intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

43
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình "Kinh tế thương mại đại cương" được biên soạn nhằm trang bị những kiến thức cơ bản và cốt lõi, mang tính tổng quan về kinh tế thương mại cho sinh viên chuyên ngành Kinh tế thương mại, cũng như các chuyên ngành đào tạo khác. Giáo trình kết cấu gồm 7 chương và chia thành 2 phần, phần 2 trình bày những nội dung về: thương mại dịch vụ; lợi thế so sánh và hội nhập kinh tế thương mại; nguồn lực và hiệu quả kinh tế thương mại;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương: Phần 2

  1. Chương 5 THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Thương mại dịch vụ là lĩnh vực mới, nó được hình thành và phát triển sau thương mại hàng hóa. Tuy nhiên, lĩnh vực kinh tế này đang có sự phát triển rất ấn tượng và đầy triển vọng trong cơ cấu thương mại, cũng như trong phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Mục đích của chương là giới thiệu những nội dung về bản chất, vai trò và các phương thức cung ứng trong thương mại dịch vụ, các xu hướng phát triển của thương mại dịch vụ. Trên cơ sở nghiên cứu về thương mại hàng hóa ở chương trước, chương này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề thể hiện tính đặc thù, khác biệt của thương mại dịch vụ so với thương mại hàng hóa. Đây là những cơ sở khoa học để tiếp cận và nghiên cứu về các quan hệ kinh tế, cũng như lựa chọn quyết định tối ưu trong phát triển và quản lý lĩnh vực kinh tế này. 5.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ 5.1.1. Khái niệm và phân loại thương mại dịch vụ a. Khái niệm thương mại dịch vụ Khái niệm về dịch vụ. Trong thời đại ngày nay, dịch vụ đã trở nên gần gũi trong đời sống kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Vai trò của dịch vụ cũng ngày càng tăng và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt trình độ phát triển hay chế độ chính trị - xã hội. Đến nay, đã có nhiều khái niệm đưa ra về dịch vụ, song khái niệm dựa trên tính chất của dịch vụ (so với sản phẩm hữu hình) có thể chuyển tải được những nội dung cơ bản và đầy đủ nhất về dịch vụ. Theo đó, dịch vụ là các hoạt động của con người được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình và không cầm nắm được[3]. Với tiếp cận này, dịch vụ có hai đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, dịch vụ là "sản phẩm", là kết quả của quá trình lao động và sản xuất nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Thứ hai, khác với sản phẩm hữu hình, 96
  2. dịch vụ là sản phẩm vô hình, phi vật chất và thường không thể lưu trữ được[3]. Như vậy về bản chất, dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Khái niệm về thương mại dịch vụ. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội, dịch vụ đã trở thành đối tượng của thương mại và có tỷ trọng buôn bán trong thương mại ngày càng tăng. Trong các quan hệ thương mại, dịch vụ là hàng hóa đặc biệt - hàng hóa vô hình, có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa vô hình này là lao động sáng tạo kết tinh ở sản phẩm, nhưng không nhìn thấy được mà chỉ có thể "cảm nhận" được hàng hóa đó. Còn giá trị sử dụng của nó là sự thỏa mãn, sự hài lòng của khách hàng khi được cung cấp dịch vụ. Khi dịch vụ được cung ứng ra thị trường với tư cách là một loại hàng hóa thì phạm trù thương mại dịch vụ được hình thành và trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, cũng như quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại. Tuy nhiên, khi bàn về khái niệm "thương mại dịch vụ" (Trade in Services), đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau do dựa trên các góc độ tiếp cận khác nhau, cụ thể: - Khái niệm thương mại dịch vụ thường được đưa ra bằng cách phân biệt thương mại dịch vụ với thương mại hàng hóa, mà đặc trưng phân biệt chính là đối tượng trao đổi, mua bán của chúng. Nếu đối tượng trao đổi, mua bán của thương mại hàng hóa là hàng hóa - sản phẩm hữu hình thì trong thương mại dịch vụ, đối tượng trao đổi, mua bán lại là dịch vụ - các sản phẩm vô hình. Bởi vậy, thương mại dịch vụ theo đó là sự trao đổi về dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức vì mục đích thương mại. - Theo tiếp cận của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS) thì thương mại dịch vụ (Thương mại dịch vụ quốc tế) được hiểu là việc cung cấp dịch vụ trong bất cứ lĩnh vực nào có liên quan đến thương mại: + Từ lãnh thổ của một thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào khác; 97
  3. + Trên lãnh thổ của một thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác; + Bởi một người cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ thành viên nào khác; + Bởi một người cung cấp dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ thành viên nào khác. Ở đây, dịch vụ bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong tất cả các lĩnh vực, trừ các dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của chính phủ (Các dịch vụ cung cấp để thi hành thẩm quyền của chính phủ là bất kỳ dịch vụ nào được cung cấp không trên cơ sở thương mại và cũng không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều nhà cung cấp dịch vụ)1. Theo tiếp cận này, thương mại dịch vụ quốc tế là sự cung ứng về dịch vụ giữa pháp nhân hoặc thể nhân trong nước với pháp nhân hoặc thể nhân nước ngoài vì mục đích thương mại. Cũng cần lưu ý, quan điểm về thương mại dịch vụ quốc tế theo tiêu chí của GATS khác với quan điểm truyền thống được sử dụng trong số liệu thống kê cán cân thanh toán ở Việt Nam. Số liệu thống kê cán cân thanh toán dựa trên các giao dịch giữa người thường trú và không thường trú. Do vậy, khi một người nước ngoài có tư cách pháp nhân trở thành người thường trú ở Việt Nam, việc sản xuất dịch vụ của người đó trở thành một phần của nền kinh tế trong nước. Theo GATS, tính chất xác định chính là quốc tịch, bởi vậy một người nước ngoài có tư cách pháp nhân dù thường trú ở Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục là một nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ở Việt Nam. - Theo tác giả Walter Goode thuộc trường Đại học Adelaide của Australia thì thương mại dịch vụ (Trade in Services) hay thương mại vô hình (Invisible Trade) là việc cung cấp dịch vụ theo các điều kiện thương mại cho người nước khác, thông qua thương mại xuyên biên giới hay thông qua hiện diện thương mại2. 1 Tại điều 1 phần I của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) 2 Từ điển chính sách thương mại quốc tế, NXB thống kê, 1997. 98
  4. Theo GATS hay tác giả Walter Goode thì thương mại dịch vụ được nghiên cứu là thương mại dịch vụ quốc tế và tiếp cận thông qua các phương thức cung ứng. Một cách tổng quát, có thể hiểu thương mại dịch vụ là toàn bộ những hoạt động trao đổi, cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Theo đó, về bản chất thương mại dịch vụ là những hoạt động trao đổi, cung ứng dịch vụ trên thị trường. Hoạt động thương mại dịch vụ diễn ra trên thị trường, trong đó người cung ứng dịch vụ là vì mục đích lợi nhuận. Do vậy, những dịch vụ do chính phủ cung cấp và không mang tính thương mại, không có tính cạnh tranh thì không được coi là đối tượng trao đổi của thương mại dịch vụ và các hoạt động cung ứng những dịch vụ đó không được xem là thương mại dịch vụ. b. Phân loại thương mại dịch vụ Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, nhiều ngành dịch vụ mới được hình thành và đối tượng trao đổi, cung ứng của thương mại dịch vụ theo đó cũng ngày càng đa dạng và phong phú. Dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế, GATS đã phân chia dịch vụ thành 12 ngành với 155 phân ngành. Đây cũng chính là các ngành, phân ngành kinh doanh trong thương mại dịch vụ. 12 ngành dịch vụ được đưa ra trong GATS của WTO là1: 1) Các dịch vụ kinh doanh, bao gồm các tiểu ngành: - Các dịch vụ chuyên ngành, dịch vụ chuyên nghiệp, dịch vụ nghề nghiệp như: Dịch vụ pháp lý; Dịch vụ kế toán, kiểm toán, tính toán; Dịch vụ thuế; Dịch vụ kiến trúc; Dịch vụ tư vấn kỹ thuật… - Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan: Dịch vụ tư vấn liên quan đến việc lắp đặt phần cứng máy tính; Dịch vụ cung cấp phần mềm; Dịch vụ xử lý số liệu; Dịch vụ cơ sở dữ liệu. - Dịch vụ nghiên cứu và triển khai (R & D). - Dịch vụ bất động sản. - Các dịch vụ cho thuê không qua môi giới. 1 Phụ lục 1: Bảng phân loại các ngành dịch vụ trong WTO của GATS. 99
  5. - Các dịch vụ kinh doanh khác: Quảng cáo, nghiên cứu thị trường, thăm dò dư luận, tư vấn quản lý, dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lý, dịch vụ thử nghiệm và phân tích kỹ thuật; Dịch vụ gắn với nông nghiệp, săn bắt và lâm nghiệp; Gắn với ngư nghiệp; Gắn với khai thác mỏ; Gắn với chế tạo… 2) Dịch vụ bưu chính viễn thông, thông tin liên lạc: - Dịch vụ bưu điện. - Dịch vụ báo chí. - Dịch vụ viễn thông; Điện thoại tiếng, truyền dữ liệu mạch gói, truyền dữ liệu chuyển mạch; Dịch vụ telex; Dịch vụ điện báo, fax; Cho thuê mạch, thư điện tử, điện thoại, thu thập thông tin và cơ sở dữ liệu trên mạng… - Dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ truyền thông khác. 3) Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên quan; 4) Dịch vụ phân phối: Dịch vụ đại lý hoa hồng; Dịch vụ bán buôn; Dịch vụ bán lẻ; Dịch vụ cấp phép kinh doanh và các dịch vụ phân phối khác. 5) Dịch vụ giáo dục: Không bao gồm các trường tiểu học, trung học, đại học công lập có sự chi trả bằng ngân sách của Nhà nước. 6) Dịch vụ môi trường: Dịch vụ thoát nước; Dịch vụ thu gom rác; Dịch vụ vệ sinh; Các dịch vụ môi trường khác. 7) Dịch vụ tài chính: - Tất cả dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan. - Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm). - Các dịch vụ tài chính khác. 8) Các dịch vụ xã hội và liên quan đến y tế: Dịch vụ y tế khác với chăm sóc sức khỏe cộng đồng là nó nhằm vào mục đích lợi nhuận. Các dịch vụ chăm sóc răng, thẩm mỹ là dịch vụ cá nhân nên cũng được xếp vào dịch vụ y tế. 9) Các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành: Dịch vụ khách sạn, nhà hàng; dịch vụ đại lý lữ hành và các dịch vụ hướng dẫn tour; Các dịch vụ hướng dẫn du lịch; Các dịch vụ du lịch và lữ hành khác. 100
  6. 10) Các dịch vụ văn hóa và giải trí: Các dịch vụ giải trí; Các dịch vụ đại lý bán báo; Thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các dịch vụ văn hóa khác; Thể thao và các dịch vụ giải trí khác; Các dịch vụ văn hóa và giải trí khác. 11) Dịch vụ vận tải: Vận tải biển; Đường sông, nội địa; Đường không; Vũ trụ; Đường sắt; Đường bộ; Đường ống; Các dịch vụ hỗ trợ vận tải và các dịch vụ vận tải khác. 12) Các dịch vụ khác. Theo cách phân loại này, trong mỗi ngành đều có mục "các dịch vụ khác", đặc biệt ngành thứ 12 bao gồm các dịch vụ khác không có ở nhóm 11. Như vậy, để tiến hành liệt kê tất cả các loại hình dịch vụ có khả năng tham gia vào thương mại là điều rất khó bởi sự đa dạng, phong phú và tính phức tạp của dịch vụ. Tuy nhiên, việc phân loại dịch vụ theo GATS của WTO lại thích hợp cho việc xúc tiến đàm phán mở cửa thị trường thương mại dịch vụ quốc tế, bởi vì bản chất của các đàm phán thương mại quốc tế là loại bỏ các hạn chế đối với việc kinh doanh các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chứ không phải tập trung vào các nguyên tắc điều chỉnh sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ đó. Bên cạnh cách phân loại trên, dựa vào mục tiêu của dịch vụ được cung ứng, người ta có thể chia lĩnh vực thương mại dịch vụ thành bốn nhóm ngành cơ bản sau1: 1) Nhóm dịch vụ phân phối (distributive services), bao gồm các dịch vụ vận chuyển, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, quảng cáo, môi giới… 2) Nhóm dịch vụ sản xuất (producer services), bao gồm các dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý… Các dịch vụ thuộc nhóm 1) và 2) có liên quan chặt chẽ tới việc sản xuất, trao đổi, buôn bán sản phẩm… của hầu hết các ngành kinh tế, chúng tham gia đáp ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất hay phục vụ việc phân phối và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Bởi vậy, các dịch vụ thuộc hai nhóm này còn được xem là nhóm các dịch vụ trung gian. 1 Handbook on Liberalizing International Transactions in Services of the United Nations and the Wold Bank, 1994 101
  7. 3) Nhóm dịch vụ xã hội (social services), bao gồm các dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, dịch vụ vệ sinh, dịch vụ bưu điện, viễn thông, dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ xã hội khác. 4) Nhóm dịch vụ cá nhân (personal services), bao gồm các dịch vụ sửa chữa, dịch vụ nhà hàng, khách sạn, du lịch, giải trí, văn hóa… Các dịch vụ thuộc nhóm 3) và 4) được xếp vào nhóm dịch vụ về tiêu dùng, bởi chúng được cung ứng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trực tiếp cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trước đây, hầu hết các dịch vụ xã hội đều không mang tính thương mại, song ngày nay các dịch vụ này đã dần được thương mại hóa và trở thành một bộ phận của lĩnh vực thương mại dịch vụ. 5.1.2. Vai trò của thương mại dịch vụ Thương mại dịch vụ có vị trí ngày càng quan trọng trong buôn bán toàn cầu và trong cơ cấu thương mại, kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển. Tại nhiều nước hiện nay, một số ngành dịch vụ được xem là ngành kinh tế có vị trí mũi nhọn, ngành công nghiệp không ống khói. Theo thống kê của WTO, tổng giá trị thương mại dịch vụ của những năm đầu thế kỷ XXI đã tăng gấp 4 lần so với năm 1980. Giá trị thương mại dịch vụ năm 2002 đạt 2.900 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị thương mại thế giới1. Năm 2013, giá trị thương mại dịch vụ đạt 4.625 tỷ USD, chiếm 25,3% tổng giá trị thương mại thế giới. Ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 70 - 80% GDP, như: Anh: 78%, Pháp: 79%, Đức: 73%, Mỹ: 77%, và ở các nước đang phát triển tỷ trọng này cũng chiếm khoảng 50%2. Mỹ, EU và Nhật Bản là những quốc gia có sức cạnh tranh cao trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là các ngành dịch vụ tài chính, viễn thông, vận tải. Các nước này đang tăng cường vị trí của thương mại dịch vụ nhiều hơn thương mại hàng hóa ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Với vị trí đó, thương mại dịch vụ đã đem lại những vai trò đặc biệt quan trọng cho các quốc gia trong thời đại ngày nay, cụ thể: 1 Nguồn: www.ilo.org 2 Nguồn: www.wto.org 102
  8. - Thương mại dịch vụ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào GDP/GNP của nền kinh tế các quốc gia. Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng trưởng kinh tế không những thể hiện ở sự tăng trưởng nhanh chóng của bản thân những ngành dịch vụ mà vai trò này còn thể hiện ở việc thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là vai trò của các ngành dịch vụ như viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải… Ở một số nước, để đưa một sản phẩm trị giá 100 USD đến tay người tiêu dùng, nhà sản xuất phải chi tới 10 USD cho dịch vụ vận tải, 10 USD cho dịch vụ viễn thông, 10 USD cho dịch vụ quảng cáo, 30 USD cho các dịch vụ liên quan đến sản xuất và chỉ có 20 USD cho nguyên liệu và còn lại là các chi phí như tiền lương, quản lý… Như vậy, ngày nay cơ cấu giá trị dịch vụ trong một sản phẩm hàng hóa đã chiếm tới 60% và tỷ lệ này càng có xu hướng gia tăng cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự ra đời của các phương thức kinh doanh mới. Với khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đó, những đóng góp của thương mại dịch vụ vào GDP cũng ngày càng được khẳng định. Theo WTO, giai đoạn 2005 - 2013, hàng năm bản thân thương mại dịch vụ trên thế giới có tốc độ tăng trưởng bình quân 8%, trong khi tốc độ tăng của thương mại hàng hóa là 6%. Riêng năm 2013, tăng trưởng thương mại dịch vụ toàn cầu khoảng 6%, cao hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng của thương mại hàng hóa. Về đầu tư, khoảng 60% giá trị đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ1. - Vai trò của thương mại dịch vụ với việc thúc đẩy phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngày nay, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, các ngành dịch vụ mới không ngừng ra đời và phát triển nhanh chóng. Do vậy, lĩnh vực dịch vụ đã ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, một số ngành dịch vụ ra đời đã thúc đẩy tích cực trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các vùng, giữa các quốc gia, đưa đến xu thế phân bổ nguồn lực theo nguyên lý cân bằng hiệu quả cận biên (Marginal Efficiency). Những tác động đó đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình 1 Nguồn: www.ilo.org 103
  9. phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phạm vi từng quốc gia, cũng như trên phạm vi toàn thế giới phù hợp với lợi thế so sách của từng vùng và từng quốc gia. Thực tiễn cho thấy, tái cấu trúc của các nền kinh tế trên thế giới luôn nhất quán theo xu hướng là giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rõ rằng, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, trình độ phát triển kinh tế, năng lực vận dụng, triển khai và sáng tạo công nghệ mà mỗi quốc gia, trong quá trình cấu trúc lại nền kinh tế sẽ đặt vị trí, vai trò của ngành dịch vụ theo lộ trình phát triển riêng. Nhất là ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ còn chưa phát triển ở mức cao, trong khi các quốc gia đó lại có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa thì phải thấy rõ vai trò của ngành nông nghiệp trong mối tương quan với công nghiệp và dịch vụ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể để tích lũy vốn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, hiệu quả. Mặt khác, lại cần phải thấy rõ xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế là tất yếu nhưng chỉ giảm về mặt tỷ trọng, giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp vẫn phải tiếp tục gia tăng để đóng góp vào GDP, tạo nên tiềm lực, sức mạnh vật chất cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, thương mại dịch vụ phát triển sẽ đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển các mối liên kết, gắn kết các thành phần kinh tế với nhau, kết nối giữa ngành dịch vụ với các vùng kinh tế trong nước để phát huy được lợi thế so sánh, tạo nên sự khác biệt, độc đáo trong phát triển các ngành, lĩnh vực ngay trong từng vùng và tiểu vùng và các thành phần kinh tế trong toàn vùng. Đặc biệt, kết nối trong việc mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, tạo nên tính năng động, hiệu quả trong phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh. - Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội. Một mặt, qui mô của lĩnh vực dịch vụ ngày càng được mở rộng sẽ đem lại công ăn việc làm ngày càng nhiều cho xã hội. Mặt khác, đối với một số ngành dịch vụ, sự phát triển của nó sẽ đem lại sự gia tăng công ăn việc làm theo cả số tương đối và tuyệt đối. Đây là những 104
  10. lĩnh vực dịch vụ có cấu tạo hữu cơ (tỷ lệ lao động sống so với lao động vật hóa) mà việc sử dụng lao động sống có xu hướng tăng nhanh hơn lao động vật hóa. Vấn đề tạo mở việc làm ngày càng nhiều của lĩnh vực thương mại dịch vụ đã tạo ra quá trình chuyển dịch lao động mà xu thế chung là số người làm việc trong các ngành dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Các ngành dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế cả về số lượng và chất lượng lao động trong nền kinh tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, tỷ trọng lao động của các ngành dịch vụ chiếm khoảng 70 - 80% công ăn việc làm trong xã hội. Chỉ tính riêng ngành du lịch, năm 2002 đã thu hút khoảng 204 triệu lao động trên toàn thế giới (ước tính cứ 9 lao động thì có 1 lao động làm việc trong lĩnh vực du lịch), chiếm khoảng 10,6% lực lượng lao động thế giới1. - Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trước hết, từ khía cạnh tạo ra nhiều việc làm cho xã hội của các ngành dịch vụ. Việc làm tăng cũng đồng nghĩa với việc số người được giải quyết việc làm tăng lên, và vì thế thu nhập của họ có xu hướng tăng theo, đặc biệt là những việc làm có giá trị gia tăng cao. Điều này sẽ tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Hơn thế, đối với những người lao động nghèo, các ngành dịch vụ tạo ra nhiều việc làm còn có ý nghĩa to lớn trong xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phân hóa giàu, nghèo giữa thành thị và nông thôn. Xét trên khía cạnh này, phát triển thương mại dịch vụ còn tham gia tích cực vào quá trình đảm bảo tiến bộ xã hội và thực hiện công bằng xã hội. Mặt khác, thực tế ngày nay ở hầu hết các quốc gia thì chất lượng cuộc sống đang phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thỏa mãn nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ liên quan đến chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí, giải trí hay phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Bởi vậy, phát triển thương mại dịch vụ không những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần phát triển kinh tế theo hướng bền vững. 1 Nguồn: www.ilo.org 105
  11. - Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, cải thiện cán cân thương mại của các quốc gia. Xu thế tự do hóa thương mại không chỉ còn diễn ra ở lĩnh vực thương mại hàng hóa, mà tự do hóa thương mại dịch vụ cũng đã và đang từng bước mở ra mạnh mẽ. Hiện nay, các nước phát triển đang chú trọng vào phát triển và tìm cơ hội xuất khẩu ở các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, y tế và giáo dục. Các nước này thường thu được lợi ích rất cao nhờ vào những ngành dịch vụ và thường gây sức ép đòi hỏi các nước khác mở cửa hơn đối với thị trường này. Mặc dù các nước đang phát triển và chậm phát triển thường có nhiều bất lợi khi mở cửa thị trường dịch vụ, song họ cũng đang khai thác những lợi thế so sánh của mình để hội nhập và cải thiện cán cân thương mại thông qua các ngành dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, cùng với những ngành dịch vụ truyền thống, như: vận tải, bán buôn, bán lẻ, du lịch… thì nhiều ngành dịch vụ mới, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ cao, góp phần hình thành giá trị gia tăng cao đang ra đời và phát triển mạnh mẽ. Đó là các ngành dịch vụ như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, dịch vụ khoa học - công nghệ, dịch vụ tư vấn đầu tư... Các ngành dịch vụ này ra đời và phát triển không những để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có vai trò kết nối tất cả các nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế phát triển và nền kinh tế đang phát triển, thu hẹp khoảng cách không gian và rút ngắn thời gian trong các giao dịch giữa các nền kinh tế. Kết quả của sự kết nối này là làm cho các nền kinh tế có cơ hội hội nhập sâu rộng, hiệu quả hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài ra, thương mại dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường giao lưu văn hóa, chuyển giao công nghệ… Nghiên cứu vai trò của thương mại dịch vụ cho thấy các nền kinh tế cần phải có chiến lược, chính sách phát triển và đầu tư thỏa đáng vào các ngành dịch vụ để phát triển, mở cửa và hội nhập quốc tế hiệu quả các ngành dịch vụ nhằm đạt được những đóng góp to lớn mà lĩnh vực kinh tế này mang lại. 106
  12. 5.2. CÁC PHƯƠNG THỨC CUNG ỨNG TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ 5.2.1. Các phương thức cung ứng trong thương mại dịch vụ nói chung Việc cung ứng dịch vụ nói chung (bao gồm cả việc cung ứng dịch vụ trong nước và quốc tế) trên thị trường được thực hiện thông qua những phương thức sau: Phương thức cung cấp mà chỉ có sự di chuyển của dịch vụ. Ở phương thức này, nhà cung cấp và người tiêu dùng không cần có sự di chuyển vật lý, mà quá trình cung ứng được thực hiện nhờ có sự di chuyển dịch vụ từ nơi nhà cung ứng đến nơi người tiêu dùng dịch vụ. Phương thức cung ứng đòi hỏi có sự phát triển của trình độ khoa học công nghệ (internet, điện thoại, truyền hình…) để có thể tạo ra đường dẫn cho sự vận động của dịch vụ. Các dịch vụ tư vấn qua điện thoại, giáo dục từ xa, truyền hình… là những dịch vụ được cung ứng theo phương thức này. Sự xuất hiện phương thức cung ứng có sự di chuyển của dịch vụ trong thương mại dịch vụ đã tạo ra sự tách rời tương đối về mặt không gian giữa nhà cung cấp dịch vụ với người tiêu dùng dịch vụ. Tuy nhiên, một số quan điểm cho rằng thực chất phương thức này là trường hợp đặc biệt của phương thức cung ứng dịch vụ tại nơi người tiêu dùng mà thôi. Ngày nay, những tiến bộ về khoa học công nghệ đang mở ra những điều kiện ngày càng thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của phương thức cung ứng dịch vụ này. Phương thức cung ứng dịch vụ diễn ra tại nơi nhà cung ứng. Đây là phương thức cung ứng dịch vụ đòi hỏi người tiêu dùng phải đến tận nơi mà các dịch vụ được sản xuất ra để tiêu dùng. Thường việc cung cấp dịch vụ ở đây gắn liền với những điều kiện cung ứng có tính cố định, không có khả năng dịch chuyển. Chẳng hạn, việc cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải có những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định để tạo ra dịch vụ mà các điều kiện này thường không thể di chuyển được (khách sạn, bệnh viện, trường học) hoặc nơi cung cấp dịch vụ cần có những điều kiện tự nhiên, địa lý phù hợp (khu du lịch biển, bến cảng). Đây là phương thức cung ứng khá phổ biến trong thương mại dịch vụ. 107
  13. Phương thức cung ứng dịch vụ diễn ra tại nơi người tiêu dùng. Phương thức cung ứng này đòi hỏi nhà cung ứng phải đến tận nơi người tiêu dùng có nhu cầu để cung cấp dịch vụ, chẳng hạn việc cung ứng dịch vụ kế toán, kiểm toán, chuyên gia, bác sĩ tại nhà, gia sư… Phương thức cung ứng dịch vụ diễn ra tại nơi người tiêu dùng thường áp dụng đối với những dịch vụ mà các điều kiện tạo ra dịch vụ chủ yếu dựa vào yếu tố con người, ít cần đến điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật hay yếu tố tự nhiên đặc thù. Phương thức cung ứng diễn ra tại một địa điểm thứ ba. Phương thức này đòi hỏi cả nhà cung ứng dịch vụ và người tiêu dùng đều phải đến một địa điểm khác, không phải nơi nhà cung ứng và cũng không phải nơi người tiêu dùng để thực hiện việc cung ứng và tiêu dùng dịch vụ. Những dịch vụ cung ứng theo phương thức này thường đòi hỏi một số lượng người tiêu dùng nhất định cùng tham gia vào tiêu dùng một dịch vụ, chẳng hạn dịch vụ xe buýt, biểu diễn văn hóa, nghệ thuật… 5.2.2. Các phương thức cung ứng trong thương mại dịch vụ quốc tế Trên cơ sở những phương thức cung ứng dịch vụ nói chung đã nghiên cứu ở trên, đồng thời dựa vào những đặc thù trong thương mại dịch vụ quốc tế, Hiệp định GATS của WTO đã chỉ ra 4 phương thức cung ứng dịch vụ sau1: Phương thức 1: Phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới (Cross Border). Đó là phương thức dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào trong lãnh thổ của một nước thành viên khác. Ở phương thức này, việc cung ứng dịch vụ không đòi hỏi sự dịch chuyển vật lý của cả người tiêu dùng và nhà cung ứng dịch vụ, họ vẫn ở tại quốc gia mình. Đây thực chất là phương thức cung cấp mà chỉ có sự di chuyển của dịch vụ, người cung cấp dịch vụ không xuất hiện trên lãnh thổ của nước thành viên tiêu dùng dịch vụ đó. Ví dụ các dịch vụ có thể cung ứng theo phương thức này là dịch vụ cung cấp thông tin và tư vấn, dịch vụ đào tạo qua internet, fax, điện thoại, truyền hình hoặc dịch vụ chuyển tiền, vận chuyển hàng hóa… 1 Tại điều 1, khoản 2 của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) 108
  14. Phương thức 2: Phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài (Consumption Abroad). Là phương thức mà dịch vụ được cung cấp ở một nước thành viên và người tiêu dùng dịch vụ phải sang nước đó để sử dụng dịch vụ (mua dịch vụ), hay việc cung ứng dịch vụ diễn ra khi một công dân của một nước đi đến một nước khác nơi mà ở đó anh ta được cung cấp dịch vụ. Các dịch vụ thường được cung cấp theo phương thức này là dịch vụ du lịch, dịch vụ chữa bệnh, dịch vụ đào tạo… Phương thức 3: Phương thức hiện diện thương mại (Commercial Presence). Đây là phương thức mà nhà cung cấp dịch vụ thiết lập sự có mặt của mình ở một nước thành viên khác để cung cấp dịch vụ thông qua hình thức pháp nhân, như thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh, công ty con… Phương thức hiện diện thương mại liên quan đến các thủ tục xin phép đầu tư các cơ sở cung cấp dịch vụ (Giáo dục, y tế, ngân hàng…) tại một quốc gia khác. Hiện nay, phương thức hiện diện thương mại là phương thức quan trọng nhất và cũng có nhiều nhạy cảm về kinh tế và xã hội mà các quốc gia phải cân nhắc khi thực hiện mở cửa thị trường theo phương thức này. Về qui mô thương mại, thường các nước sử dụng số liệu thống kê liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và số liệu thống kê về thương mại của các tổ chức nước ngoài nhằm thống kê cho phương thức hiện diện của pháp nhân. Phương thức 4: Phương thức hiện diện của thể nhân (Presence of Natural Person). Là phương thức mà nhà cung cấp dịch vụ cử đại diện của mình sang nước thành viên khác để cung cấp dịch vụ thông qua hình thức chuyên gia, làm công, làm thuê của mình. Trong phương thức cung ứng này, nhà cung ứng dịch vụ không phải là một doanh nghiệp, mà là một thể nhân. Giống như phương thức cung ứng dịch vụ ở phương thức thứ 3 vừa đề cập, người tiêu dùng vẫn ở tại lãnh thổ của mình, chỉ có người cung ứng dịch vụ dịch chuyển đến với người tiêu dùng để cung ứng dịch vụ. Ví dụ, một bác sĩ hoặc một y tá dịch chuyển đến một nước khác để cung ứng dịch vụ y tế chuyên môn. Việc lựa chọn và phát triển các phương thức cung ứng dịch vụ ở từng giai đoạn của mỗi quốc gia dựa trên cơ sở trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội, các điều kiện nguồn lực, lợi thế so sánh của quốc gia 109
  15. đó. Nghiên cứu các phương thức cung ứng trên trong thương mại dịch vụ giúp cho các quốc gia xây dựng chiến lược và qui hoạch, cũng như hoạch định chính sách cho lộ trình phát triển và hội nhập các ngành dịch vụ. Thực tế, quá trình mở cửa thị trường và thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ của các quốc gia thường gắn liền với việc nghiên cứu mở cửa theo các phương thức cung ứng dịch vụ. Đây cũng là cơ sở để các doanh nghiệp phân tích và lựa chọn loại hình kinh doanh, cung ứng dịch vụ, tìm kiếm cơ hội đầu tư và phát triển kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. 5.3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CÓ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ So với thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ có những đặc điểm đặc thù riêng, cụ thể: 5.3.1. Đặc điểm về đối tượng trao đổi, cung ứng trong thương mại dịch vụ Đây là đặc điểm cơ bản giúp chúng ta phân biệt giữa thương mại dịch vụ với thương mại hàng hóa. Khác biệt căn bản giữa dịch vụ và hàng hóa với tư cách là đối tượng của hoạt động trao đổi được thể hiện ở đặc điểm là dịch vụ mang tính chất vô hình. Tính vô hình của dịch vụ thể hiện ở chỗ dịch vụ là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn. Quá trình sản xuất hàng hóa tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hóa học… nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Khác với hàng hóa, dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật phẩm cụ thể, không nhìn thấy được và do đó trong quan hệ thương mại người ta không thể xác định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những tiêu chuẩn kỹ thuật được lượng hóa. Chính điểm khác biệt cơ bản này đã ảnh hưởng rất lớn đến cách thức tiến hành các hoạt động thương mại, sự cạnh tranh và quan hệ cung cầu trên thị trường dịch vụ, đặc biệt là việc xây dựng khung khổ pháp lý và chính sách để quản lý, điều chỉnh thương mại dịch vụ ở cả phạm vi từng quốc gia cũng như ở phạm vi quốc tế. 110
  16. 5.3.2. Đặc điểm của quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng dịch vụ Lưu thông dịch vụ không thể tách khỏi sản xuất và tiêu dùng để trở thành một khâu độc lập. Mặt khác, do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên việc cung ứng dịch vụ trên thị trường thường không thể sản xuất đồng loạt, không có bán buôn, và không thể lưu kho sau đó mới đưa đến cho tiêu dùng. Điều này đưa đến những đặc thù rủi ro trong kinh doanh của lĩnh vực thương mại dịch vụ. Cũng do quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời và tính chất vô hình của dịch vụ nên trong thương mại dịch vụ người mua không thể nhìn thấy trước sản phẩm mà họ phải trả tiền. Đặc tính này làm cho quá trình trao đổi ở thương mại dịch vụ trở nên có tính rủi ro hơn so với thương mại hàng hóa. Thông thường để giúp cho người mua dễ dàng hình dung ra sản phẩm mà mình sẽ được cung ứng, trong thương mại dịch vụ người cung ứng (người bán) thường cố gắng hữu hình hóa những yếu tố, điều kiện tạo ra dịch vụ đó. Đồng thời, để hạn chế rủi ro, người mua thường đặc biệt quan tâm đến uy tín, tiếng tăm và lịch sử có mặt trên thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ. 5.3.3. Đặc điểm về chủ thể trao đổi trong thương mại dịch vụ Chủ thể tham gia trao đổi, mua bán dịch vụ trên thị trường bao gồm chủ yếu người bán (nhà cung ứng) dịch vụ và người mua (người tiêu dùng) dịch vụ. Trong thương mại dịch vụ, nhà cung ứng (hoặc người cung ứng) dịch vụ được hiểu là bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào tiến hành cung ứng các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận. Nhà cung ứng dịch vụ nói chung trong nền kinh tế có thể là chính phủ, các tổ chức xã hội, đoàn thể, các doanh nghiệp, các cá nhân. Tuy nhiên, trong thương mại dịch vụ thì nhà cung ứng dịch vụ chủ yếu là các doanh nghiệp và các cá nhân. Người tiêu dùng trong thương mại dịch vụ là bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào có nhu cầu được thỏa mãn một hoặc một số dịch vụ nào đó trên thị trường. Những người tiêu dùng này có thể là chính phủ, các tổ chức xã hội, đoàn thể, doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân nếu việc thỏa mãn nhu cầu dịch vụ đó được thông qua thị trường. 111
  17. Trong thương mại dịch vụ, ngoài nhà cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ thường rất ít có sự tham gia của các trung gian thương mại. Điều này xuất phát từ đặc điểm sản xuất, lưu thông và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời về không gian và thời gian. Tuy nhiên, cũng có thể có các trung gian thương mại, chẳng hạn như các đại lý, môi giới dịch vụ (đại lý du lịch, đại lý hàng không, trung tâm tư vấn du học…), song những trung gian thương mại ở đây chỉ có vai trò để ghép nối giữa nhà cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ về mặt thông tin, thủ tục đăng ký... mà thôi. Trong thương mại dịch vụ, người cung ứng dịch vụ và dịch vụ thường không thể tách rời nhau, dịch vụ luôn gắn liền với người sản xuất ra nó. Vì vậy, quá trình chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ từ người bán sang người mua thường không xảy ra, mà để tiêu dùng thì người tiêu dùng dịch vụ phải tham gia trực tiếp vào quá trình cung ứng dịch vụ đó. 5.3.4. Đặc điểm về cung dịch vụ trên thị trường Trước hết, là tính cứng và khả năng khó điều hòa của cung trên thị trường dịch vụ. Đặc điểm này thể hiện chủ yếu đối với trường hợp mà cung ứng và tiêu dùng dịch vụ diễn ra tại nơi người cung ứng dịch vụ, chẳng hạn như đối với dịch vụ khách sạn, dịch vụ y tế tại các bệnh viện, dịch vụ giáo dục tại các trường học. Đối với những dịch vụ này, việc cung ứng dịch vụ thường gắn liền với các yếu tố, điều kiện cung ứng có tính cố định. Và do đó, phần lớn các dịch vụ này là không thể di chuyển được. Mặt khác, cùng với khả năng không thể dự trữ của dịch vụ mà việc điều hòa của cung theo cầu sẽ không thể thực hiện được trong một thời gian ngắn. Tính liên ngành và đa dạng trong cung ứng dịch vụ trên thị trường. Lĩnh vực dịch vụ có đặc điểm nổi bật là sự liên kết cao giữa các ngành và phân ngành dịch vụ. Một mặt, sự phát triển của mỗi ngành kinh doanh dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào các ngành dịch vụ khác như là các yếu tố đầu vào. Nhiều ngành dịch vụ được xem như ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng cho sự phát triển nền kinh tế và các ngành dịch vụ khác, như ngành dịch vụ tin học, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm… Mặt khác, do tính chất của nhiều loại nhu cầu về dịch vụ mà sự thoả mãn chúng đòi hỏi sản 112
  18. phẩm dịch vụ được cung ứng không chỉ là những dịch vụ riêng lẻ mà chúng phải được cung ứng như là một tổ hợp gồm nhiều dịch vụ có tính chất bổ sung lẫn nhau. Bởi vậy, để phát triển thương mại dịch vụ, các quốc gia cần phải coi trọng tính liên ngành, tăng cường việc liên kết và phối hợp hoạt động của các ngành dịch vụ để cùng tạo ra và cung ứng các dịch vụ cho thị trường. Về tính đa dạng của các loại hình dịch vụ. Dịch vụ là lĩnh vực rất rộng, đa dạng về ngành nghề, về quy mô và tính chất kinh doanh. Bên cạnh một số ngành dịch vụ quy mô kinh doanh lớn về vốn đầu tư; cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ hiện đại, lao động chuyên môn cao, như: Dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ hàng không, vận tải biển, vận tải đường sắt… còn có vô số ngành dịch vụ kinh doanh nhỏ, linh hoạt, phân tán, lao động giản đơn, thích hợp với loại hình kinh doanh hộ gia đình hoặc doanh nghiệp nhỏ. Những ngành dịch vụ này tồn tại khách quan do nhu cầu đời sống, như: Dịch vụ trông xe, giữ trẻ, xe ôm, giúp việc gia đình… Cho dù sự phát triển ở trình độ nào của nền kinh tế thì chúng vẫn tồn tại như là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế - xã hội và vai trò của chúng không nhỏ, nhất là trong việc thỏa mãn nhu cầu muôn hình, muôn vẻ của đời sống xã hội và tạo công ăn việc làm cho dân cư. Bên cạnh đó là sự đa dạng về vai trò của lĩnh vực dịch vụ đối với đời sống và sản xuất - kinh doanh. Có nhiều ngành dịch vụ là những ngành quan trọng, cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất - kinh doanh và trình độ của những ngành dịch vụ này có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của quốc gia, như các ngành dịch vụ logistic, dịch vụ tin học, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm… Nhiều ngành dịch vụ không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất – kinh doanh mà cả nhu cầu sinh hoạt của dân cư, như: Dịch vụ viễn thông, vận tải, phân phối... Một số ngành dịch vụ lại hoàn toàn chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư, như: Dịch vụ du lịch, giặt là, chăm sóc sắc đẹp, thời trang... Tính nhạy cảm và khó kiểm soát đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ trên thị trường. Thực tế, nhiều dịch vụ được cung ứng ra thị 113
  19. trường có tính nhạy cảm, có thể gây ra những tác động xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục hay an ninh, chính trị... Điều này đặt ra đòi hỏi phải có sự kiểm soát của nhà nước đối với những dịch vụ được cung ứng ra thị trường. Khác với thương mại hàng hóa, việc kiểm soát quá trình cung ứng dịch vụ là rất khó khăn, đặc biệt là việc cung ứng dịch vụ thông qua các phương tiện số hóa. Chẳng hạn, kiểm soát việc cung ứng dịch vụ qua biên giới, nhà nước không thể thông qua các thủ tục, bộ máy hải quan như trong thương mại hàng hóa mà phải sử dụng những phương tiện kỹ thuật, công nghệ đặc biệt. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay khi lợi thế so sánh trong các lĩnh vực dịch vụ có nhiều hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao đang nghiêng về phía các nước phát triển. Điều này cũng đã trở thành vấn đề nhạy cảm và có nhiều bất đồng trong đàm phán mở của thị trường dịch vụ, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Ngoài ra, về cung dịch vụ còn có một số đặc điểm khác, như: Dễ bắt chước trong sản xuất và cung ứng, tính đặc thù trong phương thức cung ứng dịch vụ… 5.3.5. Đặc điểm về cầu dịch vụ trên thị trường. Đó là tính không ổn định và tính thời điểm, thời vụ của cầu. Trái với cung có tính ổn định thì cầu dịch vụ lại có tính không ổn định, cầu dịch vụ trên thị trường thường tập trung vào những mùa vụ nhất định trong năm, hoặc một số thời điểm trong ngày. Đặc điểm này bắt nguồn từ cầu của nhiều dịch vụ phụ thuộc vào những điều kiện bất khả kháng, yếu tố có tính nhạy cảm, như: Điều kiện về khí hậu, tình hình chính trị, vấn đề sắc tộc, tôn giáo, thời gian tiêu dùng... Ví dụ, trong kinh doanh du lịch, cầu du lịch thường tập trung theo mùa có những điều kiện tự nhiên phù hợp và thời gian nhàn rỗi của dân cư. Hay cầu về các dịch vụ viễn thông (điện thoại, internet) thường có tính thời điểm và diễn ra chủ yếu vào những giờ hành chính… Bên cạnh đó, cầu đối với một số dịch vụ có tính co giãn rất mạnh với thu nhập của dân cư và có thể nằm trong danh sách bị cắt giảm đầu tiên của mỗi cá nhân, hộ gia đình khi thu nhập của họ giảm, đặc biệt là nhu cầu về các dịch vụ du lịch, dịch vụ vui chơi, giải trí. 114
  20. 5.3.6. Đặc điểm về quan hệ cung - cầu, cạnh tranh và giá cả trên thị trường dịch vụ Do mâu thuẫn giữa tính cứng, khó điều hòa của cung và tính không ổn định, tính thời vụ, thời điểm của cầu mà trên thị trường dịch vụ sự không ăn khớp, mâu thuẫn giữa cung và cầu dịch vụ thường xảy ra gay gắt. Mâu thuẫn này đưa đến sự tách rời giữa giá cả và giá trị của dịch vụ trên thị trường rất lớn. Việc tách rời này có thể đưa đến sự cạnh tranh gay gắt giữa những nhà cung cấp dịch vụ (khi cung > cầu) hoặc gây nhiều thiệt thòi cho người tiêu dùng (khi cung < cầu). Giá cả dịch vụ Giá cả hàng hóa Giá trị hàng hóa/ dịch vụ Hình: Sự vận động của giá cả hàng hóa, dịch vụ xoay quanh giá trị Để khắc phục đặc điểm này, các nhà cung cấp dịch vụ thường sử dụng chính sách đa dạng hóa sản phẩm hoặc đưa ra những mức giá phân biệt theo thời vụ và thời điểm tiêu dùng. Đồng thời, để bảo vệ quyền lợi của các nhà cung ứng hoặc người tiêu dùng, nhà nước cũng thường có những chính sách nhất định để can thiệp vào thị trường dịch vụ. 5.3.7. Đặc điểm dễ tạo ra những rào cản cho quá trình tự do hóa thương mại Một số đặc điểm đặc thù của lĩnh vực dịch vụ khiến cho việc điều chỉnh và tiến hành tự do hóa thương mại gặp những khó khăn đặc biệt. 115
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2