intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình: Tư vấn tâm lý

Chia sẻ: Batman_1 Batman_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

265
lượt xem
88
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhu cầu tham khảo ý kiến người khác để giải quyết những vấn nạn cá nhân là một nhu cầu đã có từ thượng cổ, có lẽ từ khi con người có được ngôn ngữ. Bạn bè tâm sự cùng nhau; anh chị em chia xẻ vui buồn; vợ chồng, ông bà, cha mẹ cùng nhau bàn bạc để tìm cách giải quyết một vấn đề của gia đình; tham khảo ý kiến chỉ bảo của các nhà tu…

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình: Tư vấn tâm lý

  1. Giáo trình Tư vấn tâm lý 1
  2. Lời Nói Đầu Nhu cầu tham khảo ý kiến người khác để giải quyết những vấn nạn cá nhân là một nhu cầu đã có từ thượng cổ, có lẽ từ khi con người có được ngôn ngữ. Bạn bè tâm sự cùng nhau; anh chị em chia xẻ vui buồn; vợ chồng, ông bà, cha mẹ cùng nhau bàn bạc để tìm cách giải quyết một vấn đề của gia đình; tham khảo ý kiến chỉ bảo của các nhà tu… là những hình thức tư vấn truyền thống. Những hình thức tư vấn này có giá trị lớn trong việc cung cấp sự hỗ trợ tinh thần và vì vậy đã có phần đóng góp quan trọng vào cuộc sống yên vui của con người cũng như an sinh của xã hội. Bên cạnh các hình thức tư vấn truyền thống kể trên, khi xã hội phát triển lên theo các mô hình sản xuất kinh tế công nghiệp ngày càng phức tạp, đòi hỏi trình độ phối hợp của nhiều ngành khác nhau, tất cả đều ngày càng chuyên môn hóa, nhu cầu của con người cũng trở nên phong phú và phức tạp hơn. Người ta bắt đầu gặp những vấn nạn vượt ngoài tầm giúp đỡ của các tài nguyên truyền thống. Những uẩn khúc tâm lý, những khúc mắc tình cảm không thể dễ dàng cho cha mẹ, anh chị em hay bè bạn hiểu được, hoặc không thể giải quyết bằng những lý thuyết đạo đức cao siêu của các nhà tu. Trong điều kiện này và song song với sự phát triển nhanh chóng của các khoa tâm lý học, xã hội học, y học, gia đình học và công tác xã hội, từ đầu thế kỷ 20 đã bắt đầu manh nha xuất hiện vai trò mới mẻ của phương pháp trị liệu bằng ngôn ngữ/talk therapy. Từ một thế kỷ qua, khởi đầu bằng phương pháp phân tâm làm mê hoặc cả thế giới, khoa tâm lý trị liệu đã tiến rất xa, đã phát triển thành một ngành nghề vững chắc với những lý thuyết, những trường phái vô cùng đa dạng. Mặc dù xây dựng ngành tâm lý trị liệu sau Âu Mỹ hàng trăm năm, Việt Nam ngày nay có rất nhiều thuận lợi: chúng ta không phải thụ động chờ đợi sự ra đời của những thiên tài như Freud, Jung, Adler, Ellis, Rogers, Satir, Erickson, hay Minuchin… Tất cả những phát kiến kỳ diệu của những nhân vật này và hàng ngàn lý thuyết gia kim cổ khác đều ở sẵn trong nhà chúng ta, luôn luôn chờ đợi một vài cái click ngắn gọn trước máy điện toán là xuất hiện để sẵn sàng chia xẻ kiến thức với chúng ta. Một thí dụ điển hình là thư viện điện tử lớn nhất thế giới Questia.com, chỉ cần đóng một lệ phí nhỏ h àng tháng, người ta có thể có trong tay bất cứ lúc nào hơn 67 ngàn cuốn sách và một triệu rưỡi bài viết về hầu hết các đề tài chuyên môn nào chúng ta có thể nghĩ ra. Trong các trường phái lớn của khoa tư vấn tâm lý, còn gọi là là tâm lý trị liệu, trường phái có ảnh hưởng nhất hiện nay là phái nhân bản/humanistic mà người đứng đầu là Carl Rogers. Có thể nói phái nhân bản là một cuộc cách mạng trong tư vấn tâm lý vì nó gần như ngược hoàn toàn với những lý thuyết và cách tiếp cận của các trường phái xuất hiện trước đó. Thí dụ: quan hệ giữa khách hàng và người làm công tác tư vấn là quan hệ hợp tác bình đẳng; khách hàng chứ không phải người làm công tác tư vấn, là chuyên gia về cuộc đời của họ; giải pháp thật sự cho vấn nạn là giải pháp cho khách hàng nghĩ ra hoặc tham gia vào việc tìm ra chứ không phải do người làm công tác tư vấn áp đặt… Ngoài ra, do tính cách phức tạp của vấn nạn xuất phát từ cuộc sống ngày càng đa dạng của con người, mỗi trường phái, mỗi lý thuyết đều có ưu và khuyết điểm riêng. Chính vì vậy phương pháp tổng hợp các trường phái/the eclectic approach là phương pháp phổ biến nhất. Điều này hợp lý vì nó giúp người làm công tác tư vấn tận dụng được trí khôn của nhân loại, 2
  3. không phân biệt nguồn gốc, miễn giúp được khách hàng vượt qua vấn nạn. Tài liệu này được biên soạn theo tinh thần ph ương pháp tổng hợp với trụ cột là cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm của trường phái nhân bản. Tác giả hy vọng tài liệu này sẽ phần nào hữu ích cho độc giả và sẽ góp phần tạo hứng thú cho các bạn trẻ để tham gia nghiên cứu, học tập làm cho khoa tư vấn tâm lý Việt Nam ngày càng mau chóng lớn mạnh. Sau cùng, do khả năng hạn hẹp, soạn giả xin phép được để nguyên một số chữ tiếng Anh bên cạnh tiếng Việt để rõ nghĩa và để tiện cho việc góp ý của quý vị độc giả để việc chuyển dịch từ ngữ trong tương lai thêm chính xác. Trần Đình Tuấn San Jose, California, tháng Bảy 2009 Phần Một : NHỮNG TRƯỜNG PHÁI CHÍNH Chương 1 : PHÁI TƯƠNG TÁC TÂM LÝ/PSYCHODYNAMIC SIGMUND FREUD (1856-1939) VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÂM/PSYCHOANALYSIS Được xem là một trong bốn nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử nhân loại trong thế kỷ 20 (cùng với Charles Darwin, Albert Einstein, và Karl Max), Freud là người Áo gốc Do Thái, sinh ra và sống gần hết đời ở Vienne. Sau khi Đức quốc xã sát nhập Áo vào lãnh thổ Đức năm 1937, Freud trốn sang Anh và mất tại London năm 1939. Tư tưởng vô cùng phong phú, táo bạo, và phức tạp của Freud có thể được tóm tắt qua những điểm chính sau đây: 1. Các giai đoạn hình thành tâm lý con người: Theo Freud, cái tôi c ủa con người là một thực thể tâm lý phức tạp hình thành do tác động của ba đòi hỏi khác nhau của thú tính bẩm sinh/ id, lương tâm/superego, và hoàn cảnh sống thực tế/reality tức là môi trường sống thực của cái Tôi/ego. Con người là một sinh vật y như mọi sinh vật khác, và vì vậy từ khi chào đời đã có thú tính bẩm sinh muốn được thỏa mãn những nhu cầu vật chất và sinh lý và muốn tránh khổ đau. Trong quá trình trưởng thành, ảnh hưởng của gia đình, văn hóa, tôn giáo, xã hội… tạo ra lương tâm, tức là cái phần lý tưởng mà người ta muốn hướng tới. Hoàn cảnh sống thực tế là nơi diễn ra sự tranh chấp giữa thú tính bẩm sinh và lương tâm. Kết quả của cuộc tranh chấp này là cái Tôi/ego, tức là mỗi cá nhân với cách ứng xử an toàn nhất, phù hợp nhất, thực tế nhất mà con người lựa chọn cho mình trong mọi hoàn cảnh. Có nhiều động lực của cuộc sống/ libido thúc đẩy thú tính bẩm sinh: ăn, mặc, ngủ, nghỉ ng ơi, an toàn, bạo lực… nhưng chủ yếu nhất, mạnh mẽ nhất là động lực về tình dục. Freud cho rằng từ khi mới chào đời con người đã có nhu cầu và đã có hành vi tình dục: sờ mó, bú mớm, thích ôm ấp và được ôm ấp. Đây là một trong những ý kiến táo bạo nhất của Freud vì trước 3
  4. đó người ta tin con người chỉ bắt đầu phát triển nhu cầu tình dục ở tuổi dậy thì. Động cơ tình dục bẩm sinh thúc đẩy sự trưởng thành của con người qua năm giai đoạn: miệng/oral stage, hậu môn/anal stage, dương vật/phallic stage, trước dậy thì/latency period, và sinh dục/genital stage. Ở mỗi giai đoạn phát triển này môi trường sống, trong đó có ảnh hưởng của bố mẹ, là quan trọng nhất, có thể làm cho nhu cầu tình dục của đứa trẻ được thỏa mãn một cách khác nhau. Nếu được thỏa mãn vừa phải, đứa trẻ sẽ phát triển bình thường lên giai đoạn kế tiếp. Nếu bị cấm cản không cho thỏa mãn hoặc bị buông thả cho thỏa mãn quá trớn nhu cầu tình dục sơ sinh của nó, đứa trẻ sẽ phải chịu đựng những ám ảnh/ fixation vào giai đoạn phát triển liên hệ và không thể tiến lên giai đoạn cao hơn. Kết quả là nó sẽ lớn lên với những triệu chứng bất bình thường về tâm lý. Qua năm giai đoạn của quá trình trưởng thành này, đối tượng tình dục của đứa trẻ sơ sinh dần dần thay đổi từ bản thân (bú ngón tay, tự sờ mó bộ phận sinh dục) và Mẹ (bú mớm, sờ mó, ôm ấp…) sang người khác phái: Giai đoạn miệng/Oral stage, (từ 0 đến 1 tuổi): Ở giai đoạn này đứa bé sơ sinh dùng miệng không phải chỉ để ăn (bú sữa) mà còn để sờ mó, thám hiểm thế giới xa lạ chung quanh, và để có cảm giác sung sướng (bú ngón tay, ngậm vú mẹ, ngậm núm vú). Freud chia giai đoạn này làm hai phân đoạn: phân đoạn thụ động/receptive và phân đoạn chủ động/aggressive. Phân đoạn thụ động diễn ra trong vài tháng đầu đời, đứa bé hoàn toàn phụ thuộc mẹ và chỉ biết bú, nuốt… Phân đoạn chủ động diễn ra khi lợi trở nên cứng và răng bắt đầu nhú ra, đứa bé bắt đầu biết diễn tả cảm xúc của nó bằng động tác nhay, cắn (ngón tay, vú mẹ…), tức là ngay từ giai đoạn sơ sinh này con người đã có kinh nghiệm và diễn tả được kinh nghiệm vừa thương vừa ghét/ambivalence cùng một đối tượng (mẹ, vừa bú vừa nhay vú mẹ, làm cho mẹ đau). Giai đoạn hậu môn/Anal stage, (từ 1 đến 3 tuổi): Khu vực nhạy cảm và tạo cảm giác sướng khoái nhiều nhất trong giai đoạn này là vùng hậu môn, gồm cả hậu môn lẫn bộ phận tiểu tiện. Khoái cảm này cũng đã được xếp vào hàng “tứ khoái” ở phương đông bất kể giai đoạn tuổi tác nào (ăn, ngủ, tình dục, đại tiểu tiện). Freud cũng chia giai đoạn này làm hai phân đoạn: phân đoạn buông/expulsion và phân đoạn giữ/retention. Ở phân đoạn buông đứa bé lần đầu tiên trải qua mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu tiểu tự nhiên của nó và nhu cầu huấn luyện tiêu tiểu đúng chỗ, đúng lúc, của cha mẹ nó. Phân đoạn này cũng là thời gian cực kỳ quan trọng để đứa bé học cách làm thế nào để được khen, được thương; tình thương của cha mẹ không còn vô điều kiện như trước nữa mà tùy theo ứng xử của đứa bé. Cách dạy con của cha mẹ trong phân đoạn này cũng góp phần chính trong việc tạo nên một phần hết sức quan trọng trong cá tính của đứa bé, đó là cách nó suy nghĩ và ứng xử đối với những người có quyền lực trong cuộc đời của nó. Nếu nó có cái nhìn tích cực đối với quyền lực: quyền lực đứng về phía nó, hỗ trợ nó, khả năng hòa nhập trên đời của nó sẽ khác hẳn so với cái nhìn bi quan, tiêu cực: quyền lực áp bức nó, thù 4
  5. nghịch với nó. Ở phân đoạn giữ, đứa bé học được cách nín tiêu, tiểu, và chủ động được lúc nào, ở đâu sẽ có cảm giác sướng khoái do tiêu tiểu mang lại. Giai đoạn dương vật/Phallic stage, (từ 3 đến 5 hoặc 6 tuổi): Freud đã chọn từ “phallic”, bắt nguồn từ chữ Hy lạp “phallus” nghĩa là dương vật, để đặt tên cho giai đoạn này vì Freud cho của quý của đứa trẻ trai và hạt ngọc/clitoris của đứa trẻ gái giống nhau, điều khác biệt là chỉ khi đến tuổi dậy thì đứa trẻ gái mới hình thành khoái cảm từ bộ phận sinh dục. Khi đứa trẻ gái so sánh cái “dương vật” khiêm tốn của nó với con trai, nó cảm thấy thua kém và trở nên ganh tị/penis envy. Mặc cảm Oedipus: trong bi kịch của Sophocles, Oedipus, vua xứ Thebes, đã vô tình giết cha và lấy mẹ mình làm vợ. Sau khi phát giác ra sự thật, mẹ Oedipus đã tự tử và Oedipus đã tự móc mắt mình. Theo Freud, tình thương đối với mẹ của đứa trẻ trai trở nên mãnh liệt vào đầu giai đoạn dương vật. Nó muốn độc chiếm mẹ và vì vậy ngày càng trở nên ganh tị và mâu thuẫn với bố, muốn cho bố “biến mất”. Vì bố to lớn hơn nó, khỏe hơn nó, đứa bé trở nên sợ bố và cái nó sợ nhất là bị bố cắt mất của quý/castration anxiety là cái nó hay tự mầy mò để có cảm giác sung sướng. Để thoát khỏi mối lo sợ này, đứa trẻ trai dồn nén tình yêu mẹ của nó vào tiềm thức và tìm cách đứng về phía bố, nó bắt chước cách bố cư xử, suy nghĩ, hành động. Nhờ vậy nó có được cảm giác an toàn không còn sợ bị thiến và vẫn có thể thầm lén yêu mẹ trong trí tưởng tượng. Mặc cảm Electra: Electra là chữ do Carl Jung chọn và dùng lần đầu tiên vào năm 1913 để mô tả mặc cảm Oedipus ở phái nữ của Freud. Cũng trong bi kịch của Sophocles, Electra đã giúp anh trai của mình giết mẹ và tình nhân để trả thù cho bố (đã bị tình nhân của mẹ giết). Theo Freud, đứa trẻ gái, cũng như trẻ trai, lúc đầu gắn bó với mẹ, nhưng đến giai đoạn dương vật, khi phát giác nó không có cơ quan sinh dục giống như con trai, nó trở nên ghen tỵ và để thoát khỏi cảm xúc ghen tỵ khó chịu đó, nó muốn đứng về phía bố. Nó bắt đầu thù ghét mẹ (đổ lỗi tại mẹ làm cho nó không có dương vật) và khi nhận ra nó không thể nào có được dương vật như con trai, nó thay thế ao ước đó bằng ý muốn được bố làm cho có em bé như mẹ. Ý muốn này làm cho đứa trẻ gái trở thành một “người đàn bà tí hon”. Những tác động kể trên diễn ra trong khi đứa bé vẫn không ngừng cần được mẹ yêu thương chăm sóc, và nó vừa muốn mẹ “biến mất đi” vừa sợ mất mẹ. Giai đoạn trước dậy thì/Latency period, (từ 5, 6 tuổi đến dậy thì): Trái với các giai đoạn trước, ở giai đoạn này động lực sống/libido, chủ yếu là bản năng tình dục của đứa bé chỉ thay đổi về lượng chứ không thay đổi về chất. Đứa bé dồn nén được những quan tâm về tình dục của những năm trước và tập trung năng lực vào việc phát triển kiến thức cũng như năng khiếu mới. Ở giai đoạn này đứa bé thích chơi với bạn cùng giới. 5
  6. Có thể nói những năm trước dậy thì là thời gian sự thăng bằng giữa thú tính bẩm sinh, lương tâm, và cái Tôi đạt mức cao nhất trong đời người. Đây là thời gian biển lặng trước cơn bão táp của tuổi dậy thì. Giai đoạn sinh dục/Genital stage: Thăng bằng giữa ba thành phần của bản ngã chấm dứt, thú tính bẩm sinh/ id vượt lên trên, tạo ra những đòi hỏi mãnh liệt về tình dục với người khác phái. Nếu ở những giai đoạn trưởng thành trước, đứa bé được thỏa mãn vừa phải, nó sẽ dồn được tất cả năng lực vào việc phát triển mối quan hệ bình thường, hạnh phúc với người khác phái. Trái lại nếu nó không được thỏa mãn vừa đủ hoặc được thỏa mãn quá độ, nó sẽ có triệu chứng của tình trạng ám ảnh/fixation bởi giai đoạn cũ, giống như đứa trẻ học kém phải ở lại lớp, hoặc là ở lớp cũ nó được các thày cô chiều chuộng quá mức khiến cho nó cứ muốn ở lại lớp đó hoài, không muốn lên lớp trên. Vì thời gian cứ trôi qua, đứa bé bị bắt buộc phải lên lớp, nó sẽ phải tiêu phí nhiều năng lực vào phản ứng dồn nén hoặc tự vệ liên quan đến những mâu thuẫn chưa giải quyết được ở lớp cũ. Kết quả là nó sẽ khổ đau, sẽ không thể xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh, hạnh phúc bình thường với người khác phái. 2. Thức/conscious, và vô thức/unconscious: Thức là trạng thái tỉnh táo khi con người nhận biết được và có được phản ứng đối với những kích thích của môi trường. Bên cạnh thức, Freud còn chỉ ra vai trò quan trọng của vô thức. Mặc dù trước Freud đã có nhiều người nhắc đến từ “vô thức”, Freud là người phân tích tỉ mỉ và chính xác nhất phần vô thức của tâm lý con người. Theo Freud trong vô thức có hai phần: phần tiền thức/preconscious và phần vô thức. Tiền thức là những cảm xúc, những kinh nghiệm, những ý nghĩ, những ghi nhận… mà con người có thể dễ dàng nhớ lại khi cần; vô thức là chỗ chứa những cảm xúc, những kinh nghiệm, những khao khát mạnh mẽ bị dồn nén ra khỏi thức. Mặc dù con người không nhận biết những cảm xúc này và không thể nhớ lại được chúng theo ý muốn nhưng chúng vẫn hiện diện trong vô thức và ảnh hưởng mạnh mẽ đến cảm xúc cũng như ứng xử của con người qua cơ chế tự vệ/defense mechanism. Trong cấu trúc tâm lý con người của Freud, phần Tôi/ego và phần Thiện/superego hoạt động 3. Ý trong cả ba tầng của thức. Phần Ác/Id trái lại chỉ hoạt động trong tầng vô thức. nghĩa của các giấc mộng: Theo Freud mộng là “sự thực hiện thầm lén những ước vọng bị dồn nén” và là “con đường lớn dẫn vào vô thức”. Phần Ác, tức thú tính bẩm sinh của con người luôn có những khát vọng không thể thực hiện một cách an toàn trong đời sống thực, vì vậy chúng bị phần Thiện và cái Tôi dồn vào vô thức. Mặc dù bị dồn nén, những khát vọng đó không hoàn toàn biến mất và chúng hiện ra dưới hình thức các giấc mộng khi con người ngủ vì khi người ta ngủ, phần Thiện và cái Tôi không hoạt động hữu hiệu như khi thức. 6
  7. Freud chia nội dung mộng làm hai phần, phần nổi/ manifest content và phần tiềm ẩn/latent content. Phần nổi là phần chúng ta nhớ đ ược khi thức dậy, trong phần này có tản mạn những mảnh vụn của những gì xảy ra khi thức và những khát vọng bị dồn nén, tất cả được thể hiện dưới hình thức ảo giác/hallucination (2) thường là ảo giác nhìn/visual hallucination. Phần tiềm ẩn là những nội dung trôi nổi ra khỏi vô thức, những nội dung này có thể liền lạc, có ý nghĩa hay rời rạc, quái dị, không rõ nghĩa. Trong tâm lý trị liệu của Freud, phương pháp nói hết/free association giúp nhà trị liệu thu góp những thành phần rời rạc của các giấc mộng và từ những thành phần rời rạc này hiểu được phần tiềm ẩn của mộng. Đây chính là mục đích của giải mộng: nối kết phần nổi với phần tiềm ẩn và tìm ra ý nghĩa của giấc mộng (3). 4. Cơ chế tự vệ/defense mechanism: Đây là một trong những khám phá quan trọng của Freud. Cơ chế tự vệ là những phản ứng do vô thức điều động để giúp con người chống lại trạng thái bồn chồn lo lắng khi phải đối phó với những mối đe doạ không có lối thoát rõ rệt. Dưới đây là một số cơ chế tự vệ thông thường: Biện luận/Intellectualization: dùng lý luận hay từ ngữ để ngăn không cho một mối đe dọa gây ra cảm xúc tiêu cực cho bản thân. Thí dụ trong một gia đình sư tử Hà Đông, bà vợ nắm hết quyền lực, quyết định mọi chuyện lớn nhỏ, lại hay nổi nóng quát nạt chồng con, ông chồng chỉ được duy nhất một quyền tự do là quyền tuyệt đối lúc nào cũng đồng ý với vợ. Ông nói với tất cả mọi người “Bà nhà tôi hồi nào tới giờ vẫn phải tập tính kiên nhẫn, đôi khi nói năng không được dịu dàng nhưng bà ấy rất là quán xuyến, tôi chả phải lo gì hết cả”. Đền bù/Compensation: khiếm khuyết ở một lĩnh vực được bù đắp bằng cố gắng và thành công ở một lĩnh vực khác. Thí dụ người có một khuyết tật cố gắng học và làm việc thật giỏi để tránh được cảm giác khó chịu vì bị mọi người coi thường. Đổ tội/Blaming: đổ những khiếm khuyết, sai lầm, lỗi… của mình cho người khác. Thí dụ: “Cây quất trồng ở Hoài Nam là quất ngọt, đem sang trồng ở Hoài Bắc thì hóa quất chua. Tôi bê bối, tôi dối trá, tôi ích kỷ như thế này là do ai? Là do chính cô đấy cô có biết không? Hồi xưa chưa lấy cô tôi ở với bố mẹ tôi có như thế này đâu?” Mộng tưởng/Fantasy: tưởng tượng được trải qua một mơ ước thầm kín nào đó không thể có trong thực tế. Một thí dụ sáng thứ bảy đang phải ngồi ở nhà ăn phở với “cơm” nhưng lại tưởng tượng đang được ở tiệm ăn cơm với “phở”! Chối bỏ/Denial: từ chối chấp nhận một thực trạng vì nó tai hại cho sự an toàn của cái Tôi. Thí dụ: ai cũng biết cậu quý tử gửi sang Pháp du học chỉ phung phí tiền ăn ch ơi trác táng, cha mẹ cậu vẫn chối bỏ mọi thông tin chính xác và thành thật khoe với mọi người là cậu đang học quản trị kinh doanh ở một đại học nổi tiếng của Paris. 7
  8. Giận cá chém thớt/Displacement: chuyển cảm xúc, năng lực, từ đối t ượng này sang đối tượng khác để được bình an. Thí dụ: đi làm có chuyện bực mình với xếp về nhà kiếm chuyện mắng vợ chửi con vì mắng chửi vợ con an toàn hơn mắng chửi xếp. Thí dụ khác: người yêu đi lấy chồng, chàng bèn đi tu và trở thành một nhà tu chân chính, đạo hạnh. Chuộc tội/Undoing: đền bù một hành vi hoặc ham muốn xấu bằng một hành động tốt. Thí dụ một số ông chồng sau khi đi ăn vụng thì về nhà dịu dàng tử tế với vợ và phụ vợ chăm sóc con cái đàng hoàng. Giả bệnh/Somatization: biến đổi những khó chịu hay mối đe doạ thành bệnh tật. Thí dụ: mỗi lần bà mẹ chồng ở quê ra thăm thì cô con dâu đều nhức đầu, đau bụng, khó ở, ăn không ngon, ngủ không yên, không bác sĩ hay thầy lang nào chữa được, nhưng lần nào bà mẹ chồng trở về quê thì bao nhiêu bệnh tật cũng đều tiêu tan. Hoán chuyển/Sublimation: chuyển một ham muốn tự nhiên mạnh mẽ không được xã hội tán đồng thành hành vi phù hợp với giá trị do xã hội đặt ra. Thí dụ: một người hung hăng thích bạo động chọn nghề võ sĩ hay nghề cảnh sát hình sự. Thí dụ khác: người mắc bệnh thiếu nhi dục/pedophilia đi tu để trở thành nhà tu hành. Nhập nội/Introjection: Chấp nhận điều tiêu cực người khác gán cho mình mặc dù mình không có điều tiêu cực đó để tránh va chạm. Thí dụ: ông bố luôn luôn mắng chửi đứa con là “đồ ngu”, đứa con chấp nhận điều đó (vì không thể cãi lại bố) và càng ngày càng học kém vì mất tự tin và ý chí học hỏi. Nhập ngoại/Projection: Đem những điều tiêu cực của mình (mà cái tôi của mình cố ý bỏ qua không biết đến) gán cho người khác. Thí dụ: ông A là người kiêu căng phách lối xem thường tất cả mọi người, nhưng ông lại rất thường phê bình người khác là kiêu căng. Nói vậy nhưng không phải vậy/Reaction formation: hành động hay diễn tả ngược lại với ý định hay cảm xúc của mình. Thí dụ nói ghét là yêu, nói yêu là ghét. Thí dụ khác: “Sao? Công việc mới của anh thế nào? Tuyệt, ở đây lương thì cao, xếp và đồng nghiệp lại đối xử với mình rất tốt”. Thực ra công việc mới rất căng thẳng, xếp mới thì như đứa dở khùng dở điên, đồng nghiệp mới toàn một lũ ganh tỵ, và bản thân đang hối hận đã chót dại bỏ chỗ làm cũ xin vào đây. Dồn nén/Repression: đẩy những thực tế đã gây ra cảm xúc tiêu cực vào vô thức để khỏi phải chịu đựng những cảm xúc đó. Những thực tế này có thể trỗi dậy trong các giấc mơ hoặc trong những câu nói buột miệng và là đối tượng phân tích của khoa phân tâm. Thí dụ một người quên đi một lỗi lầm, một hành vi sai quấy hay một điều xấu hổ trong quá khứ để khỏi phải chịu đựng những dằn vặt, hối hận, khổ đau liên quan đến kinh nghiệm đó. 8
  9. Lùi về quá khứ/Regression: dùng lại ứng xử của giai đoạn phát triển tâm lý đã qua. Thí dụ khi hồi hộp xúc động thì tiểu dầm mặc dù đã qua tuổi đó, hoặc van xin khóc lóc năn nỉ như trẻ con khi phải đối phó với những mâu thuẫn trong cuộc sống lứa đôi. 5.Cách tiếp cận và mục tiêu của phương pháp phân tâm: Theo Freud, triệu chứng thần kinh tâm trí diễn ra khi người ta dùng cơ chế tự vệ một cách không thích đáng để đối phó với một số mâu thuẫn phần đông mang tích cách dục tình hay bạo động xuất phát từ tuổi ấu thơ. Cách đối phó này không thực sự giải quyết tận gốc mâu thuẫn mà chỉ giống như một viên thuốc giảm đau để tạm thời quên đi những cảm xúc tiêu cực khó chịu. Mâu thuẫn không được giải quyết vẫn còn đó và gây ra những triệu chứng. Vì vậy, mục tiêu của phương pháp phân tâm là đem cái kinh nghiệm, cái khao khát, cái sợ hãi đã bị vùi sâu trong vô thức phơi bày ra thức, tạo cho khách hàng cơ hội sống lại nó và giải quyết nó một cách đúng đắn và rốt ráo để đạt được một kết luận tích cực cho mối mâu thuẫn đó. Khi các mối mâu thuẫn của quá khứ được giải quyết thỏa đáng, những triệu chứng thần kinh tâm trí liên quan đến nó sẽ tiêu tan. Phương pháp phân tâm cổ điển đòi hỏi người bệnh gặp nhà phân tâm trung bình năm lần một tuần, mỗi lần 50 phút liên tiếp trong nhiều năm. Trong thời gian gặp gỡ, người bệnh nằm dài thoải mái trên một trường kỷ, nhà phân tâm ngồi phiá sau đầu bệnh nhân. Nhà phân tâm giữ vai trò trung lập, khách quan bằng cách không nói gì về bản thân, không phê phán, mà chỉ giúp bệnh nhân đi ngược lại lịch sử của mình và nói ra tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhất là những kỷ niệm tiêu cực, những dục vọng xấu xa. Phương pháp này Freud gọi là lột trần ẩn ức/ free association. Trong quá trình điều trị lâu dài này, nhà phân tâm diễn dịch những mâu thuẫn không được giải quyết thỏa đáng và bị dồn vào vô thức, những cơ chế tự vệ, những né tránh… và dần dần giúp bệnh nhận hiểu được những uẩn khúc tâm lý bản thân một cách sâu sắc. Qua quá trình làm việc lâu dài và hết sức gần gũi này, bệnh nhân tin tưởng tuyệt đối và thố lộ tất cả cuộc đời của mình cho nhà phân tâm, dần dần coi nhà phân tâm như đối tượng của những tình cảm thương cũng như ghét bị dồn nén trong quá khứ. Quá trình này được Freud đặt tên là phóng chiếu/transference. Freud phân biệt hai loại phóng chiếu: phóng chiếu tích cực/positive transference là những tình cảm thương yêu, ái mộ đối với nhà phân tâm; phóng chiếu tiêu cực/negative transference là những ác cảm đối với nhà phân tâm. Phóng chiếu, cả tích cực lẫn tiêu cực, đều là mục tiêu của phân tâm vì nó tạo cơ hội cho bệnh nhân được “làm lại cuộc đời” tức là được sống lại mâu thuẫn cũ và được đối tượng của mâu thuẫn (tức là nhà phân tâm qua phóng chiếu ) dẫn dắt đến một giải pháp phù hợp nhất có thể được cho mâu thuẫn đó, triệu chứng tâm lý vì vậy tiêu tan. Quá trình làm việc lâu dài và hết sức gần gũi của phương pháp phân tâm cũng có thể làm cho nhà phân tâm trở lại những ẩn ức bị dồn nén của chính bản thân, phát sinh tình cảm thương ghét đối với bệnh nhân và dùng mối liên hệ nghề nghiệp với bệnh nhân để giải quyết những ẩn ức (phần đông liên quan đến dục tình) bị dồn nén trong quá khứ của chính mình. Freud gọi hiện tượng này là phản phóng chiếu/counter transference, và đề nghị nhà phân tâm cảnh giác, nếu thấy dấu 9
  10. hiệu của phản phóng chiếu phải ngừng công việc ngay, giới thiệu bệnh nhân đi chỗ khác và bản thân mình đi tham vấn để điều trị những ẩn ức cũ một cách thỏa đáng. Ngoài lột trần ẩn ức, Freud còn dùng phương pháp giải mộng để khám phá vô thức của bệnh nhân. Phương pháp giải mộng đòi hỏi bệnh nhân kể lại tất cả những gì nhớ được trong giấc mộng để nhà phân tâm diễn dịch, tìm ra những ẩn ức bị dồn nén vào vô thức và giúp bệnh nhân giải quyết những ẩn ức đó một cách thỏa đáng và nhờ vậy hết bệnh. CARL GUSTAV JUNG (1875-1961) VÀ TÂM LÝ HỌC LÝ GIẢI/PSYCHOANALITICAL THERAPY Bác sĩ thần kinh tâm trí Thụy Sĩ. Jung trở thành bạn thân của Freud vào năm 1904 (thời gian đó Jung 29 tuổi ở Zurich và Freud đã 50 tuổi ở Vienne). Tình bạn sâu đậm này kéo dài sáu năm trong đó Jung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những lý thuyết mới mẻ về phân tâm của Freud. Mâu thuẫn giữa Jung và Freud bắt đầu từ những bất đồng của Jung về quan điểm tôn giáo và năng lực sống/libido của Freud. Freud là người theo chủ nghĩa vô thần, và năng lực sống theo Freud là những khát vọng phần đông mang tính chất dục tình và bạo động xấu xa bị dồn vào vô thức của con người. Jung tin vào ý nghĩa tâm linh và năng lực sống bao gồm những năng lực xấu cũng như tốt chứ không phải chỉ nặng về loạn luân, dục t ình, và bạo lực. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển của con người: Khác với lý thuyết của Freud, Jung không chủ trương dục vọng giữ một vai trò chủ yếu trong quá trình trưởng thành của con người. Jung chỉ ra bốn giai đoạn phát triển: ấu thơ, thanh thiếu niên (quan trọng nhất), trung niên, và lão niên. Giai đoạn ấu thơ (từ sơ sinh đến trước dậy thì): trong giai đoạn này con người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của vô thức cá nhân và vô thức tập thể, hình thành những khát vọng không thể đạt được/fantasies bắt nguồn từ cá tính bẩm sinh, những khát vọng, những archetypes tức là những bộ đối xứng gồm hai tính cách trái ngược nhau có sẵn trong vô thức tập thể mà con người thừa hưởng của tổ tiên từ khi mới sinh ra. Trong giai đoạn này, mặc dù đứa trẻ hoàn toàn lệ thuộc vào người lớn, cái Tôi của nó đã bắt đầu hình thành và ngày càng giúp nó trở nên độc lập hơn với thế giới chung quanh. Jung chia giai đoạn ấu thơ ra làm ba thời kỳ: thời kỳ loạn/anarchic phase, đứa trẻ bị vây kín bởi những hình ảnh sơ khai và hỗn loạn, không có liên hệ rõ rệt với nhau. Thời kỳ trị/monarchic phase, cái Tôi sơ khai bắt đầu xuất hiện, đứa trẻ bắt đầu có được những khái niệm về bản thân. Vì lý do cái Tôi trong thời kỳ này được đứa trẻ hiểu như một vật thể, đứa trẻ thường tự nhắc đến nó bằng ngôi thứ ba. Trong thời kỳ song đôi/dualistic phase, những ốc 10
  11. đảo rời rạc của vô thức được dần dà nối liền với nhau, đứa trẻ bắt đầu ý thức được cả hai mặt chủ quan và khách quan của cái Tôi và nó có thể tự nói về nó bằng ngôi thứ nhất. Giai đoạn thanh thiếu niên (dậy thì đến 35-40 tuổi): đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của thức, con người đón nhận những vai trò của tuổi trưởng thành: cơ thể và tính dục phát triển để xây dựng mối quan hệ lứa đôi, trí tuệ phát triển để đảm trách công việc làm và các trách nhiệm khác. Nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn phát triển này là hướng những năng lực của cuộc sống/ libido ra bên ngoài và sống trọn vẹn cuộc sống của cá nhân. Ích lợi lớn cho giai đoạn này là khi thanh thiếu niên có được một lý tưởng hay một nhân vật lý tưởng để noi theo. Giai đoạn trung niên (35-40 đến tuổi già): con người có khuynh hướng hướng nội để hội nhập hai phần thức và vô thức của tâm thức/psyche. Trong giai đoạn phát triển trước đó (giai đoạn thanh thiếu niên), phần vô thức bị lu mờ. Trong giai đoạn trung niên, phần vô thức được nâng lên và hội nhập vào phần thức, và con người trở nên hướng về nội tâm nhiều hơn vào ngoại cảnh, chú ý nhu cầu tâm linh. Quá trình hội nhập thức và vô thức trong giai đoạn này được Jung gọi là quá trình tiến đến trình độ phát triển cao nhất của cá nhân/ individuation, nghĩa là mỗi người trở thành một cá nhân độc đáo với những phẩm chất riêng biệt. Sự hội nhập những giá trị trái ngược nhau của thức và vô thức và tạo ra những giá trị đối xứng/dualities, con người trở nên trưởng thành hơn, hữu hiệu hơn trong cuộc sống, và nhờ vậy xây dựng được cái chân tâm/the self mà Jung đặt vào trung tâm của cá tính mỗi người/personality. Giai đoạn lão niên: con người trở về giai đoạn vô thức thống trị của tuổi ấu thơ. Thức lùi ra phía sau, vô thức tiến ra phía trước. Nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn này là đối đầu với nỗi sợ chết vì nỗi sợ này làm cản trở nhiệm vụ chính của tuổi già, tức là nhiệm vụ chuẩn bị cho chết và tái sinh. Đây là một khái niệm quan trọng trong tư tưởng Jung: trái với tư tưởng tôn giáo Tây phương cho chết là chấm dứt, sau chết chỉ có thiên đàng vĩnh cửu hoặc hỏa ngục đời đời, Jung tin có luân hồi và cái chết chỉ là sự chấm dứt một nhân cách để một nhân cách mới có thể bắt đầu. Lý thuyết về tâm thức/psyche: Jung gói ghém quan điểm lạc quan của ông vào từ tâm thức. Theo Jung, tâm thức là tất cả các hoạt động trong thức cũng như vô thức của con người, tất cả cảm xúc, ý nghĩ, ứng xử, và nó là cái làm cho con người thích ứng được vào môi trường sống. Trong tâm thức có cả phần tâm linh (điều này trái với tư tưởng của Freud) và hiện hữu như một thực thể trọn vẹn/wholeness ngay từ khi con người mới chào đời chứ không phải hình thành dần dần qua học tập. Triệu chứng tâm thần sẽ xảy ra khi tâm thức bị tổn thương hay mất đi, và vì vậy mục tiêu của tâm lý trị liệu là giúp con người phục hồi, duy trì và tăng cường tâm thức để nó đứng vững trước những thách đố của môi trường. Quan điểm này giống như quan điểm nhân chi sơ tính bản thiện của Khổng Tử và Mạnh Tử ở Trung quốc. 11
  12. Tâm thức của Jung chia làm ba thành phần tương tác lẫn nhau: thức/consciousness, vô thức cá nhân/personal unconscious và vô thức tập thể/collective unconscious. Thức là phần người ta biết được. Thức có bốn khả năng: nghĩ/thinking (để tìm hiểu thế giới chung quanh); cảm xúc/feeling (là tất cả kinh nghiệm thức có được do ngũ giác tạo ra); suy luận từ cảm xúc/sensing (để đo lường sự vật trong khuôn khổ vui/buồn, thích/không thích, chấp nhận được/không chấp nhận được); và trực giác/intuting (tức là trạng thái biết về điều gì một cách vô thức, không biết là mình biết). Tùy theo vị trí mạnh yếu của bốn khả năng n ày, con người có những cá tính khác nhau. Năng lực của thức, tức là năng lực của cuộc sống/ libido có hai khuynh hướng khác nhau: hướng ngoại/extroversion và hướng nội/introversion : người có năng lực của thức hướng ngoại là người thích đám đông, thích giao du, làm việc, giải trí với người khác; người có năng lực của thức hướng nội trái lại không thích đám đông, thích làm việc một mình, giải trí một mình. Người hướng ngoại thích hợp với nghề bán hàng, dạy học, hoạt động chính trị, quản lý doanh nghiệp… Người hướng nội là những nghệ sĩ, nhà sáng tác, nghiên cứu… Vì lẽ thức thường có cả hướng ngoại và hướng nội, hai khuynh hướng này có thể được đánh giá theo một thang giá trị theo đường thẳng, một đầu là cực hướng ngoại và đầu kia là cực hướng nội, và tất cả mọi người đều rơi vào khoảng giữa hai cực này. Điều đáng chú ý ở đây là quan điểm của Jung cho năng lực của thức không phải chỉ là năng lực có tính dục tình và bạo động như Freud nghĩ mà bao gồm tất cả các năng lực tích cực cũng như tiêu cực của cuộc sống. Vô thức cá nhân: tương tự vô thức/unconscious hoặc tiền thức/pre-conscious của Freud, tức là tất cả những cảm xúc, ý nghĩ, kinh nghiệm đã được cá nhân dồn nén vào trong vô thức. Theo Jung trong vô thức cá nhân còn có những điều không quan trọng mà chúng ta vất vào đấy. Thức có thể không lôi ra được theo ý muốn những chất chứa trong vô thức, nh ưng những chất chứa đó vẫn hiện hữu và có thể hiện ra bất cứ lúc nào trong thức. Thí dụ cuộc sống vô cùng tất bật căng thẳng của hiện tại tưởng đã làm cho quên hết quá khứ, nhưng một vũng nước bất ngờ trên cánh đồng quanh năm khô ráo ở California có thể mang lại cho một người Mỹ gốc Việt đầy đủ cảm xúc sống động của cả một quãng đời dài với nhiều kỷ niệm trong vùng đồng ruộng Việt Nam. Vô thức tập thể: đây là khác biệt lớn nhất giữa Jung và Freud và cũng là phát kiến quan trọng nhất của Jung. Cũng như đối với những nét đặc thù về thể chất có thể được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, những nét đặc thù của thức cũng có tính cách di truyền. Điều này có nghĩa con người từ khi sinh ra đã có những kinh nghiệm, những phản ứng đối với môi trường y như tổ tiên. Thí dụ chẳng cần phải học hay trải qua kinh nghiệm gì ai cũng biết sợ bóng tối hoặc biết vẻ đẹp của các loài hoa. Nội dung của vô thức tập thể được Jung gọi là archetypes, mỗi archetype là một bộ đối xứng của hai tính cách trái ngược, thí dụ sinh và tái sinh, chết và quyền lực, thiên thần và ác quỷ… Trong các archetypes Jung chú ý nhiều nhất đến bốn archetypes chính sau đây: 12
  13. Mặt nạ/mask: tức là vai trò mọi người thấy được từ mỗi người trong chúng ta. Mặt nạ vừa phô trương vừa che đậy bản chất thật của con người và nó cho phép chúng ta hòa đồng vào cuộc sống. Kim Đồng-Ngọc Nữ/Anima-Animus: là mặt trái của phái tính thức của con người. Phái tính thức là phái tính mỗi người biết được của bản thân mình. Thí dụ phái tính thức của ông A là phái nam vì ông A biết ông ấy có của quý. Bên cạnh phái tính thức còn có phái tính vô thức: mọi người đàn ông đều có Ngọc Nữ/Anima là phái tính vô thức, và mọi người đàn bà đều có Kim Đồng/Animus là phái tính vô thức. Ngọc Nữ biểu hiện cho những gì hời hợt bên ngoài, yếu đuối, không chủ đích, lệ thuộc; Kim Đồng biểu hiện những tính anh hùng, chủ động, dứt khoát, mạnh mẽ. Kim Đồng-Ngọc Nữ hiện hữu trong mọi văn hóa, nhưng, theo Jung, trong văn hóa phương tây, nơi Mặt nạ giữ vai trò khống chế, tình trạng dồn nén Kim Đồng-Ngọc Nữ diễn ra phổ biến hơn. Bóng/Shadow: giống như phần Ác/Id của Freud, Bóng là phần thú vật trong bản chất của con người. Bóng luôn luôn phải được kềm chế để con người có thể sống hòa đồng trong xã hội. Bóng vừa là lực hủy hoại vừa là sức sáng tạo, là nguồn gốc của những cảm xúc sâu xa và chân thật nhất của con người, chính vì vậy nếu Bóng bị đè nén quá sức, nó sẽ phục thù. Khi cái tôi bên ngoài/ego hòa hợp với phần Bóng của nó, con người được lành mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần. Mặt khác khi Bóng lấn lướt cái tôi bên ngoài người ta có thể trở nên điên loạn, điều này giải thích tình trạng những thiên tài điên dại trong xã hội. Chân tâm/the Self: là trung tâm của archetype, là biểu tượng trọn vẹn và cao quý nhất của con người. Giống như trạng thái viên mãn/self actualization của Maslow, mục tiêu tối hậu của tất cả mọi cá nhân là đạt đến chân tâm. Đây là một quá trình kéo dài suốt đời và ngoại trừ đức Phật và đức Chúa Jesus, rất ít người đạt được mục tiêu đó. Mộng: Cũng như Freud, Jung tin mộng là “con đường lớn dẫn vào vô thức”, từ đó có thể hiểu được rất nhiều về cá nhân mỗi người. Khác biệt giữa Jung và Freud là trong khi Freud cho mộng có chức năng chính bù lấp nỗi khao khát đạt được một điều gì đó đã không đạt được trong thực tế, Jung không tin tất cả các giấc mộng đều có chức năng này mà còn có công dụng phục hồi trạng thái hài hòa về tâm lý của con người và tái lập cái tâm thức thăng bằng/the psychic equilibrium vốn rất cần thiết cho cuộc sống bình thường của mọi người. Mộng quan trọng không những cho kiến thức về quá khứ mà cả về tương lai và cùng với đời sống tâm linh, mộng có thể giúp con người đạt được trình độ phát triển cao nhất của bản thân/individuation. Ý nghĩa của các dấu hiệu trong mộng không cố định như Freud tin tưởng, mà có thể thay đổi, và phân tích chuỗi mộng/dream series của cùng một người trong một khoảng thời gian là điều quan trọng. Mặc cảm: 13
  14. Jung cũng bất đồng ý kiến với Freud về khái niệm mặc cảm. Trong khi Freud coi mặc cảm Oedipus là thách đố chính trong quá trình trưởng thành của tất cả mọi người, Jung giải thích mặc cảm như những cái nốt nổi lên trong vô thức, có thể gián tiếp nhận ra được qua những ứng xử khó giải thích của cá nhân. Mặc cảm có thể hiện hữu cả trong thức lẫn vô thức, có thể mang tính cách tích cực cũng như tiêu cực, và chỉ những mặc cảm tiêu cực ảnh hưởng xấu đến ứng xử của con người mới cần chú ý để thay đổi. Ý kiến về tôn giáo: Trong khi Freud chủ trương vô thần, muốn nghiên cứu tôn giáo phải đứng ngoài tôn giáo, và chỉ người không có đức tin mới thực sự hiểu được đức tin, Jung tin t ưởng vào giá trị của khía cạnh tâm linh trong đời sống con người. Khi điều trị một bệnh nhân Mỹ, Rowland Hazard III, mắc bệnh nghiện rượu nặng, không kết quả, Jung đã khuyên bệnh nhân này tìm về biện pháp tâm linh. Bệnh nhân nghe lời Jung và chừa được bệnh nghiện rượu. Hazard chia xẻ kinh nghiệm này với những người nghiện rượu khác trong số có Bill Wilson, sau này trở thành đồng sáng lập viên của hội Những Người Nghiện Rượu Ẩn Danh/Alcoholics Anonymous (AA). Phương pháp 12 bước nổi tiếng của hội này ngày nay được áp dụng cho nhiều bệnh nghiện khác kể cả nghiện cờ bạc, ma túy… tại nhiều nước trên thế giới. Điều đáng chú ý là mặc dù quan điểm tâm linh của Jung đã gián tiếp tạo ra phương pháp 12 bước, giúp được hàng triệu người trên thế giới thoát được nạn nghiện cờ bạc và ma túy qua đức tin tôn giáo, Jung và những người lãnh đạo các hội Ẩn Danh đã là tối tượng chỉ trích nặng nề của phái Thiên Chúa giáo cực hữu vốn không chấp nhận bất cứ đấng cứu rỗi nào ngoài Chúa Trời và con một của ngài là Chúa Giê Su (Jung khuyến khích mọi hình thức tâm linh, mọi hình thức Thượng Đế của mọi tôn giáo, bản thân Jung nghiên cứu và áp dụng Kinh Dịch của Trung quốc trong tâm lý trị liệu). Ngoài ra, tương tự quan điểm luân hồi của Ấn giáo và Phật giáo, Jung không cho cái chết là chấm dứt của sự sống mà chỉ là sự chuyển đổi sang một kinh nghiệm mới về hiện hữu và phát triển (4). Lý thuyết về các triệu chứng bệnh tâm lý/neurosis: Bệnh tâm lý là từ do bác sĩ Tô Cách Lan William Cullen đặt ra từ năm 1769 để mô tả những bệnh và triệu chứng tâm lý không thể giải thích bằng cơ thể học/physiology. Sau Cullen, Freud và Jung là những người xử dụng từ này nhiều nhất và ấn tượng nhất để mô tả t ình trạng những cảm xúc căng thẳng hoặc mâu thuẫn trong vô thức phát ra ngoài dưới hình thức các triệu chứng tâm lý và vật lý khác nhau, trong đó cảm xúc quan trọng nhất là cảm xúc bồn chồn khó chịu vô cớ/anxiety. Trái với bệnh thần kinh/psychosis là những bệnh có triệu chứng ảo giác và ảo tưởng, làm xáo trộn nhân cách/personality, xáo trộn nhận thức về thế giới chung quanh, tổn thương khả năng sống bình thường, thí dụ bệnh tâm thần phân liệt/schizophrenia. Bệnh tâm lý là những bệnh không có triệu chứng ảo giác/hallucination và ảo tưởng/delusion. Triệu chứng bao trùm của bệnh tâm lý là bồn chồn bứt rứt/anxiety. Những bệnh tâm lý thông thường bao gồm bệnh 14
  15. trầm cảm, bệnh ứng xử ám ảnh/obsessive compulsive disorder (thí dụ bệnh ăn cắp/klepto-mania, bệnh nhịn ăn/anorexia, bệnh sợ/phobia…) Bệnh nhân bệnh tâm lý có thể vẫn có khả năng sống và làm việc trong xã hội. Vì tính cách quá tổng quát của nó, danh từ bệnh tâm lý (neorosis) hiện nay không còn được dùng trong cẩm nang thống kê và chẩn đoán bệnh tâm thần DSM mà được thay bằng những bệnh có chẩn đoán cụ thể hơn. Trong phương pháp trị bệnh tâm lý của Jung, trạng thái dồn nén không được chú ý nhiều như trong phương pháp phân tâm của Freud. Jung lưu tâm đến mâu thuẫn giữa các thành phần khác nhau của cá tính con người, đến tương lai và hiện tại, hơn là những ẩn ức bị dồn nén trong quá khứ. Điều trị viên trong phương pháp của Jung giữ vai trò tích cực, chủ động, chứ không thụ động như phương pháp của Freud. Quan điểm chú ý đến phần tâm linh cũng được Jung thể hiện trong liệu pháp của mình. Ngoài ra Jung còn dùng nghệ thuật trong trị liệu: Jung chủ trương nghệ thuật có thể được dùng để làm xoa dịu hoặc chữa lành những chấn thương tâm lý, những nỗi sợ hoặc nỗi bồn chồn bứt rứt của con người. ALFRED ADLER (1870-1937) VÀ TÂM LÝ HỌC CÁ NHÂN/INDIVIDUAL PSYCHOLOGY Bác sĩ, tâm lý gia Áo. Cũng như Jung, Adler thoạt đầu hợp tác với Freud nh ưng đã tách riêng rất sớm (trước Jung hai năm), lập ra một phương pháp tâm lý trị liệu riêng với lý thuyết về nhân cách/personality theory và trở thành một trong những tâm lý gia lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 (5). Và cũng giống như Jung, Adler bác bỏ trọng tâm tình dục của Freud trong nhân cách con người và đề cao bản chất xã hội cao quý của nhân loại. Đối với Adler, những yếu tố ngoại lai như thể chế chính trị, giới tính nam nữ, thứ tự sinh ra trong gia đình, phương pháp giáo dục con cái của cha mẹ… quan trọng không kém những yếu tố nội tại nh ư năng lực sống/libido, hoạt động và ảnh hưởng của thức và vô thức… Sau đây là một số ý chính trong lý thuyết nhân cách của Adler: Mặc cảm tự ti: Con người lúc mới sinh ra luôn luôn không tự lập được ngay mà phải lệ thuộc vào sự chăm sóc của người khác, thường là cha mẹ. Từ đó phát sinh mặc cảm tự ti. Mặc cảm tự ti tạo ra một động lực trong vô thức thúc đẩy con người tìm cách vươn đến trạng thái thắng thế (thường là thắng thế hoặc thua thiệt trong ba lĩnh vực lớn nhất của cuộc sống: xã hội, công việc, và tình dục) để đền bù mặc cảm thua kém. Adler phân tích ba trường hợp có thể xảy ra: - Đền bù đúng mức: tạo ra được một thành công có ích lợi cho cá nhân và xã hội, thí dụ xấu xí như chàng Trương Chi lại phát huy được tiếng sáo tuyệt vời không ai bì kịp. - Đền bù quá mức: con người trở thành quá khích, thí dụ một số đứa trẻ có tính hung hăng thích bắt nạt những đứa nhỏ yếu hơn nó để khắc phục bản chất nhút nhát hèn hạ của chính 15
  16. nó. Một thí dụ khác: người nghèo sài sang quá mức để chứng tỏ mình có đủ khả năng coi nhẹ đồng tiền, không như “bọn nhà giàu keo kiệt”. - Lảng tránh/escape from combat: ngăn ngừa sự thất bại bằng cách viện lý do để không tham gia vào công việc dẫn đến thành công hay thất bại. Thí dụ: tại hôm đó tôi bị ốm phải ở nhà chứ không thì tôi đã đi thi (và đã đậu thủ khoa). Thí dụ khác: người cố ý coi thường, không chú tâm cố gắng làm một việc gì đó để làm nhẹ thất bại mà người đó tin là sẽ diễn ra. Mặc cảm tự ti, và phản diện của nó là mặc cảm tự tôn, giữ một vai trò quan trọng trong tâm lý và ứng xử của con người. Nguyên nhân của nó là bốn yếu tố sau đây: - Khiếm khuyết về thân thể, thí dụ những dị tật bẩm sinh hoặc khuyết tật do tai nạn hay chiến tranh gây ra. - Giới tính: từ tuổi thơ, văn hóa xã hội đã áp đặt những đặc tính khác nhau cho nam và nữ giới. Nam phải cứng rắn, khỏe mạnh…; nữ phải xinh đẹp, dịu dàng, mềm mỏng… Thực tế không phải đứa trẻ trai nào cũng cứng rắn, khỏe mạnh; và không phải đứa trẻ gái nào cũng dịu dàng mềm mỏng, thậm chí còn có nhiều đứa lớn lên trở thành sư tử Hà Đông. Khi đứa trẻ không thể tự nó thỏa mãn được những giá trị do xã hội áp đặt, nó phát sinh mặc cảm tự ti và vô thức bắt nó phải đền bù: thí dụ người phụ nữ có mặc cảm yếu kém sẽ có thể cố gắng tạo ra quyền lực cho mình bằng cách ăn mặc khêu gợi và thái độ lẳng lơ để tạo ra quyền lực qua sự ham muốn về tình dục của đàn ông. - Thứ tự sinh ra trong gia đình: cha mẹ thường đặc biệt chú ý chăm sóc đứa con đầu tiên và đứa bé nhất trong nhà. Khi đứa em ra đời, đứa con đầu lòng đang là thái tử không những bị mất ngôi cao quyền quý mà còn bị đầy xuống làm anh Hai, tức là làm thằng hầu cho các đứa em! Đứa con đầu vì vậy dễ bị các triệu chứng bệnh tâm lý như trầm cảm, bồn chồn, các bệnh về nhân cách/personality disorder (6) như nửa tỉnh nửa điên, nghi ngờ, ứng xử ám ảnh, thù nghịch xã hội… và dễ sinh nghiện hút hay phạm pháp. Trong khi đó đứa con út dễ bị nuông chiều có thể sẽ khó hội nhập thành công vào xã hội khi trưởng thành. Những đứa con giữa vốn không bao giờ được làm thái tử (có phải con đầu lòng đâu mà được làm thái tử?) và cũng không là nạn nhân của bộ đôi độc ác/the twin evils ngược đãi trẻ em phổ biến nhất (cưng chiều quá đáng/bỏ bê không chăm sóc), vì vậy dễ thành công trong cuộc đời trưởng thành, nhưng cũng có thể dễ “nổi loạn” và có những triệu chứng tâm lý phát sinh từ cảm giác không được gia đình quan tâm đúng mức. - Cách nuôi dạy con của cha mẹ: Adler là một trong những nhà tiên phong của việc giáo dục nghệ thuật làm cha mẹ. Theo Adler, những áp lực không chính đáng của cha mẹ để thúc đẩy đứa con phải thành công, cũng như phản ứng của cha mẹ về thành công hay thất bại của đứa con, đều tạo ra mối bồn chồn bứt rứt rất lớn và tai hại, tức là những bệnh tâm lý, cho cả cha mẹ lẫn đứa trẻ. Phát kiến này của Adler, mặc dù đã có gần một thế kỷ, vẫn có thể còn là một bài học mới mẻ cho các bậc cha mẹ ở Á đông trong đó có Việt Nam, nơi cha mẹ thường tạo 16
  17. áp lực rất nặng nề cho việc đỗ đạt của các con để, không phải chỉ vì tương lai đứa trẻ, mà còn vì tự ái của bản thân. Trong khi đó, ở Phần Lan, quốc gia có nền giáo dục và an sinh xã hội xứng đáng làm khuôn mẫu cho cả thế giới, người ta cho trẻ con đi học mẫu giáo đến năm 7 tuổi mới vào lớp một, và toàn bộ chính sách giáo dục nhắm mục tiêu xóa bỏ tinh thần ganh đua và tạo điều kiện cho tất cả mọi học sinh, bất kể khả năng trí tuệ, đều có c ơ hội thành công theo khả năng cao nhất của bản thân trong một mô i trường thoải mái, không căng thẳng, và vì vậy có thể tập trung tất cả năng lực vào việc học thật sự tức là để mở mang trí tuệ, chứ không phải để được điểm hay bằng cấp. Phương cách dạy con đúng đắn theo Adler là tạo cho đứa trẻ một môi trường sống dân chủ và bình đẳng ngay từ trong gia đình. Adler đặc biệt cảnh giác phụ huynh về tác hại của việc kỷ luật trẻ con bằng roi vọt, và về bộ đôi độc ác hành hạ áp bức trẻ em như đã trình bày ở trên. Bệnh tâm lý và phương pháp trị liệu: Theo Adler, tất cả các triệu chứng bệnh tâm lý (như bồn chồn bứt rứt, trầm cảm…) đều là cố gắng của cá nhân để thoát ra khỏi mặc cảm thua kém và đạt được trạng thái ưu việt hơn người khác. Vì vậy để trị bệnh tâm lý, Adler chủ trương giúp người bệnh hiểu được cơ chế hoạt động của tâm thức, có được trí tuệ, lòng can đảm, và niềm tự tin để tồn tại và phát triển một cách lành mạnh bình thường. Điều trị viên theo phương pháp Adler giữ vai trò tích cực, sẵn sàng cung cấp lời khuyên, giúp bệnh nhân thay đổi lối sống, rũ bỏ những mục tiêu giả tạo, thiết lập mục tiêu đúng đắn và thực tế, từ đó không còn mặc cảm thua kém và dứt được triệu chứng bệnh tâm lý. Để dễ dàng thực hiện vai trò tích cực này, Adler là người đầu tiên bỏ cách sắp xếp cổ điển của phái phân tâm: bệnh nhân nằm d ài trên trường kỷ, điều trị viên ngồi phía sau. Phương pháp Adler cho phép bệnh nhân và điều trị viên trở lại hình thức ngồi đối diện trên hai ghế. ----------------------------------------------------------------------------------------------- Chương 2: PHÁI ỨNG XỬ/BEHAVIORAL THERAPY Trái ngược hẳn với phái tương tác tâm lý, phái ứng xử không quan tâm tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa của các triệu chứng tâm lý, mà chỉ chú ý đến các ứng xử có thể quan sát và đo lường được của con người. Dựa trên nghiên cứu của Ivan Pavlov (1849-1936), nhà bác học Nga, và Edward Thorndike (1874-1949), tâm lý gia M ỹ, ứng xử liệu pháp xây dựng trên ảnh hưởng của hai phát kiến sau đây trên ứng xử của con người: điều kiện hóa cổ điển/classical conditioning (Pavlov) và luật hậu quả/ law o f effect nổi tiếng của Thorndike. Điều kiện hóa cổ điển là điều kiện diễn ra trước ứng xử. Thí dụ sau khi nghe tiếng chuông nhiều lần ngay trước khi được cho ăn, con chó sẽ chảy n ước dãi sau khi nghe tiếng chuông mặc dù không được cho ăn. 17
  18. Luật hậu quả (1898) là cách mọi sinh vật học những điều mới: Thorndike nhốt mỗi con mèo đói trong một chuồng có cửa đóng bằng then, bên ngoài cửa là thức ăn. Trung bình lần đầu tiên các con mèo mất khoảng 5 phút để mở được cửa chuồng, lấy được thức ăn và bị bỏ trở lại vào chuồng. Thời gian cần để mở cửa chuồng giảm dần, sau từ 10 đến 20 lần các con mèo chỉ cần trung bình 5 giây đã mở được cửa chuồng. Thorndike kết luận mèo học bằng cách thử nhiều động tác, dần dần những động tác thừa bị loại, chỉ lập đi lập lại những động tác cần thiết mang lại hiệu quả mong muốn. Bốn mươi năm sau khi luật hậu quả ra đời, Burrhus Frederic Skinner (1904 -1990) tâm lý gia lỗi lạc người Mỹ phân biệt điều kiện hóa cổ điển và điều kiện hóa hành động/operant conditioning. Trái với điều kiện hóa cổ điển (sự kiện xảy ra TRƯỚC ứng xử ảnh hưởng đến ứng xử), điều kiện hóa hành động là tình trạng hậu quả của ứng xử (xảy ra SAU ứng xử) ảnh hưởng ngược trở lại ứng xử. Thí dụ nếu mỗi lần chạy vào khu vực sơn màu đen trong chuồng là sẽ bị điện giật, con chuột sẽ tránh không chạy vào khu vực đó. Skinner kết luận ứng xử được quyết định và duy trì do hậu quả của nó. Đây là nền tảng của ứng xử liệu pháp: con người có khuynh hướng duy trì và lập lại những ứng xử mang lại thoải mái, lời khen, sự ngưỡng mộ hoặc các phần thưởng vật chất. Trái lại, sẽ tránh hoặc bỏ những ứng xử không mang lại kết quả tốt đẹp cho bản thân. Skinner phân biệt bốn loại điều kiện hóa hành động: Tăng cường tích cực/positive reinforcement: tạo ra một tình trạng thoải mái, dễ chịu để khuyến khích lập lại một ứng xử nào đó. Thí dụ, người huấn luyện chó cho chó ăn mỗi khi tuân lệnh, con chó sẽ tập được tính kỷ luật. Thí dụ khác: khen thưởng đứa trẻ khi mỗi khi nó đem điểm tốt về nhà, nó sẽ tiếp tục cố gắng chăm học để mang điểm tốt về cho cha mẹ. Tăng cường tiêu cực/negative reinforcement: lấy đi một hậu quả khó chịu hoặc đau đớn để khuyến khích LẬP LẠI một ứng xử nào đó. Thí dụ mỗi lần đi làm về đúng giờ bà vợ không cằn nhằn quạu cọ dai dẳng làm mất vui cả buổi tối. Thôi chấp nhất với nó làm gì, tan sở ba chân bốn cẳng chạy vội về nhà cho nó yên chuyện. Tăng cường tiêu cực thường bị nhầm lẫn với trừng phạt. Trừng phạt/punishment: tạo ra một tình trạng đau đớn, khó chịu để CHẤM DỨT một ứng xử nào đó. Có hai cách trừng phạt, trừng phạt tích cực là tạo ra một hậu quả khó chịu. Thí dụ ở những xã hội văn minh, ánh mắt nhìn của những người chung quanh khiến cho ít ai dám xả rác bừa bãi (đa số người Việt có thói quen xả rác bừa bãi, nhưng khi đi ra nước ngoài thì tất cả đều lập tức bỏ ngay được tập quán lạc hậu đó.) Trừng phạt tiêu cực là lấy đi một kết quả sung sướng dễ chịu để chấm dứt một ứng xử nào đó (khác với tăng cường tiêu cực: tăng cường tiêu cực là lấy đi một hậu quả khó chịu để khuyến khích lập lại một ứng xử nào đó). Thí dụ đứa trẻ khóc quấy để đòi phải được ăn kẹo không đúng lúc, nếu cha mẹ nhất định không nhượng bộ nó sẽ dần dần bỏ được thói xấu đó. Trước đây người ta áp dụng nhiều biện pháp trừng phạt trong nghệ thuật làm cha mẹ (tục ngữ Việt Nam “thương cho roi cho vọt, 18
  19. ghét cho ngọt cho bùi”; những câu có ý nghĩa “cất cái roi đi làm hư đứa trẻ/spare the rod, soil the child” trong kinh thánh: sách Cách Ngôn 13-24, 22-15, 23-13, 23-14, 29-15), ngày nay những biện pháp này từ lâu đã bị coi là lạc hậu vì chúng làm hại đứa trẻ nhiều hơn làm lợi. Tuyệt chủng/extinction: khi một ứng xử không đạt được hậu quả nào, dù là tích cực hay tiêu cực, ứng xử đó sẽ dần dần biến mất. Thí dụ sau nhiều lần tuân lệnh mà không được cho ăn, con chó sẽ mất phản xạ tuân lệnh. Thí dụ khác: đứa trẻ nhõng nhẽo để được cha mẹ chú ý đến, nếu cha mẹ nhất định lơ đi, chỉ cung cấp sự chú ý khi đứa trẻ hết nhõng nhẽo, nó sẽ bỏ được tật nhõng nhẽo. Sau đây là một số phương pháp phổ biến của phái ứng xử: Làm mòn cảm giác/systematic desensitization: dùng để trị những bệnh sợ/phobia hay ứng xử ám ảnh/obsessive compulsive behaviour (thí dụ bệnh ăn cắp/kleptomania). Thí nghiệm của Jones và Watson năm 1924 là một thí dụ cổ điển của phương pháp này: Peter là một em bé 2 tuổi rất sợ thỏ. Jones đặt một con thỏ nhốt trong một cái lồng trên bàn trong lúc Peter được cho ăn trưa. Trong 17 ngày, mỗi ngày Jones đẩy lồng thỏ lại gần Peter một chút, cuối cùng con thỏ được thả ra và ngồi trong lòng Peter và Peter vừa ăn vừa vuốt ve con thỏ. Người mắc bệnh ăn cắp là người ăn cắp vì khao khát cảm giác hồi hộp, sợ bị bắt khi đi ăn cắp, chứ không phải vì nghèo túng. Ở Mỹ thống kê cho biết khoảng 5% những người bị bắt về tội ăn cắp là những người mắc bệnh ăn cắp/kleptomaniac. Nổi tiếng trong số này là những tài tử giàu có và được nhiều người ngưỡng mộ, thí dụ Winona Ryder (hai lần giải Golden Globe và hai lần giải Academy Award): cô đã từng treo giải 200.000 Mỹ kim cho ai cứu được bé gái 12 tuổi Polly Klaas bị bắt cóc ở Petaluma, thị trấn nhà của cô vào năm 1993 (7), nhưng năm 2001 cô bị bắt quả tang ăn cắp một số quần áo trị giá 5.500 Mỹ kim ở Fifth Saks Avenue, một tiệm quần áo đắt tiền ở Beverly Hills. Người mắc bệnh ăn cắp khao khát cảm giác mạnh của hành vi hành ăn cắp đến nỗi nếu không được sống trong tình huống hồi hộp cao độ của hành vi đó thì bồn chồn bứt rứt không thể chịu đ ược. Bệnh nhân có thể được điều trị bằng cách dẫn vào nơi hay ăn cắp (cửa hàng bách hóa, chợ…), mới đầu đi bên cạnh điều trị viên, sau nhiều lần sẽ đi cách điều trị viên vài bước, rồi cách xa dần. Tùy theo tiến bộ của bệnh nhân, điều trị viên sẽ cùng đi vào cửa hàng với bệnh nhân nhưng mỗi người đi một ngả. Sau cùng bệnh nhân sẽ vào cửa hàng một mình, điều trị viên chờ ở ngoài… Tùy theo tình trạng của mỗi bệnh nhân, thời gian điều trị có thể kéo dài hàng năm (mỗi tuần gặp điều trị viên một lần 55 phút). Phương pháp này cần có sự chuẩn bị thích đáng để đề ph òng trường hợp bệnh nhân không tự kiểm soát đ ược, tái phạm hành vi ăn cắp và điều trị viên có thể bị kết tội đồng lõa (ngồi chờ ở ngoài bãi đậu xe). Điều đáng chú ý ở đây là phương pháp phân tâm của Freud coi bệnh ăn cắp là một loại bệnh bệnh tâm lý và điều trị bằng cách giúp bệnh nhân tìm đến nguyên nhân sâu xa là những ẩn ức bị dồn nén vào vô thức từ quá khứ, bộc lộ nó ra và giải quyết nó một cách thỏa đáng để hết ẩn ức. Thí dụ đứa trẻ nào cũng có một thời kỳ khao khát mạnh mẽ được cha mẹ chú ý đến, nhưng bệnh nhân không được thỏa mãn khát vọng này một cách chính đáng, chỉ được cha mẹ chú ý khi nó có hành vi hư hỏng 19
  20. hay quậy phá (con nó ngoan rồi còn gì phải nói nữa!). Khi lớn lên hoàn cảnh sống thực tế không cho phép nó quậy phá để được chú ý, cho nên cơ chế tự vệ giúp nó dồn khát vọng này vào vô thức. Đến một lúc nào đó triệu chứng bệnh sẽ hiện ra vì khát vọng của bệnh nhân đã không được thỏa mãn một cách xuông xẻ từ đầu. Khuyến khích/reinforcement: có hai cách khuyến khích. Khuyến khích tích cực và khuyến khích tiêu cực. Như đã trình bày ở trên, khuyến khích tích cực là tạo ra một hậu quả sung sướng dễ chịu để khuyến khích lập lại một ứng xử nào đó. Thí dụ khen đứa trẻ mỗi lần nó nói năng lễ phép, đứa trẻ sẽ tiếp tục lễ phép. Phương pháp này hiệu quả lâu dài hơn phương pháp mắng chửi hay trừng phạt đứa trẻ khi nó hỗn láo. Khuyến khích tiêu cực là lấy đi một hậu quả sung sướng dễ chịu để khuyên khích lập lại một ứng xử nào đó. Thí dụ không chú ý đến đứa bé khi nó đòi được chú ý một cách không đúng đắn (khóc quấy, làm mình làm mẩy…) Làm gương/modeling: tập cho đứa trẻ (hay người lớn) một cách ứng xử tốt hơn cách ứng xử cũ bằng cách diễn ứng xử đó để đối tượng quan sát và bắt chước. Thí dụ: muốn đứa trẻ kính trọng cha mẹ thì cha mẹ kính trọng ông bà, nói năng lễ phép với ông bà. Ngập lụt/flooding: giống phương pháp làm mòn cảm giác nhưng được thực hiện với nhịp độ nhanh chóng. Thí dụ người sợ đám đông được thực sự dẫn đến hay hướng dẫn tưởng tượng mình đang đi chợ Tết đông nghẹt người. Thí dụ khác: người mắc bệnh sợ nước/aquaphobia được quăng xuống hồ bơi (nhớ chọn chỗ sâu đến bụng thôi và bố trí người khác đứng sẵn dưới nước để đề phòng trường hợp bệnh nhân bị panic attack và tê liệt chân tay). Thư giãn/relaxation: để chống căng thẳng và cảm giác bồn chồn bứt rứt. Chương 3: PHÁI TRI THỨC JEAN PIAGET (1896-1980) VÀ THUYẾT PHÁT TRIỂN TRI THỨC/COGNITIVE DEVELOPMENT THEORY Piaget, tâm lý gia Thụy Sĩ, là người có đóng góp lớn nhất vào kiến thức của nhân loại về sự phát triển của trí khôn. Qua nhiều chục năm quan sát ứng xử của trẻ con, kể cả các con của bản thân ông, trong môi trường sống tự nhiên chứ không chỉ thuần túy trong các môi trường thí nghiệm, Piaget đề ra lý thuyết tri thức của con người bao gồm những đơn vị căn bản mà Piaget gọi là schema. Schema là nơi lưu trữ những kiến thức đã thu nhận được và là nền tảng cho sự học hỏi thêm những kiến thức mới. CẤU TRÚC CỦA TRI THỨC 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2