Giới thiệu đất nước - con người Brasil<br />
Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Brasil, phiên âm tiếng Việt: Bra-xin, Hán Việt: Ba Tây), tên gọi<br />
chính thức là Cộng hòa Liên bang Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: República Federativa do<br />
Brasil).<br />
Brasil là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ. Brasil là quốc gia có diện tích rộng thứ 5 thế giới<br />
và dân số cũng đứng hàng thứ 5 thế giới. Nước này tiếp giáp với hầu hết các quốc gia và vùng<br />
lãnh thổ ở Nam Mỹ: giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp về phía bắc,<br />
Colombia về phía tây bắc, Bolivia và Peru về phía tây, Argentina và Paraguay về phía tây nam<br />
và Uruguay về phía nam. Phía đông Brasil là một đường bờ biển dài tiếp giáp với Đại Tây<br />
Dương.<br />
<br />
Phần lớn diện tích Brasil nằm giữa đường xích đạo và chí tuyến nam nên có khí hậu nhiệt đới<br />
nóng ẩm. Đó là điều kiện hình thành nên một hệ động thực vật rất phong phú tại Brasil. Dân cư<br />
Brasil tập trung chủ yếu ở những vùng duyên hải và những vùng đô thị lớn trong nội địa.<br />
Brasil từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha trong quá khứ cho đến năm 1822 khi nước này trở<br />
thành một quốc gia độc lập. Ngày nay, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang.<br />
Brasil hiện là nước có thu nhập trung bình và đồng thời là nền kinh tế lớn nhất khu vực Mỹ<br />
Latinh.<br />
Brasil còn là nước duy nhất tại Nam Mỹ nói tiếng Bồ Đào Nha và nước này có số dân theo đạo<br />
Thiên Chúa lớn nhất thế giới. Về mặt văn hóa, Brasil rất nổi tiếng với lễ hội Carnaval sôi động<br />
và là một cường quốc trong môn thể thao bóng đá.<br />
<br />
Brasil thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 8 tháng 5 năm<br />
1989[1].<br />
<br />
Lịch sử<br />
Thời kỳ Tiền Colombo<br />
Những hóa thạch được tìm thấy tại Brasil là bằng chứng về việc con người đã đến định cư tại<br />
vùng đất này ít nhất 8000 năm về trước[2]. Tuy nhiên câu hỏi về việc ai là người đầu tiên đến<br />
Brasil vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.<br />
Nhìn chung các nhà khảo cổ học cho rằng đó là những thợ săn người châu Á di cư qua eo biển<br />
Bering qua Alaska, xuống châu Mỹ rồi đến Brasil. Tuy nhiên một số nhà khảo cổ khác lại cho<br />
rằng những cư dân cổ hơn tại Brasil có nguồn gốc gần với người châu Úc và châu Phi bản địa.<br />
<br />
Trong khi người da đỏ phía tây dãy núi Andes phát triển những quốc gia thành thị có nền văn<br />
hóa cao, tiêu biểu như Đế chế Inca ở Peru thì người da đỏ ở Brasil lại sống theo hình thức bán du<br />
mục gồm săn bắn, đánh bắt cá và trồng trọt. Họ không có chữ viết hay xây dựng những công<br />
trình kiến trúc quy mô cho nên việc tìm hiểu về họ rất khó khăn, chủ yếu là qua đồ gốm. Khi<br />
người châu Âu tìm ra Brasil, mật độ thổ dân ở Brasil rất thấp, dân số chỉ khoảng 1 triệu người.<br />
Ngày nay, thổ dân da đỏ ở Brasil một phần bị lai với các chủng tộc khác hoặc sống nguyên thủy<br />
trong những rừng Amazon.<br />
Thuộc địa Brasil<br />
Brasil được khám phá bởi nhà thám hiểm Pedro Álvares Cabral người Bồ Đào Nha vào ngày 22<br />
tháng 4 năm 1500.<br />
Thời gian đầu, người Bồ Đào Nha không mấy mặn mà với Brasil mà tập trung nhiều hơn vào các<br />
hoạt động thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia.<br />
Với nguồn tài nguyên và đất đai chưa khai phá hết sức lớn, nhiều nước châu Âu khác như Pháp<br />
và Hà Lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ Đào<br />
Nha.<br />
Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng đất này: cây vang<br />
(trong tiếng Bồ Đào Nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu<br />
đỏ. Sang thế kỉ 17, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực<br />
của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ Đào Nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn<br />
và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người<br />
da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi<br />
nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia [3]song thường không thành công.<br />
<br />
Đế chế Brasil<br />
Vào năm 1808, để chạy trốn khỏi quân đội Napoléon, hoàng gia Bồ Đào Nha cùng chính phủ đã<br />
di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là sự di cư xuyên lục địa của một<br />
hoàng tộc duy nhất trong lịch sử.<br />
<br />
Năm 1815, vua João VI (Jean IV) của Bồ Đào Nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất<br />
với Bồ Đào Nha và Algarve (nay là miền nam Bồ Đào Nha). Từ đó, về mặt danh nghĩa thì Brasil<br />
không còn là một thuộc địa nữa nhưng quyền nhiếp chính thì vẫn nằm trong tay của Bồ Đào<br />
Nha. Khi João VI trở về Bồ Đào Nha vào năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua<br />
Brasil.<br />
Ngày 7 tháng 9 năm 1822, trước phong trào đấu tranh của người dân, Pedro đã tuyên bố Brasil ly<br />
khai khỏi Bồ Đào Nha ("Độc lập hay là Chết") và thành lập Đế chế Brasil độc lập. Vua Pedro tự<br />
phong danh hiệu Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Predo.<br />
Hoàng đế Pedro I trở về Bồ Đào Nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia<br />
Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới 14 tuổi sau 9 năm chế độ nhiếp<br />
chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi<br />
ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa.<br />
Trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, vua Pedro II đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại<br />
Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại<br />
bỏ khỏi ngai vàng<br />
<br />
Nền Cộng hòa cũ (1889-1930)<br />
Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của<br />
những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành<br />
tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil.<br />
Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil (đến năm 1967 thì đổi lại<br />
thành Cộng hòa Liên bang Brasil như ngày nay). Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến năm<br />
1930, Brasil là một quốc gia với chính phủ theo thể chế dân chủ lập hiến, với chức tổng thống<br />
luân phiên giữa hai bang lớn là Sao Paulo và Minas Gerais.<br />
<br />
Đến cuối thế kỉ 19, cà phê đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil thay cho đường<br />
mía. Việc buôn bán cà phê với nước ngoài đã làm nên sự thịnh vượng của Brasil về mặt kinh tế,<br />
đồng thời cũng thu hút một số lượng đáng kể người nhập cư đến từ các quốc gia châu Âu, chủ<br />
yếu là Italia và Đức.<br />
Dân số tăng lên cùng với nguồn nhân công dồi dào đã cho phép đất nước Brasil phát triển các<br />
ngành công nghiệp và mở rộng lãnh thổ vào sâu hơn trong lục địa.<br />
Thời kỳ này, với tên gọi là "Nền Cộng hòa cũ" kết thúc vào năm 1930 do một cuộc đảo chính<br />
quân sự mà sau đó Getulio Vargas lên chức tổng thống.<br />
<br />
Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964)<br />
Getulio Vargas lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của giới quân sự năm 1930. Ông đã cai trị<br />
Brasil như một nhà độc tài với những thời kỳ dân chủ xen kẽ. Sau năm 1930, chính phủ Brasil<br />
vẫn tiếp tục thành công trong các dự án phát triển nông nghiệp, công nghiệp và mở mang vùng<br />
lãnh thổ nội địa rộng lớn của Brasil.<br />
<br />
Tổng thống Getulio Vargas đã cai trị như một nhà độc tài trong hai nhiệm kỳ 1930-1934 và<br />
1937-1945. Ông tiếp tục được bầu làm tổng thống Brasil trong khoảng thời gian 1951-1954.<br />
Getulio Vargas đã có những ý tưởng mới về nền chính trị của Brasil để thúc đầy hơn nữa sự phát<br />
triển đất nước. Ông hiểu rằng trong bối cảnh nền công nghiệp đang phát triển mạnh tại Brasil lúc<br />
bấy giờ, những người công nhân sẽ trở thành một thế lực chính trị đông đảo tại đây, kèm theo<br />
một hình thức quyền lực chính trị mới - chủ nghĩa dân túy.<br />
<br />
Nắm bắt được điều đó, tổng thống Vargas đã kiểm soát nền chính trị của Brasil một cách tương<br />
đối ổn định trong vòng 15 năm đến khi ông tự tử vào năm 1954.<br />
<br />
Sau hai giai đoạn độc tài dưới thời tổng thống Getulio Vargas, nhìn chung chế độ dân chủ đã<br />
chiếm ưu thế tại Brasil trong khoảng thời gian 1945-1964. Một trong những sự kiện quan trọng<br />
diễn ra trong thời kỳ này là thủ đô của Brasil được chuyển từ thành phố Rio de Janeiro sang<br />
thành phố Brasilia.<br />
<br />
Chế độ độc tài quân sự (1964-1985)<br />
Những khủng hoảng về mặt kinh tế, xã hội đã dẫn tới cuộc đảo chính của giới quân sự vào năm<br />
1964. Cuộc đảo chính đã nhận được sự giúp đỡ một số chính trị gia quan trọng, ví dụ như José<br />
de Magalhães Pinto, thống đốc bang Minas Gerais và nhận được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ.<br />
Sau cuộc đảo chính, một giai đoạn độc tài quân sự được thiết lập tại Brasil trong vòng 21 năm<br />
với việc quân đội kiểm soát toàn bộ nền chính trị của đất nước.<br />
<br />
Trong những năm đầu tiên sau đảo chính, kinh tế Brasil vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh do các<br />
chính sách cải cách kinh tế được ban hành. Nhưng sau đó, những cải cách này đã không phát huy<br />
được tác dụng và khiến nền kinh tế Brasil lâm vào tình trạng khó khăn. Nợ nước ngoài tăng lên<br />
nhanh chóng trong khi hàng ngàn người Brasil bị chính phủ độc tài quân sự trục xuất, bắt giữ, tra<br />
tấn và thậm chí bị giết hại.<br />
<br />
Brasil từ năm 1985 đến nay<br />
Năm 1985, Brasil bắt đầu quay trở lại tiến trình dân chủ. Tancredo Neves được bầu làm tổng<br />
thống nhưng ông đã qua đời trước khi tuyên thệ nhậm chức, phó tổng thống Jose Sarney được cử<br />
lên thay thế.<br />
<br />
Vào tháng 12 năm 1989, Fernando Collor de Mello được bầu làm tổng thống và ông đã dành<br />
những năm đầu tiên của nhiệm kỳ để khắc phục tình trạng siêu lạm phát của Brasil, lúc bấy giờ<br />
đã đạt mức 25% mỗi tháng.<br />
<br />
Những tổng thống kế nhiệm ông đã tiếp tục duy trì các chính sách kinh tế mở như tự do thương<br />
mại và tiến hành tư nhân hóa các xí nghiệp của nhà nước[4].<br />
<br />
Tháng 1 năm 1995, Fernando Henrique Cardoso nhậm chức tổng thống Brasil sau khi đánh bại<br />
ứng cử viên cánh tả Lula da Silva. Ông đã có những kế hoạch cải cách kinh tế hiệu quả và đưa<br />
Brasil vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998.<br />
Năm 2000, tổng thống Condor đã yêu cầu phải công khai những tài liệu về mạng lưới các chế độ<br />
độc tài quân sự tại Nam Mỹ.<br />
Ngày nay, một trong những vấn đề khó khăn nhất của đất nước Brasil là sự bất bình đẳng trong<br />
thu nhập cũng như nhiều vấn đề xã hội nhức nhối khác. Vào thập niên 1990, vẫn còn khoảng một<br />
phần tư dân số Brasil sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày. Những căng thẳng về xã hội và kinh<br />
tế này đã giúp ứng cử viên cánh tả Lula de Silva thắng cử tổng thống vào năm 2002.<br />
Sau khi nhậm chức, các chính sách kinh tế dưới thời tổng thống Cardoso vẫn được duy trì[5].<br />
Mặc dù có một vài tai tiếng trong chính phủ song nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo của tổng<br />
thống Silva đã thu được thành công nhất định.<br />
<br />
Ông đã nâng mức lương tối thiểu từ 200 real lên 350 real trong vòng 4 năm, xây dựng chương<br />
trình Fome Zero (Không có người đói) để giải quyết nạn đói trong tầng lớp người nghèo tại<br />
Brasil. Những chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và sự phụ thuộc vào dầu lửa cũng đã mang<br />
lại hiệu quả tích cực.<br />
<br />
Chính trị<br />
Chính phủ<br />
Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4<br />
thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang[6].<br />
Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Chính quyền<br />
Brasil được chia thành các nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp.<br />
<br />
Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh<br />
cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị,<br />
trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang.<br />
Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả<br />
chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên.<br />
Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được<br />
phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của của nước này là ông Luiz<br />
Inacio Lula da Silva, đắc cử ngày 27 tháng 10 năm 2002 và được tái bầu lại vào ngày 29 tháng<br />
12 năm 2006.<br />
<br />
Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc<br />
điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện<br />
và hạ viện.<br />
Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên<br />
bang (thủ đô) và có nhiệm kỳ 8 năm. Hạ viện có tổng cộng 513 ghế, được bầu cử theo nhiệm kỳ<br />
4 năm và phân bố theo tỉ lệ bang.<br />
Một trong những nguyên tắc chính trị của nền cộng hòa là hệ thống đa đảng, như một sự đảm<br />
bảo về tự do chính trị. Hiện nay có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong Quốc hội<br />
Brasil.<br />
<br />
Bốn đảng lớn nhất hiện nay là Đảng Công nhân Brasil (PT), Đảng Dân chủ Xã hội Brasil<br />
(PSDB), Đảng Vận động Dân chủ Brasil (PMDB) và Đảng Dân chủ (tiền thân là Đảng Mặt trận<br />
Tự do - PFL).<br />
<br />
Luật pháp<br />
Luật pháp của Brasil dựa trên luật La Mã - Germania truyền thống[7]. Hiến pháp Liên bang,<br />
được thông qua vào ngày 5 tháng 10 năm 1988 là bộ luật cơ bản nhất của Brasil. Tất cả những<br />
quyết định của nhánh lập pháp và tòa án đều phải dựa trên Hiến pháp Brasil.<br />
Các bang của Brasil đều có hiến pháp riêng của bang mình, nhưng không được trái với Hiến<br />
pháp Liên bang. Các chính quyền thành phố và quận liên bang không có hiến pháp riêng mà có<br />
bộ luật của riêng mình, gọi là luật cơ bản (leis orgânicas).<br />
<br />
Quyền lực pháp lý được thực thi bởi nhánh tư pháp, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt<br />
Hiến pháp Brasil cũng cho phép Thượng viện Liên bang thông qua những quyết định về mặt luật<br />
pháp.<br />
Cơ quan quyền lực cao nhất trong ngành tư pháp của Brasil là Tòa án Liên bang Tối cao. Tuy<br />
nhiên hệ thống tư pháp của Brasil bị chỉ trích làm việc kém hiệu quả trong vài thập kỉ qua trong<br />
việc thực hiện nốt các bước cuối của việc xét xử. Các vụ kiện cáo thường mất tới vài năm để giải<br />
quyết và đi đến phán quyết cuối cùng<br />
<br />
Quan hệ ngoại giao và quân đội<br />
Brasil là quốc gia dẫn đầu khu vực Mỹ Latinh về chính trị và kinh tế[9]. Tuy nhiên, những bất ổn<br />
về kinh tế và xã hội trong lòng Brasil đã ngăn cản nước này tiến lên và trở thành một cường quốc<br />
có ảnh hưởng lớn trên thế giới.<br />
Trong suốt giai đoạn từ sau Thế chiến thứ hai đến thập niên 1990, các chính phủ Brasil đều tìm<br />
cách mở rộng ảnh hưởng của nước này ra tầm quốc tế bằng cách tập trung phát triển kinh tế và<br />
có một chính sách ngoại giao độc lập.<br />
Những năm gần đây, Brasil ngày càng tăng cường quan hệ với các nước Mỹ Latinh láng giềng,<br />
đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc. Chính sách ngoại giao<br />
của Brasil là có quan điểm hòa bình trong các vấn đề tranh chấp quốc tế và không can thiệp vào<br />
tình hình nước khác.<br />
<br />
Brasil là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế<br />
giới và Khối Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur)...<br />
<br />
Quân đội Brasil bao gồm 3 bộ phận chính là lục quân, hải quân và không quân. Lực lượng cảnh<br />
sát được coi là một nhánh của quân đội trong hiến pháp nhưng nằm dưới sự chỉ huy của mỗi<br />
bang. Brasil là quốc gia có lực lượng quân đội lớn nhất Mỹ Latinh, với tổng quân số là 287.000<br />
quân nhân vào năm 2006.<br />
Tổng thống Brasil cũng là tổng chỉ huy quân đội của nước này. Chi phí cho quân sự của Brasil<br />
năm 2006 ước tính đạt khoảng 2,6% GDP. Brasil có chế độ nghĩa vụ quân sự dành cho nam giới<br />
tuổi từ 21-45, kéo dài trong khoảng 9 đến 12 tháng, còn tự nguyện thì tuổi từ 17-45.<br />
Tuy nhiên, với một nước có dân số lớn như Brasil thì đa phần nam giới nước này không phải gọi<br />
nhập ngũ. Brasil là nước đầu tiên tại Nam Mỹ chấp nhận phụ nữ phục vụ trong quân ngũ vào<br />
thập niên 1980[10]. Vai trò chủ yếu của quân đội Brasil là bảo vệ chủ quyền quốc gia và tham<br />
gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại nước ngoài.<br />
<br />
Phân chia hành chính<br />
Các vùng<br />
Lãnh thổ Brasil được chia thành năm vùng riêng biệt: Bắc, Đông Bắc, Trung Tây, Đông Nam và<br />
Nam.<br />
* Vùng Bắc chiếm 45,27% lãnh thổ Brasil nhưng lại là vùng có số lượng dân cư thấp nhất.<br />
Vùng Bắc có mức độ công nghiệp hóa và phát triển thấp (ngoại trừ Manaus, là nơi có một khu<br />
công nghiệp miễn thuế). Đây là nơi có nhiều rừng mưa nhiệt đới xanh tốt và nơi cư trú của một<br />
số lượng lớn người da đỏ.<br />
<br />
* Vùng Đông Bắc chiếm một phần ba dân số Brasil. Vùng này có nền văn hóa đa dạng, bao<br />
gồm những ảnh hưởng văn hóa thời thuộc địa Bồ Đào Nha, văn hóa châu Phi và văn hóa thổ dân<br />
da đỏ. Đây cũng là vùng nghèo nhất Brasil. Vùng Đông Bắc có mùa khô kéo dài và nhiều bãi<br />
biển đẹp nổi tiếng.<br />
<br />
* Vùng Trung Tây là vùng có diện tích lớn thứ hai tại Brasil, nhưng mật độ dân số lại thấp.<br />
Thủ đô của Brasil - thành phố Brasília, thuộc vùng này. Đây là nơi có đầm lầy Pantanal lớn nhất<br />
thế giới và một phần của rừng mưa Amazon nằm ở phía tây bắc.<br />
Về khí hậu, vùng này có hai mùa riêng biệt: mùa mưa (từ tháng 10 tới tháng 4) và mùa khô (từ<br />
tháng 5 tới tháng 9). Đây cũng là vùng nông nghiệp quan trọng nhất đất nước. Các thành phố lớn<br />
nhất là: Brasilia, Goiania, Campo Grande và Cuiaba.<br />
<br />
* Vùng Đông Nam là vùng giàu có tài nguyên và đông dân nhất nước. Riêng dân số vùng này<br />
đã lớn hơn dân số của bất kỳ một nước Nam Mỹ nào khác. Đây là nơi có hai thành phố lớn nhất<br />
của Brasil: Rio de Janeiro và Sao Paulo. Cảnh quan vùng này khá đa dạng, với trung tâm thương<br />
mại chủ yếu của đất nước là São Paulo, thành phố lịch sử Minas Gerais và bãi biển Rio de<br />
Janeiro nổi tiếng.<br />
<br />
* Vùng Nam là vùng giàu có nhất tại Brasil (tính theo GDP bình quân đầu người), với tiêu<br />
chuẩn sống tốt nhất cả nước. Đây cũng là vùng lạnh nhất Brasil, thỉnh thoảng có thể xuất hiện<br />
băng giá và tuyết ở một số vùng cao.<br />
Vùng này có nhiều người nhập cư Châu Âu sinh sống, chủ yếu là con cháu người Đức, người Ý<br />
và người Slav, mang theo những ảnh hưởng rõ rệt về văn hóa quê hương cũ của họ. Các thành<br />
phố lớn nhất là Curitiba và Porto Alegre.<br />
<br />
Các bang<br />
Brasil được tổ chức theo hình thức liên bang. Các bang của Brasil (estado) có quyền tự tổ chức<br />
chính phủ, pháp luật, duy trì an ninh công cộng và thu thuế. Chính phủ bang do một thống đốc<br />
bang (governador) đứng đầu, được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Ngoài ra còn có một<br />
cơ quan lập pháp riêng của bang (assembléia legislativa).<br />
<br />
Brasil gồm 26 bang và 1 quận liên bang (distrito federal), tổng cộng là 27 đơn vị liên bang. Quận<br />
liên bang của Brasil bao gồm thủ đô của nước này, Brasilia.<br />
<br />
Mỗi bang lại được chia thành nhiều hạt (municípios) với hội đồng lập pháp (câmara de<br />
vereadores) và một thị trưởng (prefeito) riêng. Các hạt này có quyền tự trị và về mặt hệ thống là<br />
độc lập với cả liên bang và chính phủ bang. Một hạt có thể gồm các thị trấn (distritos) khác bên<br />
cạnh khu vực, tuy nhiên các khu đô thị tự trị này không có chính phủ riêng biệt.<br />
<br />
Lãnh thổ và địa hình<br />
Brasil là một quốc gia rộng lớn. Tổng diện tích của nước này là 8.511.965 km², chiếm tới một<br />
nửa diện tích lục địa Nam Mỹ. Lãnh thổ Brasil tiếp giáp với các quốc gia và vùng lãnh thổ là<br />
Argentina, Bolivia, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Paraguay, Peru, Suriname, Uruguay<br />
và Venezuela. Brasil có quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga,<br />
Canada, Mỹ và Trung Quốc. Lãnh thổ nước này trải dài trên 4 múi giờ khác nhau. Brasil còn có<br />
một đường bờ biển dài 7367 km tiếp giáp với Đại Tây Dương.<br />
Về địa hình, Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước<br />
này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại<br />
Tây Dương.<br />
<br />
Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước và đồng thời là con sông<br />
dài thứ hai trên thế giới. Lưu vực sông Amazon rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những<br />
cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Ngoài ra<br />
còn phải kể đến hệ thống sông Parana và phụ lưu của nó, sông Iguacu, nơi có thác nước Iguacu<br />
nổi tiếng.<br />
Bên cạnh đó còn có các sông Negro, Sao Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo<br />
và đảo san hô trên Đại Tây Dương cũng thuộc chủ quyền của Brasil.<br />
Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên nhìn chung ta có thể chia địa<br />
hình của Brasil ra làm hai vùng chính. Phần lớn lãnh thổ ở phía bắc của Brasil là những vùng đất<br />
thấp được che phủ bởi rừng Amazon. Trong khi đó, phía nam của nước này có địa hình chủ yếu<br />
lại là đồi và những vùng núi thấp<br />
<br />
Vùng bờ biển giáp Đại Tây Dương có nhiều dãy núi cao, có độ cao so với mặt nước biển là 2900<br />
m. Đỉnh núi cao nhất Brasil là đỉnh Pico da Neblina, cao 3.014 m thuộc cao nguyên Guiana.<br />
<br />
Khí hậu<br />
Phần lớn diện tích Brasil nằm trong khoảng từ xích đạo cho đến đường chí tuyến nam. Mặc dù<br />
90% lãnh thổ Brasil nằm trong vùng nhiệt đới nhưng giữa vùng này với vùng khác trên đất nước<br />
vẫn có những sự khác biệt khá lớn về khí hậu.<br />
Từ bắc xuống nam, khí hậu Brasil chuyển dần từ khí hậu nhiệt đới (giữa chí tuyến nam và xích<br />
đạo) cho đến khí hậu cận nhiệt tương đối ôn hòa (nằm dưới chí tuyến nam). Brasil có tổng cộng<br />
năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới.<br />
Nhiệt độ trung bình năm quanh đường xích đạo khá cao, trung bình đạt khoảng 25 °C[11]. Tuy<br />
nhiên trong những ngày nóng bức nhất của mùa hạ, nhiệt độ tại một số vùng của Brasil có thể lên<br />
tới 40 °C[12].<br />
Miền nam Brasil có khí hậu tương đối cận nhiệt đới và có thể có sương giá về mùa đông. Tuyết<br />
rơi có thể xảy ra ở những vùng núi cao như Rio Grande do Sul hay Santa Catarina. Lượng mưa<br />
tại Brasil nhìn chung tương đối cao, khoảng 1000 đến 1500 mm mỗi năm.<br />
Mưa tập trung nhiều hơn tại vùng lòng chảo Amazon nóng ẩm ở phía bắc, nơi lượng mưa có thể<br />
lên đến 2000 mm mỗi năm hoặc thậm chí cao hơn. Tuy có một lượng mưa hàng năm lớn như vậy<br />
song khu vực này cũng có mùa khô, kéo dài từ 3 tháng đến 5 tháng tùy theo vĩ độ.<br />
Do nằm tại Nam bán cầu nên thời gian các mùa trong năm tại Brasil ngược lại so với các nước<br />
Bắc bán cầu. Mùa hạ ở đây kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, còn mùa đông lại nằm trong khoảng<br />
từ tháng 5 đến tháng 11.<br />
<br />
Trên thực tế, ở những vùng nằm gần xích đạo, sự chênh lệch về mùa gần như không đáng kể với<br />
khí hậu nóng ẩm quanh năm, trong khi những vùng có khí hậu nhiệt đới thường chỉ có mùa mưa<br />
và mùa khô. Tại vùng có khí hậu cận nhiệt ở phía nam, thời tiết chia ra đủ 4 mùa xuân, hạ, thu,<br />
đông. Brasil cũng thường phải hứng chịu những trận bão lớn từ Đại Tây Dương đổ vào.<br />
<br />
Môi trường<br />
Brasil là quốc gia có độ đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, hơn hẳn so với mọi quốc gia<br />
khác[13]. Nước này có số lượng động vật có vú nhiều nhất trên thế giới, đứng thứ nhì về tổng số<br />
các loài lưỡng cư và bướm, thứ ba thế giới về các loài chim và thứ năm thế giới về các loại bò<br />
sát. Rừng nhiệt đới Amazon là ngôi nhà của nhiều loài thực vật và động vật độc đáo tại Brasil.<br />
Về thực vật, ở Brasil người ta đã phát hiện được hơn 55.000 loài, xếp thứ nhất trên thế giới và<br />
30% trong số đó là những loài thực vật đặc hữu của Brasil. Khu vực Rừng Đại Tây Dương là nơi<br />
tập trung rất nhiều các loài thực vật khác nhau, bao gồm các loài nhiệt đới, cận nhiệt đới và rừng<br />
ngập mặn.<br />
Vùng Pantanal là một vùng đất ẩm và là nhà của khoảng 3500 loài thực vật trong khi Cerrado là<br />
một trong những vùng savan đa dạng nhất trên thế giới. Về động vật, Brasil nổi tiếng với các loài<br />
báo jaguar, báo sư tử, thú ăn kiến, cá piranha, loài trăn khổng lồ anaconda... và rất nhiều các loài<br />
linh trưởng, chim và côn trùng khác chỉ có tại đất nước này.<br />
<br />
Tuy nhiên trong mấy thập kỉ trở lại đây, sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số quá mức[cần dẫn<br />
nguồn] đang có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của Brasil. Sự phá rừng lấy gỗ<br />
và đất canh tác, bao gồm cả hợp pháp và bất hợp pháp đang tàn phá những khu rừng lớn tại nước<br />
này, đe dọa gây ra những thảm họa nghiêm trọng về môi trường.<br />
<br />
Từ năm 2002 đến năm 2006, rừng Amazon đã bị mất đi một phần diện tích xấp xỉ nước Áo[14].<br />
Dự kiến đến năm 2020, ít nhất 50% các loài sinh vật tại Brasil sẽ đứng trước bờ vực tuyệt<br />
chủng[14].<br />
<br />
Trước tình hình này, chính phủ Brasil đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo về môi trường.<br />
Một mạng lưới các khu vực bảo vệ đã được thiết lập trên diện tích hơn 2 triệu km² (khoảng một<br />
phần tư diện tích Brasil) để bảo vệ những vùng rừng và các hệ sinh thái tại nước này. Tuy nhiên<br />
công tác bảo vệ môi trường tại Brasil cũng gặp rất nhiều khó khăn.<br />
<br />
Kinh tế<br />
Sở hữu nền nông nghiệp, khai mỏ, gia công và lĩnh vực dịch vụ lớn ở mức độ phát triển cao,<br />
cũng như một lực lượng lao động dồi dào, GDP (theo sức mua tương đương) của Brasil vượt xa<br />
nhiều quốc gia Mỹ Latinh khác, và là nền kinh tế chủ chốt của khối Mercosur. Brasil hiện nay đã<br />
mở rộng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế thế giới. Các sản phẩm xuất khẩu chính gồm<br />
máy bay, cà phê, xe cộ, đậu nành, quặng sắt, nước cam, thép, dệt may, giày dép và thiết bị điện<br />
tử.<br />
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, Brasil là nền kinh tế lớn thứ chín thế giới theo<br />
sức mua tương đương. Brasil có nền kinh tế đa dạng ở mức thu nhập trung bình với mức độ phát<br />
triển rất khác nhau. Đa số các ngành công nghiệp lớn nằm ở phía Nam và phía Đông Nam. Đông<br />
Bắc là vùng nghèo nhất Brasil, nhưng hiện đang thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài.<br />
Brasil có lĩnh vực công nghiệp phát triển nhất Mỹ Latinh. Chiếm một phần ba GDP, các ngành<br />
công nghiệp đa dạng của Brasil từ sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản<br />
phẩm tiêu dùng. Với nền kinh tế phát triển ổn định nhờ Kế hoạch Real, các công ty Brasil và các<br />
công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được<br />
nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ.<br />
<br />
Brasil cũng sở hữu một nền công nghiệp dịch vụ đa dạng và có chất lượng cao. Những năm đầu<br />
thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Dù trải qua một quá trình tái cơ cấu<br />
rộng lớn, công nghiệp dịch vụ tài chính nước này đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong<br />
nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới, kể cả<br />
các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán Sao Paulo và Rio de Janeiro đang trải<br />
qua quá trình hợp nhất.<br />
<br />
Theo bản báo cáo mới [15] của Ngân hàng Thế giới, mức độ thuận lợi trong kinh doanh tại các<br />
thành phố nước này rất khác nhau. Thời gian và chi phí để đăng ký tài sản tại các thành phố ở<br />
Brasil ở mức tốt.<br />
Nhưng dù có những quy định như nhau trên toàn lãnh thổ, thời gian cần thiết để chuyển đổi tài<br />
sản vẫn khác biệt nhiều tại từng thành phố.<br />
<br />
Dù nền kinh tế Brasil có kích thước và tầm quan trọng lớn trong khu vực, những vấn đề đang<br />
ngày càng phát triển như tham nhũng, nghèo đói và mù chữ vẫn là những cản trở lớn cho sự phát<br />
triển.<br />
<br />
Các sự kiện hiện tại<br />
Sau nhiều thập kỷ có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát, Brasil đã thực thi một chương<br />
trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch Real (được đặt theo tên đồng tiền tệ mới real) vào<br />
tháng 7 năm 1994 trong thời kỳ nắm quyền của tổng thống Itamar Franco.<br />
<br />
Tỷ lệ lạm phát vốn từng đạt mức gần 5.000% thời điểm cuối năm 1993, đã giảm rõ rệt, ở mức<br />
thấp 2,5% vào năm 1998. Việc thông qua Luật Trách nhiệm Thuế năm 2000 đã cải thiện tình<br />
trạng thu thuế từ địa phương và từ các chính phủ liên bang, dù vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư<br />
vào cơ sở hạ tầng và cải thiện các dịch vụ xã hội.<br />
<br />
Trong thời cầm quyền của tổng thống Fernando Henrique Cardoso (1995-2002), chính phủ<br />
Brasil đã có nỗ lực nhằm thay thế nền kinh tế chỉ huy nhà nước bằng một nền kinh tế theo định<br />
hướng thị trường.<br />
Nghị viện đã thông qua nhiều sửa đổi mở đường cho sự tham gia lớn hơn của khu vực tư nhân,<br />
và khuyến khích lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Tới cuối năm 2003, chương trình tư nhân hóa<br />
của Brasil, gồm cả việc tư nhân hóa các công ty thép, điện lực, viễn thông đã đạt giá trị hơn 90 tỷ<br />
dollar.<br />
Tháng 1 năm 1999, Ngân hàng Trung ương Brasil thông báo rằng nước này sẽ không giữ ổn định<br />
tỷ giá đồng real với dollar Mỹ nữa, việc này khiến cho đồng tiền tệ nước này bị mất giá mạnh.<br />
Nền kinh tế Brasil tăng trưởng 4,4% năm 2000, giảm xuống còn 1,3% năm 2001.<br />
Năm 2002, những dự đoán rằng ứng cử viên tổng thống nhiều triển vọng Luis Inácio Lula da<br />
Silva, sẽ từ chối thanh toán nợ, gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin sâu sắc khiến nền kinh tế<br />
giảm sút tăng trưởng.<br />
Tuy nhiên, khi đã trúng cử Lula tiếp tục theo đuổi các chính sách kinh tế của người tiền nhiệm.<br />
Năm 2003, Tổng thống Lula đưa ra một chương trình kinh tế kham khổ bằng cách kiểm soát lạm<br />
phát và tìm kiếm thặng dư nhằm đưa tình trạng nợ nần của Brasil về mức ổn định.<br />
Năm 2007, kinh tế Brasil tăng trưởng ở mức 4,5%<br />
<br />
Các vấn đề lớn<br />
Nền kinh tế của Brasil vẫn đang phải đối đầu với những vấn đề lớn và cần những cải cách quan<br />
trọng được đưa ra. So với những nước đang phát triển khác, những vấn đề nghiêm trọng là cơ sở<br />
hạ tầng yếu kém, thu nhập phân bố không đều, chất lượng dịch vụ công thấp, tham nhũng, những<br />
xung đột xã hội và tình trạng quan liêu của chính phủ vẫn tồn tại và đe dọa sự tăng trưởng kinh<br />
tế.<br />
Nợ công trong nước đã đạt tới kỷ lục từ trước tới nay và chi tiêu công cũng tăng thêm. Các loại<br />
thuế đã chiếm một phần lớn thu nhập quốc gia và là một gánh nặng với mọi tầng lớp xã hội, làm<br />
giảm các cơ hội đầu tư. Hơn nữa, việc thành lập doanh nghiệp cũng phải gánh chịu chi phí giấy<br />
tờ cao và các thủ tục hành chính phức tạp.<br />
<br />
Mức tăng trưởng kinh tế hiện nay của Brasil thấp hơn các nước Mỹ Latinh khác và hai cường<br />
quốc mới nổi Ấn Độ, Trung Quốc. Brasil đã tụt 11 bậc trong bảng Chỉ số Tăng trưởng Cạnh<br />
tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong giai đoạn 2003 – 2005<br />
<br />
Năng lượng<br />
Brasil là quốc gia đứng thứ mười thế giới về tiêu dùng năng lượng và thứ nhất tại khu vực Mỹ<br />
Latinh. Tuy nhiên, Brasil cũng lại là nước khai thác dầu mỏ và khí đốt nhiều nhất trong khu vực<br />
và là nhà sản xuất năng lượng ethanol lớn nhất trên thế giới.<br />
<br />
Với sự đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất ethanol, Brasil được mệnh danh là một cường quốc<br />
về năng lượng sinh học của thế giới. Năng lượng ethanol ở Brasil được sản xuất từ cây mía, loại<br />
cây được trồng rất phổ biến tại Brasil.<br />
Sau cuộc Khủng hoảng Dầu mỏ 1973, chỉnh phủ Brasil đã thiết lập chương trình Programa<br />
Nacional do Álcool được chính phủ cấp kinh phí nhằm thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch<br />
như dầu mỏ bằng năng lượng ethanol thân thiện hơn với môi trường.<br />
<br />
Chương trình đã thành công khi giảm số ô tô chạy bằng dầu hỏa tại Brasil xuống chỉ còn 10<br />
triệu, từ đó giảm sự phụ thuộc của nước này vào các nguồn dầu nhập khẩu[19]. Dầu diesel sinh<br />
học được kỳ vọng sẽ chiếm 2% tổng lượng dầu diesel trong năm 2008, rồi nâng lên 5% vào năm<br />
2013.<br />
Brasil đứng thứ ba thế giới về sản lượng thủy điện, chỉ sau Trung Quốc và Canada. Năm 2004,<br />
thủy điện chiếm tới 83% tổng năng lượng sản xuất ra tại nước này. Brasil cùng với Paraguay sở<br />
hữu đập nước Itaipu, nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới hiện nay.<br />
<br />
Khoa học kỹ thuật<br />
Từ khi người Bồ Đào Nha xâm chiếm Brasil làm thuộc địa, nền khoa học kĩ thuật tại vùng đất<br />
này hầu như không được chú trọng phát triển. Tuy là một thuộc địa rộng lớn và có vai trò quan<br />
trọng đối với chính quốc Bồ Đào Nha nhưng Brasil lại là một vùng đất nghèo nàn và thất học.<br />
Mãi cho đến tận đầu thế kỉ 19, tại Brasil vẫn không có bất kỳ một trường đại học nào trong khi<br />
các thuộc địa láng giềng của Tây Ban Nha đã có những trường đại học đầu tiên ngay từ thế kỉ 16.<br />
Năm 1807, hoàng gia Bồ Đào Nha đến Rio de Janeiro để tránh cuộc tấn công của Napoleon I và<br />
đã khởi đầu cho thời kỳ phát triển khoa học và văn hóa tại vùng đất này.<br />
Việc nghiên cứu khoa học tại Brasil ngày nay được thực hiện rộng rãi trong khắp các trường đại<br />
học và học viện, với 73% nguồn quỹ được lấy từ những nguồn của chính phủ. Một số học viện<br />
khoa học nổi tiếng của Brasil là Học viện Oswaldo Cruz, Học viện Butantan, Trung tâm Công<br />
nghệ Vũ trụ của không quân, Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Brasil và INPE.<br />
Brasil là quốc gia có cơ sở tốt nhất Mỹ Latinh trong lĩnh vực hàng không vũ trụ[20]. Vào ngày<br />
14 tháng 10 năm 1997, Cơ quan Hàng không vũ trụ Brasil đã ký với NASA về việc cung cấp các<br />
phần thiết bị cho ISS[21].<br />
<br />
Uranium cũng được làm giàu tại Nhà máy Năng lượng Nguyên tử Resende để giải quyết phần<br />
nào nhu cầu năng lượng của quốc gia. Brasil cũng là một trong hai nước ở khu vực Mỹ Latinh có<br />
phòng thí nghiệm máy gia tốc Synchrotron, một hệ thống thiết bị nhằm nghiên cứu nhiều ngành<br />
khoa học khác nhau như vật lí, hóa học, khoa học vật liệu và khoa học đời sống<br />
<br />
Nhân khẩu<br />
Đa phần người Brasil ngày nay có tổ tiên là người Bồ Đào Nha từ thời nước này còn là thuộc địa<br />
của Đế chế Bồ Đào Nha (từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18) và những người dân di cư Bồ Đào Nha (thế<br />
kỷ 19 và thế kỉ 20), và sau đó là người nhập cư Ý.<br />
<br />
Những khu định cư Bồ Đào Nha bắt đầu xuất hiện tại Brasil sau năm 1532. Cho tới khi giành<br />
độc lập năm 1822, người Bồ Đào Nha vẫn là những người Châu Âu duy nhất thực hiện thành<br />
công chính sách thực dân ở nước này và nền văn hóa Brasil chủ yếu dựa trên văn hoá Bồ Đào<br />
Nha.<br />
Các nước Châu Âu khác cũng có một số sự hiện diện tại Brasil trong giai đoạn thuộc địa. Người<br />
Hà Lan và người Pháp đã tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17, nhưng thời gian họ có<br />
mặt chỉ kéo dài vài thập kỷ.<br />
<br />
Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi<br />
người Bồ Đào Nha. Từ đầu thời kỳ thực dân hoá Brasil, những cuộc hôn nhân lai chủng giữa<br />
người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ đã trở nên phổ biến. Ngày nay, Brasil có<br />
khoảng 700.000 dân bản xứ, chiếm chưa tới 1% dân số nước này.<br />
<br />
Brasil cũng có một số lượng lớn người da đen, là con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị<br />
bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Hơn 3 triệu người Châu Phi đã bị bán và đem qua Brasil<br />
cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850.<br />
Chủ yếu họ bị bắt đi từ Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d'Ivoire và São Tomé e<br />
Príncipe. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ<br />
phận dân cư lai khá lớn tại Brasil.<br />
<br />
Bắt đầu thế kỷ 19, chính phủ Brasil đã khuyến khích những người Châu Âu nhập cư tới đây để<br />
thay thế nguồn nhân công của các nô lệ cũ. Những người nhập cư không phải là người Bồ Đào<br />
Nha đầu tiên tới định cư ở Brasil là người Đức vào năm 1824.<br />
Năm 1869 những người Ba Lan đầu tiên đặt chân tới Brasil. Tuy nhiên đợt di cư mạnh nhất của<br />
người Châu Âu tới nước này chỉ bắt đầu sau năm 1875, khi những người nhập cư từ Ý, Bồ Đào<br />
Nha và Tây Ban Nha tới đây tăng mạnh. Trong giai đoạn 1870 - 1953, Brasil đã thu hút hơn 5,5<br />
triệu người nhập cư[24], bao gồm gần 1.550.000 người Ý, 1.470.000 người Bồ Đào Nha,<br />
650.000 người Tây Ban Nha, 210.000 người Đức, 190.000 người Nhật, 120.000 người Ba Lan<br />
và 650.000 từ nhiều quốc gia khác.<br />
Những con số này có thể còn kém xa thực tế, bởi những người vợ đi cùng không được tính vào,<br />
một số lượng lớn những người nhập cư bất hợp pháp, thay đổi tên họ để giấu quốc tịch, và những<br />
văn bản lưu trữ của Brasil cũng đã mất mát nhiều. Brasil là nước có số lượng người Ý ở nước<br />
ngoài lớn nhất thế giới, với tổng số 25 triệu người. Brasil cũng là nước có cộng đồng người<br />
Liban đông nhất thế giới, với khoảng 8 triệu người.[cần dẫn nguồn]<br />
Bắt đầu từ thế kỷ 20, Brasil cũng đã tiếp nhận một số lượng lớn người Châu Á: người Hàn Quốc,<br />
người Trung Quốc, người Đài Loan và người Nhật. Người Nhật là cộng đồng thiểu số Châu Á<br />
lớn nhất tại Brasil, và những người Nhật Bản-Brasil là cộng đồng người Nhật bên ngoài nước<br />
Nhật lớn nhất với 1,6 triệu người.<br />
<br />
Dân số Brasil chủ yếu tập trung dọc bờ biển, trong nội địa mật độ dân số khá thấp. Dân chúng<br />
các bang miền nam chủ yếu là con cháu người Âu da trắng, trong khi đa số dân chúng miền bắc<br />
và đông bắc là người lai giữa các chủng tộc (người da đỏ Châu Mỹ, người Phi, người Âu).<br />
<br />
Chủng tộc và nòi giống<br />
Tổ tiên người Brasil hiện nay khá đa dạng, gồm người da đỏ Châu Mỹ (chủ yếu là người Tupi và<br />
Guarani), người Châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Tây Ban Nha) và người Châu Phi<br />
(chủ yếu là Bantu và Yoruba), với một số cộng đồng thiểu số Châu Á (chủ yếu là Nhật Bản),<br />
Liban, và Ả Rập Syrie.<br />
Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số<br />
lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc<br />
Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số<br />
lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước.<br />
Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và<br />
buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ.[27]<br />
Hơn 90 triệu người Brasil có nguồn gốc từ các làn sóng di cư từ nước ngoài vào. Những nhóm<br />
người đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm<br />
thiểu số gồm người Slave (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm<br />
người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania,<br />
người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu<br />
là Ashkenazi.<br />
Dân nhập cư Brasil có cơ cấu như sau:<br />
<br />
* 79 triệu người Châu Phi và người đa chủng<br />
* 13 triệu người Ả Rập, chủ yếu từ Syrie và Liban ở Đông Địa Trung Hải<br />
<br />
* 1,6 triệu người Châu Á, chủ yếu từ Nhật Bản<br />
<br />
Ngôn ngữ<br />
Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ<br />
tiếng này và rõ ràng nó là ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các<br />
phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính.<br />
Hơn nữa, Brasil là nước nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất tại Châu Mỹ nên nó đã biến ngôn ngữ<br />
này trở thành một trong những đặc trưng riêng của quốc gia. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil đã phát<br />
triển độc lập với tiếng mẹ đẻ Châu Âu, và đã trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ<br />
Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ "Camões", vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16,<br />
tương tự như thứ ngôn ngữ Bồ Đào Nha ở phía Nam Brasil ngày nay, chứ không phải là thứ<br />
ngôn ngữ được dùng ở Bồ Đào Nha ngày nay.<br />
Tiếng Bồ Đào Nha Brasil có ảnh hưởng lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu<br />
Phi. Nói chung, những người nói bất kỳ một biến thể nào đều có thể hiểu được biến thể kia,<br />
nhưng họ, những phương ngữ Bồ Đào Nha có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng<br />
và chính tả.<br />
<br />
Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân, chủ yếu ở phía<br />
bắc Brasil. Dù nhiều trong số các cộng đồng đó tiếp xúc thường xuyên với người Bồ Đào Nha,<br />
hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích.<br />
Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói<br />
cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía Nam Brasil. Những ngôn ngữ khác được<br />
dùng nhiều nhất là tiếng Đức và tiếng Ý. Ở thành phố São Paulo, có thể gặp những cộng đồng sử<br />
dụng tiếng Nhật như tại Liberdade.<br />
<br />
Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người<br />
Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có<br />
thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ<br />
cùng hệ Latinh.<br />
<br />
Giáo dục và y tế<br />
Hiến pháp Brasil và Luật Giáo dục Brasil ban hành năm 1996 xác định chính quyền liên bang,<br />
tiểu bang, quận liên bang và các đô thị tự trị tự quản lý và điều hành hệ thống giáo dục của mình.<br />
Mỗi hệ thống giáo dục tự chịu trách nhiệm về việc duy trì hoạt động, quản lý cơ cấu và các<br />
nguồn tài chính của mình. Hiến pháp mới của Brasil cũng quy định dành 25% tiền thuế tiểu bang<br />
và đô thị tự trị cũng như 18% tiền thuế của liên bang cho giáo dục[28].<br />
<br />
Hệ thống trường tư được thành lập tại Brasil để hoàn thiện những thiết sót của hệ thống trường<br />
công. Vào năm 2003, tỉ lệ người biết chữ ở Brasil đạt 88%, và đạt 93,2% đối với độ tuổi từ 15<br />
đến 19 tuổi.<br />
Tuy nhiên theo UNESCO, nền giáo dục Brasil vẫn còn nhiều bất cập và chất lượng thấp, đặc biệt<br />
trong hệ thống trường công. Giáo dục bậc cao tại Brasil bao gồm các trường đại học và các<br />
trường hướng nghiệp.<br />
<br />
Hệ thống chăm sóc sức khỏe được điều hành và cung cấp bởi các cấp chính quyền, trong khi hệ<br />
thống y tế tư nhân cũng được thành lập thêm để hoàn chỉnh.<br />
<br />
Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Brasil chưa phát triển hoàn thiện, đặc biệt ở những bang nghèo và<br />
vẫn còn nhiều bất cập. Những vấn đề chủ yếu của nền y tế Brasil là tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh,<br />
trẻ em và người mẹ còn khá cao.<br />
Ví dụ như năm 2008, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh tại Brasil là 26,67/1000 trẻ[29]. Ngoài ra các<br />
nguyên nhân tử vong chủ yếu khác ở Brasil còn có các bệnh dịch truyền nhiễm và không truyền<br />
nhiễm, tai nạn giao thông, bạo lực và tự tử. Nạn HIV/AIDS cũng là một trong những bệnh dịch<br />
hàng đầu đe dọa sức khỏe của người dân Brasil.<br />
<br />
Các vấn đề xã hội<br />
Chênh lệch giàu nghèo<br />
Dù là một nước lớn với những nguồn tài nguyên phong phú và một nền kinh tế khá mạnh, Brasil<br />
hiện vẫn có hơn 22 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Gộp cả những người sống trong tình<br />
trạng khá nghèo (có thu nhập không đủ cho những nhu cầu cơ bản), con số này có thể lên tới hơn<br />
53 triệu người (khoảng 30% dân số).<br />
<br />
Đây là vấn đề đáng báo động, và nó góp phần vào sự bất bình đẳng kinh tế của đất nước, nước<br />
này được coi là đứng hàng đầu thế giới theo hệ số Gini.<br />
<br />
Sự nghèo khổ tại Brasil được thể hiện bởi số lượng lớn các khu ổ chuột (favela), đa số chúng đều<br />
tồn tại ở những khu vực thành thị và ở những vùng xa xôi nơi ít có những phát triển kinh tế và xã<br />
hội.<br />
<br />
Vùng Đông Bắc gặp phải những vấn đề kinh niên vì khí hậu nửa khô cằn ở những vùng nội địa,<br />
những đợt hạn hán thường kỳ ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng triệu người[30].<br />
Nỗ lực gần đây nhất nhằm giảm nhẹ tình trạng này đang được tổng thống đương nhiệm Luiz<br />
Inacio Lula da Silva thử nghiệm. Ông đã đề xuất một chương trình loại trừ nạn đói (Fome Zero)<br />
và tăng ngân sách dành cho các chương trình phân phối công bằng từng được đưa ra trước đó,<br />
nhưng có nhiều tranh cãi về hiệu quả thực sự của những chương trình này.<br />
Trong vòng 12 năm qua, thuế suất của Brasil đã tăng đều hàng năm từ 28% GDP quốc gia lên tới<br />
37% [31]. Dù vậy, dưới con mắt của người dân những cải thiện trong các lĩnh vực công cộng do<br />
chính phủ liên bang và các bang hay các chính phủ địa phương là chưa đủ (trong một số trường<br />
hợp, chưa có một cải thiện nào cả) [32]. Mọi người tin rằng hai nguyên nhân chính của tình trạng<br />
này là:<br />
* Lãi suất cao của những khoản nợ của chính phủ [33].<br />
<br />
* Tham nhũng tràn lan [34]: Từ cuối thời kỳ nắm quyền của quân đội và tái lập tự do báo chí<br />
trong nước, những vụ scandal liên tục với sự dính líu của cả nhánh hành pháp, lập pháp và tư<br />
pháp. Nạn hối lộ, tham ô, rửa tiền và ngân hàng nặc danh đã trở thành hệ thống.<br />
Khoảng 16 triệu người dân Brasil chính thức được coi là mù chữ.<br />
<br />
Tội phạm<br />
Trong những thập kỷ qua, tình trạng tội phạm trên khắp Brasil đã trở thành một vấn nạn. Tỷ lệ<br />
giết người ở Brasil cao hơn bốn lần so với Mỹ, và đa số các vụ tội phạm không được khám phá.<br />
Những vụ tội phạm đường phố là một vấn đề đau đầu cho các quan chức địa phương, đặc biệt<br />
vào buổi tối, trong khi ở những vùng nông thôn, những vụ cướp bóc dọc đường xảy ra thường<br />
xuyên.<br />
<br />
Rio de Janeiro được coi là có tình trạng tội phạm tồi tệ nhất nước. Những vụ bắn nhau trong các<br />
khu nhà ổ chuột giữa cảnh sát và tội phạm hay giữa các băng nhóm tội phạm với nhau trở nên<br />
quá quen thuộc, tương tự như một cuộc chiến tranh du kích trong đô thị.<br />
Các quan chức thành phố hầu như không thể kiểm soát được khu vực bên trong các khu ổ chuột,<br />
khiến chúng trở thành hang ổ của những kẻ buôn bán ma tuý, thậm chí một số tên đã bị bỏ tù<br />
nhưng vẫn điều hành đường dây của chúng.<br />
<br />
Thậm chí có điều luật cho phép từ 10 giờ chiều tới 6 giờ sáng, các lái xe được phép không dừng<br />
khi có hiệu đèn bởi nguy cơ cao bị tấn công hay bắt cóc vào ban đêm<br />
Văn hoá<br />
Những ảnh hưởng khác nhau<br />
<br />
Văn hóa của Brasil chủ yếu dựa trên nền văn hóa của Bồ Đào Nha. Nước này đã từng là thuộc<br />
địa của Bồ Đào Nha trong vòng ba thế kỉ và những người dân di cư Bồ Đào Nha đã mang đến<br />
cho Brasil những nền tảng quan trọng của nền văn hóa nước này là tiếng Bồ Đào Nha, Đạo<br />
Thiên chúa và kiến trúc. Bên cạnh đó còn có những phong tục tập quán và lối sống đặc trưng của<br />
người dân Bồ Đào Nha.<br />
Là một đất nước đa chủng tộc với nhiều màu sắc văn hóa, Brasil còn chịu ảnh hưởng của nhiều<br />
dân tộc khác nữa. Những người thổ dân châu Mỹ có ảnh hưởng đến vốn từ vựng và ẩm thực của<br />
Brasil, trong khi người da đen gốc châu Phi, vốn được mang đến Brasil để làm nô lệ trước kia,<br />
lại có ảnh hưởng quan trọng trong âm nhạc và các điệu nhảy của nước này.<br />
Vào thế kỉ 19 và thế kỉ 20, những dòng người nhập cư đến từ Ý, Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản,<br />
Trung Đông đã đến Brasil và thiết lập nên những cộng đồng lớn sinh sống với nhau tại các thành<br />
phố, tạo nền những dấu ấn độc đáo khác nhau và tập trung chủ yếu tại miền nam Brasil.<br />
<br />
Văn học<br />
Một trong những văn bản đầu tiên viết về đất nước Brasil là lá thư của Pêro Vaz de Caminha gửi<br />
cho vua Manuel I của Bồ Đào Nha, người ghi chép trên tàu của Pedro Álvares Cabral, nhà thám<br />
hiểm đã khám phá ra đất nước Brasil.<br />
Tiếng Bồ Đào Nha có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nền văn học của Brasil. Trong thời kỳ<br />
thuộc địa, những nhà văn tại Brasil đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học về sử thi, thơ và kịch<br />
phản ánh về cuộc sống và những sự kiện diễn ra trên đất nước này.<br />
<br />
Một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thời kỳ này là cha António Vieira, một linh mục dòng<br />
Tên với những tác phẩm mang phong cách văn học Baroque. Năm 1822, Brasil giành được độc<br />
lập và sau đó là những chuyển biến mới trong nền văn học của nước này.<br />
Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện cùng với những tác phẩm văn học về những người thổ dân và<br />
người da đen, cũng như phản ánh và quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội. Tiêu biểu là nhà văn<br />
Gonçalves Dias và José de Alencar đã viết nhiều tác phẩm về những người dân bản xứ Brasil,<br />
hay nhà văn Antônio Castro Alves đã viết về những nỗi khốn khổ của người nô lệ da đen.<br />
Đến giữa thế kỉ 19, chủ nghĩa lãng mạn dần thoái trào và nhường chỗ cho những tác phẩm thuộc<br />
chủ nghĩa hiện thực. Văn xuôi được sử dụng nhiều hơn. Với ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên,<br />
các tác phẩm văn học thời kỳ này phản ánh nhiều phương diện và tầng lớp xã hội. Hai nhà văn<br />
lớn nhất thời kỳ này là Machado de Assis và Euclides da Cunha. Thế kỉ 20 chứng kiến sự phát<br />
triển của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn học Brasil với những tên tuổi như Mário<br />
de Andrade, Jorge Amado...<br />
<br />
Kiến trúc<br />
Nền kiến trúc của Brasil bắt đầu từ thời kỳ thuộc địa Bồ Đào Nha, khi những pháo đài trung cổ<br />
đầu tiên được người Bồ Đào Nha thiết lập tại đây từ khoảng năm 1530. Trong thời kỳ thuộc địa,<br />
những công trình lớn chủ yếu được xây dựng là các nhà thờ và thánh đường mang đậm ảnh<br />
hưởng của phong cách kiến trúc Baroque Bồ Đào Nha.<br />
Nhiều thị trấn và thành phố cổ ở Brasil được xây dựng với nhiều nét giống với các thành phố của<br />
châu Âu. Đầu thế kỉ 19, tại Brasil bắt đầu xuất hiện trường phái kiến trúc tân cổ điển. Rồi đến<br />
giai đoạn cuối thể kỉ 19 - đầu thế kỉ 20, các tòa nhà ở Brasil lại chịu ảnh hưởng của phong cách<br />
kiến trúc Pháp. Bên cạnh đó, những dòng người nhập cư khác cũng mang đến cho kiến trúc<br />
Brasil nhiều sắc thái khác nhau, ví dụ như kiến trúc kiểu Đức tại các bang miền nam Brasil.<br />
Sang thế kỉ 20, kiến trúc hiện đại Brasil đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Oscar Niemeyer là<br />
một trong những kiến trúc sư nổi tiếng nhất ở Brasil. Ông đã phụ trách rất nhiều công trình lớn<br />
tại thủ đô Brasilia và thành phố này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.<br />
<br />
Tôn giáo<br />
Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Đạo Thiên chúa. Nước này cũng là nước có cộng đồng người theo<br />
đạo Thiên chúa lớn nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, số lượng tín đồ theo đạo Tin lành cũng đang<br />
ngày càng tăng lên...<br />