intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ biểu tượng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính - Từ lí thuyết phân tâm học

Chia sẻ: Roong Kloi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

135
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết trình bày cái nhìn nhân bản về con người khiến tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính có sức lan tỏa, ánh sáng phân tâm học và hệ thống biểu tượng từ phân tâm học (biểu tượng vô thức, biểu tượng cái chết, biểu tượng phồn thực, biểu tượng văn hóa) trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ biểu tượng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính - Từ lí thuyết phân tâm học

HỆ BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH<br /> - TỪ LÍ THUYẾT PHÂN TÂM HỌC<br /> NGUYỄN THỊ LINH KA<br /> Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam<br /> LÊ THỊ HƯỜNG<br /> Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br /> Tóm tắt: Sau 1986, trong xu thế hội nhập toàn cầu, trong việc tiếp nhận<br /> những lí thuyết hiện đại, không thể phủ nhận vai trò của phân tâm học trong<br /> đời sống văn học Việt Nam. Trong sáng tác, dấu ấn phân tâm học đậm nét ở<br /> nhiều tác phẩm, trong đó tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính là một hiện tượng<br /> tiêu biểu. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ<br /> thuật của nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ<br /> thống biểu tượng đa nghĩa, tiêu biểu là biểu tượng vô thức, biểu tượng tính<br /> dục, biểu tượng văn hóa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của<br /> con người một cách sâu sắc. Cái nhìn nhân bản về con người khiến tiểu<br /> thuyết Nguyễn Đình Chính có sức lan tỏa.<br /> Từ khóa: phân tâm học, vô thức, tính dục, biểu tượng, biểu tượng văn hóa,<br /> lửa, rừng<br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU<br /> Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Chính không nhiều, nhưng với hai tác phẩm Ngày hoàng<br /> đạo và Online… ba lô cho thấy nhà văn đã viết từ vùng lan tỏa của lí thuyết phân tâm<br /> học. Dấu ấn phân tâm học không ngẫu nhiên trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết mà<br /> nhà văn có ý thức vận dụng học thuyết này để khắc họa cũng như giải mã con người<br /> hiện đại. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ thuật của<br /> nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ thống biểu tượng đa<br /> nghĩa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của con người một cách sâu sắc.<br /> 2. VIẾT TỪ ÁNH SÁNG PHÂN TÂM HỌC<br /> Một trong những vấn đề mấu chốt của học thuyết Freud trong mối quan hệ với văn học<br /> là ông đã chứng minh quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ không chỉ có ở ý<br /> thức, mà có ngay trong vô thức. Từ lí thuyết về vô thức, Freud xem tác phẩm văn học là<br /> kết quả của hoạt động thoả mãn những ham muốn bản năng và những xung động tinh<br /> thần của người nghệ sĩ; nghệ thuật như là kết quả của sự thăng hoa của sự ám ảnh vô<br /> thức con người. Tiếp nhận lí thuyết Freud, Nguyễn Đình Chính quan niệm: “…viết<br /> bằng vô thức, viết nhằm truyền đạt cảm xúc của đời sống, lột tả những xao xuyến sâu<br /> thẳm của kiếp người” [10].<br /> Theo quan niệm của Freud, viết là sự giải toả bản năng, giải toả ẩn ức. “Tác phẩm văn<br /> học trước hết là một giấc mơ. Nó phản ảnh những ham muốn vô thức” [9, tr. 12]. Bàn<br /> về tiểu thuyết, Nguyễn Đình Chính tâm sự: “Sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật trong đó<br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 04(40)/2016: tr. 5-13<br /> <br /> 6<br /> <br /> NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG<br /> <br /> có việc viết tiểu thuyết, suy cho cùng là một sự xả stress, giải toả những ẩn ức hết sức cá<br /> nhân… Viết không phải nghĩ nhiều, hoàn toàn từ vô thức, để cho nhân vật dắt mình.<br /> Viết rất nhanh. Nhiều lúc ghi không kịp” [6].<br /> Bàn về hoạt động sáng tác, theo Nguyễn Đình Chính: “Tác giả tiểu thuyết không thể<br /> sáng tạo ra một nhân vật thời đại phức tạp, đa chiều, đầy mâu thuẫn nếu anh thờ ơ với<br /> phân tâm học hoặc là nghiên cứu phân tâm học một cách cẩu thả” [3]. Điều đó cho thấy<br /> nhà văn đã có ý thức vận dụng lí thuyết phân tâm học trong hoạt động sáng tạo - đặc<br /> biệt là tiểu thuyết. Nhà văn quan niệm: “Mỗi người thường cất giấu trong chỗ sâu kín<br /> nhất của tâm hồn mình một cái gì về tình dục (thí dụ sự ham muốn, những màu sắc của<br /> khoái cảm, những mặc cảm về đạo đức...) mà chính họ cũng hơi hổ thẹn, chưa dám,<br /> hoặc chưa quen phơi bầy, chia sẻ... Tôi muốn bóc ra những lớp bí mật đó” [7].<br /> Từ những quan niệm trên, Nguyễn Đình Chính đã tổ chức văn bản nghệ thuật đa dạng<br /> để phân tích tâm lí, bóc tách “cái tôi ẩn mật” (Kundera), đặc biệt qua hệ thống biểu<br /> tượng dày đặc trong tác phẩm.<br /> 3. HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TỪ PHÂN TÂM HỌC<br /> 3.1. Biểu tượng vô thức<br /> Theo S.Freud, tận thẳm sâu nơi tâm hồn mỗi con người là cả một đại dương mênh<br /> mông, bao la, vô tận; ở đó, vô thức là chúa tể thống ngự. Từ quan niệm đa chiều về con<br /> người, nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính được soi rọi đến tận thấu đời sống<br /> bên trong, những vùng mờ vô thức; những mặc cảm, những giằng xé giữa cái ấy (id),<br /> cái tôi (ego) và cái siêu tôi (superego). Vùng vô thức thực sự trở thành đối tượng thẩm<br /> mỹ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính qua một hệ thống biểu tượng được sử dụng đa<br /> nghĩa, nhằm giải mã vùng mờ tâm linh.<br /> Một trong những biểu hiện động của vô thức là nhiễu tâm, giấc mơ, hành vi bị lỡ, lỡ lời,<br /> nói nhịu... Với những hành vi sai lạc trong đời sống con người, Freud đã lí giải: Con<br /> người luôn bị ràng buộc bởi những quy chuẩn đạo đức mà chính họ đã đề ra. Đó là<br /> nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn giữa ham muốn mãnh liệt với giới hạn hành vi có<br /> thể thực hiện trên thực tế. Mâu thuẫn này là thường trực nên con người luôn phải đấu<br /> tranh nội tâm để dung hòa chúng sao cho vừa có thể thỏa mãn những ham muốn một<br /> cách hợp lý, vừa không vi phạm những chuẩn tắc đạo đức, tức là phải tạo ra sự cân bằng<br /> về mặt tâm lý. Song không phải lúc nào sự cân bằng đó cũng được đảm bảo. Từ đó nảy<br /> sinh những hành vi mà ngay cả bản thân người thực hiện nó cũng không hề hay biết.<br /> Nhiều nhân vật của Nguyễn Đình Chính rơi vào hành vi sai lạc không qua sự kiểm soát<br /> của ý thức (bác sĩ Cần, cha Tạc trong Ngày hoàng đạo, nhân vật Zê trong Online…ba<br /> lô). Những hành vi nhiễu tâm ở nhân vật bác sĩ Cần thể hiện rõ nét qua những bước<br /> chân vô định, đi mà không hiểu tại sao mình đi, hành động mà không hiểu tại sao mình<br /> hành động, “Ta chui vào cái ống tối om này ư. Ta chui vào để làm gì. Có việc gì mà<br /> chui vào cơ chứ” (Ngày hoàng đạo). Con người luôn lầm tưởng rằng mình có thể làm<br /> chủ được bản thân, tự hướng dẫn và điều khiển được chính mình, nhưng rồi rốt cuộc,<br /> vẫn bị bàn tay vô hình nào đó điều khiển trở lại. Bàn tay vô hình đó, theo S.Freud, là vô<br /> <br /> BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH…<br /> <br /> 7<br /> <br /> thức, chính vô thức điều khiển toàn bộ hoạt động có ý thức của con người mà con người<br /> có thể không hay biết. Freud từng khẳng định hành vi con người do vô thức mà thành.<br /> Như vậy cái hành động chạy trốn của bác sĩ Cần là do vô thức điều khiển. Ông chạy<br /> trốn nỗi sợ hãi, chạy trốn chính bản thân mình - một cái tôi [ego] dằn vặt, chông chênh<br /> trong sự trì níu giữa cái ấy [id] và cái siêu tôi [superego].<br /> Trong Online... ba lô, nhân vật Zê luôn “nghe” một tiếng gọi mơ hồ từ vô thức, nó xui<br /> khiến hành động: “Tại sao lại cứ lên rừng. Không biết. Có một tiếng gọi xa xăm nào đó<br /> thôi thúc ta. Ban ngày thì tiếng gọi đó hú lên những tiếng lặng câm trong tâm trí. Ban<br /> đêm thì tiếng gọi đó bật lên thành những tiếng hú điếc tai ai oán thảm thiết trong giấc<br /> mộng” (Online... ba lô). Công thức “vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” của phân<br /> tâm học Lacan giúp phần soi tỏ, lí giải trạng thái tinh thần phân lập của nhân vật tiểu<br /> thuyết Nguyễn Đình Chính. Biểu tượng tiếng hú lặp lại nhiều lần, như một hành vi ngôn<br /> ngữ, do những dồn nén, ẩn ức. “Những tiếng lặng câm trong tâm trí” chỉ có thể là “tiếng<br /> hú” của vô thức, tiếng gào thét của ham muốn, của ám ảnh tuổi thơ. “Tết đến. Sương<br /> muối mịt mù lạnh tái tê. Đêm co ro trong chăn. Ngủ. Trong mơ… đôi khi lại nghe thấy<br /> tiếng hú hoang vu từ rừng thẳm vọng về” (Online... ba lô). Tiếng hú ấy cứ ám ảnh, vô<br /> thức lên tiếng, trở thành tiếng gọi nguyên sơ, thống thiết, thôi thúc Zê khoác ba lô lên<br /> đường về với rừng. Bởi lẽ, về với rừng thẳm là về với kí ức tình yêu vừa khoái lạc vừa<br /> thống khổ của anh đối với người con gái bị ruồng bỏ giữa cộng đồng người. Sâu xa hơn,<br /> với Zê, đó là tiếng gọi của ám ảnh tuổi thơ, một tuổi thơ dữ dội. Theo Freud, những cảm<br /> xúc từ lúc còn là trẻ thơ, ở tuổi dậy thì hoặc giai đoạn đầu đời có khả năng lưu giữ, ám<br /> ảnh con người cho đến hết cuộc đời. Cũng theo Freud: “Khái niệm vô thức được suy ra<br /> từ lí thuyết về sự dồn nén” [4, tr. 35]. Tuổi thơ của Zê gắn liền với nhà sàn, với cây cỏ,<br /> thú rừng, với những tiếng hú ghê rợn trong lòng rừng sâu vọng về lúc nửa đêm, với bếp<br /> lửa bập bùng giữa nhà, với bình yên, và cả cái chết. Hai tuổi, mẹ địu sau lưng chạy loạn<br /> lên tận bản Nà Cốc heo hút rừng xanh, Zê tận mắt chứng kiến người mẹ thổ ra hàng<br /> đống máu vào thúng tro rồi chết, người làng làm phúc bó chiếu chôn đâu đó ở bìa rừng,<br /> được bà mế Thổn Mừ ẵm về nuôi. Bao nhiêu năm chen chúc giữa chốn đô thành miền<br /> xuôi náo nhiệt, những kỷ niệm thời thơ ấu gắn bó với rừng xanh tưởng đã mất đi.<br /> Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, dồn nén, lặn sâu vào vùng mờ vô thức, Zê cảm nhận được<br /> điều đó qua tiếng hú mà anh vẫn thường nghe thấy. “Tiếng hú hoang vu từ rừng thẳm<br /> vọng về” như một ham muốn, khát khao, “thèm muốn hít thật nhiều màn sương rừng<br /> tháng giêng hai lạnh lẽo và tinh khiết đến rùng mình rồi nằm sõng soài ra đất co quắp<br /> chân cẳng ôm choàng những búi rễ trám già sần sùi héo khô đang âm thầm rỏ nhựa”.<br /> Về rừng để được “ngồi trên rễ cây loằng ngoằng thân rắn. Thích nằm toài trên tảng đá<br /> rêu phong. Vểnh tai nghe tiếng gió hú và khịt mũi liên hồi ngửi mùi sương rừng… Ta<br /> lội trong rừng giống như cái bào thai lội trong bụng mẹ. Trời ơi… thanh thản quá<br /> chừng” (Online... ba lô). Hòa nhập với rừng hay Zê đang ôm lấy người mẹ tưởng tượng<br /> của mình và tận hưởng những giọt sữa trong lành tinh khiết mà suốt cả tuổi thơ Zê luôn<br /> luôn khao khát, kiếm tìm.<br /> <br /> NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG<br /> <br /> 8<br /> <br /> 3.2. Biểu tượng cái chết<br /> Theo Freud, bản năng chết là một trong hai bản năng chủ yếu của bộ máy tâm thần con<br /> người (bên cạnh bản năng sống). Theo đó, ông xác nhận chết là mục tiêu cuối cùng của sự<br /> sống, cái không sinh sống có trước cái sinh sống. Luồng xung năng vô thức này có tác<br /> động rất lớn đến hành vi và lối sống của con người. Bản năng chết làm cho con người<br /> luôn âu sầu, sợ hãi mọi thứ, hủy hoại thân thể hoặc muốn biến mất khỏi thế giới này.<br /> Nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính luôn bị ám ảnh bởi cái chết, muốn chết, do mặc<br /> cảm tội lỗi, mặc cảm tàn phế (mặc cảm hoạn - Freud). Nhà văn xây dựng một loạt những<br /> biểu tượng để làm nổi bật phần bản năng chết như xác chết, hồn, ngôi mộ, nhà xác…<br /> Bảng khảo sát tần số xuất hiện biểu tượng cái chết trong Ngày hoàng đạo<br /> Hình ảnh<br /> Hồn (linh hồn, hồn ma, hồn vía…)<br /> Mộ (ngôi mộ, mồ mả, nấm mồ, nhà mồ...)<br /> Xác (xác chết, xác người, nhà xác…)<br /> <br /> Tần số xuất hiện (lần)<br /> 66<br /> 146<br /> 154<br /> <br /> Trong Ngày hoàng đạo, hồn xuất hiện khá nhiều, gắn với khả năng kì lạ của bác sĩ Cần,<br /> có thể nhìn thấy và chuyện trò với những hồn ma. Trong trạng thái u mê, nửa điên nửa<br /> tỉnh của căn bệnh tâm thần phân lập, bác sĩ Cần đã nhìn thấy hồn người chết. Trong quan<br /> niệm của các nhà phân tâm học, hồn là một trạng thái tâm lý, gắn với cái vô thức (Jung).<br /> Hồn là phần vô thức của con người được hiển lộ. Vô thức đã tìm được nơi trú ngụ của<br /> mình, để rồi khi hồn tự thú, sám hối, phân trần cũng chính là lúc vô thức của con người<br /> cất tiếng nói. Đó là phần chìm, phần khuất lấp, phần ẩn giấu bên trong mỗi người.<br /> Freud cho rằng bản năng chết có thể làm biến dạng sự sống. Một số nhân vật trong tiểu<br /> thuyết Nguyễn Đình Chính luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Kể từ khi cuộc đời bác sĩ Cần<br /> “hoàn toàn rơi xuống và bị nhấn chìm trong nỗi khổ đau tuyệt vọng còn tối tăm hơn cả<br /> đáy địa ngục” thì “nhiều lúc ông đã định tự tử”. Với bản tính nhút nhát hèn yếu, ông<br /> không thể thỏa mãn cái ham muốn “được chết” của mình, do đó ông giải tỏa nó bằng<br /> một hình thức khác còn đau đớn hơn cả cái chết, tự hủy hoại bản thân bằng cách đi<br /> hoang, sống một cuộc đời vô nghĩa, không mục đích, sợ hãi mọi thứ xung quanh và<br /> chán ghét chính bản thân mình. Ông luôn có cảm giác buồn bã và cô đơn, nó giống như<br /> “luồng thuốc độc ngấm dần qua da qua xương thấm sâu vào tim phổi ruột gan khiến ông<br /> bải hoải tuyệt vọng chỉ muốn chết đi cho xong đời” (Ngày hoàng đạo). Đối với bác sĩ<br /> Cần, bản năng sống trong ông quá yếu ớt, quá mờ nhạt trong khi bản năng chết thì mạnh<br /> mẽ, hoàn toàn chiếm ưu thế, làm biến dạng sự sống.<br /> Đặc biệt, với cha Tạc, mặc cảm tội lỗi luôn vò xé trong cuộc đấu tranh giữa đạo và đời.<br /> Tâm trạng dằn vặt ấy đã đẩy cha Tạc tới nhu cầu chết như cách tự tìm lối thoát cho<br /> mình. Nghiên cứu phân tâm học và tôn giáo, E. Fromm - nhà phân tâm học, nhà tâm lý<br /> học xã hội người Đức đã lí giải mặc cảm tội lỗi nảy sinh giữa tôn giáo và những ham<br /> muốn bản năng: “Tội lỗi chủ yếu không phải là tội chống lại thượng đế mà là tội chống<br /> lại chính bản thân” [5, tr.130]. Nguyễn Đình Chính xây dựng thành công kiểu nhân vật<br /> mặc cảm vì tội chống lại chính bản thân. Cha Tạc luôn ý thức được bổn phận của một<br /> <br /> BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH…<br /> <br /> 9<br /> <br /> cha đạo, đồng thời cũng luôn cất giấu, dồn nén những ham muốn bản năng và tìm mọi<br /> cách triệt tiêu nó. Nhưng thực tế nó không hề mất đi mà vẫn âm thầm tồn tại trong vô<br /> thức, chờ thời cơ thuận lợi là bùng phát. Thời cơ đó chính là lúc cha Tạc nhìn thấy<br /> những pho tượng cụt đầu đầy gợi dục. Trong tâm hồn cha Tạc luôn có sự dằn xé, giao<br /> tranh giữa một cha Tạc nguyện trọn đời dâng mình cho nước chúa, và một cha Tạc vật<br /> vã những thèm khát dục vọng, để rồi không thể vượt qua được những cám dỗ của bản<br /> năng, cha Tạc sống trong mặc cảm tội lỗi, tự cảm thấy xấu hổ với đức Chúa trời và xấu<br /> hổ với chính bản thân mình. Cái mặc cảm phạm tội đó cứ đeo bám, dằn vặt và lớn dần<br /> lên trong tâm hồn mỏng manh dễ vỡ của cha. Càng lo sợ mình phạm tội thì cha lại càng<br /> vướng vào những tội lỗi mà một cha đạo không được phép phạm phải. Những phức cảm<br /> giằng xé đã đẩy cha vào ngõ cụt tinh thần, tạo điều kiện cho bản năng chết trỗi dậy.<br /> 3.3. Biểu tượng phồn thực<br /> Tín ngưỡng phồn thực là một hiện tượng tôn giáo phổ biến trong đời sống nhân loại từ<br /> thuở xa xưa. Nó biểu hiện trước hết ở tục thờ cúng sinh thực khí. “Chính sự cấm kị đi<br /> kèm với nỗi khát khao quả cấm, sự bất cập của lý trí nguyên thủy đã mang lại một ánh<br /> sáng khác thường cho các cơ quan sinh sản, làm thiêng hóa chúng” [8, tr.65]. Nguyễn<br /> Đình Chính đã sử dụng những siêu mẫu có tính chất hoài niệm phồn thực để khai mở<br /> phần bản năng tính dục. Đó là hình ảnh linga, yoni, sự sinh nở, hình ảnh về những bộ<br /> phận nữ giới - “bức tượng sành cụt đầu đàn bà có bộ mông to tướng tròn vo như cái<br /> chum còn đàn ông thì cứ ưỡn bộ phận sinh dục ra méo mó cứng đờ chẳng khác gì những<br /> vòi ấm tích sứt sẹp bị nung quá lửa” (Ngày hoàng đạo). Những biểu tượng phồn thực<br /> xuất hiện với tần số lớn nhằm phát lộ phần bản năng gốc của con người.<br /> Đa phần nhân vật của Nguyễn Đình Chính đều hành động theo sự chi phối của bản<br /> năng gốc, bản năng tính dục. Nhà văn tập trung khám phá bản năng này ở nhân vật như<br /> một thuộc tính tất yếu bất kể tầng lớp, giới tính, tuổi tác. Theo Freud, tính dục là một<br /> trong những ẩn ức quan trọng, là bản năng sinh lý thuộc về bản thể tự nhiên nhất của<br /> con người, nếu nhu cầu tính dục không được thỏa mãn thì con người sẽ bị ám ảnh đến<br /> thành bệnh tật. Vì vậy, việc đưa hình tượng con người với bản năng tính dục vào văn<br /> học sẽ chạm vào cõi sâu tâm hồn, góp phần phản ánh mọi góc khuất bên trong, sâu kín<br /> của con người, biểu hiện khát vọng hạnh phúc chính đáng mang ý nghĩa nhân sinh sâu<br /> sắc. Tiểu thuyết Online… ba lô chủ yếu viết về cuộc sống miền núi; nhưng trong những<br /> mạch liên văn bản; số phận người lính sau chiến tranh được nhà văn đề cập qua góc<br /> nhìn bản năng. Kiểu nhân vật chấn thương tính dục xuất hiện trong tiểu thuyết không<br /> nhiều nhưng gây ấn tượng sâu sắc và đậm chất nhân bản. Cô gái Thổ bị xua đuổi đã<br /> dâng hiến sự trinh bạch của mình, đón chờ một cuộc sống hạnh phúc nhưng niềm hạnh<br /> phúc tinh thần chưa đạt đã vùi chôn thân xác trong cơn núi lỡ. Người lính trở về từ<br /> chiến tranh, thương tật khiến anh mang mặc cảm khiếm khuyết/hoạn; để rồi luôn mơ<br /> những giấc mơ tình dục. Anh thương binh Bàn Kỳ Páo bị mảnh cối ”chém đứt phăng bộ<br /> đồ nghề. Cụt chim” (Online… balô). Những ham muốn, khát khao được làm một con<br /> đực đúng nghĩa không bao giờ được thỏa mãn trên thực tế, vì vậy, Bàn Kỳ Páo luôn có<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2