intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Đạo đức công vụ (Ngành: Hành chính văn phòng - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:55

15
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Đạo đức công vụ nhằm trang bị, hệ thống cho người học những kiến thức chuyên sâu về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp, công vụ và đạo đức công vụ; làm tài liệu hỗ trợ cho người học ngành, nghề Hành chính văn phòng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Đạo đức công vụ (Ngành: Hành chính văn phòng - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG KON TUM GIÁO TRÌNH MÔN HỌC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ NGÀNH, NGHỀ: HÀNH CHÍNH VĂN PHÒNG TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP (Ban hành kèm theo Quyết định số /QĐ-CĐCĐ ngày / / 20... của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum) Kon Tum, năm 2022
  2. MỤC LỤC Trang TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Giáo trình “Đạo đức công vụ” được xây dựng chủ yếu dựa trên cấu trúc của chương trình đào tạo đã được Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum phê duyệt dành cho đào tạo ngành/nghề Hành chính văn phòng, trình độ trung cấp. Trong quá trình biên soạn Giáo trình “Đạo đức công vụ”, nhóm tác giả nghiên cứu và tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau như: Giáo trình đạo đức công vụ của tác giả Nguyễn Hồng Hoàng, Nxb Học viện hành chính quốc gia, 2012; tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên của Bộ nội vụ, ban hành kèm theo Quyết định số 2721QĐ/BNV, ngày 28/12/2918 của Bộ nội vụ. Ngoài ra, nhóm tác giả tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác để hoàn thiện giáo trình này nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mục đích của giáo trình làm tài liệu giảng dạy chính thức cho nhà giáo và làm tài liệu hỗ trợ thực hành cho người học ngành, nghề Hành chính văn phòng, trình độ trung cấp ở trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum. Giáo trình này được lưu hành nội bộ, các nguồn thông tin có thể được sử dụng nguyên bản hoặc trích sử dụng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  3. LỜI GIỚI THIỆU “Đạo đức công vụ” là giáo trình được biên soạn nhằm mục đích phục vụ cho công tác đào tạo ngành, nghề Hành chính văn phòng, trình độ trung cấp trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum. Đây là môn học nhằm trang bị, hệ thống cho người học những kiến thức chuyên sâu về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp, công vụ và đạo đức công vụ; làm tài liệu hỗ trợ cho người học ngành, nghề Hành chính văn phòng, trình độ trung cấp ở trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum. Giáo trình gồm 2 chương: Chương 1: Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp Chương 2: Công vụ và đạo đức công vụ Giáo trình được trình bày một cách cô đọng, ngắn gọn, dễ hiểu dưới dạng một bài giảng bộ môn nhằm giảm bớt thời gian ghi chép của người học để tập trung vào việc nghiên cứu, trao đổi thảo luận trên lớp. Trong mỗi chương được trình bày theo cấu trúc: giới thiệu những kiến thức cơ bản, mục tiêu, nội dung, câu hỏi ôn tập, bài tập thực hành, thảo luận. Trong quá trình biên soạn, chúng tôi luôn bám sát chương trình chi tiết môn học đã được nhà trường phê duyệt và cập nhật những kiến thức mới được đưa vào theo nội dung của Giáo trình bộ môn. Vì vậy, hy vọng đây sẽ là tập tài liệu có ích cho việc học tập của người học trong nhà trường đối với bộ môn. Mặc dù nhóm tác giả đã rất cố gắng, nhưng không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô trong nhà trường và người học để Giáo trình ngày càng được hoàn thiện hơn. Kon Tum, ngày 5 tháng 7 năm 2022 THAM GIA BIÊN SOẠN 1. Chủ biên: ThS Lê Thị Thanh Hòa 2. Thành viên: ThS Lê Thị Hoan
  4. GIÁO TRÌNH MÔN HỌC TÊN MÔN HỌC: ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ THÔNG TIN CHUNG VỀ MÔN HỌC Mã môn học: 51012008 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học: - Vị trí: Môn học Đạo đức công vụ thuộc khối kiến thức các môn học cơ sở trong chương trình đào tạo ngành, nghề Hành chính văn phòng trình độ trung cấp, được bố trí học trước các môn học chuyên ngành. - Tính chất: là môn học kết hợp giữa lý thuyết và thực hành; môn học bắt buộc; cung cấp cho người học những kiến thức, kỹ năng cần thiết trong công tác văn phòng. - Ý nghĩa và vai trò: Môn học có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức, kỹ năng cơ bản về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp; nâng cao chất lượng học tập và nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo ngành, nghề Hành chính văn phòng, trình độ trung cấp. Mục tiêu của môn học: 1. Về kiến thức: - Trình bày được một số vấn đề chung về đạo đức, công vụ và đạo đức công vụ. - Phân tích vai trò của đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp một số nghề cụ thể; phân tích vai trò của đạo đức công vụ, yêu cầu của việc nâng cao đạo đức công vụ, giải pháp nâng cao đạo đức công vụ. 2. Về kỹ năng: - Có khả năng lý giải các vấn đề về công vụ, đạo đức công vụ trong đời sống xã hội hiện nay; - Thực hiện được những kiến thức cơ bản về đạo đức, đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp vào trong quá trình học tập, công tác và trong thực tiễn cuộc sống; - Xây dựng tác phong làm việc khoa học: làm việc cá nhân và làm việc nhóm để thảo luận và giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung môn học; xây dựng lối sống lành mạnh của một cán bộ công chức.
  5. 3. Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: - Nghiêm túc học tập; có ý thức vận dụng các chủ trương của Đảng và Nhà nước vào trong thực tiễn; - Nâng cao ý thức trách nhiệm đối với nghề nghiệp, có khả năng phát huy những hiểu biết của môn học góp phần hình thành thái độ, ý thức trách nhiệm xã hội - nghề nghiệp tích cực, hình thành và phát triển phẩm chất, bản lĩnh chính trị - đạo đức nghề nghiệp; - Có năng lực tự định hướng, tự học tập, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thích nghi với các môi trường làm việc khác nhau. NỘI DUNG CỦA MÔN HỌC CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP Mã chương: 51012008 - 01 ThS Lê Thị Thanh Hòa GIỚI THIỆU Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp là một yếu tố quan trọng để phát triển sự nghiệp. Nó quyết định khả năng tồn tại của chúng ta trong thị trường lao động; đạo đức nghề nghiệp thể hiện ngay trong cách chúng ta phản ứng trước những tình huống trong cuộc sống công sở hàng ngày; giúp công chức, viên chức định được trách nhiệm trong việc, rèn luyện phẩm chất đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp, mang lại hiệu quả cao trong công việc. MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Trình bày được một số vấn đề chung về đạo đức: Quan niệm chung về đạo đức, tương quan giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ, công chức; phân tích vai trò của đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp một số nghề cụ thể. - Thực hiện được những chuẩn mực chung về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp đã học vào rèn luyện phẩm chất đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp; có năng lực tự định hướng, tự học tập, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm để nâng
  6. cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thích nghi với các môi trường làm việc khác nhau. - Có tình cảm, niềm tin, tạo lập thói quen ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức; xác định được trách nhiệm trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp. NỘI DUNG 1. Một số vấn đề chung về đạo đức 1.1. Quan niệm chung về đạo đức 1.1.1. Khái niệm đạo đức Đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, gắn với con người, tồn tại cũng với xã hội loài người.. Với tư cách là một phương diện của đời sống xã hội, đạo đức hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (đạo đức trong kinh tế, đạo đức trong chính trị, đạo đức trong nghệ thuật, đạo đức trong tôn giáo…). Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và hành vi đạo đức. Như vậy, đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh các hành vi của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, sức mạnh truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội) (1). 1.1.2. Cấu trúc của đạo đức Cấu trúc của đạo đức được xét từ nhiều góc độ. Xét theo mối quan hệ giữa ý thức đạo đức và hoạt động thì đạo đức được hợp thành từ hai yếu tố là ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét trong quan hệ giữa người với người thì người ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đao đức xã hội và đạo đức cá nhân. - Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức + Ý thức đạo đức: Ý thức đạo đức là ý thức của con người về hệ thống những quy tắc và chuẩn mực hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đang tồn tại, trong đó xác định những ranh giới của hành vi con người và những giá trị của nó. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỷ và tinh thần tập thể
  7. Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những quy tắc do xã hội đặt ra; nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Ý thức đạo đức gồm tri thức đạo đức và tình cảm đạo đức + Thực tiễn đạo đức Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong cuộc sống. Thực tiễn đạo đức bao gồm cả hành vi và kiềm chế hành vi. Thực tiễn đạo đức biểu hiện cả trực tiếp và gián tiếp + Trực tiếp: hành vi bắt cướp, đỡ người bị nạn + Gián tiếp: Thông qua mua - bán: biểu hiện trung thực hay giả dối; thông qua xử lý sự việc (ví dụ: Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tiêm ký sinh sốt rét vào mình để thử nghiệm). - Quan hệ đạo đức Quan hệ đạo đức là một dạng quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tính hiện thực của bản chất xã hội của con người. Quan hệ đạo đức là một bộ phận của quan hệ xã hội. Trong xã hội loài người tồn tại nhiều mối quan hệ về đạo đức như: quan hệ giữa các thế hệ; quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; quan hệ tập thể; quan hệ giữa các cá nhân và xã hội; quan hệ bạn bè, đồng chí; quan hệ giữa nam và nữ … Tóm lại, cấu trúc của đạo đức được tạo nên bởi: Ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập, mà liên hệ tác động lẫn nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hóa bên trong của hệ thống đạo đức. Trên bình diện chung nhất, có thể nhìn nhận đạo đức qua các tư cách dưới đây: - Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, đạo đức biểu hiện dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc, các chuẩn mực, giá trị định hướng, điều chỉnh hành vi của con người và hoạt động của xã hội. Những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực và giá trị ấy là biểu hiện những quan hệ hiện thực xác định của con người đối với
  8. nhau và đối với những hình thái cộng đồng người khác nhau: gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung. Xét về mặt nhận thức, đạo đức là phản ánh của tồn tại xã hội, bị quy định bởi tồn xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội, là sự sản xuất của cải vật chất của xã hội và những quan hệ của con người trong quá trình sản xuất đó. Những thời đại khác nhau, những cộng đồng người khác nhau có những hệ thống đạo đức khác nhau, do chúng có những tồn tại xã hội khác nhau. Tồn tại xã hội mà biến đổi, thì đạo đức, dù sớm hay muộn, cũng biến đổi theo. Tuy vậy, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, đạo đức có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ở chỗ, trong quá trình hình thành và biến đổi, đạo đức mặc dù chịu sự quy định của tồn tại xã hội vẫn tuân theo những quy luật riêng vốn có của bản thân đạo đức mà trong đó, quy luật kế thừa là tiêu biểu. Chính vì tính độc lập tương đối trong sự hình thành và phát triển mà đạo đức có vai trò đối với sự vận động và phát triển của tồn tại xã hội, cũng như của các lĩnh vực xã hội khác - Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi con người Khác với sự tồn tại của cá thể động vật, sự tồn tại của mỗi cá nhân bao giờ cũng vừa mang tính độc lập, vừa mang tính phụ thuộc đối với sự tồn tại của cá nhân khác. Như vậy, sự tồn tại của mỗi cá nhân và sự tồn tại của cộng đồng (gia đình, giai cấp, dân tộc và xã hội nói chung) đều là tất yếu như nhau, cái này là tiền đề và điều kiện của cái kia. Để đảm bảo cho tất yếu ấy được thực hiện thì cần phải có những điều kiện xác định do tồn tại xã hội của cá nhân và của cộng đồng quy định. Những điều kiện ấy là những lợi ích. Nhờ xác lập được lợi ích, mà một cá nhân hay một cộng đồng người mới có thể tồn tại và phát triển một cách bình thường. Trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội, có hai loại lợi ích: lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng (lợi ích xã hội); cả hai lợi ích này đều tất yếu và đều được thực hiện thông qua hoạt động, thông qua hành vi của những cá nhân cụ thể. Lợi ích được chính là nguyên nhân thực tại của các hoạt động xã hội, là cơ sở của các kích thích trực tiếp - những động cơ, những tư tưởng... Do vậy, xét về mặt bản chất, lợi ích chính là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Lợi ích là tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng người.
  9. Tuy nhiên, sự thực hiện lợi ích của cá nhân và cộng đồng không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau. Sự thực hiện lợi ích của cá nhân này có thể phương hại đến lợi ích của cá nhân khác hoặc lợi ích của cộng đồng, xã hội. Cũng như vậy, sự thực hiện lợi ích của xã hội có thể phương hại đến lợi ích của cá nhân. Để đảm bảo cho xã hội và con người (cá nhân) có thể tồn tại được trong một trật tự nhất định, loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: phong tục, tập quán, tôn giáo, đạo đức, pháp luật... Tất cả những phương thức ấy đều có một thực chất là chỉ ra giới hạn được phép và không được phép trong hành vi của các cá nhân nhằm tạo nên lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Như vậy, đạo đức là một trong những phương thức tạo nên mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. - Đạo đức là một hệ thống các giá trị Đạo đức là một hiện tượng ý thức xã hội, mang tính chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá rõ rệt. Bất cứ một hiện tượng đạo đức nào cũng đều hoặc là khẳng định, hoặc là phủ định một lợi ích xác định. Do vậy, đạo đức là một hệ thống hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Thêm nữa, đạo đức là hiện tượng tinh thần, cho nên nó là một hệ thống giá trị tinh thần của xã hội. Hệ thống giá trị đạo đức là cái mà người ta dùng để khẳng định những lợi ích xác định. Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu lợi ích mà hệ thống giá trị đạo đức khẳng định là tiến bộ, phù hợp với sự phát triển, tiến bộ xã hội, thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Trong trường hợp ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, mang tính phản nhân đạo (2). 1.2. Tương quan giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác Trong xã hội, đạo đức của cá nhân người lao động trong các nghề nghiệp khác nhau luôn gắn liền với nhiều yếu tố như: chính trị, pháp luật, tôn giáo,... Đồng thời đạo đức gắn liền với cộng đồng dân cư, tổ chức và xã hội nơi con người sinh sống. Do đó để hiểu đạo đức của từng cá nhân lao động trong các nghề nghiệp khác nhau, trong xã hội ở các giai đoạn nhất định của lịch sử, phải xem xét mối quan hệ đạo đức với các thành tố khác ngoài nó. 1.2.1. Đạo đức và chính trị Chính trị là một hệ thống quan hệ giữa các giai cấp, các chính đảng, các quốc gia, là một hệ thống những mục đích nhất định của xã hội và những
  10. phương tiện nhất định để đạt những mục đích ấy. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Kinh tế tác động trực tiếp đến chính trị và nhờ sự hỗ trợ của chính trị, tác động đến các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, về nguyên tắc đạo đức có quan hệ qua lại với chính trị. Quan hệ giữa đạo đức và chính trị là một quan hệ biện chứng. Quan hệ này được thể hiện trên những bình diện chủ yếu sau: Thứ nhất, đó là tác động qua lại giữa các học thuyết chính trị và quan niệm về ý nghĩa cuộc sống, lý tưởng cao nhất của con người. Các học thuyết chính trị là sự phản ánh về mặt lý luận những mục đích chung, cơ bản của một giai cấp một xã hội nhất định. Mục đích chung, cơ bản này tạo thành ý nghĩa, mục đích cuộc sống của con người thuộc một giai cấp, một xã hội nhất định. Quan niệm về ý nghĩa và mục đích cuộc sống được hình thành trong chính trị có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động tự giác của con người. Thông qua các hoạt động tự giác, đạo đức của xã hội và cá nhân được thể hiện và thực hiện. Thứ hai, đó là quan hệ giữa đạo đức và thực tiễn chính trị của một giai cấp, một xã hội nhất định. Đối với xã hội có giai cấp đối kháng, đạo đức của giai cấp thống trị là đạo đức chính thống của xã hội. Đạo đức này thường nhân danh những giá trị mang ý nghĩa phổ biến vì thế nó mâu thuẫn với thực tiễn chính trị của giai cấp thống trị, chính trị này trực tiếp thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị. Thứ ba, đó là sự thống nhất giữa đánh giá chính trị và đánh giá đạo đức. Đánh giá chính trị dựa trên cơ sở làm rõ lợi ích đối với xã hội, đối với giai cấp của một hành động nhất định. Còn đánh giá đạo đức thì căn cứ vào sự xác định dụng ý và động cơ của hành vi. Tuy nhiên, không có sự phân biệt rạch ròi giữa hành vi chính trị với hành vi đạo đức. Ngược lại những kết quả chính trị thực tiễn có lợi cho xã hội, giai cấp đều có thể được xem như những giá trị đạo đức. 1.2.2. Đạo đức và pháp luật Pháp luật xác định những giới hạn cho hành động của con người, xác lập chế độ và mức độ trừng phạt cho những trường hợp vi phạm giới hạn. Bằng trừng phạt, pháp luật điều tiết hành vi con người một cách cưỡng chế. Đạo đức xác định giá trị cho hành động tự nguyện tự giác của con người, xác định giới hạn cho điều thiện và điều ác. Đạo đức không trừng phạt hành vi vi phạm bằng sự cưỡng chế từ bên ngoài mà trừng phạt bằng sự tự vấn lương tâm bên trong
  11. chủ thể. Chuẩn mực pháp luật xác lập những điều kiện tối thiểu của đời sống và trật tự xã hội. Nó xác định ranh giới cho các hành vi: phải làm, không được làm và được làm. Vì vậy người ta gọi là pháp luật là đạo đức tối thiểu. Chuẩn mực đạo đức xác lập những điều kiện tối đa của cuộc sống và trật tự xã hội. Nó xác lập hành vi nên làm và không nên làm. Vì vậy nó không có sự đảm bảo đảm bằng sự cưỡng bức của pháp luật. Dư luận xã hội ở bên ngoài và lương tâm ở bên trong là cái điều chỉnh hành vi đạo đức. Vì vậy người ta gọi đạo đức là pháp luật tối đa. Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực nhất định, biến nó thành thói quen, thành yêu cầu bên trong con người, do đó biến nó thành chuẩn mực đạo đức. 1.2.3. Đạo đức và tôn giáo Tôn giáo có năng lực giải thích và hướng dẫn hành vi con người, tức là có năng lực đóng vai trò đạo đức. Vấn đề cơ bản của mọi đạo đức tôn giáo và mọi học thuyết đạo đức là vấn đề ý nghĩa cuộc sống con người. Cuộc sống con người có ý nghĩa không? Và ý nghĩa của nó là gì? Sức mạnh nào quyết định cuộc sống và nó đòi hỏi ở con người cái gì? Con người tìm ý nghĩa cuộc sống trong việc mưu cầu hạnh phúc. Tôn giáo xuất hiện trong điều kiện con người không tìm được hạnh phúc trong cuộc sống trần thế. Với chức năng đền bù hư ảo, tôn giáo đưa đến cho con người những cứu cánh, sự giải thoát về mặt tinh thần. Tôn giáo có chứa đựng nhiều chuẩn mực đạo đức phù hợp với con người, đáp ứng nhu cầu của mộ bộ phận quần chúng nhân dân. Tôn giáo là một khái niệm huyền ảo và sai lệch của con người về hiện thực, trong khái niệm đó lực lượng ngoại giới (lúc đầu là lực lượng siêu tự nhiên về sau lại thêm lực lượng xã hội) chi phối đời sống hàng ngày của con người bằng hình thức siêu trần thế, siêu tự nhiên. Tôn giáo và đạo đức đều hướng con người tới những lý tưởng sống thiện, nhân đạo, tránh cái ác. Tuy nhiên chúng khác nhau về bản chất. Về mặt lịch sử, đạo đức xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người, trước rất lâu so với sự ra đời của các tôn giáo. Như vậy, đã có một giai đoạn lịch sử rất dài, đạo đức tồn tại không có tôn giáo. Điều đó cho thấy đạo đức không
  12. thể bắt nguồn từ tôn giáo và nó tồn tại như một đời sống tinh thần khác với niềm tin tôn giáo. Đạo đức phản ánh chân thực những nhu cầu khách quan, hiện thực còn tôn giáo lại phản ánh thế giới một cách hư ảo với những khát vọng tự giải thoát trong thế giới tinh thần mà hiện thực tỏ ra hoàn toàn bất lực. Đạo đức và tôn giáo đều thấy được nỗi đau khổ của con người và hướng tới việc phấn đấu làm giảm nỗi đau khổ ấy để con người đi đến hạnh phúc. Nhưng đạo đức xem nỗi đau khổ của con người trong tính lịch sử hiện thực của nó và tin tưởng chắc rằng chính con người là động lực duy nhất giải thoát con người khỏi nỗi đau khổ và tự xây dựng hạnh phúc của mình trong đời sống hiện thực thông qua hoạt động lao động của mình. Còn tôn giáo tin rằng, chỉ có những lực lượng siêu nhiên, thần linh, thượng đế mới có khả năng cứu vớt con người ra khỏi nỗi đau khổ và điều đó chỉ có thể xảy ra trong thế giới khác, thế giới sau cái chết (phủ nhận vai trò của con người trong việc sáng tạo ra giá trị đạo đức của mình). Trong điều kiện nước ta Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Mỗi công dân đều có quyền tham gia hoặc không tham gia thực hiện tín ngưỡng của mình, đều có quyền tham gia hoặc không tham gia vào bất cứ tôn giáo nào. Các hoạt động tôn giáo đều được pháp luật bảo vệ và hoạt động theo hiến pháp. Để đảm bảo cho các tôn giáo thực hiện được những lý tưởng tôn giáo chân chính của mình, phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước và phụng sự tín ngưỡng tôn giáo, pháp luật nước ta nghiêm cấm việc lợi dụng tôn giáo để kích động nhân dân gây rối loạn trật tự xã hội nhằm thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối. 1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ, công chức 1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của
  13. mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”. Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi giáo dục mọi người thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và đưa vào những khái niệm đó nội dung mới cho phù hợp với phẩm chất cách mạng của cán bộ, Đảng viên ta. + “Cần” được Hồ Chí Minh phân tích không chỉ là sự cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai mà phải là làm việc có kế hoạch, khoa học, biết cải tiến kỹ thuật để đem lại năng suất lao động cao để xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp. + “Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, tiết kiệm chỉ là những yếu tố vật chất mà theo người cần tiết kiệm cả về mặt thời gian, làm công việc phải cho nhanh không nên chậm rãi. Tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn, keo kiệt. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu sức cũng vui lòng. Tiết kiệm cần đi đôi với chống xa xỉ, ăn sung mặc đẹp khi đồng bào còn thiếu thốn đó là xa xỉ, cần phải hạn chế nhu cầu này. + “Liêm” là trong sạch, không tham lam, không tham tiền, của, địa vị, danh lợi. Bác dạy cán bộ luôn phải giữ lấy chữ liêm làm đầu. Nếu tham tiền của, danh lợi, địa vị đó là bất liêm, bất liêm sẽ dẫn tới làm bậy, xã hội sẽ loạn. Từ đó Hồ Chí Minh còn đưa ra những biện pháp để trừng trị bất liêm như: Phải sử dụng pháp luật để trừng trị kẻ bất liêm. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, một dân tộc mà biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. + “Chính” là thẳng thắn, đúng đắn, là người làm việc công phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư dùng vào việc công. Việc gì cũng phải công minh chính trực, không nên tư ân, tư huệ, tư thù, tư oán. Đấy là những đức tính xấu của con người, phải dùng người tài năng, làm được việc, phải trung thành với Chính phủ và đồng bào. Không được lên mặt làm “quan cách mạng”. + “Chí công vô tư” có nghĩa là hết sức lo cho công việc chung, không màng tư lợi. Hết sức vì sự công bằng, biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, của Tổ quốc, của tập thể lên trên lợi ích của riêng tư. Thực hiện được đạo đức này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là đã thực hiện được trách nhiệm mình vì mọi người, mọi người vì mình, thực hiện được đạo đức này cũng chính là đã chối được chủ nghĩa cá nhân, đấy là kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng, nó sẽ dẫn người ta đi đến những căn bệnh tham
  14. lam, ích kỉ, quyền hành, tự kiêu, tự tại, coi thường tập thể, từ đó thiếu ý thức tổ chức, tinh thần trách nhiệm không cao, tính kỷ luật kém làm hại đến nhân dân, Đảng và cách mạng. Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức như cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập một số phạm trù đạo đức như nhân, nghĩa, trí, dũng, tín với tư cách những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng. - Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng”. Đạo đức cách mạng theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi công chức phải là công bộc của dân, mọi hoạt động đều lấy nhân dân làm mục đích phục vụ. Công chức phải hiếu với dân - nghĩa là, tuyệt đối trung thành phục vụ nhân dân, “Lấy dân làm gốc” phát huy quyền dân làm chủ. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mắc - Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người cho rằng: Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó xóa đi những gì là lỗi thời và phát huy mạnh mẽ những tiềm năng tinh thần, những phẩm chất đạo đức đang tồn tại. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có con người cách mạng với tinh thần cách mạng. Cho nên, đạo đức cách mạng là bước ngoặt lớn nhất, bước ngoặt căn bản của lịch sử đạo đức Việt Nam trong truyền thống đạo đức Việt Nam. Đạo đức này phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và bản thân nó cũng tạo cho mình một chuyển biến cách mạng. - Đạo đức cách mạng trước hết là đạo đức của những người làm cách mạng, là đạo đức của cán bộ, đảng viên, những người phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đạo đức cách mạng của cán bộ, công chức được thể hiện thông qua những hành vi hoạt động của họ vì cách mạng, vì sự nghiệp chung của nhà nước và xã hội. Do vậy, đạo đức cách mạng khác hẳn với đạo đức cũ. Tiếp thu giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát triển một cách sáng tạo tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, ở Hồ Chí Minh hình thành đạo đức cách mạng. Ngay từ đầu Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của đạo đức trong sự nghiệp cách mạng. Người cho rằng: Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ
  15. nó xoá đi những gì là lỗi thời và phát huy mạnh mẽ những tiềm năng tinh thần, những phẩm chất đạo đức đang tồn tại. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có con người cách mạng với tinh thần cách mạng. Cho nên đạo đức cách mạng là bước ngoặt lớn nhất, bước ngoặt căn bản của lịch sử đạo đức Việt Nam trong truyền thống đạo đức Việt Nam. Đạo đức này nó phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và bản thân nó cũng tạo cho mình một chuyển biến cách mạng. Đạo đức cách mạng thực chất là của những người làm cách mạng, đạo đức cách mạng là để thay cho đạo đức cũ, đạo đức cách mạng là đạo đức của cán bộ, của những người phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Nhưng đạo đức cách mạng của người cán bộ, công chức chỉ có thể được thể hiện thông qua những hành vi hoạt động của họ vì cách mạng, vì sự nghiệp chung của nhà nước xã hội. Đạo đức cách mạng khác hẳn với đạo đức cũ. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời (3). 1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nghề nghiệp Nghiên cứu về đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều phạm trù, khi đề cập đến đạo đức của cán bộ, đảng viên, cán bộ, công chức thì phạm trù trung tâm là “đức” và “tài”. Đức và tài trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước hiện nay, được Đảng và nhà nước ta rất coi trọng và đã đặt ra những yêu cầu nhất định đối với cán bộ công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý các ngành, các cấp. Công chức phải có đức, có tài. “Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (3). Khi nói, người cán bộ, công chức có đức, có tài là muốn đề cập đến những khía cạnh hết sức cụ thể chẳng hạn: Phẩm chất chính trị; phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành... Ở đây, chúng tôi tạm coi, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức thuộc về phạm trù đức; còn trình độ và năng lực,... thuộc về phạm trù tài. Song việc tạm tách như vậy chỉ mang tính tương đối, bởi ngay trong từng việc cụ thể đức và tài bao chứa ở trong nhau. Hơn bao giờ hết, đạo đức cán bộ, công chức ở đó thể hiện sự thống nhất như một chỉnh thể giữa đức và tài, trong những chừng
  16. mực nhất định, đức cũng là tài mà tài cũng là đức. Đòi hỏi cán bộ, công chức phải có đức, có tài trong thực thi công vụ là muốn đề cập tới những tiêu chuẩn chung nhất của người cán bộ, công chức. Đối với cán bộ công chức, cán bộ quản lý nhà nước nhất thiết phải có kiến thức về khoa học quản lý nhà nước; có năng lực điều hành và tổng kết thực tiễn; có khả năng thể chế hoá các chỉ thị và nghị quyết của Đảng, tinh thông về chính sách và pháp luật; nghiệp vụ hành chính; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là một nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân giữ đúng đạo đức công dân.” Phần nhiều, các Nghị quyết của Đảng chỉ rõ rằng, phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, phải coi trọng cả “đức” và “tài”, “đức” là gốc. Nói như vậy, không có nghĩa là tuyệt đối hoá vai trò của đạo đức, xem nhẹ yếu tố “tài năng” thực chất muốn nhấn mạnh tới vị trí và tầm quan trọng của yếu tố “đạo đức” trong chỉnh thể “đức” và “tài”. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của mối quan hệ “đức” và “tài”. Ở Người, “đức” và “tài” là một, “đức” là biểu hiện của “tài” và “tài” là biểu hiện của “đức”. Hồ Chí Minh nói trong cuộc họp Giám đốc và Chủ tịch các Uỷ ban Công sở ở Hà Nội ngày 17/1/1946: “Vậy để giúp công việc Chính phủ một cách đắc lực, để nâng cao tinh thần kháng chiến, anh em viên chức bây giờ phải có bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính. Cần, là anh em viên chức phải tận tâm làm việc, một người làm bằng hai, ba người...; kiệm, phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được, cũng như các vật liệu, đồ dùng trong các công sở... Có cần, có kiệm (...) mới trở nên liêm chính để cho người ngoài kính nể được.” Đấy chính là bốn đức tính đạo đức cần có của người cán bộ, đảng viên, cán bộ, công chức, nó thể hiện thông qua những hành vi cụ thể trong hoạt động thực thi công vụ. Hành vi đạo đức của cán bộ, công chức chỉ có thể được hình thành và phát triển trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày phục vụ nhân dân; phụng sự sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Không có thứ đạo đức chung chung, trừu tượng, bên ngoài cuộc sống, càng không có thứ đạo đức suông. Cán bộ, công chức phải gương mẫu về đạo đức. Sự gương mẫu về đạo đức là một trong những chuẩn mực đặc trưng của nền công vụ. Người có quyền lực càng lớn, địa vị càng cao thì càng phải thường xuyên tu dưỡng và làm gương sáng về đạo đức.
  17. Hồ Chí Minh viết: “Một điều rất quan trọng nữa là các đồng chí Bộ trưởng, Thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu không ngừng nâng cao chí khí cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc... nhân dân ta rất tốt. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được” Đạo đức cán bộ, công chức theo tư tưởng của Hồ Chí Minh còn có nghĩa là Chính phủ, cán bộ phải lấy tinh thần công bộc của dân, đầy tớ của dân mà đối xử với dân. Cách hiểu này có thể coi là một đặc trưng tiêu biểu của đạo đức công vụ. Tinh thần đầy tớ của của dân một mặt có ý nghĩa là tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân mặt khác có ý nghĩa người được giao trách nhiệm đại diện cho nhân dân phải tận tâm, tận tụy với công việc, với dân, phụng sự nhân dân hết mình như giữ đạo hiếu với cha mẹ vậy: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh công việc chung cho dân, chứ không phải là để đè đầu cưỡi cổ nhân dân trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Cán bộ là “công bộc của dân”, là “đầy tớ của dân”, vì "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Điều này càng có ý nghĩa khi sự nghiệp đổi mới hiện nay cần có sự tham gia của toàn dân, cần phát huy, học tập và làm theo những tình cảm đạo đức trong sáng của Người. Đạo đức cán bộ, công chức được đặt trên lập trường của giai cấp công nhân và chỉ có một mục đích: Vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân; chỉ có một tinh thần: Tận tụy hy sinh vì dân, vì nước. Đạo đức cán bộ, công chức “đức” và “tài” không tách rời nhau. Mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, và văn minh chỉ có thể thực hiện được bởi những cá nhân con người trong đó có người cán bộ, công chức có đạo đức và tài năng. Mỗi người chỉ đóng góp nhiều nhất cho xã hội khi người đó thực sự làm tốt chuyên môn của mình theo sự phân công lao động xã hội trên nền tảng có một chế độ xã hội dân chủ thực sự tất cả đều vì con người, vì tương lai, hạnh phúc của con người. Xây dựng nền hành chính hiệu quả, chuyên nghiệp và trong sạch là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính
  18. ở Việt Nam. Để mục tiêu này được thực hiện, trước tiên phải có một đội ngũ cán bộ, công chức chính qui, chuyên nghiệp và có đạo đức trong thực thi công vụ phục vụ nhân dân. 2. Đạo đức nghề nghiệp 2.1. Đạo đức nghề nghiệp Kể từ khi sự phân công lao động xuất hiện trong lịch sử loài người thì hoạt động nghề nghiệp được xem là phương thức sống, lao động cơ bản nhất của con người. Đồng thời lịch sử đã chứng tỏ rằng, con người muốn tồn tại thì phải thực hiện hoạt động vật chất đầu tiên là lao động và trong quá trình lao động con người đã hình thành nên những tập tục, thói quen, lối sống nhân cách, văn hóa… Đây cũng chính là cơ sở để hình thành nên đạo đức riêng của từng nghề nghiệp hay nói cách khác là đạo đức nghề nghiệp. Như đã đề cập ở trên đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Do vị trí, vai trò cũng như tính chất đặc thù của từng ngành, nghề riêng biệt trong đời sống xã hội mà hình thành nên đạo đức nghề nghiệp. Có thể khẳng định rằng, đạo đức nghề nghiệp là một bộ phân quan trọng của đạo đức xã hội, hay nói cách khác là đạo đức riêng biệt của đạo đức nói chung. Nó thể hiện những yêu cầu đạo đức cụ thể, đặc biệt có liên quan đến quá trình thực hiện một hoạt động nghề nghiệp nào đó. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực của một nghề nghiệp cụ thể, trên cơ sở đó mà các thành viên của ngành nghề đó tự đánh giá, điều chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với nhu cầu, lợi ích, mục đích và sự tiến bộ của xã hội. Nhờ sự thực hiện tốt và tuân theo những yêu cầu của đạo đức nghề nghiệp mà chất lượng của quá trình lao động được tăng cường, sản phẩm của lao động đáp ứng được những đòi hỏi của người tiêu dùng và xã hội. Ngược lại, khi những nguyên tắc, chuẩn mực của yêu cầu đạo đức nghề nghiệp không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì chúng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động nghề nghiệp đó. Như vậy, khi đề cập đến đạo đức nghề nghiệp thực chất là muốn nói đến một khái niệm đạo đức nói chung nhưng nó được giới hạn trong phạm vi hẹp hơn, được cụ thể hóa và đặc trưng cho từng nghề nghiệp riêng biệt. Cũng như đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp cũng bao gồm những quy tắc, chuẩn mực được dư luận xã hội công nhận và chúng quy định, điều chỉnh những hành vi ứng xử trong mối quan hệ xã hội, cũng như những hành vi ứng xử của những cá nhân trong quá trình hoạt động của lĩnh vực nghề nghiệp đó.
  19. Từ những khái quát trên, chúng ta có thể quan niệm đạo đức nghề nghiệp là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực của đạo đức xã hội, của bản thân nghề nghiệp đối với người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp đó nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi ứng xử những mối quan hệ của họ trong hoạt động của mình. Cho nên, đạo đức nghề nghiệp được coi là một trong những nội dung quan trọng của công tác giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Hơn nữa, đạo đức nghề nghiệp sẽ góp phần nâng cao chất lượng lao động sản xuất, tăng năng suất chất lượng của công việc, đạo đức nghề nghiệp còn là cách thức để nâng cao sự tín nhiệm của mọi người vào nghề nghiệp, là phương thức nhằm củng cố lòng tin của người dân vào các ngành nghề, các sản phẩm hàng hóa dịch vụ được cung cấp (1). 2.2. Vị trí, vai trò của đạo đức nghề nghiệp Cùng với sự phát triển của xã hội với hệ thống nghề nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú, đạo đức nghề nghiệp cũng không ngừng phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững và lành mạnh một lĩnh vực nghề nghiệp nói riêng cũng như xã hội nói chung. Xây dựng đạo đức nghề nghiệp vì thế là một nội dung không thể thiếu trong văn hóa của một cơ quan, tổ chức trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, thể hiện tính chuyên nghiệp cũng như trình độ phát triển của mỗi lĩnh vực nghề nghiệp. Đối với cá nhân người lao động, xây dựng đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cấu thành nhân cách nghề nghiệp của mỗi cá nhân, toàn bộ những phẩm chất xã hội cấu thành cá nhân người lao động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Chúng ta ai cũng có một nghề nghiệp nhất định (trừ một thiểu số người thất nghiệp hay không có khả năng lao động), do đó, nhân cách nghề nghiệp góp phần tạo nên đặc trưng của nhân cách cá nhân trong giai đoạn cá nhân đó đang cống hiến cho xã hội ở một vị trí nghề nghiệp nhất định. Một người có nhân cách tốt không thể có nhân cách nghề nghiệp tồi và ngược lại. Lịch sử nhân loại đã cho thấy những vĩ nhân có nhân cách lớn lao trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định và được tôn vinh trong lĩnh vực đó. Trong cuộc đời của một con người, thường có khoảng hơn một nửa thời gian là hoạt động nghề nghiệp, thậm chí đối với nhiều người, hoạt động nghề nghiệp có thể kéo dài gần như suốt cuộc đời. Thành công trong hoạt động nghề nghiệp thường tạo cơ sở, nền tảng để con người đạt được thành công, vinh quang trong cuộc sống. Muốn vươn tới đỉnh cao thực sự trong sự nghiệp con người không thể không có đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp có vị trí
  20. và vai trò rất quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của mỗi con người. Đó là chìa khóa dẫn đến thành công mọi trong hoạt động nghề nghiệp. Trong bất cứ ngành nghề nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, nếu không có đạo đức nghề nghiệp, không tuân theo những chuẩn mực đạo đức riêng của từng ngành nghề, con người sẽ không thể yêu nghề, gắn bó với nghề, sống hết mình với nghề mà mình đã lựa chọn và cũng không có tinh thần rèn luyện, phấn đấu để nâng cao tay nghề, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động… Chẳng hạn: Đối với kinh doanh: Đạo đức nghề nghiệp được xem như xương sống, nếu không có đạo đức doanh nghiệp đó sẽ lụi bại, đạo đức mang lại sự uy tín, niềm tin và sự hợp tác lâu dài, một khi đã có đạo đức nhà kinh doanh sẽ có tâm hơn đối với sản phẩm của mình, tạo uy tín với người tiêu dùng, đây là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Đối với giáo dục: Đạo đức nghề nghiệp được xem là thước đo nhân phẩm để thầy cô để kiến tạo những thế hệ tương lai của đất nước. Với những nhà giáo, ý thức đạo đức được rèn luyện nghiêm khắc hơn bất kì ngành nghề nào bởi không ai hiểu đạo đức nghề nghiệp quan trọng như thế nào đối với sự nghiệp trồng người, vun đắp và thắp sáng cái thiện tạo ra những mầm non tương lai cho xã hội. Với y học: Đạo đức nghề nghiệp được khái quát thành lương tâm, lương tâm sẽ là động lực phát huy cái thiện, sự hy sinh để cứu người, một ngành nghề đòi hỏi sự cẩn thận, chuyên tâm, đạo đức nghề nghiệp là nền tảng, là niềm tin để con người yêu lao động cống hiến cho hạnh phúc nhân loại… Không có đạo đức nghề nghiệp, lao động đối với con người chỉ còn mang tính bắt buộc chứ không mang tính “tự nguyện”, “tự giác”. Không có đạo đức nghề nghiệp, công việc đối với mỗi người chỉ còn là “gánh nặng” chứ không phải “niềm vui”. Khi mới 17 tuổi, trong luận văn tốt nghiệp trung học của mình, C.Mác đã từng viết rằng: “nếu ta chọn một nghề trong đó ta có thể làm việc được nhiều hơn cho nhân loại, thì ta không còng lưng dưới gánh nặng của nó, bởi vì đó là sự hy sinh vì mọi người. Những việc làm của ta sẽ sống một cuộc sống âm thầm nhưng mãi mãi có hiệu quả, và trên thi hài của chúng ta sẽ nhỏ xuống những giọt nước mắt nóng bỏng của những con người cao quý” (1). 2.3. Đạo đức nghề nghiệp một số nghề cụ thể 2.3.1. Đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo hiện nay Đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhà giáo có vai trò rất quan trọng, góp phần quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động sư phạm và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Các thầy, cô giáo phải thực sự là tấm gương sáng để mọi thế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0