intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Tập 2: Chủ nghĩa duy vật lịch sử): Phần 2

Chia sẻ: Lăng Mộng Như | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

34
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 của giáo trình "Triết học Mác - Lênin (Tập 2: Chủ nghĩa duy vật lịch sử)" tiếp tục trình bày những nội dung về: cách mạng xã hội; nhà nước; con người - cá nhân - xã hội; ý thức xã hội; khoa học và vai trò của nó trong đời sống xã hội; tiến bộ xã hội;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Tập 2: Chủ nghĩa duy vật lịch sử): Phần 2

  1. 98 Chương 8 CÁCH MẠNG XÃ HỘI 1. Thực chất và vai trò của cách mạng xã hội 1.1. Khái niệm cách mạng xã hội Cách mạng xã hội, theo nghĩa rộng, là sự biến đổi căn bản về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời, lạc hậu sang một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn; theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị - xã hội đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị - xã hội tiến bộ hơn. Cách mạng xã hội trước hết là sự biến đổi về chất trên toàn bộ các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, như về chính trị; kinh tế; văn hoá, tư tưởng. Bước nhảy vọt căn bản về chất này vừa là kết quả vừa là biểu hiện cao nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. C.Mác viết: “Đấu tranh giữa giai cấp với giai cấp… khi đạt đến trình độ cao nhất của nó trở thành một cuộc cách mạng toàn diện”1. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của cách mạng xã hội để phân biệt cách mạng xã hội với các hiện tượng khác của đời sống xã hội. Cách mạng xã hội còn là phương thức để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Khi các mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp đạt đến đỉnh cao, thì cách mạng xã hội là phương thức tất yếu để xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời và xây dựng thành công hình thái kinh tế - xã hội mới. Trong cách mạng xã hội, dấu hiệu đầu tiên và chủ yếu là bước ngoặt chuyển giao chính quyền từ tay giai cấp lỗi thời, phản động sang tay giai cấp tiến bộ, cách mạng. Bởi vì, “Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng ... Chính đó là vấn đề cơ bản, vấn đề quyết định tất cả mọi cái trong sự phát triển của cách mạng”2. Những đặc trưng cơ bản trên là các tiêu chí khách quan để phân biệt cách mạng xã hội với các hiện tượng xã hội khác. Cải cách xã hội là tổng thể những hoạt động, tạo nên những biến đổi về chất của xã hội, nhưng chỉ là sự biến đổi 1 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr 258. 1 V.I Lênin, Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 268.
  2. 99 mang tính chất riêng lẻ, bộ phận, trên từng lĩnh vực trong khuôn khổ của chế độ xã hội hiện tồn. Tiến hoá xã hội là hình thức phát triển xã hội, nhưng sự phát triển này lại diễn ra một cách tuần tự, dần dần trong phạm vi của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Cách mạng xã hội, cải cách xã hội và tiến hoá xã hội là những hiện tượng xã hội khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết với nhau, tạo tiền đề điều kiện cho nhau phát triển. Trong xem xét và cải tạo xã hội cần giải quyết đúng mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng xã hội, cải cách xã hội và tiến hoá xã hội, khắc phục tư tưởng tả khuynh hoặc hữu khuynh trong giải quyết vấn đề này. Ngoài ra, cần phân biệt cách mạng xã hội với đảo chính. Đảo chính là thủ đoạn tranh giành quyền lực nhà nước của một cá nhân hay một nhóm người và không phải là phong trào cách mạng của quần chúng. Trong lịch sử, đa số các cuộc đảo chính là do các lực lượng phản động (có thể có sự can thiệp của nước ngoài) tiến hành nhằm giải quyết mâu thuẫn nội bộ trong giai cấp thống trị. Chỉ có những cuộc đảo chính nào hoà nhập được với phong trào cách mạng của quần chúng mới có ý nghĩa cách mạng. 1.2. Nguyên nhân và vai trò của cách mạng xã hội Cách mạng xã hội do nhiều nguyên nhân đưa đến. Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội được bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu. Và khi đó “Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”1. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện về mặt chính trị - xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị, phản động với giai cấp và các lực lượng cách mạng. Như vậy, nguyên nhân trực tiếp của cách mạng xã hội là mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập, không thể dung hoà. Trong lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của cách mạng xã hội. Các nhà thần học cho rằng, cách mạng xã hội sẽ tạo ra tai hoạ và nhiều bất công xã hội. Đối lập với quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, cách mạng xã hội có vai trò là động lực của tiến bộ xã hội. Đây là phương tiện quan trọng nhất để giải quyết các mâu thuẫn đối kháng trong lòng xã hội. Cách 1 C. Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.15.
  3. 100 mạng xã hội là phương thức để xoá bỏ quan hệ sản xuất lạc hậu và các giai cấp phản động. C.Mác khẳng định, các cuộc cách mạng xã hội là đều là “đầu tàu của lịch sử”1. Cách mạng xã hội mở ra địa bàn thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và tạo dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Cách mạng xã hội tiến hành cải biến toàn diện xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra các điều kiện để giai cấp và quần chúng cách mạng tự cải tạo mình và có sự trưởng thành toàn diện về mọi mặt. 1.3. Tính chất và động lực của cách mạng xã hội Tính chất của cách mạng xã hội là những dấu hiệu, đặc trưng để phân biệt các cuộc cách mạng khác nhau trong lịch sử. Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng quy định đến lực lượng cách mạng và giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng đó. Động lực cách mạng là các giai cấp, các lực lượng xã hội do lợi ích khách quan gắn bó mật thiết, tạo ra sức mạnh hiện thực để thúc đẩy cách mạng đến thắng lợi. Lực lượng cách mạng là các giai cấp, các lực lượng xã hội bị áp bức có nguyện vọng và khả năng đánh đổ giai cấp thống trị phản động. Lực lượng cách mạng vận động, biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau của mỗi cuộc cách mạng và trong các giai đoạn khác nhau của mỗi cuộc cách mạng. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang lên, giai cấp tư sản là giai cấp tiến bộ, lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên lỗi thời, lạc hậu thì giai cấp tư sản trở thành phản động, phản cách mạng. Ngày nay, giai cấp vô sản là giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, có vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội cũ, xây dựng thành công hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong lực lượng cách mạng có giai cấp lãnh đạo cách mạng, đây là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới mà cuộc cách mạng đó có nhiệm vụ phải xây dựng. 1.4. Các kiểu cách mạng xã hội trong lịch sử và đặc thù của cách mạng vô sản Kiểu cách mạng xã hội là phạm trù dùng để chỉ các cuộc cách mạng xã hội có chung nhiệm vụ. Lịch sử loài người đã trải qua bốn kiểu cách mạng xã 1 C. Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.119
  4. 101 hội. Một là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ lên chế độ chiếm hữu nô lệ; hai là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến; ba là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa (cách mạng tư sản); bốn là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã hội chủ nghĩa (cách mạng vô sản). Trong mỗi kiểu cách mạng lại có các loại hình khác nhau. Đó là toàn bộ những hình thức, phương thức tồn tại của kiểu cách mạng xã hội trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ví dụ, kiểu cách mạng tư sản có hai loại hình cơ bản, cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ và cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Đặc trưng và vai trò của cách mạng xã hội ngày càng tăng cùng với sự phát triển của lịch sử. Trước cách mạng tư sản, nhân tố chính trị - giai cấp chưa được thể hiện rõ trong các cuộc cách mạng. Đến cách mạng tư sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa nhân tố chính trị - giai cấp mới được thể hiện rõ nét và trở thành nhân tố chủ đạo của cách mạng xã hội. Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhằm xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội bóc lột, xây dựng thành công hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để nhất từ trước đến nay, nó xóa bỏ mọi hình thức bóc lột và xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột, bất công. Các cuộc cách mạng trước kia chỉ là sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân này, hình thức áp bức bóc lột này, bằng chế độ chiếm hữu tư nhân và hình thức áp bức bóc lột khác. Cách mạng vô sản không chỉ đoạn tuyệt với sở hữu cổ truyền mà còn đoạn tuyệt với những tư tưởng cổ truyền. Cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp vô sản, quần chúng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột giai cấp mà còn giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi ách áp bức vật chất, tinh thần. Trong cách mạng vô sản, giành chính quyền mới chỉ là bước đầu, nó phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài để tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một nhiệm vụ trọng đại, phức tạp và lâu dài của cuộc cách mạng vô sản và nó khác với các cuộc cách mạng xã hội trước, khi giành được được chính quyền thì mục tiêu cơ bản về cơ bản đã hoàn thành. Cách mạng vô sản không dừng lại ở vấn đề giành chính quyền, nhiệm vụ của nó là thủ tiêu chế độ tư hữu, xoá bỏ giai cấp và xây dựng thành công xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách mạng vô sản là
  5. 102 cuộc cách mạng mang tính nhân dân thực sự và giải quyết vấn đề lợi ích của tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Thực tiễn lịch sử cho thấy, chỉ có cách mạng vô sản mới giải quyết triệt để vấn đề lợi ích của quần chúng nhân dân lao động, còn các cuộc cách mạng xã hội trước chỉ đi giải quyết lợi ích của thiểu số giai cấp thống trị bóc lột. Do giải quyết vấn đề lợi ích của tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân lao động, nó đã phát huy cao độ vai trò của quần chúng cách mạng trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới. Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, thông qua đội tiền phong của nó là đảng cộng sản; đồng thời nó đòi hỏi phải phát huy sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng cách mạng để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những đặc điểm cơ bản của cách mạng vô sản không chỉ là những dấu hiệu để phân biệt cách mạng vô sản với các cuộc cách mạng xã hội khác trong lịch sử, mà còn là yêu cầu khách quan đảm bảo cho sự thắng lợi của các cuộc cách mạng vô sản. 2. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là tổng hợp các yếu tố, các mâu thuẫn khách quan và sự vận động của các yếu tố, các mâu thuẫn đó đưa tới tình thế cách mạng. Sự vận động của các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội tất yếu sẽ làm các mâu thuẫn kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Nhưng cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra khi các mâu thuẫn trên đây đã phát triển đến đỉnh cao, làm cho xã hội lâm vào một cuộc “khủng hoảng kinh tế và chính trị”1 toàn diện và đưa tới sự xuất hiện của tình thế cách mạng. Tình thế cách mạng là tổng hợp những điều kiện chính trị - xã hội do mâu thuẫn giai cấp phát triển đến độ gay gắt, nhờ đó cách mạng có thể nổ ra và giành được thắng lợi. Nội dung và hình thức biểu hiện của tình thế cách mạng ở mỗi kiểu cách mạng có sự khác nhau. Song cơ sở hiện thực của tình thế cách mạng là, hình thái kinh tế - xã hội hiện tại đã lỗi thời lạc hậu; nhà nước của giai cấp thống trị đã thối nát và không còn đủ sức làm tròn chức năng vai trò của mình, trở thành vật cản của tiến bộ xã hội. Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng trong lịch sử, V.I.Lênin chỉ rõ: "Muốn có cách mạng thì riêng việc quần chúng bị áp bức ... nhận thức không thể sống như trước nữa.... cũng chưa đủ... còn phải 1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 269
  6. 103 ... những kẻ bóc lột cũng không thể sống và thống trị như trước được nữa"1. Do những nguyên nhân nêu trên mà "...tính tích cực của quần chúng được nâng lên rõ rệt...”2. Như vậy, theo hình thái điển hình, tình thế cách mạng có các đặc trưng cơ bản là, khủng hoảng chính trị đạt tới cực điểm và ngay cả tầng lớp trên cũng không thể sống như trước được nữa; nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường; tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt. Các đặc trưng trên quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một hoàn cảnh hiện thực để cách mạng xã hội có thể nổ ra và giành được thắng lợi. Tình thế cách mạng là một trạng thái đặc biệt, đúng như V.I.Lênin khẳng định: “Không thể có cách mạng nếu không có tình thế cách mạng”3. Tình thế cách mạng vận động, biến đổi tuỳ thuộc điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Sự vận động, biến đổi của tình thế cách mạng sẽ làm xuất hiện thời cơ cách mạng. Thời cơ cách mạng là thời điểm thuận lợi nhất trong tình thế cách mạng, là sự hội tụ của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã phát triển đến độ chín muồi bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi. Thời cơ cách mạng thường xuất hiện trong thời gian ngắn, thậm chí là rất ngắn. Nó có thể do sự chín muồi của các nhân tố bên trong tạo ra hoặc do hoàn cảnh thuận lợi từ bên ngoài đưa lại. Để cách mạng xã hội nổ ra, ngoài sự chín muồi của điều kiện khách quan, còn phải có sự chín muồi của cả nhân tố chủ quan. V.I.Lênin khẳng định: “Không phải tình thế cách mạng nào cũng làm nổ ra cách mạng, mà chỉ có trong trường hợp cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có thêm thay đổi chủ quan”4. Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội là toàn bộ trình độ nhận thức, ý chí, và năng lực tổ chức thực tiễn của các giai cấp và lực lượng cách mạng. Sự phát triển nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội có quan hệ biện chứng với điều kiện khách quan. Sự chín muồi nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội được biểu hiện ở trình độ giác ngộ, tính tích cực chính trị, ý chí quyết tâm, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của giai cấp và quần chúng cách mạng. Sự trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức của giai cấp lãnh đạo cách mạng là yếu tố quyết định trực tiếp để cách mạng xã hội có thể nổ ra và đi tới thành công. 1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 269 2 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 86-87 3 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 268 4 V.I Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr 269.
  7. 104 V.I Lênin chỉ rõ: "Một là đa số công nhân (hay dù sao cũng là đa số công nhân giác ngộ, có suy nghĩ, tích cực về mặt chính trị) hoàn toàn hiểu được rằng cách mạng là cần thiết và sẵn sàng hy sinh vì cách mạng; hai là ... cuộc khủng hoảng lôi cuốn cho đến cả những quần chúng lạc hậu nhất vào trong sinh hoạt chính trị (...) làm yếu chính phủ và tạo điều kiện cho những người cách mạng có thể lật đổ chính phủ một cách nhanh chóng"1 và khẳng định: “… cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có thêm một thay đổi chủ quan, tức là giai cấp cách mạng có khả năng phát động những hành động cách mạng có tính chất quần chúng, khá mạnh mẽ để đập tan (hoặc lật đổ) chính phủ cũ…”2. Thông qua nhân tố chủ quan, bằng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình các lực lượng cách mạng thúc đẩy tình thế cách mạng phát triển nhanh chóng hơn. Nếu nhận thức đúng đắn tình thế cách mạng, các lực lượng cách mạng sẽ có khả năng xác lập đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, từ đó tuyên truyền vận động, tổ chức quần chúng tham gia ngày càng đông đảo vào phong trào cách mạng. Kết quả các hoạt động này vừa là một tác nhân vô cùng quan trọng thúc đẩy tình thế cách mạng phát triển; vừa giúp các lực lượng cách mạng tôi luyện ý chí đấu tranh, lớn mạnh không ngừng về lực lượng, tổ chức và phương pháp, nghệ thuật đấu tranh cách mạng. Giải quyết được những nhiệm vụ ấy chính là biểu hiện rõ nhất của vai trò nhân tố chủ quan trong việc tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong cách mạng xã hội. Trái lại, nếu các lực lượng cách mạng, nhất là giai cấp lãnh đạo cách mạng không phát huy được vai trò của nhân tố chủ quan; không đánh giá đúng sự biến đổi của điều kiện khách quan và không nhạy bén, chủ động trong phát hiện thời cơ và tận dụng thời cơ thì dù điều kiện khách quan có chín muồi, cách mạng xã hội cũng không thể nổ ra và giành được thắng lợi. Thực tiễn lịch sử cho thấy, việc phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh năm 1945 là thời cơ vô cùng thuận lợi của toàn bộ phong trào cách mạng ở Đông - Nam Á, nhưng chỉ ở Việt Nam cách mạng vô sản mới thành công. Thành công đó là do đường lối đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo và nghệ thuật nắm bắt thời cơ tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vai trò ngày càng tăng của nhân tố chủ quan là một vấn đề mang tính quy luật trong cách mạng xã hội. Vai trò tăng lên của nhân tố chủ quan xuất 1 V.I Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr 86 - 87. 2 V.I Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 269.
  8. 105 phát chính từ nhiệm vụ ngày càng tăng của cách mạng xã hội. Ở cách mạng tư sản, vai trò tổ chức, lãnh đạo của giai cấp tư sản chủ yếu dừng lại ở giai đoạn giành chính quyền, nhưng với cách mạng vô sản giành chính quyền mới chỉ là bước đầu. Nên đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của các đảng cộng sản và ý chí, nghị lực, khả năng sáng tạo to lớn của toàn thể quần chúng nhân dân lao động. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có quan hệ biện chứng với nhau và bất cứ cuộc cách mạng xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào cả hai nhân tố này. Trong mối quan hệ này, yếu tố suy đến cùng quyết định để cách mạng xã hội nổ ra và giành được thằng lợi là điều kiện khách quan, nhưng khi điều kiện khách quan đã phát triển đến độ chín muồi thì sự thành bại của sự nghiệp cách mạng lại hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của nhân tố chủ quan. V.I Lênin cho rằng: “Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng các giai cấp cách mạng bao giờ cũng có đủ lực lượng để thực hiện cách mạng, khi cách mạng đó đã hoàn toàn chín muồi do điều kiện của sự phát triển kinh tế - xã hội ... Cuộc cách mạng có thể đã chín muồi, nhưng những con người cách mạng sáng tạo ra cuộc cách mạng đó lại có thể chưa đủ sức để thực hiện nó”1. Để giành thắng lợi cho cuộc cách mạng vô sản, những người cộng sản cần xem xét toàn diện cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, tránh khuynh hướng tuyệt đối hoá, hoặc tách rời hai yếu tố trên. Kiên quyết chống mọi biểu hiện của tư tưởng “tả khuynh” nôn nóng, chủ quan duy ý chí, phát động quần chúng làm cách mạng khi điều kiện khách quan chưa chín muồi, tình thế cách mạng chưa xuất hiện. Đồng thời, thường xuyên đấu tranh, khắc phục tư tưởng “hữu khuynh”, thụ động, trông chờ sự phát triển tự phát của tình thế và thời cơ cách mạng, không phát huy hoặc phát huy không đầy đủ vai trò của nhân tố chủ quan. 3. Hình thức và phương pháp cách mạng 3.1. Cách mạng bạo lực là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng xã hội Bạo lực cách mạng là sức mạnh của quần chúng bị áp bức bóc lột, được hướng dẫn và tổ chức bởi một đường lối chính trị tiên tiến, nhằm chống lại bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống trị để giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước. Bạo lực cách mạng được cấu thành bởi hai lực lượng cơ bản, 1 V.I Lênin, Toàn tập, tập 11, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 459
  9. 106 đó là lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của quần chúng. Hình thức của bạo lực cách mạng được thể hiện phong phú đa dạng, tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử và so sánh lực lượng giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng. Bạo lực cách mạng có các hình thức phổ biến là đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang và sự kết hợp giữa hai hình thức đó. Đương nhiên, không phải hình thức đấu tranh chính trị nào của quần chúng cũng là bạo lực cách mạng. Nó chỉ thực sự là bạo lực cách mạng khi cuộc đấu tranh chính trị đó trực tiếp chống lại bạo lực phản cách mạng và hướng tới nhiệm vụ giành, giữ, sử dụng chính quyền nhà nước. Mục đích sử dụng bạo lực cách mạng là ngăn chặn hoặc đập tan bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống trị và các lực lượng phản động để giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước. Trong lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của bạo lực. Có quan điểm tuyệt đối hoá mặt “phá huỷ” của bạo lực, coi đó là “tội ác”, là vô nhân đạo. Đặc biệt, có quan điểm còn coi bạo lực là “vạn năng”, là nguyên nhân sản sinh ra xã hội mới. Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, bạo lực cách mạng là điều kiện cần thiết cho các cuộc cách mạng xã hội, là công cụ và phương tiện để các giai cấp cách mạng lật đổ các thể chế chính trị lỗi thời, xây dựng chế độ xã hội tiến bộ. Ph.Ăngghen chỉ rõ: "theo Mác, bạo lực còn là bà đỡ của một xã hội cũ đang thai nghén trong lòng một xã hội mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết"1. Như vậy, theo tư tưởng của các nhà kinh điển mácxít, bạo lực cách mạng không chỉ góp phần đập tan những chướng ngại cuối cùng, những chướng ngại dù yếu tới mấy cũng không bao giờ tự đổ để đưa tới sự ra đời của xã hội mới. Mà nó còn là điều kiện tất yếu để củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin không bao giờ coi bạo lực là mục đích, là chìa khoá vạn năng và phương tiện duy nhất của cách mạng xã hội. Hình thức của bạo lực ra sao và sử dụng bạo lực khi nào, ở đâu, đến mức nào là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, vào so sánh giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng, mà trước hết phụ thuộc vào mức độ chống đối của kẻ thù. 1 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.259
  10. 107 Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, sâu sắc vấn đề bạo lực cách mạng, đồng thời tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định cách mạng bạo lực là một quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng bạo lực là phương thức tất yếu để tiến hành cách mạng xã hội, trong đó giai cấp cách mạng sử dụng bạo lực cách mạng để giành, giữ chính quyền nhà nước. Tính tất yếu và phổ biến của cách mạng bạo lực được xuất phát trước hết từ vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền nhà nước. Việc giành, giữ chính quyền luôn là cơ sở, nền tảng chi phối các nhiệm vụ khác của cách mạng. Thời điểm giành được chính quyền hoặc để mất đi chính quyền đánh dấu sự thành công hay thất bại của một cuộc cách mạng xã hội. Nhưng bao giờ “quyền lực nhà nước tức là bạo lực xã hội tập trung và có tổ chức”1 cũng là công cụ bảo vệ có hiệu quả nhất quyền lợi của giai cấp thống trị. Cho nên, giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để đàn áp phong trào cách mạng và thường xuyên cố gắng cao nhất để bảo vệ sự tồn tại của nhà nước ấy; đồng thời, tìm mọi cách để giành lại khi nó mất đi. Giai cấp cách mạng cũng không thể thực hiện được nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu không giành và giữ được chính quyền nhà nước. Việc sử dụng cách mạng bạo lực không phải được bắt nguồn từ ý muốn chủ quan của các giai cấp cách mạng mà từ chính bản chất và sự chống phá của kẻ thù, đặc biệt là trong các cuộc cách mạng vô sản. V.I.Lênin khẳng định: “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản (chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường tiêu vong được mà chỉ có thể theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi ”2. Trong khi khẳng định tính phổ biến của cách mạng bạo lực, các nhà kinh điển mácxit cũng không phủ nhận khả năng cách mạng xã hội có thể giành thắng lợi bằng phương pháp hoà bình. Phương pháp hoà bình là hình thức đấu tranh giành, giữ chính quyền nhà nước mà không diễn ra đấu tranh vũ trang, đổ máu. Đây là phương pháp rất quí và hiếm, phù hợp với bản chất, nguyện vọng của các giai cấp cách mạng, nhất là giai cấp vô sản. Để cách mạng có thể giành thắng lợi bằng phương pháp hoà bình, điều kiện tiên quyết là các lực lượng cách mạng đã chiếm ưu thế áp đảo trong so sánh lực lượng và khả năng chống cự 1 C. Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.1043. 2 V.I Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1976, tr. 27.
  11. 108 của giai cấp thống trị là vô cùng yếu ớt. Như vậy, phương pháp hoà bình chỉ có hiệu quả khi dựa chắc vào bạo lực cách mạng, có sự hậu thuẫn của lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng đã lớn mạnh. Cho nên về thực chất, phương pháp hoà bình chỉ là hình thức biểu hiện khác của cách mạng bạo lực và vẫn nằm trong phạm trù cách mạng bạo lực. Con đường giành thắng lợi bằng phương pháp hoà bình của chủ nghĩa Mác - Lênin hoàn toàn đối lập với quan điểm “quá độ hoà bình” của các trào lưu cơ hội chủ nghĩa. Các trào lưu này chủ trương lấy đấu tranh nghị trường là hình thức đấu tranh chủ yếu và duy nhất. Họ mơ tưởng lợi dụng chế độ dân chủ tư sản để “giành lấy đa số trong nghị viện”, từ đó biến nhà nước tư sản thành công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ không nhận thức đúng vai trò to lớn của bạo lực cách mạng, các hình thức đấu tranh của quần chúng cách mạng cho nên chủ trương điều hoà giai cấp, từ bỏ cách mạng bạo lực và chuyên chính vô sản, từ bỏ những tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa Mác. 3.2. Vấn đề cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, nên cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay chỉ có thể là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự thoái trào tạm thời của phong trào cách mạng làm cho không ít người hoài nghi về vai trò của cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Song, thực tiễn đã khẳng định, dù cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có phát triển tới đâu cũng không thể thay thế được cách mạng xã hội. Bởi cách mạng khoa học và công nghệ chỉ có thể cải biến trong một lĩnh vực của đời sống xã hội, thậm chí trong xã hội tư bản các thành tựu của nó còn dẫn đến những hậu quả to lớn cho nhân loại, như tạo ra các loại vũ khí huỷ diệt; làm cạn kiệt tài nguyên; ô nhiễm môi trường sinh thái, v.v.. Chỉ có cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, “một cuộc cách mạng mà tất cả các cuộc cách mạng từ trước đến nay không thể nào so sánh được” 1 mới đem lại khả năng nhảy vọt về chất trong toàn bộ đời sống xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tính tất yếu của cách mạng xã hội xuất phát từ chính nhu cầu của nền sản xuất xã hội, từ nhu cầu giải quyết mâu 1 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 696
  12. 109 thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội tư bản hiện nay, nhờ lợi dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của nó đã được xã hội hoá cao độ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mặc dù có những điều chỉnh, nhưng bản chất vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Do vậy, có thể khẳng định, xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế độ tư bản không những không mất đi, mà còn gay gắt hơn. Tính chất gay gắt của mâu thuẫn cơ bản này biểu hiện không chỉ ở các nước tư bản phát triển, mà còn ở các nước mới đi vào con đường tư bản chủ nghĩa; không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần trong từng nước tư bản chủ nghĩa, mà đã biến thành các mâu thuẫn thời đại, thành những vấn đề toàn cầu. Đảng ta khẳng định: “ Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất…”1. Bởi vậy, việc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, lật đổ “một thế giới không thể chấp nhận được”2, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn là một tất yếu của lịch sử. Mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế độ tư bản hiện đại và vấn đề gia tăng mạnh mẽ sự bần cùng hoá của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động đã làm cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục diễn ra. Nhưng tình thế cách mạng không chỉ là quá trình phát triển tự phát mà nó còn là kết quả của những hoạt động tự giác của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động; không chỉ phụ thuộc vào so sánh lực lượng cách mạng với lực lượng phản cách mạng, mà còn phụ thuộc vào bối cảnh chung của tình hình quốc tế. Hiện nay, sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu làm cho so sánh lực lượng tạm thời nghiêng về phía các lực lượng phản cách mạng. Với những thủ đoạn xảo quyệt, đúc kết từ quá trình chống phá các phong trào cách mạng và những điều chỉnh để thích nghi tồn tại, giai cấp tư sản đã làm cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển "ít nhiều có ảo 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 65 2 Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.80
  13. 110 tưởng về những cải thiện mà họ được dự phần "1. Những tác động trên phần nào đã ảnh hưởng tới phong trào công nhân, phong trào cách mạng hiện nay. Mặc dù cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể chưa nổ ra trong thời gian tới đây ở các nước tư bản phát triển, nhưng tính tất yếu và tiềm năng của nó vẫn được tăng cường. Hiện nay, “trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế 2 lớn” . Nhưng chủ nghĩa đế quốc vẫn hiện nguyên hình là một thế lực phản động, hiếu chiến và sẵn sàng sử dụng bạo lực phản cách mạng để đàn áp các phong trào cách mạng. Chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm chống lại các quốc gia có chủ quyền mà trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa vẫn là chiến lược được thực hiện dựa trên sức mạnh của bạo lực phản cách mạng và để chống lại bạo lực phản cách mạng đó tất yếu phải có bạo lực cách mạng. Do vậy, quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay. Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô; đồng thời các cuộc chiến tranh phi nghĩa bằng vũ khí công nghệ cao thời gian gần đây do chủ nghĩa đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹ tiến hành là bài học cảnh tỉnh những ai còn mơ hồ, mất cảnh giác đối với bạo lực phản cách mạng, coi nhẹ hoặc phủ nhận bạo lực cách mạng trong tình hình mới. Là một đảng mácxít chân chính, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh của Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Ngày nay, “nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào”3. Bởi vậy, những bài học quí báu trong sự nghiệp đổi mới hơn 20 năm qua cần tiếp tục được phát huy trong sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cần nhận thức sâu sắc bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có lý luận về cách mạng xã hội. Nhận thức sâu sắc đặc điểm của cách mạng vô sản và củng cố niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của đất nước. Không ngừng nâng cao cảnh giác cách 1 Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 108. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 73. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 22.
  14. 111 mạng, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác trước những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Thực chất và vai trò của cách mạng xã hội ? Vận dụng xem xét vai trò của cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay ? 2. Phân tích nguyên nhân và tính chất của cách mạng xã hội? Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề trong xem xét tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay ? 3. Nêu và phân tích các đặc trưng cơ bản của tình thế cách mạng ? Vận dụng xem xét tình thế của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay ? 4. Phân tích mới quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội. Vận dụng phê phán các quan điểm sai lầm về vấn đề này hiện nay ?
  15. 112 Chương 9 NHÀ NƯỚC Nhà nước là vấn đề thực sự phức tạp bởi nó đụng chạm trực tiếp đến lợi ích sống còn của các giai cấp. Quyền lực nhà nước còn là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong lĩnh vực chính trị và chính quyền luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, chính quyền nhà nước cũng là vấn đề rất mấu chốt, rất cơ bản mà giai cấp vô sản cùng nhân dân lao động phải nhận thức sâu sắc và giải quyết chính xác trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc lột giai cấp; cải tạo xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới. 1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước 1.1. Nguồn gốc của nhà nước Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều quan điểm giải thích sai lầm về sự ra đời của nhà nước. Trên lập trường duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng, nhà nước là do sự tha hoá của "ý niệm tuyệt" đối sinh ra. Thời kỳ cận đại xuất hiện những quan điểm điển hình của Hốpxơ (1588-1679), Lốccơ (1632-1704), Rútxô (1712- 1778). Các nhà triết học cận đại đã đề cập đến nhà nước như là sản phẩm của khế ước xã hội, nhà nước được xem như là một sự thoả thuận và ý chí chung của nhân dân, nhưng những quan điểm của họ vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm về vấn đề nhà nước. Chủ nghĩa Tômát mới quan niệm, nhà nước có nguồn gốc thiêng liêng từ chúa, do vậy nhà nước có thần tính; sự ra đời của nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho mọi thành viên trong xã hội và do vậy nhà nước không có tính giai cấp. Lý luận khoa học về nhà nước chỉ có thể có được trên cơ sở quan niệm duy vật biện chứng về sự phát triển xã hội. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vấn đề nguồn gốc, bản chất của nhà nước mới được xem xét và luận giải một cách khoa học trên cơ sở các quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp của xã hội. Quan điểm mácxít cho rằng, nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Sự ra đời, tồn tại của nhà nước xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa tới sự ra đời của chế độ tư hữu và trực tiếp là do mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất
  16. 113 định của sự phát triển lịch sử xã hội và nhà nước sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Lịch sử cho thấy, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, trong xã hội chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Phù hợp với tình trạng kinh tế hết sức thấp kém lúc này là chế độ thị tộc, bộ lạc nguyên thuỷ. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc này là những tộc trưởng và hội đồng tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Những thủ lĩnh này không có đặc quyền, đặc lợi cá nhân và họ thực hiện vai trò là người đứng đầu các thị tộc, bộ lạc trong điều hành các công việc chung dựa vào sức mạnh của tập quán, của dư luận xã hội và trên cơ sở đạo đức, uy tín cá nhân của họ đối với xã hội. Quyền hành và chức năng của các cơ quan đứng đầu thị tộc, bộ lạc hoàn toàn không mang tính chất chính trị. Bởi vậy, các cơ quan dân cử này hoàn toàn khác biệt về bản chất so với tổ chức nhà nước. Mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ nhà nước chưa ra đời, nhưng xã hội vẫn tồn tại trong vòng ổn định và trật tự. Đánh giá về thể chế tổ chức xã hội trong thời kỳ này, Ph. Ăngghen viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quí tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy"1. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa tới sự ra đời của chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp trong xã hội. Từ đó, quan hệ người áp bức bóc lột người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị bóc lột với giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được. Để bảo vệ lợi ích ích kỷ của giai cấp mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị và bắt họ phải tuân theo những trật tự do mình đặt ra, giai cấp thống trị đã lập ra bộ máy bạo lực trấn áp - bộ máy đó chính là nhà nước. Vì vậy, nhà nước xuất hiện từ mâu thuẫn giai cấp đối kháng vốn có của mỗi xã hội và ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà thì ở đó nhà nước xuất hiện. V.I.Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai 1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 147.
  17. 114 cấp không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được"1. Nhà nước quyết không phải là cái được sinh ra từ bên ngoài áp đặt vào xã hội và cũng không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào quy định. Sự ra đời và tồn tại của nó là một tất yếu khách quan "từ nhu cầu phải kìm chế những sự đối lập giai cấp"2, làm cho cuộc đấu tranh giữa "những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không thể đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội và giữ cho sự xung đột đó nằm trong "vòng trật tự"3 của giai cấp thống trị. Trật tự đó là hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này áp bức bóc lột giai cấp khác. Đương nhiên, giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp có thế lực nhất, giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế và nhờ có nhà nước giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị xã hội về mặt chính trị. Như vậy, nhà nước ra đời từ những nguồn gốc kinh tế - xã hội và gắn liền với các cuộc cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử. Từ nguồn gốc khách quan của sự xuất hiện nhà nước, có thể quan niệm, nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị dùng để bảo vệ lợi ích trước hết của giai cấp thống trị và để quản lý xã hội. Nghiên cứu nguồn gốc của sự xuất hiện nhà nước là cơ sở lý luận khoa học để tiếp cận một cách đúng đắn vấn đề bản chất của nhà nước và đấu tranh chống lại các quan điểm duy tâm, phản động xung quanh vấn đề này. 1.2. Bản chất của nhà nước Bản chất của nhà nước được xác định bởi nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức ra, hệ thống thiết chế đó nằm trong tay ai và nó phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp nào. Từ trước đến nay, các nhà tư tưởng của giai cấp thống trị bóc lột luôn tìm mọi cách che đậy và xuyên tạc bản chất vốn có của nhà nước. Những học thuyết về nhà nước trước đây đều phủ nhận bản chất giai cấp của nhà nước và thường tuyên truyền tính chất thần bí, tôn giáo và duy tâm về bản chất của nhà nước. V.I.Lênin đã từng đấu tranh không khoan nhượng bác bỏ quan điểm xuyên tạc bản chất nhà nước của các phần tử cơ hội trong Quốc tế II, mà đại biểu là E.Becxtanh và C.Cauxky khi họ cho nhà nước chỉ là một cơ quan điều hoà mâu 1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 9. 2 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 255. 3 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 252 - 253.
  18. 115 thuẫn giai cấp, cùng những luận thuyết của các học giả tư sản khi họ tìm mọi cách biện hộ và phủ nhận bản chất giai cấp của nhà nước tư sản. Ngày nay, trước các biến động to lớn của tình hình thời cuộc, các học giả tư sản đang ra sức tuyên truyền cho tính chất "siêu giai cấp" của nhà nước tư sản. Họ cho rằng, hiện nay nhà nước tư sản đã có sự thay đổi về bản chất, rằng đây là "nhà nước phúc lợi chung", "nhà nước nhân dân tự do".v.v..; là tổ chức thực hiện ngày càng đầy đủ ý chí của nhân dân, thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của xã hội và đảm bảo được phúc lợi cho tất cả mọi người. Những quan điểm đó không những không phản ánh đúng đắn bản chất vốn có, đích thực của nhà nước tư sản; mà ngược lại, còn che đậy và xuyên tạc bản chất đích thực của nhà nước, họ làm cho vấn đề nhà nước vốn đã phức tạp càng trở nên phức tạp hơn. Đi từ cơ sở kinh tế và giai cấp của nhà nước, các nhà kinh điển mácxít khẳng định, bản chất của nhà nước là công cụ quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị, áp bức các giai cấp khác trong xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy"1. Với tư cách là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột không phải là kẻ công bằng bảo vệ lợi ích cho tất cả các giai cấp, mà nó là một bộ máy quyền lực chính trị đặc biệt và được tổ chức chặt chẽ tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội. Tổ chức này do giai cấp thống trị thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của nó đối với quần chúng nhân dân lao động. Trong hệ thống tổ chức thiết chế xã hội, nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Ph.Ăngghen khẳng định: “Nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh, dưới hình thức tập trung của những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất"1. Bởi vậy, nhà nước là công cụ sắc bén nhất của sự thống trị và áp bức giai cấp. Nhà nước do giai cấp có thế lực nhất, giai cấp thống trị về kinh tế tổ chức ra, vì vậy nhà nước nào trong lịch sử cũng có bản chất giai cấp sâu sắc. Thực tế 1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 290 - 291.
  19. 116 lịch sử đưa lại nhiều bằng chứng nói lên rằng, dù được che dấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, dù có được khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Và bản chất đích thực của nó, là "một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác"2. Tuy nhiên, bất cứ một nhà nước nào cũng sẽ không thể tồn tại được, nếu chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Ngoài việc duy trì sự thống trị của giai cấp thống trị, nhà nước còn là tổ chức duy nhất đứng ra quản lý những hoạt động chung của xã hội và đảm bảo cho xã hội ổn định, phát triển. Nhưng việc nhà nước đảm bảo những lợi ích nhất định của các giai tầng khác trong xã hội, trong chừng mực những lợi ích đó không đối lập gay gắt với lợi ích của giai cấp thống trị, cũng chính là để đảm bảo và duy trì địa vị, lợi ích của giai cấp thống trị trên thực tế. Bản chất của nhà nước được biểu hiện ra ở hệ thống quyền lực chính trị, luật pháp, nhưng trực tiếp và rõ nét nhất là ở các đặc trưng, chức năng của nhà nước. Như vậy, nhà nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp, là nhà nước của một giai cấp. Không thể có cái gọi là nhà nước "phúc lợi chung", nhà nước "siêu giai cấp", đứng trên các giai cấp hoặc của nhiều giai cấp như quan điểm của các học giả tư sản đưa ra. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà nước giữ một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp có lợi ích đối kháng nhau, khi cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó ở vào thế cân bằng nhất định. Hoặc nhà nước cũng có thể là sản phẩm của sự thoả hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Nhưng những trường hợp trên là có tính ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp đối địch nhau. Khi đó quyền lực nhà nước sẽ được tập trung vào một giai cấp. Nghiên cứu bản chất của nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh phê phán các quan điểm sai lầm, phản động về vấn đề này; bảo vệ và phát triển học thuyết mácxít về nhà nước trong tình hình mới. Đây còn là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa 1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 442 2 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.10.
  20. 117 học để xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta hiện nay. 2. Đặc trưng và chức năng của nhà nước 2.1. Đặc trưng của nhà nước Theo Ph.Ăngghen, bất cứ nhà nước nào trong lịch sử cũng có ba đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định và là đại biểu cao nhất của chủ quyền quốc gia. Đặc trưng trên chỉ rõ sự khác biệt của nhà nước với các tổ chức điều hành công việc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Khác với các tổ chức trong thị tộc và bộ lạc, nhà nước phân chia dân cư không theo huyết thống mà theo lãnh thổ quốc gia. Quyền lực của nhà nước trực tiếp tác động đến dân cư trong lãnh thổ quốc gia đó, bất kể người dân thuộc quan hệ huyết thống nào và không phân biệt sự khác nhau về chính kiến, giới tính. Bởi vậy, nói tới nhà nước là nói tới tổ chức quyền lực có chủ quyền mang nội dung chính trị - pháp lý, là đại biểu cao nhất của chủ quyền quốc gia. Quyền lực nhà nước có hiệu lực trên toàn bộ đất nước, đối với tất cả dân cư và tổ chức xã hội. Nhà nước còn là tổ chức duy nhất đại diện cho quốc gia trong các quan hệ đối ngoại và quốc tế. Thứ hai, nhà nước có bộ máy quyền lực công cộng đặc biệt và quản lý xã hội bằng pháp luật. Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong xã hội thị tộc và bộ lạc trước đây, nhà nước có đặc trưng quan trọng nhất là sự thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp. Bộ phận quan trọng nhất của nó là những cơ quan hành chính thực hiện chức năng cai trị. Nhà nước có các đội vũ trang đặc biệt, như quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang, các cơ quan cưỡng bức và những cơ sở vật chất tương ứng như nhà tù, trại tập trung, trại giam để cưỡng chế và bắt buộc những người bị trị phải phục tùng. Các nhà kinh điển mácxít nhấn mạnh, phải tìm những đặc trưng cơ bản của nhà nước trong những cơ quan quyền lực trấn áp của nó. V.I.Lênin chỉ rõ: "quân đội thường trực và cảnh sát là những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước"1. Trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước, ngoài binh sĩ, sĩ quan và các nhân viên thuộc các lực lượng vũ trang, nhà nước còn bao gồm một bộ máy đông đảo các quan chức và viên chức thường là được trả lương cao để chuyên 1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.12.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2