intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hàm lượng fucoidan và alginate của một số loài rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

10
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Hàm lượng fucoidan và alginate của một số loài rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang được nghiên cứu nhằm đánh giá sự biến đổi hàm lượng fucoidan và hàm lượng alginate có trong một số loài rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hàm lượng fucoidan và alginate của một số loài rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang

  1. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀM LƯỢNG FUCOIDAN VÀ ALGINATE CỦA MỘT SỐ LOÀI RONG NÂU Ở QUẦN ĐẢO NAM DU, KIÊN GIANG Nguyễn Văn Thành1*, Trần Nhật My1, Nguyễn Văn An1, Lê Hoàng Phượng1, Bùi Văn Nguyên2 TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm đánh giá sự biến đổi hàm lượng fucoidan và hàm lượng alginate có trong một số loài rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng fucoidan và alginate có sự biến đổi tùy thuộc vào giống loài, thời kỳ sinh trưởng và theo mùa. So với khối lượng rong khô, hàm lượng fucoidan và alginate cao nhất vào cuối mùa khô (tháng 3) ở loài rong Turbinaria ornata (tương ứng là 2,39  và 26,3 ) và loài rong Sagrassum polycystum (tương ứng là 2,04  và 28,6 ). Tuy nhiên đối với loài rong Turbinaria decurrens thì hàm lượng fucoidan và alginate cao nhất vào đầu mùa mưa (tháng 5) tương ứng 2,89  và 31,16 . Từ khóa: Alginate, fucoidan, hàm lượng, rong nâu, Nam Du, Kiên Giang. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ8 kim loại, chất ổn định, chất làm dày [1]. Đặc biệt, các alginate khối lượng phân tử thấp có hoạt tính sinh Việt Nam có 3.260 km bờ biển trải dài từ Bắc vào học quý như hoạt tính chống oxy hóa, kháng khuẩn, Nam với diện tích mặt nước biển hơn 1 triệu km2. chống đông máu, kháng ung thư,...[17]. Chính vì Biển Việt Nam có nguồn tài nguyên rong nâu khá đa vậy, nguồn nguyên liệu rong nâu sẽ mang đến tiềm dạng và phong phú, với hơn 120 loài đã được phân năng phát triển kinh tế biển cho nước ta nói chung và loại, sản lượng thu hoạch rong nâu ước đạt 35 nghìn cho các địa phương vốn được thiên nhiên ưu đãi, ban tấn khô/năm [5]. Rong nâu có chứa nhiều tặng nguồn nguyên liệu này nói riêng. Vì vậy, việc polysaccharide sinh học có giá trị như alginate, xác định hàm lượng fucoidan và alginate sẽ cung cấp laminaran, fucoidan,... ngoài ra còn có nhiều vitamin các dữ liệu khoa học quan trọng để đánh giá chất và khoáng chất, nên chúng được coi là nguồn nguyên lượng nguồn nguyên liệu rong nâu ở quần đảo Nam liệu quý giá để sản xuất dược phẩm, thực phẩm và Du, tỉnh Kiên Giang. mỹ phẩm [8]. Trong rong nâu, hàm lượng fucoidan có thể đến 9,8  khối lượng rong khô [7] và sản xuất 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP fucoidan thô hàng năm ở nước ta khoảng 400 - 800 2.1. Vật liệu nghiên cứu tấn/năm [3]. Các hoạt tính sinh học của Fucoidan đã Ba loài rong nâu (Turbinaria decurrens, được nghiên cứu như hoạt tính chống đông máu, Turbinaria ornate, Sargassum polycystum) thuộc kháng khối u, kháng khuẩn, kháng oxy hóa, chống ngành rong nâu (Phaeophyta), bộ rong đuôi ngựa ung thư, chống viêm khớp, viêm nhiễm, giảm (Fucales), họ rong mơ (Sargassaceae) thu mẫu tại cholesterol máu,... [18]. Hòn Củ Tron (Hòn Lớn), thuộc quần đảo Nam Du, Alginate là hợp chất sinh học chỉ có ở rong nâu tỉnh Kiên Giang. Trong đó mẫu rong S. polycystum và hàm lượng có thể đạt đến 40  khối lượng rong được thu tại Bãi Nhum (9°42'09.2"N 104°21'37.4"E), khô [14], chiếm nhiều nhất trong số các hợp chất loài rong T. decurrens thu tại Bãi Cây Mến hóa học của rong nâu. Alginate đã và đang được ứng (9°40'02.6"N 104°20'59.3"E) và loài rong T. ornata thu dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như thực phẩm, tại Bãi Cây Mến nhỏ (9°39'47.7"N 104°21'08.9"E). mỹ phẩm và dược phẩm [12] với các công dụng làm Thời gian thu mẫu rong trong khoảng từ ngày 20 đến chất độn, chất mang, chất nhũ hóa, chất tạo bọt, chất ngày 30 của tháng, vào mùa mưa (tháng 5/2020, tạo gel, chất làm bóng, chất làm ẩm, chất tạo phức tháng 7/2020 và tháng 9/2020) và mùa khô (tháng 11/2020, tháng 01/2021 và tháng 3/2021). Các mẫu 1 rong được thu theo từng loài, rửa sạch bằng nước Trường Đại học Kiên Giang * Email: nvthanh@vnkgu.edu.vn biển, vận chuyển về phòng thí nghiệm Trường Đại 2 Trường Đại học Khánh Hòa học Kiên Giang. Tiến hành sấy ở nhiệt độ 50oC, tốc N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 5/2021 149
  2. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ độ gió 2 m/s trong thời gian 6 giờ, độ ẩm rong đạt chiết được điều chỉnh về pH = 1,8 bằng dung dịch dưới 12 . HCl 10 . Kết tủa acid alginic được thu nhận bằng Các hóa chất sử dụng đạt tiêu chuẩn cho phân phương pháp lọc. Acid alginic được trung hòa về pH tích do Merck (Đức) cung cấp, ethanol 96  do Việt = 7 - 7,5 bằng dung dịch NaOH 10  kèm theo khuấy Nam sản xuất. đảo. Dịch chiết alginate được thẩm tích đối nước trong 72 giờ, cô đặc bằng thiết bị cô quay chân 2.2. Phương pháp nghiên cứu không ở 50oC đến thể tích còn lại 1/10. Kết tủa bằng 2.2.1. Phương pháp xác định hàm lượng fucoidan ethanol 96  với thể tích gấp 4 lần thể tích dịch chiết Hàm lượng fucoidan trong rong nâu được xác rồi được ngâm 4 giờ. Giấy lọc được sấy ở 70oC, để vào định dựa theo phương pháp của Nguyễn Duy Nhứt bình hút ẩm rồi cân đến khối lượng không đổi. Kết và cộng sự (2007) [4] như sau: rong khô được cắt tủa alginate được lọc bằng giấy lọc và rửa kết tủa nhỏ 1 - 3 mm rồi chiết bằng dung dịch HCl 0,1N ở bằng ethanol 96 . Giấy lọc và kết tủa alginate được nhiệt độ phòng trong 24 giờ (tỷ lệ rong/dung dịch là sấy chân không ở 50oC trong 4 giờ. Hàm lượng 1/10 (w/v)), thỉnh thoảng có khuấy trộn. Dịch chiết alginate xác định theo phương pháp khối lượng, như được tách ra khỏi bã rong rồi cô đặc bằng thiết bị cô sau: quay chân không ở 50oC đến còn khoảng 1 lít. Dung dịch cetavlon 10  trong nước được cho vào dịch trên đến khi không còn tạo kết tủa. Kết tủa được lọc, rửa Trong đó: A là khối lượng rong khô (g); B là với nước để loại mannitol và laminaran. Sau đó, dung khối lượng giấy lọc (g); C là khối lượng của giấy lọc dịch CaCl2 3M, NaCl 3M được đưa vào và đun nóng ở và alginate (g). 600C kèm theo khuấy liên tục trong 2 giờ rồi để yên 2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu qua đêm, muối cetavlon - fucoidan, cetavlon - alginic bị phá hủy giải phóng ra fucoidan, đồng thời canxi Số liệu thực nghiệm được thu thập bằng phương alginate được tách ra dưới dạng kết tủa. Ly tâm để pháp thống kê, quan sát. Mỗi thí nghiệm tiến hành thu dịch chứa fucoidan, cho ethanol 96  với thể tích lặp lại 3 lần độc lập và số liệu là kết quả trung bình gấp bốn lần thể tích dịch chiết rồi khuấy đảo trong của các lần lặp lại. Kiểm tra sự khác biệt giữa các số 30 phút. Để yên qua đêm, kết tủa fucoidan được tạo liệu thống kê bằng phần mềm Statgraphics thành. Giấy lọc được sấy ở 70oC, để vào bình hút ẩm Centurion XVII trial. rồi cân đến khối lượng không đổi. Thu kết tủa 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN fucoidan bằng giấy lọc, rửa kết tủa lại bằng ethanol 3.1. Hàm lượng fucoidan ở 3 loài rong nâu ở 96  đến khi không còn ion Cl- trong nước rửa. Giấy quần đảo Nam Du, Kiên Giang lọc và kết tủa fucoidan được sấy chân không ở 50oC Kết quả phân tích hàm lượng fucoidan có trong 3 trong 4 giờ. Hàm lượng fucoidan xác định theo loài rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang được phương pháp khối lượng, như sau: thể hiện ở hình 1. Trong đó: A là khối lượng rong khô (g); B là khối lượng giấy lọc (g); C là khối lượng của giấy lọc và fucoidan (g). 2.2.2. Phương pháp xác định hàm lượng alginate Hàm lượng alginate trong rong nâu được xác định theo phương pháp của Haug (1968) [9] như sau: rong được cắt nhỏ 0,5 - 1 cm rồi chiết bằng dung dịch Na2CO3 3  trong 1 giờ ở 70oC (tỷ lệ rong khô/dung dịch Na2CO3 3  là 1/25 (w/v)). Dịch chiết được lọc Hình 1. Sự biến đổi hàm lượng fucoidan ở 3 loài rong thô bằng túi vải và bã rong tiếp tục xử lý lần hai dưới nâu theo thời gian thu mẫu điều kiện tương tự. Dịch chiết được gom lại rồi ly tâm Hình 1 cho thấy hàm lượng fucoidan có trong 3 (10.000 vòng/phút, 30 phút) để loại bã rong. Dịch loài rong nâu (T. decurrens, T. ornata và S. 150 N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 5/2021
  3. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ polycystum) đều có sự biến đổi khá rõ rệt vào mùa từ tháng 7/2020 đến tháng 01/2021 thì hàm lượng mưa và mùa khô. So với khối lượng rong khô, hàm fucoidan ở loài rong T. ornata từ 0,23  đến 1,38  và ở lượng fucoidan ở 2 loài rong nâu T .ornata và S. loài rong S. polycystum từ 0,18  đến 1,44 . Kết quả polycystum đạt cao nhất vào tháng 3 (cuối mùa khô) phân tích ANOVA cho thấy hàm lượng fucoidan ở 2 tương ứng là 2,39  và 2,04 , trong khi đó hàm lượng loài rong T. ornata và loài S. polycystum từ tháng fucoidan ở loài rong nâu T. decurrens đạt cao nhất là 5/2020 đến tháng 3/2021 đều có ý nghĩa thống kê và vào tháng 5 (đầu mùa mưa) là 2,89 . Sau khi tích lũy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy đạt hàm lượng fucoidan cao nhất thì sau đó hàm trên 95 , điều này chứng tỏ hàm lượng fucoidan ở lượng fucoidan ở cả 3 loài rong nâu sẽ giảm dần ở loài rong T. ornata và loài S. polycystum đạt cao nhất thời kỳ rong tàn lụi và tích lũy tăng dần hàm lượng vào thời điểm tháng 3 (cuối mùa khô). fucoidan theo thời kỳ sinh trưởng của thế hệ sau. Kết Theo kết quả nghiên cứu của Skriptsova (2016) quả phân tích ANOVA cho thấy hàm lượng fucoidan trên một số loài rong nâu thu hoạch ở vịnh Peter the của 3 loài rong nâu trong thời gian khảo sát đều có ý Great vùng biển Nhật Bản thấy rằng hàm lượng nghĩa thống kê và có sự khác biệt có ý nghĩa thống fucoidan có trong loài rong S. japonica biến đổi từ kê với độ tin cậy trên 95 . 0,98  đến 4,19  và hàm lượng fucoidan đạt cao nhất Đối với loài rong T. decurrens có hàm lượng từ tháng 8 đến tháng 10, ở loài rong S. crassipes hàm fucoidan cao nhất là 2,89  vào đầu mùa mưa (tháng lượng fucoidan từ 2,5  đến 5,23  và đạt cao nhất từ 5/2020), là giai đoạn rong đã trưởng thành về mặt tháng 6 đến tháng 7, nhưng đối với loài rong S. hình thể cây rong phát triển đến độ cao cực đại pallidum thì hàm lượng fucoidan từ 1,8  đến 6,31  và khoảng 20 - 25 cm, các lá rong cách rễ khoảng 5 cm đạt cao nhất vào tháng 7 [15]. Theo kết quả nghiên phân bố đều đến ngọn. Hàm lượng fucoidan vào cứu của Fletcher và cộng sự (2017) cũng thấy rằng tháng 7/2020 giảm còn 1,97 , lúc này rong đã vào hàm lượng fucoidan phụ thuộc vào loài rong và thời giai đoạn tàn lụi dần, các lá rong chỉ còn lại ở phần kỳ sinh trưởng của rong nâu, cụ thể là hàm lượng ngọn khoảng 1/3 so với chiều cao của cây rong. Ở fucoidan có trong 3 loài rong nâu Fucus serratus, thời điểm gần cuối mùa mưa (tháng 9/2020) thì hàm Ascophyllum nodosum và Fucus vesiculosus tương lượng fucoidan là 0,87 , ở thời điểm này thì thế hệ ứng là 6 , 9,8  và 8 , ở các loài rong này thì hàm rong trước đã tàn lụi hoàn toàn và thế hệ cây rong lượng fucoidan đạt thấp nhất vào mùa xuân và cao mới đã mọc lên khoảng được 1 - 3 cm. Vào mùa khô nhất vào mùa thu [7]. Kết quả khảo sát mùa vụ rong (các tháng 11/2020, tháng 01/2021 và tháng 3/2021) mơ khai thác ở Quãng Ngãi cho thấy ở đảo Lý Sơn thì hàm lượng fucoidan luôn tăng theo thời kỳ sinh khai thác sớm nhất từ tháng 3 đến tháng 5, vùng ven trưởng của rong, tương ứng đạt 1,44 , 1,87  và 2,3 . biển huyện Đức Phổ từ tháng 4 đến tháng 5, vùng Kết quả phân tích ANOVA cho thấy hàm lượng ven bờ phía Bắc khai thác muộn nhất từ tháng 4 đến fucoidan ở loài rong T. decurrens từ tháng 5/2020 tháng 7 [2]. đến tháng 3/2021 đều có ý nghĩa thống kê và có sự Các kết quả nghiên cứu về hàm lượng fucoidan khác biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy trên 95 , có trong 3 loài rong nghiên cứu cũng phù hợp với đặc điều này chứng tỏ hàm lượng fucoidan ở loài rong T. tính sinh lý chung của các loài rong nâu. Tất cả các decurrens đạt cao nhất vào thời điểm tháng 5 (đầu loài rong mơ đều có một kiểu sinh trưởng và phát mùa mưa). triển là cây sống một năm và cho sinh khối nguồn lợi Tuy nhiên, đối với 2 loài rong T. ornata và S. hàng năm, hàm lượng các hợp chất polysaccharide ở polycystum thì hàm lượng fucoidan cao nhất là 2,39  các loài rong khác nhau cũng có sự khác nhau [2]. và 2,04  vào cuối mùa khô (tháng 3/2021), là giai Hàm lượng fucoidan có ít ở giai đoạn rong còn non, đoạn rong đã trưởng thành về mặt hình thể. Loài theo thời gian sống thì hàm lượng fucoidan trong rong T. ornata đạt chiều cao nhất trong khoảng 15 - rong nâu tích lũy ngày càng nhiều và đạt cực đại khi 20 cm, còn loài rong S. polycystum khoảng 40 - 50 rong trưởng thành. Sau thời gian này, rong bắt đầu cm. Đến đầu mùa mưa (tháng 5) thì các loài rong này già đi và có xu thế thoái hóa nên hàm lượng fucoidan cũng vào giai đoạn tàn lụi dần nên hàm lượng và các chất sinh học giảm [10]. fucoidan cũng sẽ giảm đi và thế hệ rong mới bắt đầu 3.2. Hàm lượng alginate ở 3 loài rong nâu ở quần hình thành nhưng tốc độ sinh trưởng chậm, cho nên đảo Nam Du, Kiên Giang N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 5/2021 151
  4. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Kết quả phân tích hàm lượng alginate ở 3 loài quả phân tích ANOVA cho thấy hàm lượng alginate ở rong nâu ở quần đảo Nam Du, Kiên Giang được thể loài rong T. decurrens từ tháng 5/2020 đến tháng hiện ở hình 2. 3/2021 đều có ý nghĩa thống kê và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy trên 95 , điều này chứng tỏ hàm lượng alginate ở loài rong T. decurrens đạt cao nhất vào thời điểm tháng 5 (đầu mùa mưa). Tuy nhiên, hàm lượng alginate cao nhất đối với 2 loài rong T. ornata và S. polycystum thì vào cuối mùa khô (tháng 3/2021) tương ứng 2,39  và 2,04 , là giai đoạn rong đã trưởng thành về mặt hình thể. Đến đầu mùa mưa (tháng 5) thì các loài rong này cũng vào giai đoạn tàn lụi nên hàm lượng alginate cũng sẽ giảm đi và thế hệ rong mới bắt đầu hình thành nhưng tốc độ sinh trưởng chậm, cho nên từ tháng Hình 2. Sự biến đổi hàm lượng alginate ở 3 loài rong 7/2020 đến tháng 01/2021 thì hàm lượng alginate ở nâu theo thời gian thu mẫu loài rong T. ornata từ 4,6  đến 18,62  và ở loài rong S. polycystum từ 3,59  đến 20,11 . Kết quả phân tích Hình 2 cho thấy hàm lượng alginate ở 3 loài rong ANOVA cho thấy hàm lượng alginate ở 2 loài rong T. nâu (T. decurrens, T. ornata và S. polycystum) có sự biến đổi vào mùa mưa và mùa khô. So với khối lượng ornata và loài S. polycystum từ tháng 5/2020 đến tháng 3/2021 đều có ý nghĩa thống kê và có sự khác rong khô, hàm lượng alginate ở loài rong nâu T. biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy trên 95 , điều decurrens đạt cao nhất là vào tháng 5 (đầu mùa mưa) này chứng tỏ hàm lượng alginate ở loài rong T. là 31,16 , trong khi đó hàm lượng alginate ở 2 loài rong nâu T. ornata và S. polycystum đạt cao nhất vào ornata và loài S. polycystum đạt cao nhất vào thời điểm tháng 3 (cuối mùa khô). tháng 3 (cuối mùa khô) tương ứng là 26,3  và 28,6 . Sau khi tích lũy đạt hàm lượng alginate cao nhất thì Ragaza và Hurtado (1999) khảo sát trên 3 loài sau đó chúng sẽ giảm dần ở giai đoạn rong tàn lụi và rong nâu S. carpophyllum, S. ilicifolium và S. hàm lượng alginate sẽ tích lũy tăng dần trong thời kỳ siliquosum đều có hàm lượng alginate thấp nhất vào sinh trưởng của thế hệ tiếp theo. Kết quả phân tích tháng 3, nhưng hàm lượng alginate đạt cao nhất vào ANOVA cho thấy hàm lượng alginate của 3 loài rong tháng 1 ở loài rong S. carpophyllum (32 ) và tháng nâu trong thời gian khảo sát đều có ý nghĩa thống kê 10 ở 2 loài rong S. ilicifolium (23 ) và S. siliquosum và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy (32 ) [13]. Nghiên cứu của Chee và cộng sự (2011) trên 95 . cũng cho thấy hàm lượng alginate cũng có sự khác Hàm lượng alginate ở loài rong T. decurrens đạt nhau phụ thuộc vào loài rong, cụ thể là hàm lượng cao nhất là 31,16  vào đầu mùa mưa (tháng 5/2020), alginate ở các loài rong S. siliquosum, T. conoides, là giai đoạn rong đã trưởng thành về mặt hình thể S. binderi và S. baccularia tương ứng là 49 , 41,4 , cây rong phát triển đến độ cao cực đại khoảng 20 – 38,9  và 26,7  [6]. Widyastuti (2009) thấy rằng hàm 25 cm, các lá rong cách rễ khoảng 5 cm phân bố đều lượng alginate nhiều hơn 10  ở các loài rong Padina đến ngọn. Hàm lượng alginate vào tháng 7/2020 sp., Dictyota sp., Dictyota sp., S. polycystum, T. giảm còn 18,44 , lúc này rong đã vào giai đoạn tàn ornate và T. murayana. Trong khi đó cũng có nhiều lụi dần, các lá rong chỉ còn lại ở phần ngọn khoảng loài rong có hàm lượng alginate dưới 10  như S. 1/3 so với chiều cao của cây rong. Ở thời điểm gần aquifolium, Sargassum sp., T. conoides, S. cuối mùa mưa (tháng 9/2020) thì hàm lượng alginate crassifolium, S. polycystum, S. cristaefolium và là 9,54 , ở thời điểm này thì thế hệ rong trước đã tàn Hormophysa sp. [16]. Nghiên cứu của Kusumawati lụi hoàn toàn và thế hệ cây rong mới đã mọc lên và cộng sự (2018) xác định được hàm lượng alginate khoảng được 1 – 3 cm. Vào mùa khô (các tháng ở loài rong nâu Sargassum sp. là 24,56  còn đối với 11/2020, tháng 01/2021 và tháng 3/2021) thì hàm loài Turbinaria sp. là 22,69  [11]. Các kết quả nghiên lượng alginate luôn tăng theo thời kỳ sinh trưởng của cứu về hàm lượng alginate có trong 3 loài rong rong, tương ứng đạt 15,79 , 19,45  và 25,99 . Kết nghiên cứu cũng phù hợp với đặc tính sinh lý chung 152 N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 5/2021
  5. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ của các loài rong nâu. Tất cả các loài rong mơ đều có 5. Titlyanov, E. A., T. V. Titlyanova, Phạm Văn một kiểu sinh trưởng và phát triển là cây sống một Huyên (2012). Nguồn lợi, sử dụng và nuôi trồng rong năm và cho sinh khối nguồn lợi hàng năm, hàm ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển - lượng các hợp chất polysaccharide ở các loài rong Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, T12 khác nhau cũng có sự khác nhau [2]. Hàm lượng (1), trang 87-98. alginate có ít ở giai đoạn rong còn non, theo thời kỳ 6. Chee, S. Y., Wong, P. K. and Wong, C. L. sinh trưởng thì hàm lượng alginate trong rong nâu (2011). Extraction and characterisation of alginate tích lũy ngày càng nhiều và đạt cực đại khi rong from brown seaweeds (Fucales, Phaeophyceae) trưởng thành. Sau thời gian này, rong bắt đầu già đi collected from Port Dickson, Peninsular Malaysia. và có xu thế thoái hóa nên hàm lượng alginate và các Journal of Applied Phycology, 23 (2), pp. 191-196. chất sinh học giảm [10]. 7. Fletcher, H. R., Biller, P., Ross, A. B. and 4. KẾT LUẬN Adams, J. M. M. (2017). The seasonal variation of fucoidan within three species of brown macroalgae. Hàm lượng fucoidan và alginate có trong 3 loài Algal Research, 22, pp. 79-86. rong nâu ở quần đảo Nam Du, tỉnh Kiên Giang có sự 8. Gupta, S. and Abu-Ghannam, N. (2011). biến đổi phụ thuộc vào giống loài, thời kỳ sinh Bioactive potential and possible health effects of trưởng và mùa vụ. Các loài rong nâu khác nhau thì edible brown seaweeds. Trends in Food Science & hàm lượng fucoidan và alginate cũng có sự khác Technology, 22(6), pp. 315-326. nhau. Hàm lượng fucoidan và alginate sẽ tăng dần 9. Haug, A. (1968). Preparation of alginic acid theo thời gian sinh trưởng của rong và hàm lượng by extraction of algae. Patent Number US 3396158 A. cao nhất khi rong trưởng thành, sau đó hàm lượng sẽ 10. Khairy, H. M. and El - Shafay, S. M. (2013). giảm dần theo thời kỳ tàn lụi của rong nâu. Kết quả Seasonal variations in the biochemical composition nghiên cứu đã xác định được hàm lượng fucoidan và of some common seaweed species from the coast of alginate đạt cao nhất vào thời điểm đầu mùa mưa Abu Qir Bay, Alexandria, Egypt. Oceanologia, 55 (2), (tháng 5) đối với loài rong T. decurrens (tương ứng pp. 435-452. là 2,89  và 31,16 ). Trong khi đó, vào cuối mùa khô 11. Kusumawati, R., Basmal, J. and Utomo, B. B. (tháng 3) thì hàm lượng fucoidan và alginate sẽ đạt (2018). Physicochemical characteristics of sodium cao nhất ở loài rong T. ornata (tương ứng là 2,39  và alginate extracted from Turbinaria sp. and 26,3 ) và ở loài rong S. polycystum (tương ứng là Sargassum sp.. Squalen Bulletin of Marine and 2,04  và 28,6 ). Fisheries Postharvest and Biotechnology, 13 (2), pp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 - 84. 1. Bộ Y tế (2019). Thông tư số 24/2019/TT- 12. Lee, K. Y. and Mooney, D. J. (2012) Alginate: BYT ngày 30 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y properties and biomedical applications. Progress in tế. Quy định về quản lý và sử dụng phụ gia thực Polymer Science, 37 (1), pp. 106 -126. phẩm, Hà Nội. 13. Ragaza, A. R. and Hurtado, A. Q. (1999). 2. Lê Như Hậu (2014). Đánh giá hiện trạng Sargassum Studies in Currimao, Ilocos Norte, nguồn lợi rong mơ tại Quảng Ngãi và đề xuất các giải Northern Philippines II. Seasonal Variations in pháp khai thác và phát triển bền vững. Báo cáo tổng Alginate Yield and Viscosity of Sargassum kết đề tài khoa học và công nghệ, trang 1 - 27. carpophyllum J. Agardh, Sargassum ilicifolium 3. Nguyễn Duy Nhứt (2008). Nghiên cứu thành (Turner) C. Agardh and Sargassum siliquosum J. phần hóa học và hoạt tính sinh học của Agardh (Phaeophyta, Sargassaceae). Botanica polysaccharide từ một số loài rong nâu ở tỉnh Khánh Marina, 42, pp. 327 - 331. Hòa. Luận án tiến sỹ hóa học. Viện Hóa học, Viện 14. Skjåk - Bræk, G. and Draget, K. I. (2012). Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội. Alginate: properties and biomedical applications. 4. Nguyễn Duy Nhứt, Bùi Minh Lý, Nguyễn Journal of Applied Biotechnology, 37 (1), pp. 213 - Mạnh Cường và Trần Văn Sung (2007). Phân lập và 219. đặc điểm của fucoidan từ năm loài rong mơ ở miền 15. Skriptsova, A. V. (2016). Seasonal variations Trung. Tạp chí Hóa học, 45 (3), trang 339-343. in the fucoidan content of brown algae from Peter the N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 5/2021 153
  6. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Great Bay, Sea of Japan. Russian Journal of Marine 17. Pawar, S. N. and Edgar, K. J. (2012). Alginate Biology, 42 (4), tr. 351- 356. derivatization: a review of chemistry, properties and 16. Widyastuti, S. (2009). Alginate Content of the applications. Biomaterials, 33 (11), pp. 3279 - 3305. Seaweeds Grown in Coastal Zone of Lombok 18. Zayed, A. and Ulber, R. (2019). Fucoidan Extracted by Two Extraction Methods. Journal production: Approval key challenges and Teknologi Pertanian, 10(3), pp. 144 - 152. opportunities. Carbohydrate Polymers, 211, pp. 289 - 297. CONTENTS OF FUCOIDAN AND ALGINATE IN SOME BROWN ALGAE SPECIES FROM NAM DU ARCHIPELAGO, KIEN GIANG Nguyen Van Thanh, Tran Nhat My, Nguyen Van An, Le Hoang Phuong, Bui Van Nguyen Summary This study was conducted to determine the changes in fucoidan and alginate contents of some brown seaweed species from Nam Du archipelago, the sea of Kien Giang. The results showed that the fucoidan and alginate contents are varied depend on species, growth period and seasons. By the dry algae, the highest fucoidan and contents at the end of the dry season (in March) for brown seaweed species T. ornata (2.39  and 26.3 , respectively) and the S. Polycystum (2.04  and 28.6 , respectively). However, the highest fucoidan and alginate contents of T. decurrens algae in the beginning rainy season (in May) were 2.89  and 31.16 , respectively. Keywords: Alginate, fucoidan, contents, brown seaweed, Nam Du, Kien Giang. Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Xuân Lý Ngày nhận bài: 8/3/2021 Ngày thông qua phản biện: 8/4/2021 Ngày duyệt đăng: 15/4/2021 154 N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 5/2021
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2