intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Góp phần tìm hiểu quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới (1986 - 2021)

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Góp phần tìm hiểu quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới (1986 - 2021)" góp phần làm rõ quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới. Để đạt được những kết quả đó, nguyên nhân đầu tiên bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển nhiều nhận thức mới của Đảng, trong đó có nhận thức về đối ngoại. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Góp phần tìm hiểu quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới (1986 - 2021)

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” GÓP PHẦN TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2021) Đào Duy Tùng Học viện Chính trị khu vực II Tác giả liên hệ: Đào Duy Tùng, email: daoduytung.hvctkv2@gmail.com Tóm tắt: Đường lối đối ngoại là một bộ phận trong đường lối lãnh đạo chung của Đảng. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, đường lối đối ngoại đều có mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể và góp phần phục vụ đường lối chung. Sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, “chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25). Cùng thành tựu chung của đất nước, công tác đối ngoại đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Để đạt được những kết quả đó, nguyên nhân đầu tiên bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển nhiều nhận thức mới của Đảng, trong đó có nhận thức về đối ngoại. Bài viết góp phần làm rõ quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới. Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; đường lối đối ngoại 35 năm đổi mới; thành tựu đổi mới; nhận thức về đối ngoại thời kỳ đổi mới; đối ngoại Việt Nam. 1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu bằng việc đổi mới tư duy lý luận, trong đó bước đầu có một số thay đổi trong nhận thức về đối ngoại. Trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ sẽ đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đại hội nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 364). Đảng chủ trương phải đặc biệt coi trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương 569
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Sau gần hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tháng 5/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Nghị quyết có những nhận định quan trọng như: Nền kinh tế thế giới ngày càng quốc tế hóa; khả năng đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới không ngừng tăng lên; cách mạng khoa học kỹ thuật và các bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất thế giới đã đặt ra cho các nước thuộc cả hai hệ thống nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết; xu thế đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ khác nhau ngày càng phát triển; Châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành một trung tâm năng động nhất về kinh tế, chính trị. Theo đó, Nghị quyết đã đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác, cùng tồn tại hòa bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đây là bước phát triển trong nhận thức của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại như: quan hệ chính trị quốc tế, mục tiêu đối ngoại, đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị có giá trị như một cương lĩnh đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991), tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại. Đại hội khẳng định: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 114), với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 49). Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Đại hội VII còn nhấn mạnh: cần nhạy bén và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. 570
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996), tiếp tục khẳng định mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác; mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Đặc biệt, lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế, tại Đại hội VIII, Đảng đưa ra chủ trương “thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015, 375). Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001) đề ra chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Trên cơ sở những thành tựu sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội IX phát triển phương châm được nêu tại Đại hội VII “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 42). Đây được xem là bước phát triển về chất trên tiến trình thực hiện quan hệ đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới. Cụ thể hóa nhận thức của Đảng tại Đại hội IX, tháng 11/2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp đến, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (01/2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội lần thứ X (4/2006), Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội lần thứ XI (01/2011), Đảng đề ra chủ trương “triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế” ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 322). Hội nhập quốc tế giờ đây không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế (Đại hội lần thứ X) mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội. Đây là điểm mới trong nhận thức đối ngoại đa phương về hội nhập quốc tế toàn diện. Toàn diện ở đây được hiểu 571
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG là không chỉ chủ động tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mà còn là “tích cực và chủ động”, thể hiện tầm nhìn, trách nhiệm và vị thế sẵn sàng của Việt Nam khi tham gia vào các diễn đàn quốc tế. Tính toàn diện trong đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng của Việt Nam cũng được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối ngoại; mục tiêu của chính sách đối ngoại và sự đa dạng của các mối quan hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, Đại hội XI cũng chính thức đưa ra phương châm cho công tác đối ngoại nhân dân là: “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả; tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 322). Để đẩy mạnh chủ trương “tích cực và chủ động hội nhập quốc tế” đề ra tại Đại hội XI, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW (4/2013) về hội nhập quốc tế. Theo đó, Nghị quyết xác định mục tiêu: “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Bộ Chính trị, 2013). Nghị quyết xác định 5 định hướng cơ bản trên một số lĩnh vực chủ yếu để thực hiện hiệu quả mục tiêu đề ra. Sự ra đời của Nghị quyết số 22-NQ/TW tạo nên sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Đại hội lần thứ XII của Đảng (01/2016) đã chỉ rõ: “chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 154); “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 154). Nhận thức này đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải chuyển từ tham dự sang chủ động tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, luật lệ mới mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Đây 572
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” là bước chuyển lớn trong tư duy đối ngoại đa phương của Việt Nam ở tầm cao nhất, tiếp tục thể hiện tính tiếp nối, trách nhiệm, sẵn sàng của Việt Nam tham gia xây dựng cơ chế, luật chơi ở mọi cấp độ. Nhằm cụ thể hóa đường lối đối ngoại Đại hội XII, tạo sự đồng bộ giữa đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW (7/2011) về đối ngoại nhân dân và Chỉ thị số 32-CT/TW (02/2019) về quan hệ đối ngoại Đảng. Đối với công tác đối ngoại đa phương, ngày 08/8/2018, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Chỉ thị xác định mục tiêu cho công tác đối ngoại đa phương thời gian tới là “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta. Điều này thể hiện bước phát triển trong nhận thức của Đảng về đối ngoại đa phương - chuyển từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy vai trò “nòng cốt”, dẫn dắt của Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII (2021) của Đảng trên cơ sở tổng kết 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã có sự kế thừa, bổ sung, phát triển trong nhận thức về công tác đối ngoại đáp ứng yêu cầu cách mạng giai đoạn mới. Một là, Đại hội tiếp tục đề cao quan điểm chỉ đạo “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 161). Quan điểm này đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích quốc gia - dân tộc là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Tuy nhiên, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, mà “trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 161-162). Hai là, Đại hội tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của đối ngoại - mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước vào thế có lợi nhất trước những chuyển biến mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, khu vực. Theo đó trong giai đoạn mới, “tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất 573
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 162). Ba là, Đại hội xác định đối ngoại đa phương được đặt ở vị trí quan trọng trong tổng thể các nhiệm vụ đối ngoại. Ðây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn từ Ðại hội XII đồng thời cũng là sự ghi nhận thành tựu của đối ngoại đa phương trong nhiều năm qua. Văn kiện đã làm rõ các nội hàm nhiệm vụ theo tinh thần Chỉ thị 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; nhấn mạnh cần “chủ động tham gia phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông; tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 163). Bốn là, khẳng định “nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 165). Đây chính là quan điểm nhấn mạnh nhân tố con người - yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ đối ngoại ngày một cao hơn trong tình hình mới. Các nội hàm “chuyên nghiệp”, “sáng tạo” và “chủ động thích ứng” được gắn với phương châm triển khai các hoạt động đối ngoại. Đó vừa là yêu cầu, vừa là sự ghi nhận phẩm chất của những người làm công tác đối ngoại. Năm là, Đại hội khẳng định sự cần thiết phải “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 162). Tính hiện đại của ngoại giao được thể hiện ở việc phát triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, trình độ của đội ngũ cán bộ, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị,… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, giúp thúc đẩy hiệu quả lợi ích quốc gia - dân tộc và thích ứng linh hoạt với chuyển biến của tình hình mới. Tóm lại, có thể khẳng định rằng, đường lối đối ngoại của Đảng sau 35 năm đổi mới là kết quả của quá trình bổ sung, phát triển trong nhận thức của Đảng về đối ngoại trước diễn biến của tình hình thế giới, khu vực cũng như thế và lực của đất nước. Quá trình bổ sung, phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới góp phần làm sáng tỏ hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 574
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2. THÀNH TỰU ĐỐI NGOẠI TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI Qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về đối ngoại, công tác đối ngoại của nước ta đã đạt được một số thành tựu nổi bật. “Nhìn tổng thể, đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ: Phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; Chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; Huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới” (Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII, 2021). Từ thế bị bao vây, cấm vận trước đổi mới, hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO,... (Nguyễn, 2021). Quan hệ láng giềng hữu nghị giữa nước ta với Lào và Campuchia được củng cố. Trong quan hệ với Trung Quốc, tổng thể khuôn khổ quan hệ láng giềng, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện được tăng cường. Quan hệ với các nước ASEAN phát triển tốt đẹp trên mọi lĩnh vực. Tuy không phải là thành viên sáng lập nhưng kể từ khi được gia nhập, Việt Nam ngày càng có nhiều đóng góp và giữ vị trí quan trọng trong ASEAN. Quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước bạn bè truyền thống tại Châu Á, Trung Đông, Châu Phi, Mỹ Latinh tiếp tục được thúc đẩy, chú trọng mở ra các cơ hội mới về hợp tác kinh tế - thương mại, đẩy mạnh hợp tác trên các diễn đàn quốc tế. Hiện nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 224 thị trường và đối tác. 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Với mạng lưới 15 FTA 575
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đã ký, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA,… nước ta là một trong số ít nước tham gia hầu hết các liên kết kinh tế quan trọng. Kết quả là các chỉ tiêu kinh tế đối ngoại những năm gần đây đều đạt và vượt kế hoạch, đóng góp quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa Việt Nam trở thành một trong 10 nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới 5 năm qua. Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai chủ động, tích cực, ngày càng đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, gắn kết ngày càng chặt chẽ. Nhận thức và tư duy về đối ngoại được nâng cao và không ngừng đổi mới. Cơ chế chính sách về hội nhập quốc tế ngày càng hoàn thiện, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho công tác đối ngoại của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương cũng như cho hoạt động của các cơ quan đại diện nước ngoài. Ngoại giao văn hoá và thông tin đối ngoại góp phần quan trọng nâng cao vị thế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Công tác bảo hộ công dân được triển khai đồng bộ và hiệu quả, xử lý kịp thời nhiều tình huống, vụ việc khẩn cấp và phức tạp chưa có tiền lệ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Trong đại dịch Covid-19, chúng ta đã triển khai quyết liệt, kịp thời và hiệu quả công tác ngoại giao y tế/vắc-xin trên cả kênh song phương và đa phương. Đến nay, nước ta đã nhận được trên 151 triệu liều vắc-xin, đạt 100% mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng vào công tác phòng, chống dịch hiệu quả đi đôi với phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam cũng đã kịp thời viện trợ vật tư y tế và tài chính cho trên 50 quốc gia và tổ chức quốc tế (Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII, 2021). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, đối ngoại hiện nay còn tồn tại những hạn chế nhất định: “Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có lúc, có việc chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao. Chúng ta còn thiếu những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế; nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình; sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương còn thiếu chặt chẽ; công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình chưa thật bài bản, kết quả chưa được như mong muốn” (Nguyễn, 2021). 576
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP Trước bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và đất nước, để góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ công tác đối ngoại Đại hội XIII đã đề ra, trong thời gian tới, chúng ta cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất, đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại Con người luôn là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của mọi việc. Không phải ngẫu nhiên mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bắt đầu chuẩn bị thành lập Đảng bằng việc đào tạo và huấn luyện cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Trong công tác đối ngoại thì yếu tố con người lại càng quan trọng và có ý nghĩa hơn vì cán bộ đối ngoại là người trực tiếp triển khai các chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, những công việc liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Do đó, việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm đối ngoại luôn được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngoại giao, có ý nghĩa quyết định đối với thành công của mọi hoạt động đối ngoại. Quá trình hình thành và phát triển của nền ngoại giao Việt Nam, chúng ta tự hào là đã có những thế hệ cán bộ ngoại giao tài đức, trong đó có nhiều nhà ngoại giao lớn, có tầm cỡ thế giới và đã làm nên những kỳ tích ngoại giao của nước nhà. Trước yêu cầu, đòi hỏi trong giai đoạn mới đối với công tác đối ngoại, người cán bộ làm công tác đối ngoại cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; có tư duy hiện đại trong nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình để tham mưu, đề xuất chính sách, chiến lược; có nền tảng kiến thức toàn diện, tổng hợp về nhiều lĩnh vực và quan trọng hơn hết, phải có lòng tự hào về lịch sử truyền thống của dân tộc, của ngành ngoại giao và có khát khao cống hiến vì một đất nước Việt Nam ngày càng hùng cường, phát triển mạnh mẽ hơn; tỉnh táo trước sự tác động, lôi kéo của các thế lực thù địch, chủ động tích cực phòng ngừa không để “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vướng vào tham nhũng, tiêu cực. Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc nội dung đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay trong toàn hệ thống chính trị, toàn xã hội 577
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đại hội XIII đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 161-162). Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc nội dung đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước nhằm tạo sự đoàn kết, thống nhất trong nhận thức và triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong thực tiễn. Trong giai đoạn hiện nay, công tác tuyên truyền cần coi trọng vai trò của báo chí, truyền thông; chú trọng tới các doanh nghiệp trong và ngoài nước; các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba, thường xuyên cập nhật, nghiên cứu, hiểu rõ diễn biến của tình hình thế giới, khu vực, trong nước Đại hội XIII dự báo: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 105). “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 105). Diễn biến tình thế giới và khu vực là cơ sở để Đảng đề ra chủ chương, đường lối đối ngoại. Nếu không hiểu rõ, nắm bắt được tình hình thế giới, khu vực hoặc nhận thức chậm, sai bản chất thì chủ trương, đường lối đối ngoại đề ra không hiệu quả, nhiều khi còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển của đất nước. Những tồn tại, hạn chế trong công tác đối ngoại thời gian vừa qua một phần bắt nguồn từ việc nắm bắt, nhận thức chưa đúng, kịp thời diễn biến tình hình thế giới và khu vực. Hiện nay, chiến lược ngoại giao các nước lớn, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vị trí địa lý chính trị của khu vực châu Á - Thái Bình Dương,… là một trong những yếu tố quan trọng chi phối mạnh mẽ tới đường lối đối ngoại của nhiều nước. Trong thời gian sắp tới, đòi hỏi chúng ta phải “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 165). 578
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Đối với nước ta, sau 35 thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Do đó đội ngũ làm công tác đối ngoại cần phải thay đổi tư duy về thế và lực của đất nước hiện nay so với giai đoạn trước. “Chiêng” đã “to”, để “tiếng” lớn, đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh đổi mới nhận thức, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới. Chủ động đề xuất những sáng kiến trong các diễn đàn khu vực và quốc tế. Thứ tư, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay Xuyên tạc, phủ nhận đường lối đối ngoại của Việt Nam là một trong những nội dung được các đối tượng phản động, cơ hội bất mãn về chính trị thường xuyên sử dụng nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Mục đích hòng gieo rắc sự hoài nghi trong dân chúng về tính đúng đắn trong đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chia rẽ quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, từ đó hạ thấp vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Thành tựu của đối ngoại trong thời gian vừa qua và đặc biệt là thực tiễn việc “các nước đánh giá cao và mong muốn Việt Nam đóng vai trò lớn hơn trong các cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực (Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII, 2021); “vị thế địa chiến lược của Việt Nam tiếp tục gia tăng trong chính sách của các nước lớn với khu vực” (TG&VN, 2021) là những minh chứng không thể phủ nhận, không thể đánh lừa dư luận của các thế lực thù địch khi xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Biện pháp hữu hiệu nhất để đấu tranh, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch là chúng ta phải đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của Việt Nam sau 35 năm đổi mới nói chung, thành tựu của đối ngoại nói riêng và đặc biệt là sự đóng góp của Việt Nam đối với khu vực và thế giới đã được bạn bè quốc tế công nhận trong thời gian vừa qua. 579
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 4. KẾT LUẬN Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển thì đối ngoại không chỉ là sự tiếp nối chính sách đối nội mà còn là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Với thế và lực của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và kiên định phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc, dựa vào nền tảng tư tưởng hòa hiếu của dân tộc xây dựng sự đồng lòng nhất trí trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, đối ngoại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh và thích ứng nhanh trước những biến chuyển của tình hình, tiếp tục đóng vai trò là mặt trận hàng đầu trong việc giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Chính trị. (2013). Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 47). Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 51). Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 55). Chính trị quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. 580
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” [9]. Nguyễn, P. T. (2021, December 14). Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc. Báo điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu- trong-tai-hoi-nghi-doi-ngoai-toan-quoc-102305526.htm [10]. TG&VN. (2021, January 19). Những dấu ấn của công tác đối ngoại trong 35 năm đổi mới: Đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Cổng Thông Tin ASEAN Việt Nam - Ban Chỉ Đạo Thông Tin, Tuyên Truyền ASEAN. https://aseanvietnam.vn/post/nhung-dau-an-cua-cong-tac-djoi-ngoai-trong- 35-nam-djoi-moi-djong-hanh-cung-dan-toc-phung-su-to-quoc-va-phuc-vu- nhan-dan [11]. Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII. (2021, December 14). VietNamNet News. https://vietnamnet.vn/thanh-tuu-phuong-huong-nhiem-vu-trong-tam-trong- cong-tac-doi-ngoai-theo-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-815704.html 581
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2