intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hàm lượng urê trong hải sản ở Khánh Hòa

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

27
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nghiên cứu này nhằm cung cấp những thông tin về hàm lượng urê trong các loài hải sản (cá ngừ bò, cá nục, mực, cá đổng và cá cờ) đại diện cho 5 loại hình nghề khai thác có sản lượng lớn và tiêu thụ nhiều ở Khánh Hòa. Hàm lượng urê được phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao với đầu dò huỳnh quang (HPLC-FLD: High-performance liquid chromatography with fl uorescence detection) trên các mẫu được lấy tại các cảng cá, cơ sở thu mua hải sản và các chợ ở Khánh Hòa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hàm lượng urê trong hải sản ở Khánh Hòa

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 4/2016<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> HÀM LƯỢNG URÊ TRONG HẢI SẢN Ở KHÁNH HÒA<br /> UREA CONTENTS IN SEAFOOD AT KHANH HOA PROVINCE<br /> Nguyễn Thuần Anh1, Đỗ Thị Thanh Thủy1<br /> Ngày nhận bài: 03/8/2015; Ngày phản biện thông qua: 8/12/2015; Ngày duyệt đăng:15/12/2016<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục đích của nghiên cứu này nhằm cung cấp những thông tin về hàm lượng urê trong các loài hải sản<br /> (cá ngừ bò, cá nục, mực, cá đổng và cá cờ) đại diện cho 5 loại hình nghề khai thác có sản lượng lớn và tiêu<br /> thụ nhiều ở Khánh Hòa. Hàm lượng urê được phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao với đầu<br /> dò huỳnh quang (HPLC-FLD: High-performance liquid chromatography with fluorescence detection) trên các<br /> mẫu được lấy tại các cảng cá, cơ sở thu mua hải sản và các chợ ở Khánh Hòa. Kết quả phân tích cho thấy có<br /> 271 trong số 390 mẫu có urê với các hàm lượng khác nhau, cao nhất là 5,01 g/kg. Tỷ lệ mẫu phát hiện có urê<br /> ở các loài hải sản khai thác như sau: cá nục (15,9%), cá ngừ bò (13,8%), cá cờ (13,8%), cá đổng (13,8%) và<br /> mực (12,1%). Tại các chợ cá, tỷ lệ mẫu phát hiện có urê (32,6%) cao hơn so với cơ sở thu mua hải sản (24,6%)<br /> và cảng (12,3%). Hàm lượng urê trung bình trong cá ngừ bò (1,69 g/kg), mực (1,81 g/kg), cá đổng (1,62 g/kg)<br /> cao hơn trong cá cờ (1,27 g/kg) và cá nục (0,99 g/kg). Nghiên cứu đã cung cấp những thông tin có giá trị để<br /> tiếp tục thực hiện việc đánh giá nguy cơ phơi nhiễm urê đối với người tiêu dùng do ăn hải sản và từ đó có các<br /> giải pháp quản lý an toàn thực phẩm hải sản hiệu quả.<br /> Từ khóa: thủy sản, urê, cảng cá, cơ sở thu mua hải sản, chợ cá, Khánh Hòa<br /> ABSTRACT<br /> This paper aims to provide data of urea contents in the seafood consumed in a great amount which<br /> are representative of the 5 popular fisheries exploitation types having great yields at Khanh Hoa province.<br /> The urea contents of the samples from the fish ports, seafood purchace agencies and fish markets at Khanh<br /> Hoa province are determined by HPLC-FLD (High Performance Liquid Chromatography with fluorescence<br /> detection). The results showed that there were 271 in 390 samples contaminated by urea in different contents,<br /> the maximum is 5.01 g/kg. The rate of the seafood sample contaminated by urea decreased in the following<br /> order: tune (15.9%), round scad (13.8%), squid (13.8%), horsehead fish (13.8%) and paradise fish (12.1%).<br /> In the markets, the rate of the seafood sample contaminated by urea (37.7%) is higher than those in the<br /> seafood purchase agencies (31.8%) and in the fish ports (16.9%). The average urea contents in the tune (1.69<br /> g/kg), the squid (1.81 g/kg), the horsehead fish (1.62 g/kg) are higher than those in the paradise fish (1.27 g/kg)<br /> and the round scad (0.99 g/kg). This study provided valuable information for continuing to assess urea risk to<br /> consumers due to seafood consumption, hence giving the solutions for the efficient seafood safety management.<br /> Keywords: seafood, urea, fish port, seafood purchase agency, fish market, Khanh Hoa<br /> <br /> 1<br /> <br /> Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> NHA TRANG UNIVERSITY • 11<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Urê là một loại phân bón hóa học được<br /> dùng trong nông nghiệp để tăng lượng đạm<br /> cho cây trồng và không phải là hóa chất bảo<br /> quản thực phẩm. Ở Việt Nam trong mấy năm<br /> gần đây đã có nhiều người kinh doanh thực<br /> phẩm, thủy sản tươi sống sử dụng urê trộn với<br /> đá để bảo quản thực phẩm vì khi urê hòa tan<br /> trong nước, nước sẽ trở nên lạnh do phản ứng<br /> thu nhiệt, nhờ vậy mà thịt cá được tươi lâu.<br /> Việc lạm dụng urê trong bảo quản là do các<br /> chuyến đi biển kéo dài, thời gian bảo quản cá<br /> sau thu hoạch dài, nước đá bảo quản không<br /> đủ, trang bị thiết bị bảo quản chưa đầy đủ,<br /> chưa phù hợp cho việc bảo quản hải sản dài<br /> ngày. Bên cạnh đó, urê lại rất dễ mua, dễ sử<br /> dụng, giá rẻ; cộng với sự thiếu hiểu biết, ý thức,<br /> thái độ không tốt của người tham gia cung ứng<br /> hải sản về vấn đề an toàn thực phẩm. Ngoài<br /> ra, công tác quản lý còn chưa tốt, chế tài xử<br /> phạt chưa đủ sức răn đe, công tác phối hợp<br /> giữa các đơn vị chưa hợp lý; tổ chức chưa<br /> hoàn thiện, thiếu kinh phí hoạt động, hình thức<br /> truyền thông về các mối nguy gây mất an toàn<br /> thực phẩm chưa thật sự phong phú. Các lý do<br /> trên đã tạo nên nguy cơ về mối nguy urê trong<br /> hải sản.<br /> Urê không nằm trong danh mục các chất<br /> phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm<br /> được ban hành kèm theo Thông tư số 27/2012/<br /> TT-BYT - Thông tư quản lý phụ gia thực phẩm<br /> của Bộ Y tế [4] cũng không có trong danh mục<br /> phụ gia thực phẩm do Ủy ban Tiêu chuẩn Thực<br /> phẩm (CODEX) ban hành.<br /> Thường xuyên ăn phải những thức ăn có<br /> ướp urê mặc dù hàm lượng thấp sẽ bị ngộ<br /> độc mãn tính với các dấu hiệu mất ngủ kéo<br /> dài, đau đầu, nhức mỏi cơ thể, giảm trí nhớ,<br /> thường bị chuột rút, chán ăn dẫn đến suy dinh<br /> dưỡng, viêm loét ruột, mất cân bằng canxi và<br /> phospho gây loãng xương… Khi ăn phải thực<br /> phẩm chứa dư lượng urê cao thì người ăn có<br /> thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng đau<br /> bụng, buồn nôn, tiêu chảy, khó thở, suy tim,<br /> xơ cứng động mạnh có thể dẫn tới tử vong.<br /> <br /> 12 • NHA TRANG UNIVERSITY<br /> <br /> Số 4/2016<br /> Ngoài ra, còn có các tổn thương khác như: tiểu<br /> đường, suy giảm chức năng tuyến giáp, suy<br /> giảm tình dục, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ.<br /> Trên động vật thí nghiệm, cho tiếp xúc với liều<br /> lượng lớn, kéo dài bằng các đường khác nhau<br /> (da, hô hấp, tiêu hóa, tĩnh mạch), có thể làm<br /> rối loạn chuyển hóa, rối loạn sinh sản… Ngoài<br /> ảnh hưởng đối với sức khỏe người tiêu dùng<br /> của chính urê, thì chúng còn có thể gây hại<br /> cho sức khỏe do các kim loại nặng như chì,<br /> thủy ngân, cadimi… có thể còn lẫn nhiều trong<br /> urê sử dụng trong nông nghiệp có độ tinh khiết<br /> không cao [12].<br /> Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm<br /> Thủy sản Bình Thuận (2010) đã báo cáo có<br /> 33,3% số mẫu thủy sản lấy tại Bình Thuận<br /> trong 8 tháng đầu năm 2010 có chứa urê [6].<br /> Chi cục VSATTP TP. Hồ Chí Minh đã phát hiện<br /> 40/67 mẫu ở chợ Bình Điền có urê [14].<br /> Ở tỉnh Khánh Hòa, nghiên cứu của Nguyễn<br /> Thị Ngọc Huệ (2005) cho thấy 42,39% số mẫu<br /> hải sản có urê, trong đó mực 23,33% và cá<br /> 61,76% [10]. Lê Tấn Phùng và cộng sự (2010)<br /> đã xác định được 24/30 (80%) mẫu cá ở<br /> Khánh Hòa có chứa urê, hàm lượng urê cao<br /> nhất là 2,66 g/kg, thấp nhất là 0,28 g/kg; số<br /> mẫu có hàm lượng urê trên 1g/kg là 11 mẫu,<br /> chiếm tỷ lệ 45,8% [9]. Trong năm 2012, Chi cục<br /> ATVSTP đã tiến hành kiểm tra 234 mẫu và có<br /> 28 mẫu không đạt các chỉ tiêu an toàn thực<br /> phẩm, trong đó phát hiện có mẫu mực tươi sử<br /> dụng phân urê bảo quản [5].<br /> Báo cáo của Cục ATTP (2012) cho thấy<br /> 54/60 mẫu cá biển tại tàu cá, cảng cá, bến<br /> cá và các chợ bán buôn, bán lẻ thủy sản có<br /> urê nhưng ở mức thấp (nằm trong khoảng<br /> 10-125 ppm) [8].<br /> Mặc dù việc sử dụng urê trong hải sản khá<br /> phổ biến nhưng những nghiên cứu, những<br /> phân tích kiểm nghiệm liên quan lại không<br /> nhiều và cũng chưa thực hiện trên toàn bộ<br /> chuỗi cung ứng để có được những nhận định<br /> cụ thể về nguyên nhân nhiễm mối nguy urê.<br /> Tỉnh Khánh Hòa, một tỉnh có sản lượng đánh<br /> bắt và tiêu thụ hải sản lớn, là đầu mối cung cấp<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> hải sản quan trọng cho cả nước thì việc đánh<br /> giá hàm lượng urê trong hải sản khai thác là<br /> vấn đề mang tính chất thời sự và cấp thiết cao.<br /> II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG<br /> PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Đối tượng nghiên cứu: là 5 loại hải sản đại<br /> diện cho 5 loại hình nghề khai thác ở Khánh<br /> Hòa (Sản phẩm nghề chụp: mực, sản phẩm<br /> nghề lưới kéo: cá đổng, sản phẩm nghề lưới<br /> rê: cá ngừ bò, sản phẩm nghề lưới vây: cá nục,<br /> sản phẩm nghề câu: cá cờ). Đây là các loại hải<br /> sản được khai thác với sản lượng lớn và tiêu<br /> thụ nhiều tại Khánh Hòa.<br /> Mẫu để phân tích urê được lấy tại:<br /> - 5 cảng cá (cảng cá Hòn Rớ, cảng cá Vĩnh<br /> Trường, cảng cá Vĩnh Lương, cảng cá Đá Bạc<br /> và cảng cá Đại Lãnh)<br /> - 11 chợ loại 1 và loại 2 ở Khánh Hòa gồm<br /> 5 chợ loại 1 và 2 ở Nha Trang (chợ Đầm, chợ<br /> Xóm Mới, chợ Vĩnh Hải, chợ Phước Thái, chợ<br /> Phương Sơn), 1 chợ loại 2 ở Cam Ranh (chợ<br /> Ba Ngòi), 2 chợ loại 2 ở Ninh Hòa (chợ Dinh,<br /> chợ Dục Mỹ), 2 chợ loại 2 ở Vạn Ninh (chợ<br /> Đại Lãnh, chợ Tu Bông) và chợ cá Nam Trung<br /> Bộ. Lý do chỉ chọn các chợ loại 1, loại 2 (trong<br /> tổng cộng 140 chợ thương mại ở Khánh Hòa)<br /> và chợ cá Nam Trung Bộ làm đối tượng nghiên<br /> cứu là do các chợ trên có tổng số người buôn<br /> bán hải sản nhiều, có quy mô lớn, có khu vực<br /> riêng để bán hải sản và cũng là các đầu mối<br /> phân phối hải sản đến các khu vực buôn bán<br /> hải sản khác trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.<br /> - 101 cơ sở mua bán hải sản (47 cơ sở<br /> mua bán ở thành phố Nha Trang, 22 cơ sở<br /> mua bán hải sản ở Cam Ranh, 14 cơ sở mua<br /> bán hải sản ở huyện Ninh Hòa, 18 cơ sở mua<br /> bán hải sản ở huyện Vạn Ninh [7]): lập danh<br /> sách 101 cơ sở mua bán hải sản theo địa<br /> phương và theo thứ tự alphabet của tên cơ<br /> sở, số cơ sở thu mua cần được chọn lựa để<br /> lấy mẫu là 10<br /> <br /> [1]. Các<br /> cơ sở được chọn lựa để lấy mẫu theo phương<br /> pháp lấy mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Khoảng<br /> cách chọn lựa các cơ sở là 10 (101/10), tức là<br /> <br /> Số 4/2016<br /> cứ cách 10 cơ sở thì 1 cơ sở mua bán lại được<br /> chọn trong danh sách. Cụ thể số cơ sở mua<br /> bán được chọn là: 4 cơ sở mua bán tại Nha<br /> Trang, 2 cơ sở mua bán tại Cam Ranh, 2 cơ<br /> sở mua bán tại Ninh Hòa và 2 cơ sở mua bán<br /> tại Vạn Ninh. Tại 10 cơ sở được chọn lựa, tiến<br /> hành lấy mẫu. Nếu cơ sở nào không có loại hải<br /> sản cần lấy mẫu thì tiến hành lấy mẫu hải sản<br /> đó tại các cơ sở mua bán hải sản kế tiếp trong<br /> danh sách.<br /> Số lượng mẫu của 5 loại hải sản được lấy<br /> tại 5 cảng, 11 chợ và 10 cơ sở mua bán hải sản<br /> ở 3 đợt trải đều trong năm 2014 là 390 mẫu<br /> (5 loại*(5 cảng + 11 chợ +10 cơ sở mua bán)* 3<br /> đợt = 390 mẫu). Lấy mẫu được thực hiện theo<br /> quy định của Bộ Y tế tại Thông tư số 14/2011/<br /> TT-BYT ngày 01/4/2011 với khối lượng mẫu<br /> lấy tại 1 điểm trong 1 lần thu mẫu là 1,5 kg (nếu<br /> khối lượng của cá thể lớn hơn 1,5 kg thì lấy<br /> toàn bộ cá thể ấy) [3]. Mẫu được lấy phải đảm<br /> bảo tính đại diện, khách quan và ngẫu nhiên.<br /> Mẫu sau khi lấy được bao gói và ghi ký mã<br /> hiệu nhận diện. Các mẫu nhanh chóng được<br /> mang đi phân tích tại phòng thí nghiệm thuộc<br /> Trung tâm Thí nghiệm Thực hành - Trường<br /> Đại học Nha Trang. Điều kiện bảo quản mẫu<br /> ở nhiệt độ -800C.<br /> Hàm lượng urê được xác định bằng<br /> phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao với<br /> đầu dò huỳnh quang (TCVN 8025:2009) [15]<br /> với giới hạn phát hiện LOD = 10 mg/kg. Kết<br /> quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.<br /> Sự khác biệt về hàm lượng urê trung bình<br /> giữa các loại hải sản khai thác tại Khánh Hòa<br /> đã được kiểm tra bằng phép phân tích phương<br /> sai một yếu tố kèm theo phép so sánh luân<br /> phiên từng cặp để thể hiện sự sai khác có ý<br /> nghĩa thống kê của các giá trị hàm lượng urê.<br /> Sự khác biệt hàm lượng urê trung bình được<br /> coi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Tỷ lệ mẫu phát hiện có urê<br /> Tỷ lệ (%) mẫu các loại hải sản được phát<br /> hiện có urê được thể hiện trong Hình 1.<br /> NHA TRANG UNIVERSITY • 13<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Hình 1. Tỷ lệ (%) mẫu phát hiện có urê trong các loại<br /> hải sản khác nhau<br /> <br /> Tỷ lệ (%) mẫu hải sản tại các địa điểm lấy<br /> mẫu khác nhau (cảng, cơ sở thu mua hải sản,<br /> chợ cá) được phát hiện có urê được trình bày<br /> ở Hình 2.<br /> <br /> Hình 2. Tỷ lệ mẫu phát hiện có urê tại cảng, chợ<br /> và cơ sở thu mua ở Khánh Hòa<br /> <br /> Kết quả trình bày ở Hình 1 và 2 cho thấy<br /> có 69,5% số mẫu (271 mẫu trong số 390 mẫu<br /> hải sản phân tích) phát hiện có urê. Trong đó<br /> tỷ lệ mẫu phát hiện có urê ở các loài hải sản<br /> khai thác như sau: cá nục (15,9%), cá ngừ bò<br /> (13,8%), cá cờ (13,8%), cá đổng (13,8%) và<br /> mực (12,1%). Các mẫu phát hiện có urê nhiều<br /> nhất là ở chợ cá (32,6%) sau đó là cơ sở thu<br /> mua (24,6%) và ít nhất là ở cảng cá (12,3%).<br /> Urê nếu có trong hải sản có thể do nội sinh<br /> hoặc ngoại sinh (thêm từ ngoài vào):<br /> - Urê nội sinh do quá trình phân giải các<br /> thành phần có đạm trong cơ thịt động vật thủy<br /> sản như: protein, axit amin, axit creatinin...<br /> Hàm lượng urê trong loài cá xương sụn<br /> như cá nhám khoảng 1.000 - 2.000 mg%.<br /> Với cá xương cứng và những động vật thủy<br /> sản không xương sống khác chỉ có khoảng<br /> 1-10 mg% [11].<br /> <br /> 14 • NHA TRANG UNIVERSITY<br /> <br /> Số 4/2016<br /> - Urê ngoại sinh là urê do người tham gia<br /> cung ứng hải sản (ngư dân và người buôn<br /> bán) đưa vào để bảo quản hải sản tươi vì khi<br /> hòa tan urê trong nước sẽ làm lạnh môi trường<br /> nước. Tuy nhiên, urê khi sử dụng trong bảo<br /> quản hải sản sau thu hoạch có thể làm hải sản<br /> nhiễm mối nguy urê (urê ngoại sinh).<br /> Tại các chợ cá, tỷ lệ mẫu phát hiện có urê<br /> (32,6%) cao hơn so với cơ sở thu mua hải sản<br /> (24,6%) và cảng (12,3%). Nguyên nhân có<br /> thể do: tại các chợ thương mại, khi thời gian<br /> lưu giữ hải sản kéo dài hơn 12 tiếng, đặc biệt<br /> có trường hợp hải sản không bán hết trong<br /> ngày nhưng không được bảo quản đúng cách<br /> đã làm hải sản giảm chất lượng và nhanh hư<br /> hỏng, quá trình phân hủy protein tạo urê cũng<br /> diễn ra nhanh hơn, do đó mà urê nội sinh sinh<br /> ra nhiều. Nguyên nhân khác có thể do người<br /> cung ứng hải sản tại chợ muốn hải sản nhìn<br /> tươi hơn và bảo quản lâu hơn nên đã sử dụng<br /> urê để bảo quản hải sản.<br /> Tại các cơ sở thu mua hải sản, tỷ lệ mẫu<br /> phát hiện có urê ở mức thấp hơn so với chợ có<br /> thể là do cơ sở thu mua có điều kiện bảo quản<br /> tốt hơn ở chợ nên hàm lượng urê nội sinh sinh<br /> ra trong quá trình bảo quản thấp hơn ở chợ.<br /> Mặt khác, tại cơ sở thu mua khi bán cho các<br /> công ty chế biến hải sản thì cơ sở thu mua phải<br /> cam kết đảm bảo chất lượng ATTP hải sản nên<br /> họ ít sử dụng urê để bảo quản hải sản hơn so<br /> với chợ.<br /> Tại các cảng cá, tỷ lệ mẫu hải sản phát<br /> hiện có urê ở mức thấp nhất có thể là do đây<br /> là mắt xích đầu tiên trong chuỗi cung ứng hải<br /> sản khai thác nên thời gian bảo quản hải sản<br /> kể từ khi đánh bắt ngắn hơn so với tại các mắt<br /> xích tiếp theo nên lượng urê nội sinh hay ngoại<br /> sinh nếu có cũng không nhiều bằng ở các mắt<br /> xích tiếp theo.<br /> 2. Hàm lượng urê trung bình trong hải sản<br /> khai thác tại Khánh Hòa<br /> Hàm lượng urê trong 5 loại hải sản (Cá<br /> nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng) được<br /> trình bày trong Bảng 1.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 4/2016<br /> <br /> Bảng 1. Hàm lượng urê (g/kg) trong 5 loại hải sản (cá nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng)<br /> Hàm lượng urê (g/kg)<br /> <br /> Loại hải sản<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Nhỏ nhất<br /> <br /> Lớn nhất<br /> <br /> Cá ngừ bò<br /> <br /> 1,69<br /> <br /> 0,91<br /> <br /> 3,12<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 1,81<br /> <br /> 0,32<br /> <br /> 3,38<br /> <br /> Cá đổng<br /> <br /> 1,62<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> 3,67<br /> <br /> Cá cờ<br /> <br /> 1,27<br /> <br /> 0,21<br /> <br /> 5,01<br /> <br /> Cá nục<br /> <br /> 0,99<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> 2,67<br /> <br /> Việc kiểm tra bằng phép phân tích phương<br /> sai một yếu tố kèm theo phép so sánh luân<br /> phiên từng cặp cho thấy không có sự khác<br /> biệt có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) hàm lượng<br /> urê trung bình giữa cá ngừ bò, mực, cá đổng;<br /> và giữa cá cờ với cá nục. Kết quả trình bày<br /> ở Bảng 1 cho thấy hàm lượng urê trung bình<br /> <br /> trong cá ngừ bò (1,69 g/kg), mực (1,81 g/kg),<br /> cá đổng (1,62 g/kg) cao hơn trong cá cờ<br /> (1,27 g/kg) và cá nục (0,99 g/kg).<br /> Hàm lượng urê (g/kg) trong 5 loài hải sản<br /> (Cá nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng)<br /> được thu mẫu tại cảng, chợ và cơ sở thu mua<br /> được trình bày trong Bảng 2.<br /> <br /> Bảng 2. Hàm lượng urê (g/kg) trong 5 loài hải sản (Cá nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng)<br /> được thu mẫu tại cảng, chợ và cơ sở thu mua<br /> Cảng<br /> <br /> Chợ<br /> <br /> Cơ sở thu mua<br /> <br /> Hàm lượng urê (g/kg)<br /> <br /> Loại hải sản<br /> Trung bình Nhỏ nhất<br /> <br /> Lớn nhất Trung bình Nhỏ nhất<br /> <br /> Lớn nhất Trung bình Nhỏ nhất<br /> <br /> Lớn nhất<br /> <br /> Cá ngừ bò<br /> <br /> 2,07<br /> <br /> 1,02<br /> <br /> 3,12<br /> <br /> 1,42<br /> <br /> 1,15<br /> <br /> 1,88<br /> <br /> 1,72<br /> <br /> 0,91<br /> <br /> 2,88<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 1,33<br /> <br /> 1,06<br /> <br /> 1,51<br /> <br /> 2,02<br /> <br /> 0,32<br /> <br /> 3,38<br /> <br /> 1,79<br /> <br /> 1,26<br /> <br /> 2,91<br /> <br /> Cá đổng<br /> <br /> 2,01<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> 3,67<br /> <br /> 1,19<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> 2,21<br /> <br /> 1,80<br /> <br /> 0,15<br /> <br /> 3,57<br /> <br /> Cá cờ<br /> <br /> 0,95<br /> <br /> 0,32<br /> <br /> 1,46<br /> <br /> 1,36<br /> <br /> 0,21<br /> <br /> 5,01<br /> <br /> 1,34<br /> <br /> 0,21<br /> <br /> 4,31<br /> <br /> Cá nục<br /> <br /> 1,05<br /> <br /> 0,53<br /> <br /> 1,52<br /> <br /> 0,92<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> 1,92<br /> <br /> 1,02<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> 2,67<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> 1,50<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> 3,67<br /> <br /> 1,35<br /> <br /> 0,21<br /> <br /> 5,01<br /> <br /> 1,51<br /> <br /> 0,15<br /> <br /> 4,31<br /> <br /> Tuy nhiên, thông tư 29/TT-BNNPTNT của<br /> Bộ NN&PTNT và Quyết định 46/2007/QĐ-BYT<br /> của Bộ Y tế chưa quy định mức giới hạn urê<br /> trong thực phẩm thủy sản [2]. Từ 01/7/2011,<br /> theo Luật An toàn thực phẩm [13], việc đưa ra<br /> quy định về chỉ tiêu phân tích, mức giới hạn<br /> cho phép đối với từng loại sản phẩm sẽ thuộc<br /> trách nhiệm của Bộ Y tế và thường dựa trên<br /> việc tham khảo các quy định hiện hành của<br /> Codex, hoặc các tổ chức quốc tế khác về vệ<br /> sinh an toàn thực phẩm trong khi hiện nay các<br /> tổ chức này đều chưa qui định mức giới hạn<br /> cho phép của urê trong thực phẩm. Tuy vậy,<br /> kết quả ở Bảng 2 cho thấy hàm lượng ure phát<br /> hiện trong các loại hải sản thu mua ở Khánh<br /> Hòa gấp 10 - 20 lần hàm lượng ure nội sinh<br /> <br /> trong các loài cá xương cứng và những động<br /> vật thủy sản không xương sống khác (khoảng<br /> 1-10 mg%) [11]. Như vậy, các số liệu này là<br /> đáng suy ngẫm và sẽ là cơ sở để thực hiện<br /> các nghiên cứu cần thiết tiếp theo nhằm cung<br /> cấp số liệu cho việc xây dựng các qui định liên<br /> quan đến giới hạn tối đa cho phép của urê<br /> trong hải sản, từ đó thực sự đảm bảo an toàn<br /> cho người tiêu dùng.<br /> IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br /> 1. Kết luận<br /> Tại các chợ cá, tỷ lệ mẫu phát hiện có urê<br /> (32,6%) cao hơn so với cơ sở thu mua hải sản<br /> (24,6%) và cảng (12,3%). Tỷ lệ mẫu phát hiện<br /> có urê ở các loài hải sản khai thác như sau:<br /> NHA TRANG UNIVERSITY • 15<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2