín

dụng trên có hoạt động giải ngân tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp

tỉnh Tuyên Quang, trụ sở tại thành phố Tuyên Quang. Tranh chấp này phát sinh từ

hoạt động tín dụng, cụ thể là cho vay của Chi nhánh. Theo điểm b, Khoản 1 Điều 40

BLTTDS 2015: “Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì

nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi

nhánh giải quyết”. Về thẩm quyền theo cấp tại Điều 37 BLTTDS, Tòa án nhân dân

cấp huyện có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án này. Do đó, Tòa án nhân dân

thành phố Tuyên Quang là nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết vụ án theo lựa chọn

của nguyên đơn.

2.2.2.3. Về thủ tục giải quyết tranh chấp.

Cơ bản các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại do Tòa án nhân dân

thành phố Tuyên Quang thụ lý giải quyết đều xác định đúng thẩm quyền và đảm

bảo đúng trình tự tố tụng quy định. Có những vụ án Tòa án phải xác định và giải

quyết rất nhiều quy định về trình tự thủ tục tố tụng để giải quyết đảm bảo theo quy định

của pháp luật như:

Vụ án KDTM thụ lý số: 03/2018/TLST - KDTM ngày 29 tháng 01 năm 2018

về Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn Công ty Cổ phần lâm

sản và khoáng sản Tuyên Quang và bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương

mại Phúc Sơn 6;

Nội dung vụ án: Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, ngày 02/01/2012

Công ty TNHH MTV xây dựng Phúc Sơn 6 (nay là Công ty TNHH xây dựng

thương mại Phúc Sơn 6) do đại diện là ông Đỗ Hải Hưng đã ký Hợp đồng mua bán

hàng hóa số: 17/HĐKT-CT với Công ty CPLS&KS Tuyên Quang, theo hợp đồng

Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 nhận mua đá vật liệu xây dựng của Công ty

CPLS&KS Tuyên Quang. Thực hiện hợp đồng đã được ký kết giữa hai bên Công ty

CPLS&KS Tuyên Quang đã giao bán và Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 đã

nhận mua. Trong quá trình thực hiện việc mua bán hàng hóa theo hợp đồng, hai bên

60

tiến hành vừa giao hàng vừa trả tiền và đối chiếu công nợ; theo Biên bản đối chiếu

công nợ lập ngày 30/01/2013 thì tính đến thời điểm ngày 30/01/2013 Công ty

TNHH XD và thương mại Phúc Sơn 6 còn nợ Công ty CPLS&KS Tuyên Quang số

tiền là: 171.320.000đ; đến ngày 30/3/2013 hai bên lại tiến hành đối chiếu công nợ

tiếp, đến thời điểm này Công ty TNHH XD và thương mại Phúc Sơn 6 còn nợ Công

ty CPLS&KS Tuyên Quang số tiền là: 104.580.000đ. Sau đó Công ty TNHH XD và

Thương mại Phúc Sơn 6 vẫn tiếp tục mua hàng và trả tiền nhưng không ký biên bản

đối chiếu công nợ, theo số liệu được theo dõi trong sổ sách kế toán thì tính từ thời

điểm đó cho đến nay Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 vẫn còn nợ Công ty

CPLS&KS Tuyên Quang số tiền là: 171.021.000đ (Một trăm bảy mươi mốt triệu

không trăm hai mươi mốt nghìn đồng chẵn); Công ty CPLS&KS Tuyên Quang đã

xuất đủ Hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 tương

ứng với số hàng hóa đã xuất bán.

Để đôn đốc việc thanh toán, trả nợ tiền hàng Công ty CPLS&KS Tuyên

Quang đã giao cho cán bộ trực tiếp liên hệ với Công ty TNHH XD và Thương mại

Phúc Sơn 6 để đòi nợ rất nhiều lần, Công ty CPLS&KS Tuyên Quang cũng đã gửi

12 văn bản đòi nợ đến Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 qua đường Bưu Điện

là: Văn bản số 26/CV-CT ngày 28/01/2013; Văn bản số 129/CV-CT ngày

23/5/2013; Văn bản số 143/CV-CT ngày 04/6/2013; Văn bản số 192/CV-CT ngày

08/8/2013; Văn bản số 267/CV-CT ngày 29/11/2013; Văn bản số 282/CV-CT ngày

16/12/2013; Văn bản số 283/CV-CT ngày 25/11/2014; Văn bản số 215/CV-CT

ngày 10/12/2015; Văn bản số 217/CV-CT ngày 25/11/2016 ; Văn bản số 158/CV-

CT ngày 21/8/2017; Văn bản số 201/CV-CT ngày 14/10/2017; Văn bản số 242/CV-

CT ngày 04/12/2017 gửi tới Công ty TNHH XD và Thương mại Phúc Sơn 6 đề nghị

Công ty TNHH XD và Thương mại Phúc Sơn 6 đến trước ngày 12/12/2017 phải

thanh toán hết tiền nợ cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang.

Tuy nhiên Công ty TNHH XD và Thương mại Phúc Sơn 6 vẫn cố tình không

thanh toán số tiền còn nợ mua hàng cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang theo

đúng nội dung hợp đồng đã ký kết và cũng không có bất kỳ ý kiến gì bằng văn bản

gửi lại cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang.

Vì vậy Công ty CPLS&KS Tuyên Quang khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân

61

thành phố Tuyên Quang xem xét giải quyết:

Buộc bị đơn Công ty TNHH MTV XD Phúc Sơn 6 thanh toán số tiền hàng

còn nợ là: 171.021.000đ (Một trăm bảy mươi mốt triệu không trăm hai mươi mốt

nghìn đồng chẵn); cộng với tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua hàng

theo qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tính từ ngày 01/01/2013 đến

ngày 10/01/2018 là 99.845.315đ (Chín mươi chín triệu tám trăm bốn mươi năm

nghìn ba trăm mười năm đồng./.)

Tổng cộng số tiền nợ mua hàng và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả

tiền mua hàng là: 270.866.315đồng (Hai trăm bảy mươi triệu tám trăm sáu mươi sáu

nghìn ba trăm mười năm đồng), và tiền lãi tiếp tục phát sinh do trả chậm tiếp theo

cho đến khi thanh toán hết số tiền còn nợ cho Công ty CPLS&KS Tuyên Quang.

Từ khi thụ lý hồ sơ Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã tống đạt các

văn bản tố tụng qua đường bưu điện có báo phát cho công ty nhưng bị đơn không

đến làm việc nên Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã ủy thác cho Tòa án

nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành tống đạt các văn bản tố

tụng cho bị đơn đến Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang để giải quyết việc

kiện của nguyên đơn, tuy nhiên tại trụ sở của bị đơn không có người làm việc nên Tòa

án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành niêm yết các văn bản tố

tụng đối với bị đơn theo quy định của pháp luật, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại Tòa mà

không có lý do chính đáng. Do vậy Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên

tòa xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng với quy định của pháp luật.

Tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu

công ty TNHH XD và thương mại Phúc Sơn 6 phải trả số tiền còn nợ là

171.021.000đ và rút một phần yêu cầu về lãi suất chỉ yêu cầu công ty TNHH XD và

thương mại Phúc Sơn 6 trả tiền lãi theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy

định là 9%/năm từ lãi tính từ ngày 05/01/2013 đến ngày 27/9/2013 với số tiền là

83.673.762 đồng. Tổng cộng số tiền là 254.694.761 đồng làm tròn 254.694.800

đồng.

Tại bản án số 16/2018/KDTM –ST ngày 27 tháng 9 năm 2018 về việc

“Tranh chấp về Hợp đồng mua bán hàng hóa” của Tòa án nhân dân thành phố

62

Tuyên Quang đã quyết định như sau:

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 30, Điểm b Khoản 1 Điều 35, Điểm b Khoản 1

Điều 39, Khoản 1 Điều 273 và Khoản 1 Điều 280 của BLTTDS 2015. Căn cứ Điều

24, Điều 50, Điều 292, Điều 306 và Điều 319 của Luật Thương năm 2019. Căn cứ

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng

án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Lâm sản và

khoáng sản Tuyên Quang.

Buộc bị đơn Công ty TNHH Xây dựng và thương mại Phúc Sơn 6 phải có

trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ phần Lâm sản và khoáng sản

Tuyên Quang số tiền nợ gốc còn thiếu là 171.021.000đ (Một trăm bảy mươi mốt

triệu không trăm hai mươi mốt nghìn đồng) và tiền lãi suất chậm trả là 83.673.762đ.

Tổng cộng là 254.694.762đ làm tròn là 254.694.800đ (Hai trăm năm mươi tư triệu

sáu trăm chín mươi tư nghìn tám trăm đồng).

Nhận định về vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang có thẩm

quyền giải quyết vụ án này do hợp đồng mua bán hàng hóa tại trụ sở của Công ty cổ

phần Lâm sản và khoáng sản Tuyên Quang. Đối chiếu điểm g, Khoản 1, Điều 40

BLTTDS 2015, nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện

giải quyết. Về mặt thủ tục tố tụng, Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần qua

đường bưu điện cho bị đúng theo quy định pháp luật nhưng không được phản hồi.

Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã thực hiện thủ tục ủy thác thu

thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để tống

đạt văn bản theo Điều 105 BLTTDS 2015. Theo Điều này, Tòa án nhận được quyết

định ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn

01 tháng, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn

bản cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác. Theo đó, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh

Yên đã thực hiện niêm yết văn bản tố tụng đúng theo Quyết định ủy thác, quy định

tại Điều 179 BLTTDS 2015. Cuối cùng, vụ án được xét xử vắng mặt bị đơn khi việc

niêm yết công khai Quyết định đưa vụ án ra xét xử đã hợp lệ nhưng bị đơn không

63

có mặt theo Điều 228 BLTTDS 2015.

Qua một số ví dụ trên cho thấy, nhìn chung việc giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang đều được thực hiện đúng

trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo kết quả giải quyết chính xác,

bảo vệ quyền, lợi ích hợp của chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng và người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan.

2.2.3. Những tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được như phân tích ở trên, qua thực tiễn xét

xử từ những năm 2015 đến thời điểm hiện tại, các tranh chấp hợp đồng KDTM diễn

ra ngày càng phức tạp dẫn tới việc giải quyết loại tranh chấp này gặp những khó

khăn, vướng mắc nhất định. Với thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về

giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tác giả

xin đưa ra một số bất cập, hạn chế trong giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM như

sau:

2.2.3.1. Xác định thiếu người tham gia tố tụng

Sau khi thụ lý vụ án, bên cạnh việc xác định quan hệ tranh chấp, Tòa án phải

xác định rõ, đầy đủ người tham gia tố tụng và tư cách của đương sự là nguyên đơn, bị

đơn hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong một số vụ án KDTM sợ

thẩm, đặc biệt là vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, một thực tế mắc phải đối với

Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đó là bỏ lọt người tham

gia tố tụng, cụ thể là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố

tụng, dẫn đến vi phạm tố tụng, đưa ra quyết định không đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ

của các bên đương sự.

Ví dụ: Vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng

nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Tuyên Quang, bị đơn là Công ty

TNHH Phát An Hưng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị

Phương; Công ty TNHH Phát An Hưng đã ký các hợp đồng tín dụng với Ngân hàng

nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Tuyên Quang. Tài sản bảo đảm

cho các khoản vay gồm nhà đất của bà Nguyễn Thị Phương. Trong quá trình giải

quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản

64

thế chấp trên nhưng không xem xét những người đang thực tế sinh sống trên đất và

những người có tên trong số hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất mang tên người sử dụng đất: hộ bà Nguyễn Thị Phương để đưa họ vào tham

gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này là vi phạm

tố tụng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của đương sự.

2.2.3.2 Việc xét xử theo thủ tục rút gọn rất hạn chế

BLTTDS 2015 đã có quy định về việc giải quyết hợp tranh chấp Hợp đồng

KDTM tại Tòa án theo thủ tục rút gọn đối với một số vụ án có tình tiết đơn giản, đáp

ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 317 BLTTDS 2015. Đây là quy định tiến

bộ, đơn giản hóa thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án, tiết kiệm

khá nhiều chi phí cho các bên đương sự cũng như cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy

nhiên, qua nghiên cứu bản các các năm gần đây của Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang, có thể thấy quy định này vẫn chưa được áp dụng trong quá trình giải

quyết vụ án tranh chấp hợp đồng KDTM. Việc Tòa án không có sự phân loại vụ án

tranh chấp hợp đồng KDTM để giải quyết theo thủ tục phù hợp đã gây lãng phí rất

nhiều thời gian cho đương sự. Đồng thời, cho thấy quá trình áp dụng pháp luật trong

giải quyết hợp đồng KDTM của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang chưa thực

sự hiệu quả.

2.3.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế áp dụng pháp luật về giải quyết

tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án thành phố Tuyên Quang

Thứ nhất, Pháp luật về TTDS nói chung và pháp luật về giải quyết tranh

chấp hợp đồng KDTM hiện nay tương đối đầy đủ, nhưng chưa thực sự hoàn thiện.

Nhiều văn bản pháp luật chưa được đổi mới dẫn đến không theo kịp sự chuyển biến

của kinh tế - xã hội, khiến cho khi phát sinh tranh chấp thì không có quy định để

giải quyết. Đây là khe hở dẫn đến việc nhiều cá nhân, tổ chức tận dụng để thu lợi

mà gây thiệt hại đến các chủ thể khác trong hoạt động KDTM. Đồng thời trong

nhiều quy định pháp luật có sự chồng chéo, không thống nhất dẫn đến khi Tòa án áp

dụng quy định pháp luật trong công tác xét xử thì không biết nên áp dụng luật nào

cho đúng. Hoặc quá trình xét xử và áp dụng pháp luật do quá nhiều quy định chồng

chéo dẫn đến áp dụng như thế nào là tùy vào quan điểm cá nhân của thẩm phán.

65

Dẫn đến có những xung đột trong xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, cũng như có tình

trạng vụ việc có tính chất giống nhau nhưng cách xét xử và giải quyết ở các nơi lại

khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các tranh chấp

trong KDTM.

Thứ hai, năng lực, trình độ, kinh nghiệm và nhận thức của đội ngũ Thẩm

phán còn chưa thống nhất. Việc giải quyết các vụ án đôi khi còn mang nặng cảm

tính, việc đánh giá các khía cạnh của bản án cũng như áp dụng quy định pháp luật

còn chưa khách quan. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ khác trong Tòa án như hội thẩm

nhân dân, thư ký tòa còn chưa được trang bị đầy đủ về hiểu biết pháp lý cũng như

kinh nghiệm, dẫn đến trong công tác xét xử còn lúng túng hoặc còn thiếu sót. Công

tác thông báo cho các đương sự, các cơ quan có liên quan thông qua phương tiện

thông tin còn chưa đúng, dẫn đến nhiều trường hợp đương sự tìm cách trốn tránh

không nhận các giấy tờ của Tòa án và lấy đó làm căn cứ để chống đối quá trình xét

xử cũng như quyết định của Tòa án.

Thứ ba, nhận thức pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận

người dân còn hạn chế nên có phần ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết các vụ án

KDTM nói chung và vụ án tranh chấp hợp đồng KDTM nói riêng.

Thứ tư, tổ chức, biên chế của Tòa án tuy đã được quan tâm và tiếp tục được

kiện toàn song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là trong điều kiện khối

lượng công việc phải thực hiện ngày càng tăng.

66

Tiểu kết chương 2

Hiện nay, hệ thống pháp luật về giải quyết các tranh chấp hợp đồng KDTM

nói riêng tương đối đồng bộ và toàn diện, đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với

thực tế, có tính dự báo và có nội dung rõ ràng. Những quy định này đảm bảo các

tranh chấp về dân sự nói chung và tranh chấp hợp đồng KDTM nói riêng được thụ

lý nhanh chóng và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, nhằm mục đích cao nhất là

bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM trong những năm qua trên

địa bàn thành phố Tuyên Quang cho thấy Tòa án nhân dân các cấp đã chú trọng

thực hiện, áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng cũng như các quy định

về pháp luật nội dung để giải quyết một cách khách quan, chính xác, đặc biệt không

có vụ án nào vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử và vi phạm thời hạn tố tụng khác.

Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM đạt được những kết quả đáng ghi nhận,

về cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, góp phần giữ

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi, duy trì ổn định

và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, từ thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo thủ tục sơ

thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang cho thấy tồn tại một số bất cập,

hạn chế như: việc xác định những tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa án; thời hạn chuẩn bị xét xử; việc thu thập và cung cấp chứng cứ; về tranh

chấp trong nội bộ công ty; việc xác định thiếu người tham gia tố tụng.

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên là do hệ thống pháp luật vẫn có

sự chồng chéo và thiếu thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong khi nhận thức

pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của người dân còn hạn chế; năng lực, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ, công chức Ngành Tòa án nhân dân

chưa được nâng cao; tổ chức, biên chế của Tòa án tuy đã được quan tâm và tiếp tục

được kiện toàn song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

67

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG

CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH

THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng

kinh doanh thương mại tại Tòa án

Khẳng định mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động KDTM càng ngày

càng trở nên phức tạp hơn. Sự phát triển của kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập không

chỉ đem lại cơ hội mà còn cả thách thức cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt

động thương mại. Việc vi phạm dẫn đến tranh chấp trong hợp đồng KDTM ngày càng

phổ biến. Việc áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM trên thực

tế còn gặp nhiều khó khăn. Quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia

vào hoạt động KDTM còn chưa được đảm bảo, việc tranh chấp kéo dài dẫn đến lãng

phí, thiệt hại cho các bên và cho Nhà nước. Xuất phát từ những vấn đề trên, đối với

công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, trong đó có giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM tại Tòa án cần tập trung vào một số điểm sau:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng KDTM nhằm hỗ trợ các tổ

chức, cá nhân tham gia hoạt động KDTM trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng

KDTM.

Hợp đồng KDTM là một chế định pháp luật quan trọng thể hiện quyền và

nghĩa vụ của các bên liên quan trong việc thỏa thuận, thực hiện và chấm dứt thực

hiện hoạt động KDTM. Hoàn thiện pháp luật về KDTM, bên cạnh việc cụ thể hóa

quan điểm của Đảng và Nhà nước trong quản lý kinh tế, còn phải căn cứ vào những

văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký với tổ chức quốc tế, cụ thể là việc điều

chỉnh hành lang pháp lý cho phù hợp để thúc đẩy hoạt động hợp tác và đầu tư quốc

tế ở Việt Nam. Cần phải đảm bảo và phát huy nguyên tắc công bằng, bình đẳng đối

với tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động KDTM. Tôn trọng quyền tự định đoạt

của các bên, đặc biệt trong hoạt động tố tụng cần phải tiến hành một cách khách

quan, công bằng, thiện chí đối với các bên.

68

Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá một cách thường xuyên, bài bản các quy định

pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM để kịp thời sửa đổi, bổ sung. Về

bản chất, hợp đồng KDTM là một giao dịch dân sự, nên giải quyết tranh chấp hợp

đồng KDTM chính là giải quyết tranh chấp giao dịch trong dân sự. Tuy nhiên, đặc

thù của hợp đồng KDTM là yếu tố thương mại, do đó, tranh chấp KDTM cũng có

những đặc trưng riêng cần có biện pháp giải quyết phù hợp. Theo tác giả, cần thúc

đẩy hoạt động nghiên cứu pháp lý và xem xét để áp dụng linh hoạt nhiều phương

thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, thường xuyên bổ sung và hoàn thiện

hành lang pháp lý về hoạt động KDTM trong tương lai.

Cần nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về tố tụng

trong giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo hướng đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của cả hai bên, tránh trường hợp có những điều khoản còn có khe hở tạo

điều kiện cho một bên lợi dụng làm thiệt hại cho bên khác. Tăng thêm thẩm quyền

cho Viện kiểm sát trong hoạt động xét xử, tránh trường hợp xét xử theo cảm tính

hoặc theo quan điểm cá nhân của thẩm phán gây ra những trường hợp sai sót làm

bức xúc cho các bên tham gia tranh chấp. Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp hợp đồng KDTM cũng góp phần vào việc củng cố và phát triển hệ thống

cơ quan xét xử, nâng cao năng lực, kinh nghiệm và trách nhiệm của đội ngũ thẩm

phán và các cán bộ khác. Góp phần hoàn thiện Ngành Tư pháp Việt Nam hướng đến

mục tiêu cải cách Tư pháp trong giai đoạn tiếp theo.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh

doanh thương mại tại Tòa án

3.2.1. Bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử theo vụ việc của Tòa án.

Khoản 5 Điều 30 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử

đổi với các tranh chấp khác về KDTM. Theo tác giả, quy định này có thể áp dụng

trong những trường hợp tranh chấp có một bên không có đăng ký kinh doanh và

không vì mục đích lợi nhuận nhưng lại chọn Luật Thương mại năm 2019 là luật áp

dụng. Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động thương mại càng phát

triển đa dạng về nội dung và hình thức, nên không thể không kể đến việc phát sinh

những tranh chấp thuộc trường hợp kể trên.

69

Tuy nhiên, hiện nay chưa có một văn bản nào đưa ra kiến giải cụ thể đối với

quy định tại khoản 5 Điều 30 BLTTDS, dẫn đến khi áp dụng trong thực tế nhiều vụ

việc thì thẩm phán sẽ nhìn nhận tranh chấp dưới góc độ dân sự chứ không phải dưới

góc độ thương mại, điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự là người không có đăng ký kinh doanh và không vì mục đích lợi nhuận. Hoặc

trường hợp khi thương nhân người Việt Nam có hợp đồng với đối tác nước ngoài là

tổ chức không vì mục đích lợi nhuận thì nếu xảy ra tranh chấp do đối tác nước ngoài

cố tình vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì dễ nhầm lẫn sang tranh chấp dân sự, từ đó,

ảnh hưởng đến quyền lợi của thương nhân người Việt Nam. Theo tác giả, nên bổ

sung quy định hướng dẫn cụ thể các trường hợp khác là những trường hợp nào, phù

hợp với tình hình và xu thế phát triển của nền kinh tế. Đây là một yêu cầu hợp lý và

thiết thực giúp tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động xét xử trong tương lai.

3.2.2. Sửa đổi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng

kinh doanh thương mại

Theo quy định của BLTTDS 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM

là hai tháng kể từ ngày thụ lý. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại

khách quan thì có thể được gia hạn thêm một tháng. Như tác giả đã phân tích ở trên,

thời hạn chuẩn bị giải quyết vụ án tranh chấp KDTM như vậy là quá ngắn. Do đó,

cần sửa đổi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với loại tranh chấp này lên bốn

tháng (tương tự như đối với các vụ án dân sự).

3.2.3. Hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung quy định về thu thập, cung cấp tài liệu,

chứng cứ

Theo quan điểm của tác giả, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ nội

dung “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh” (Điều 91

BLTTDS 2015) cũng như nội dung “những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người

đều biết” (Điều 92 BLTTDS 2015). Đồng thời, cũng cần phải nghiên cứu, ban hành

quy định về chế tài trong trường hợp “phải” thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu

chứng cứ nhưng đương sự cố tình không thực hiện để nâng cao trách nhiệm của các

cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ. Mở rộng thêm, tác giả đề xuất

70

việc ban hành Luật cung cấp thông tin để làm rõ quyền, nghĩa vụ của những người

liên quan trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ.

3.2.4. Bổ sung quy định về thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng kinh doanh

thương mại.

Như đã trình bày ở trên, trong nhiều Luật chuyên ngành như Luật Hàng hải,

Luật Bảo hiểm xã hội quy định về thời hiệu có sự khác biệt với quy định tại Luật

Thương mại. Đồng thời xét trên thực tế xét xử, thì trong nhiều vụ án, quy định thời

hiệu cần có sự linh hoạt hơn vì hoạt động KDTM hiện nay là khá đa dạng, với nhiều

hình thức và nhiều mặt hàng kinh doanh khác nhau có tính chất và đặc thù riêng. Vì

vậy, quy định thời hiệu cần bổ sung trong những trường hợp cụ thể nào thì có thể

điều chỉnh một cách linh hoạt. Tránh xảy ra trường hợp bên bị đơn lợi dụng quy

định về thời hiệu khiến cho bên nguyên đơn không thể khởi kiện, gây thiệt hại cho

bên nguyên đơn.

3.2.5. Bổ sung hướng dẫn về trường hợp bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,

bí mật cá nhân, bí mật gia đình

Như đã trình bày, việc không có quy định cụ thể về khái niệm bí mật nghề

nghiệp, bí mật cá nhân, bí mật gia đình khiến việc áp dụng trên thực tiễn gặp rất

nhiều khó khăn. Tác giả đề tài kiến nghị cần bổ sung những khái niệm trên một

cách cụ thể vào trong hoạt động TTDS. Dưới góc độ so sánh với pháp luật nước

ngoài, nhiều quốc gia trên thế giới rất chú trọng đảm bảo quyền riêng tư và bí mật

cá nhân, bí mật nghề nghiệp, bí mật gia đình của công dân. Trong xu thế cải cách

Tư pháp và dân chủ hóa, tôn trọng quyền con người của pháp luật Việt Nam thì việc

bổ sung này là hoàn toàn hợp lý và cần thiết.

3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết hợp đồng kinh doanh thương mại

tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.

3.3.1. Nội dung trình bày tại thông báo thụ lý cần được chú trọng

Đối với giai đoạn thụ lý vụ án, theo thực tế thì việc gửi thông báo thụ lý đến các

đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp chỉ mang tính hình thức. Tuy nhiên, theo quy định

của pháp luật thì việc thông báo thụ lý vụ án là khi Tòa án chính thức xác nhận thẩm

quyền thụ lý vụ án, trên cơ sở đó thông báo cho bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ

71

liên quan biết về việc tranh chấp, đồng thời phải có nghĩa vụ chứng minh, cung cấp tài

liệu, chứng cứ hoặc có quan điểm phản hồi đến cơ quan Tòa án và nguyên đơn.

Pháp luật quy định tại Điều 196 BLTTDS 2015 và theo thực tế thì thông báo

thụ lý tại các Tòa án rất đơn giản và ngắn gọn chỉ thể hiện được yêu cầu của nguyên

đơn và các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp. Chính vì vậy, trong một số

trường hợp bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và kể cả Viện kiểm sát

cũng không thể nắm rõ được nội dung mà nguyên đơn đưa ra trong vụ án tranh

chấp. Như vậy, khi gửi thông báo thụ lý đến các đương sự không mang lại kết quả

cao. Bởi khi bị đơn và Viện kiểm sát tiếp nhận được thông báo thụ lý thì chỉ có thể

biết được nguyên đơn đang khởi kiện vụ án tranh chấp gì và hoàn toàn thụ động

trước việc tòa án thụ lý vụ án, chỉ chờ tòa án tiếp tục giải quyết.

Ở giai đoạn này, pháp luật cần quy định chi tiết hơn đối với một số trường

hợp bắt buộc khi gửi thông báo thụ lý đến, yêu cầu bị đơn, người có quyền lợi nghĩa

vụ liên quan (bao gồm các tổ chức, cá nhân, cơ quan,…liên quan đến vụ án). Khi

gửi thông báo thụ lý đến các đương sự, tòa án có thể ghi chi tiết nội dung của

nguyên đơn yêu cầu tại đơn khởi kiện, có thể kèm theo các tài liệu, chứng cứ mà

nguyên đơn cung cấp có thể bằng bản photo để bị đơn cũng như Viện kiểm sát có

thể nắm bắt, có căn cứ để trình bày ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện theo

quy định của pháp luật được ghi tại thông báo thụ lý. Hiện nay, nên quy định theo

hướng mở đối với thông báo thụ lý vụ án nhằm rút ngắn thời gian giải quyết vụ án,

việc này không chỉ để bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Viện kiểm sát

nắm rõ nội dung càng tạo điều kiện cho các đương sự bác bỏ, tranh luận, đấu tranh

và thậm chí có thể căn cứ các tài liệu, chứng cứ mà các bên cung cấp thì Tòa án có

thể theo đó đưa ra phán quyết trước khi hòa giải hoặc đưa vụ án ra xét xử. Hoàn

thiện pháp luật theo như trình bày trên không chỉ rút ngắn được thời gian khởi kiện

mà lại ít tốn kém về tiền bạc, công sức và đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, đồng

thời mang tính chất công khai, công bằng cho các đương sự.

3.3.2. Nâng cao chất lượng hòa giải tại Tòa án nhân dân cấp huyện

Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự

định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan

72

hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một

biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc

hòa giải trong tố tụng được quy định tại Điều 10 BLTTDS, theo đó: “Toà án có

trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận

với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.

Hòa giải tại Tòa án nhân dân cấp huyện có ý nghĩa hết sức quan trọng, được

thực hiện nhằm mục đích gắn kết lại với nhau, giữ gìn tình đoàn kết trong việc phát

triển kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết trong KDTM. Đồng thời, nếu hòa giải tốt

thì sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả Nhà nước lẫn công dân ngay tại thời điểm

ban đầu. Ngoài ra, việc hòa giải quan trong vì đây là giai đoạn được thực hiện ở các

giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại

phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải.

Việc hòa giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán nhưng

không đầu tư, hướng dẫn, đào tạo có bài bản, đặc biệt tại các Tòa án cấp huyện.

Trên thực tế, mục đích các đương sự muốn hướng đến đó là lợi nhuận (dù ít hay

nhiều) đó là điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân nhượng hợp tác trong kinh

doanh của các bên đương sự, tuy nhiên các Thẩm phán lại luôn đề cao việc làm rõ

việc đúng sai trong tranh chấp.

Như vậy, cần đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ hòa giải tại các Tòa án

cấp huyện, đây là nền tảng để các vụ án tranh chấp được giải quyết triệt để, nhanh

chóng mà không bị kháng cáo, kháng nghị. Bởi vì việc hòa giải không thành, các

chủ thể tham gia kinh tế sẽ mất sự đoàn kết, gắn bó, càng căng thẳng hơn lúc ban

đầu, từ đó muốn các bên cùng nhau thương lại, thỏa thuận ở các giai đoạn tố tụng

tiếp theo sẽ không hiệu quả và không dễ dàng so với ban đầu.

3.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của những cán bộ tiến hành tố tụng tại địa

phương

Các Thẩm phán cần được tham dự các buổi tập huấn chuyên sâu cho từng

lĩnh vực cụ thể do Tòa án các cấp tổ chức nhằm bồi dưỡng kiến thức về pháp luật,

vẫn dụng pháp luật sao cho phù hợp với thực tế. Cần chú trọng học hỏi kiến thức về

về lĩnh vực KDTM trong nước cũng như quốc tế, kiến thức về tin học, ngoại ngữ.

73

Hiện nay, trình độ chuyên môn của các Thẩm phán đều phản ánh khá chân

thực qua thực tiễn xét xử, thấy rõ được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều

yếu kém, nhất là đối với lĩnh vực giải quyết tranh chấp Hợp đồng thương mại trong

đó liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm, tín dụng, vận tải,…Điều này cho thấy trước đây

nền kinh tế nước ta chưa phát triển, chưa hội nhập nên không chú trọng đến lĩnh vực

này vì vậy công tác tập huấn còn nhiều khuyết điểm. Do đó, các Thẩm phán cần

được tổ chức các buổi tập huấn một cách chuyên sâu hơn, mở rộng hơn đối với từng

lĩnh vực cụ thể, mới mang lại kết quả cao trong công tác giải quyết các vụ án phức

tạp, đa dạng như hiện nay.

Mặt khác, không chỉ tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng mà còn bồi

dưỡng lý luận chính trị cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Hội

thẩm nhân dân, nhất là tập trung đào tạo cán bộ chủ chốt, lãnh đạo quản lý trong

diện đã quy hoạch, bảo đảm được đội ngũ nòng cốt sau này. Đồng thời, khuyến

khích cán bộ công chức học ngoại ngữ, tin học để nâng cao năng lực, trình độ về

mọi mặt, đặc biệt đối với những cán bộ trẻ có khả năng tiếp thu nhanh, giao tiếp tốt

nhằm đảm bảo khả năng giải quyết vụ việc trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh

tế như hiện nay.

3.3.4. Nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Trước tiên, Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng trong bộ máy

Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Trong giai đoạn xét xử,

Thẩm phán giữ vị trí quan trọng – là trung tâm trong hoạt động tố tụng. Đồng thời,

Thẩm phán luôn là người có trình độ, được đào tạo về pháp luật cũng như cách thức

giải quyết các vụ án chuyên sâu hơn. Chính vì vậy, các Thẩm phán cần tự rèn luyện

bản thân, tạo tính chuyên nghiệp trong công việc, cần có đạo đức tốt,…để chất

lượng xét xử trong các vụ án có kết quả cao và đảm bảo tính công bằng đối với

công dân.

Đối với Hội thẩm nhân dân thì trên thực tế tại Tòa án nhân dân cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, hầu hết các hội thẩm là cán bộ chủ chốt hoặc đại

diện các phòng Ban, ngành đoàn thể tại huyện, tuy nhiên không phải hội thẩm nào

cũng có trình độ cử nhân chuyên ngành luật nhưng hội thẩm vẫn chiếm số lượng

74

nhiều hơn Thẩm phán khi tham gia tại phiên Tòa xét xử. Do đó, Tòa án nhân dân

cấp huyện cần xem xét, lựa chọn các Hội thẩm có trình độ cũng như chuyên môn,

kinh nghiệm nhằm đảm bảo chất lượng khi tham gia giải quyết các vụ án tranh chấp

hợp đồng KDTM này, vì đây là các vụ án tương đối khó, không chỉ áp dụng kiến

thức trên thực tế mà còn áp dụng kiến thức pháp luật, khả năng nghiên cứu các tài

liệu, chứng cứ nhằm đưa ra phán quyết chính xác nhất. Bên cạnh đó, cần nâng cao

mức thù lao cho các Hội thẩm nhân dân để động viên, khuyến khích tinh thần làm

việc của họ tốt hơn.

3.3.5. Nâng cao công tác tuyên truyền, công tác giáo dục pháp luật tại địa phương

Tòa án nhân dân cấp huyện cần phối hợp với các xã (phường) tại địa phương

kiện toàn đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên pháp luật. Cần nâng cao cán bộ

báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật cả về chất lượng lẫn số lượng. Tổ chức

các buổi tập huấn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật, kỹ năng truyền đạt,

tuyên truyền phải theo từng nhóm đối tượng sao cho phù hợp với thực tế cuộc sống.

Ngoài ra, việc tuyên truyền cần được nhân rộng không chỉ trực tiếp mà còn qua đài

truyền hình, đài truyền thanh, bảng biểu,…nhưng việc này cần có sự phối hợp giữa

các ban ngành thì mới mang lại hiệu quả. Ngoài ra, cán bộ ngành Tòa án sắp xếp

thời gian phù hợp trực tiếp tuyên truyền đến người dân qua các buổi tập huấn do xã

(phường) tổ chức.

Tích cực, chủ động tuyên truyền tại địa phương nơi có nền kinh tế đang phát

triển, nơi có khả năng phát sinh các tranh chấp khi tham gia trong hoạt động

KDTM. Ở các thôn cũng nên nhóm thành từng nhóm đối tượng để tuyên truyền cho

phù hợp. Ví dụ, với nội dung liên quan đến KDTM thì cần sắp xếp những đối tượng

liên quan trong một buổi tuyên truyền để tiếp thu nội dung văn bản pháp luật hiệu

quả hơn.

Vấn đề tuyên truyền tại địa phương luôn đóng vai trò rất quan trọng, góp

phần rất lớn trong việc giải quyết các vụ án nhanh chóng. Một khi công dân nói

chung cũng như các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế đã hiểu và nắm rõ pháp luật

thì khi có tranh chấp họ sẽ dễ dàng lựa chọn đúng phương thức, thẩm quyền và trình

tự thủ tục tố tụng nếu lựa chọn con đường Tòa án.

Việc thiếu hiểu biết về pháp luật trong khi giao kết Hợp đồng trong hoạt

động KDTM là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tranh chấp. Tuy việc

75

gia tăng sản xuất trong kinh doanh không liên quan đến việc hiểu biết về pháp luật

nhưng trong hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng sẽ giao kết các

hợp đồng nhằm trao đổi dịch vụ, hàng hóa, đáp ưng nhu cầu của doanh nghiệp trong

hoạt động sản xuất. Chính vì vậy, khi am hiểu pháp luật sẽ tăng khả năng nhận thức

và khả năng vận dụng pháp luật, tạo hành lang pháp lý an toàn cho doanh nghiệp, tổ

chức ngày càng phát triển bền vững hơn.

3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm sát đối với hoạt động tố tụng

của Toà án

Song song với việc đào tạo, để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ công

chức Tòa án, nhất là đội ngũ Thẩm phán thì việc tăng cường công tác kiểm tra, giám

sát, kiểm sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động

xét xử của Tòa án là việc làm cần thiết. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đảm bảo

quá trình tố tụng tư pháp được tiến hành đúng quy định của pháp luật, giảm tối đa

lượng án xử oan, sai. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong

việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Cũng chính vì thế mà bản

thân các Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên môn để làm sao tuyên bản án được

chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật, được xã hội thừa nhận.

3.3.7. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan trong

việc giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại

Hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn thành phố Tuyên Quang có ảnh

hưởng lớn đến tình hình an ninh, chính trị của địa phương. Sự phối hợp giữa Tòa án

với chính quyền cơ sở và các cơ quan hữu quan là rất quan trọng, giúp cho kết quả

giải quyết vụ việc được dứt điểm, nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó, phải đẩy

mạnh các hoạt động Bổ trợ tư pháp như: luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch...

góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém

hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả thu thập, đánh giá chứng cứ và khi xét

xử có thể sẽ đưa ra phán quyết không đúng pháp luật.

3.3.8. Thực hiện công khai hóa bản án của Tòa án

Cần từng bước công bố tất cả những bản án đã được Tòa án xét xử một cách

rộng rãi. Mục đích của việc công bố phán quyết của Tòa án nhằm làm cho công

chúng thấy rõ quan điểm của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật để xét xử và giám

sát chất lượng của Thẩm phán khi tuyên bản án đó. Công khai bản án là một trong

76

những yêu cầu của nền tư pháp minh bạch.

Thứ nhất, việc công khai bản án sẽ củng cố việc áp dụng thống nhất pháp

luật. Trong thực tế, rất nhiều vấn đề pháp lý chưa được rõ ràng nhưng Tòa án vẫn

phải giải quyết. Do vậy, thường có nhiều quan điểm khác nhau và các Thẩm phán

có thể đưa ra những phán quyết không thống nhất. Ví dụ như việc tính lãi đối với

khoản tiền do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Quan điểm thứ nhất cho rằng

khoản lãi này được tính bằng cách lấy lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương

tương ứng với thời gian chậm thanh toán nhân với số tiền chậm thanh toán. Quan

điểm thứ hai cho rằng lãi chậm thanh toán được tính bởi lãi suất do ngân hàng trung

ương công bố tại thời điểm xét xử nhân với khoản tiền chậm thanh toán. Hai quan

điểm trên đều được chấp nhận.

Thứ hai, việc công khai bản án tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lập pháp.

Thực tế cho thấy: khi xây dựng một quy phạm pháp luật, các nhà làm luật thường

xuất phát từ một hoàn cảnh pháp lý cụ thể. Trong khi đó, một bản án cho biết một

hoàn cảnh pháp lý cụ thể và giải pháp tương ứng của Tòa án. Do vậy, việc công bố

bản án cho phép các nhà lập pháp biết thực trạng pháp luật của đất nước và đánh giá

tính hợp lý của quy phạm ghi nhận trong bản án được công bố đối với một hoàn

cảnh pháp lý cụ thể.

Thứ ba, việc công khai bản án yêu cầu đội ngũ Thẩm phán phải nâng cao

năng lực, trình độ, chuyên môn, tạo cho công tác xét xử minh bạch hơn, sẽ làm

giảm hiện tượng Thẩm phán tùy tiện trong hoạt động tố tụng.

Thứ tư, việc công bố bản án rộng rãi giúp cho người dân, doanh nhân dễ

dàng tiếp cận hơn với công lý. Tất cả mọi người dân đều có quyền tra cứu, nghiên

cứu các bản án nhằm làm tăng nhận thức của người dân, doanh nghiệp đối với pháp

luật và gần gũi hơn với Tòa án. Đồng thời, họ cũng tìm ra cho mình cách hành xử

khôn ngoan để không xảy ra tranh chấp trong những tình huống tương tự. Điều này

không những làm giảm chi phí của họ khi giao dịch mà còn có thể làm giảm sức ép

khối lượng công việc giải quyết tranh chấp đối với Tòa án.

77

Tiểu kết chương 3

Vấn đề nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh

chấp hợp đồng KDTM theo tố tụng tư pháp nói riêng đã, đang và sẽ luôn là vấn đề

rất được quan tâm, nhất là khi nền kinh tế nước ta đang phát triển ngày càng mạnh,

hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong hoàn cảnh đó, các tranh chấp

hợp đồng KDTM cũng không ngừng tăng cả về số lượng vụ việc cũng như mức độ

phức tạp. Do vậy, thực tế đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng giải quyết

loại tranh chấp này bằng tố tụng tư pháp.

Từ thực tiễn những bất cập, hạn chế phát sinh trong quá trình giải quyết tranh

chấp hợp đồng KDTM, tại Chương 3 của luận văn, tác giả tập trung đi sâu phân tích

những giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại

Tòa án. Đó là việc thống nhất nội hàm của khái niệm KDTM trong toàn bộ các văn

bản pháp luật của hệ thống pháp luật hiện hành; sửa đổi cách lập pháp về thẩm

quyền của Tòa án theo hướng loại trừ; sửa đổi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử

vụ án giải quyết tranh chấp KDTM; quy định về chứng minh, chứng cứ và việc áp

dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Hệ thống pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác giải quyết tranh

chấp hợp đồng KDTM theo tố tụng tư pháp. Pháp luật thương mại ngày càng được hoàn

thiện sẽ tạo điều kiện cho Toà án có cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng để giải quyết các tranh

chấp hợp đồng KDTM trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Để công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM theo tố tụng tư pháp đạt

hiệu quả cao, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của mọi công dân, tác giả đã nêu

ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp

hợp đồng KDTM tại Tòa án. Theo đó, công chức Tòa án nhân dân thành phố nói

riêng và ngành Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán,

phải thường xuyên học tập nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng

như phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Đây là một trong những giải pháp cấp thiết

được đặt lên hàng đầu nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc giải quyết các

tranh chấp KDTM, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, kinh tế của đất

nước.

78

KẾT LUẬN

Các hoạt động kinh tế luôn có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự

tồn tại cũng như phát triển của xã hội. Trong hoạt động kinh doanh thường khó

tránh khỏi các tranh chấp do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tranh chấp hợp đồng

KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa

các chủ thể tham gia quá trình của hoạt động KDTM. Ở nước ta, một trong các

phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM được đương sự ưu tiên lựa

chọn là tố tụng tư pháp tại Tòa án.

Trong phạm vi đề tài của luận văn “Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh

doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang”,

tác giả đã phân tích rõ ràng, cụ thể những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về việc

giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM. Qua đó, có thể thấy được cái nhìn khái quát

về thực trạng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM ở nước ta

hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích một số bất cập, hạn chế của hệ thống

pháp luật trong việc giải quyết các loại tranh chấp này, nhận xét nguyên nhân của

những bất cập đó để có định hướng, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật

về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.

Luận văn cũng đưa ra những giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết

các tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. Đây

là yêu cầu cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là

mục tiêu trong chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Đảng và Nhà

nước ta.

Việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp này có ý nghĩa hết sức quan trọng

trong việc đảm bảo công bằng cho các thành phần kinh tế được tự do cạnh tranh

trên cơ sở luật pháp, tạo niềm tin cho các thương nhân nước ngoài đầu tư kinh

doanh vào Việt Nam. Điều đó góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế của địa

phương nói riêng cũng như của đất nước nói chung, góp phần thực hiện thắng lợi

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thông qua luận văn, tác giả hi vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ trong

79

công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp KDTM bằng thủ

tục tư pháp tại Tòa án, đảm bảo cho hoạt động này có vai trò tích cực hơn nữa trong

xã hội hiện đại, đồng thời là giải pháp tốt cho các doanh nghiệp khi có tranh chấp

xảy ra./.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản pháp luật, Nghị quyết:

1. Bộ luật Dân sự 2015

2. Bộ luật Tố dụng dân sự 2015.

3. Luật Thương mại 2005.

4. Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.

5. Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020.

6. Kết Luận 92-KL/TƯ của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020.

7. Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của

BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”.

B. Sách chuyên khảo:

8. LS Trương Nhật Quang (2018), Pháp luật về Hợp đồng - Các vấn đề pháp lý cơ

bản, NXB Dân trí.

9. Nguyễn Thị Hồng Nhung (chủ biên, 2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt

Nam, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

10. PSG.TS Nguyễn Viết Tý, TS Nguyễn Thị Dung (chủ biên, 2018), “Giáo trình

Luật Thương mại Việt Nam Tập 1”, NXB Tư pháp.

11. TS Nguyễn Thị Dung (chủ biên, 2018) Pháp luật về Hợp đồng trong Thương

mại và Đầu tư - Những vấn đề pháp lý cơ bản, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

C. Tạp chí:

81

12. Bùi Thành Trung (2014), “Xác định thẩm quyền giữa toà án và trọng tài trong

quá trình thụ lí vụ án dân sự giải quyết tranh chấp về KDTM tại Toà án và một số

kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, (12).

13. Nguyễn Như Phát (2001), “Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế”,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật (11).

14. Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục áp dụng biện

pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam hiện

nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11).

15. Vũ Gia Trưởng (2016), Những vướng mắc khi giải quyết tranh chấp hợp đồng

tín dụng trong kinh doanh thương mại tại tòa án, Nghề Luật.Học viện Tư pháp, Số

2/2016, tr. 34 - 38.

16. Vũ Thị Lan Anh (2016), “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt

động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch”, Tạp chí Nghề Luật, (03), tr. 11 - 16.

D. Luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ:

17. Cung Mỹ Anh (2008), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy

định của BLTTDS - Những vướng mắc và giải pháp khắc phục, Luận văn Thạc sĩ

Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

18. Đào Văn Hội (2003), Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị

trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà

Nội.

19. Lê Thanh Khánh (2018), Thẩm quyền của tòa án trong quá trình giải quyết

tranh chấp kinh doanh, thương mại, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học

Luật Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.

20. Lê Thị Oanh (2017), Thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp KDTM và thực tiễn

thực hiện tại Tòa án, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

82

21. Phạm Thị Ban (2012), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án

nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, Luận văn Thạc sĩ

Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

22. Trần Thị Mơ (2016), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo pháp

luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Trần Văn Hùng (2016), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo pháp

luật tố tụng dân sự từ thực tiễn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội.

E. Bản án, Quyết định của Tòa án

24. Bản án số: 09/2018/TLST-KDTM ngày 05 tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh

chấp hợp đồng sản xuất và thi công công việc”.

25. Bản án số: 21/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố

Tuyên Quang về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” .

26. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 01/2014/KDTM-ST

ngày 03 tháng 11 năm 2014 về “V/v tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng” của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.

27. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 14/2015/KDTM-ST

ngày 24 tháng 8 năm 2015 về “V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Tòa án nhân

dân thành phố Tuyên Quang.

F. Báo cáo của Tòa án

28. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2015), Báo cáo tổng kết công tác Tòa

án năm 2015 và nhiệm vụ công tác năm 2016.

29. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2016), Báo cáo tổng kết công tác Tòa

án năm 2016 và nhiệm vụ công tác năm 2017.

30. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2017), Báo cáo tổng kết công tác Tòa

án năm 2017 và nhiệm vụ công tác năm 2018.

83

31. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2018), Báo cáo sơ kết công tác Tòa

án năm 2018 và nhiệm vụ công tác năm 2019.

32. Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (2019), Báo cáo tổng kết công tác Tòa

án năm 2019 và nhiệm vụ công tác năm 2020.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành

BLTTDS, Hà Nội.

84