HỆ BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH<br />
- TỪ LÍ THUYẾT PHÂN TÂM HỌC<br />
NGUYỄN THỊ LINH KA<br />
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam<br />
LÊ THỊ HƯỜNG<br />
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Sau 1986, trong xu thế hội nhập toàn cầu, trong việc tiếp nhận<br />
những lí thuyết hiện đại, không thể phủ nhận vai trò của phân tâm học trong<br />
đời sống văn học Việt Nam. Trong sáng tác, dấu ấn phân tâm học đậm nét ở<br />
nhiều tác phẩm, trong đó tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính là một hiện tượng<br />
tiêu biểu. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ<br />
thuật của nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ<br />
thống biểu tượng đa nghĩa, tiêu biểu là biểu tượng vô thức, biểu tượng tính<br />
dục, biểu tượng văn hóa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của<br />
con người một cách sâu sắc. Cái nhìn nhân bản về con người khiến tiểu<br />
thuyết Nguyễn Đình Chính có sức lan tỏa.<br />
Từ khóa: phân tâm học, vô thức, tính dục, biểu tượng, biểu tượng văn hóa,<br />
lửa, rừng<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Chính không nhiều, nhưng với hai tác phẩm Ngày hoàng<br />
đạo và Online… ba lô cho thấy nhà văn đã viết từ vùng lan tỏa của lí thuyết phân tâm<br />
học. Dấu ấn phân tâm học không ngẫu nhiên trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết mà<br />
nhà văn có ý thức vận dụng học thuyết này để khắc họa cũng như giải mã con người<br />
hiện đại. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ thuật của<br />
nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ thống biểu tượng đa<br />
nghĩa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của con người một cách sâu sắc.<br />
2. VIẾT TỪ ÁNH SÁNG PHÂN TÂM HỌC<br />
Một trong những vấn đề mấu chốt của học thuyết Freud trong mối quan hệ với văn học<br />
là ông đã chứng minh quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ không chỉ có ở ý<br />
thức, mà có ngay trong vô thức. Từ lí thuyết về vô thức, Freud xem tác phẩm văn học là<br />
kết quả của hoạt động thoả mãn những ham muốn bản năng và những xung động tinh<br />
thần của người nghệ sĩ; nghệ thuật như là kết quả của sự thăng hoa của sự ám ảnh vô<br />
thức con người. Tiếp nhận lí thuyết Freud, Nguyễn Đình Chính quan niệm: “…viết<br />
bằng vô thức, viết nhằm truyền đạt cảm xúc của đời sống, lột tả những xao xuyến sâu<br />
thẳm của kiếp người” [10].<br />
Theo quan niệm của Freud, viết là sự giải toả bản năng, giải toả ẩn ức. “Tác phẩm văn<br />
học trước hết là một giấc mơ. Nó phản ảnh những ham muốn vô thức” [9, tr. 12]. Bàn<br />
về tiểu thuyết, Nguyễn Đình Chính tâm sự: “Sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật trong đó<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 04(40)/2016: tr. 5-13<br />
<br />
6<br />
<br />
NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
có việc viết tiểu thuyết, suy cho cùng là một sự xả stress, giải toả những ẩn ức hết sức cá<br />
nhân… Viết không phải nghĩ nhiều, hoàn toàn từ vô thức, để cho nhân vật dắt mình.<br />
Viết rất nhanh. Nhiều lúc ghi không kịp” [6].<br />
Bàn về hoạt động sáng tác, theo Nguyễn Đình Chính: “Tác giả tiểu thuyết không thể<br />
sáng tạo ra một nhân vật thời đại phức tạp, đa chiều, đầy mâu thuẫn nếu anh thờ ơ với<br />
phân tâm học hoặc là nghiên cứu phân tâm học một cách cẩu thả” [3]. Điều đó cho thấy<br />
nhà văn đã có ý thức vận dụng lí thuyết phân tâm học trong hoạt động sáng tạo - đặc<br />
biệt là tiểu thuyết. Nhà văn quan niệm: “Mỗi người thường cất giấu trong chỗ sâu kín<br />
nhất của tâm hồn mình một cái gì về tình dục (thí dụ sự ham muốn, những màu sắc của<br />
khoái cảm, những mặc cảm về đạo đức...) mà chính họ cũng hơi hổ thẹn, chưa dám,<br />
hoặc chưa quen phơi bầy, chia sẻ... Tôi muốn bóc ra những lớp bí mật đó” [7].<br />
Từ những quan niệm trên, Nguyễn Đình Chính đã tổ chức văn bản nghệ thuật đa dạng<br />
để phân tích tâm lí, bóc tách “cái tôi ẩn mật” (Kundera), đặc biệt qua hệ thống biểu<br />
tượng dày đặc trong tác phẩm.<br />
3. HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TỪ PHÂN TÂM HỌC<br />
3.1. Biểu tượng vô thức<br />
Theo S.Freud, tận thẳm sâu nơi tâm hồn mỗi con người là cả một đại dương mênh<br />
mông, bao la, vô tận; ở đó, vô thức là chúa tể thống ngự. Từ quan niệm đa chiều về con<br />
người, nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính được soi rọi đến tận thấu đời sống<br />
bên trong, những vùng mờ vô thức; những mặc cảm, những giằng xé giữa cái ấy (id),<br />
cái tôi (ego) và cái siêu tôi (superego). Vùng vô thức thực sự trở thành đối tượng thẩm<br />
mỹ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính qua một hệ thống biểu tượng được sử dụng đa<br />
nghĩa, nhằm giải mã vùng mờ tâm linh.<br />
Một trong những biểu hiện động của vô thức là nhiễu tâm, giấc mơ, hành vi bị lỡ, lỡ lời,<br />
nói nhịu... Với những hành vi sai lạc trong đời sống con người, Freud đã lí giải: Con<br />
người luôn bị ràng buộc bởi những quy chuẩn đạo đức mà chính họ đã đề ra. Đó là<br />
nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn giữa ham muốn mãnh liệt với giới hạn hành vi có<br />
thể thực hiện trên thực tế. Mâu thuẫn này là thường trực nên con người luôn phải đấu<br />
tranh nội tâm để dung hòa chúng sao cho vừa có thể thỏa mãn những ham muốn một<br />
cách hợp lý, vừa không vi phạm những chuẩn tắc đạo đức, tức là phải tạo ra sự cân bằng<br />
về mặt tâm lý. Song không phải lúc nào sự cân bằng đó cũng được đảm bảo. Từ đó nảy<br />
sinh những hành vi mà ngay cả bản thân người thực hiện nó cũng không hề hay biết.<br />
Nhiều nhân vật của Nguyễn Đình Chính rơi vào hành vi sai lạc không qua sự kiểm soát<br />
của ý thức (bác sĩ Cần, cha Tạc trong Ngày hoàng đạo, nhân vật Zê trong Online…ba<br />
lô). Những hành vi nhiễu tâm ở nhân vật bác sĩ Cần thể hiện rõ nét qua những bước<br />
chân vô định, đi mà không hiểu tại sao mình đi, hành động mà không hiểu tại sao mình<br />
hành động, “Ta chui vào cái ống tối om này ư. Ta chui vào để làm gì. Có việc gì mà<br />
chui vào cơ chứ” (Ngày hoàng đạo). Con người luôn lầm tưởng rằng mình có thể làm<br />
chủ được bản thân, tự hướng dẫn và điều khiển được chính mình, nhưng rồi rốt cuộc,<br />
vẫn bị bàn tay vô hình nào đó điều khiển trở lại. Bàn tay vô hình đó, theo S.Freud, là vô<br />
<br />
BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH…<br />
<br />
7<br />
<br />
thức, chính vô thức điều khiển toàn bộ hoạt động có ý thức của con người mà con người<br />
có thể không hay biết. Freud từng khẳng định hành vi con người do vô thức mà thành.<br />
Như vậy cái hành động chạy trốn của bác sĩ Cần là do vô thức điều khiển. Ông chạy<br />
trốn nỗi sợ hãi, chạy trốn chính bản thân mình - một cái tôi [ego] dằn vặt, chông chênh<br />
trong sự trì níu giữa cái ấy [id] và cái siêu tôi [superego].<br />
Trong Online... ba lô, nhân vật Zê luôn “nghe” một tiếng gọi mơ hồ từ vô thức, nó xui<br />
khiến hành động: “Tại sao lại cứ lên rừng. Không biết. Có một tiếng gọi xa xăm nào đó<br />
thôi thúc ta. Ban ngày thì tiếng gọi đó hú lên những tiếng lặng câm trong tâm trí. Ban<br />
đêm thì tiếng gọi đó bật lên thành những tiếng hú điếc tai ai oán thảm thiết trong giấc<br />
mộng” (Online... ba lô). Công thức “vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” của phân<br />
tâm học Lacan giúp phần soi tỏ, lí giải trạng thái tinh thần phân lập của nhân vật tiểu<br />
thuyết Nguyễn Đình Chính. Biểu tượng tiếng hú lặp lại nhiều lần, như một hành vi ngôn<br />
ngữ, do những dồn nén, ẩn ức. “Những tiếng lặng câm trong tâm trí” chỉ có thể là “tiếng<br />
hú” của vô thức, tiếng gào thét của ham muốn, của ám ảnh tuổi thơ. “Tết đến. Sương<br />
muối mịt mù lạnh tái tê. Đêm co ro trong chăn. Ngủ. Trong mơ… đôi khi lại nghe thấy<br />
tiếng hú hoang vu từ rừng thẳm vọng về” (Online... ba lô). Tiếng hú ấy cứ ám ảnh, vô<br />
thức lên tiếng, trở thành tiếng gọi nguyên sơ, thống thiết, thôi thúc Zê khoác ba lô lên<br />
đường về với rừng. Bởi lẽ, về với rừng thẳm là về với kí ức tình yêu vừa khoái lạc vừa<br />
thống khổ của anh đối với người con gái bị ruồng bỏ giữa cộng đồng người. Sâu xa hơn,<br />
với Zê, đó là tiếng gọi của ám ảnh tuổi thơ, một tuổi thơ dữ dội. Theo Freud, những cảm<br />
xúc từ lúc còn là trẻ thơ, ở tuổi dậy thì hoặc giai đoạn đầu đời có khả năng lưu giữ, ám<br />
ảnh con người cho đến hết cuộc đời. Cũng theo Freud: “Khái niệm vô thức được suy ra<br />
từ lí thuyết về sự dồn nén” [4, tr. 35]. Tuổi thơ của Zê gắn liền với nhà sàn, với cây cỏ,<br />
thú rừng, với những tiếng hú ghê rợn trong lòng rừng sâu vọng về lúc nửa đêm, với bếp<br />
lửa bập bùng giữa nhà, với bình yên, và cả cái chết. Hai tuổi, mẹ địu sau lưng chạy loạn<br />
lên tận bản Nà Cốc heo hút rừng xanh, Zê tận mắt chứng kiến người mẹ thổ ra hàng<br />
đống máu vào thúng tro rồi chết, người làng làm phúc bó chiếu chôn đâu đó ở bìa rừng,<br />
được bà mế Thổn Mừ ẵm về nuôi. Bao nhiêu năm chen chúc giữa chốn đô thành miền<br />
xuôi náo nhiệt, những kỷ niệm thời thơ ấu gắn bó với rừng xanh tưởng đã mất đi.<br />
Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, dồn nén, lặn sâu vào vùng mờ vô thức, Zê cảm nhận được<br />
điều đó qua tiếng hú mà anh vẫn thường nghe thấy. “Tiếng hú hoang vu từ rừng thẳm<br />
vọng về” như một ham muốn, khát khao, “thèm muốn hít thật nhiều màn sương rừng<br />
tháng giêng hai lạnh lẽo và tinh khiết đến rùng mình rồi nằm sõng soài ra đất co quắp<br />
chân cẳng ôm choàng những búi rễ trám già sần sùi héo khô đang âm thầm rỏ nhựa”.<br />
Về rừng để được “ngồi trên rễ cây loằng ngoằng thân rắn. Thích nằm toài trên tảng đá<br />
rêu phong. Vểnh tai nghe tiếng gió hú và khịt mũi liên hồi ngửi mùi sương rừng… Ta<br />
lội trong rừng giống như cái bào thai lội trong bụng mẹ. Trời ơi… thanh thản quá<br />
chừng” (Online... ba lô). Hòa nhập với rừng hay Zê đang ôm lấy người mẹ tưởng tượng<br />
của mình và tận hưởng những giọt sữa trong lành tinh khiết mà suốt cả tuổi thơ Zê luôn<br />
luôn khao khát, kiếm tìm.<br />
<br />
NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
8<br />
<br />
3.2. Biểu tượng cái chết<br />
Theo Freud, bản năng chết là một trong hai bản năng chủ yếu của bộ máy tâm thần con<br />
người (bên cạnh bản năng sống). Theo đó, ông xác nhận chết là mục tiêu cuối cùng của sự<br />
sống, cái không sinh sống có trước cái sinh sống. Luồng xung năng vô thức này có tác<br />
động rất lớn đến hành vi và lối sống của con người. Bản năng chết làm cho con người<br />
luôn âu sầu, sợ hãi mọi thứ, hủy hoại thân thể hoặc muốn biến mất khỏi thế giới này.<br />
Nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính luôn bị ám ảnh bởi cái chết, muốn chết, do mặc<br />
cảm tội lỗi, mặc cảm tàn phế (mặc cảm hoạn - Freud). Nhà văn xây dựng một loạt những<br />
biểu tượng để làm nổi bật phần bản năng chết như xác chết, hồn, ngôi mộ, nhà xác…<br />
Bảng khảo sát tần số xuất hiện biểu tượng cái chết trong Ngày hoàng đạo<br />
Hình ảnh<br />
Hồn (linh hồn, hồn ma, hồn vía…)<br />
Mộ (ngôi mộ, mồ mả, nấm mồ, nhà mồ...)<br />
Xác (xác chết, xác người, nhà xác…)<br />
<br />
Tần số xuất hiện (lần)<br />
66<br />
146<br />
154<br />
<br />
Trong Ngày hoàng đạo, hồn xuất hiện khá nhiều, gắn với khả năng kì lạ của bác sĩ Cần,<br />
có thể nhìn thấy và chuyện trò với những hồn ma. Trong trạng thái u mê, nửa điên nửa<br />
tỉnh của căn bệnh tâm thần phân lập, bác sĩ Cần đã nhìn thấy hồn người chết. Trong quan<br />
niệm của các nhà phân tâm học, hồn là một trạng thái tâm lý, gắn với cái vô thức (Jung).<br />
Hồn là phần vô thức của con người được hiển lộ. Vô thức đã tìm được nơi trú ngụ của<br />
mình, để rồi khi hồn tự thú, sám hối, phân trần cũng chính là lúc vô thức của con người<br />
cất tiếng nói. Đó là phần chìm, phần khuất lấp, phần ẩn giấu bên trong mỗi người.<br />
Freud cho rằng bản năng chết có thể làm biến dạng sự sống. Một số nhân vật trong tiểu<br />
thuyết Nguyễn Đình Chính luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Kể từ khi cuộc đời bác sĩ Cần<br />
“hoàn toàn rơi xuống và bị nhấn chìm trong nỗi khổ đau tuyệt vọng còn tối tăm hơn cả<br />
đáy địa ngục” thì “nhiều lúc ông đã định tự tử”. Với bản tính nhút nhát hèn yếu, ông<br />
không thể thỏa mãn cái ham muốn “được chết” của mình, do đó ông giải tỏa nó bằng<br />
một hình thức khác còn đau đớn hơn cả cái chết, tự hủy hoại bản thân bằng cách đi<br />
hoang, sống một cuộc đời vô nghĩa, không mục đích, sợ hãi mọi thứ xung quanh và<br />
chán ghét chính bản thân mình. Ông luôn có cảm giác buồn bã và cô đơn, nó giống như<br />
“luồng thuốc độc ngấm dần qua da qua xương thấm sâu vào tim phổi ruột gan khiến ông<br />
bải hoải tuyệt vọng chỉ muốn chết đi cho xong đời” (Ngày hoàng đạo). Đối với bác sĩ<br />
Cần, bản năng sống trong ông quá yếu ớt, quá mờ nhạt trong khi bản năng chết thì mạnh<br />
mẽ, hoàn toàn chiếm ưu thế, làm biến dạng sự sống.<br />
Đặc biệt, với cha Tạc, mặc cảm tội lỗi luôn vò xé trong cuộc đấu tranh giữa đạo và đời.<br />
Tâm trạng dằn vặt ấy đã đẩy cha Tạc tới nhu cầu chết như cách tự tìm lối thoát cho<br />
mình. Nghiên cứu phân tâm học và tôn giáo, E. Fromm - nhà phân tâm học, nhà tâm lý<br />
học xã hội người Đức đã lí giải mặc cảm tội lỗi nảy sinh giữa tôn giáo và những ham<br />
muốn bản năng: “Tội lỗi chủ yếu không phải là tội chống lại thượng đế mà là tội chống<br />
lại chính bản thân” [5, tr.130]. Nguyễn Đình Chính xây dựng thành công kiểu nhân vật<br />
mặc cảm vì tội chống lại chính bản thân. Cha Tạc luôn ý thức được bổn phận của một<br />
<br />
BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH…<br />
<br />
9<br />
<br />
cha đạo, đồng thời cũng luôn cất giấu, dồn nén những ham muốn bản năng và tìm mọi<br />
cách triệt tiêu nó. Nhưng thực tế nó không hề mất đi mà vẫn âm thầm tồn tại trong vô<br />
thức, chờ thời cơ thuận lợi là bùng phát. Thời cơ đó chính là lúc cha Tạc nhìn thấy<br />
những pho tượng cụt đầu đầy gợi dục. Trong tâm hồn cha Tạc luôn có sự dằn xé, giao<br />
tranh giữa một cha Tạc nguyện trọn đời dâng mình cho nước chúa, và một cha Tạc vật<br />
vã những thèm khát dục vọng, để rồi không thể vượt qua được những cám dỗ của bản<br />
năng, cha Tạc sống trong mặc cảm tội lỗi, tự cảm thấy xấu hổ với đức Chúa trời và xấu<br />
hổ với chính bản thân mình. Cái mặc cảm phạm tội đó cứ đeo bám, dằn vặt và lớn dần<br />
lên trong tâm hồn mỏng manh dễ vỡ của cha. Càng lo sợ mình phạm tội thì cha lại càng<br />
vướng vào những tội lỗi mà một cha đạo không được phép phạm phải. Những phức cảm<br />
giằng xé đã đẩy cha vào ngõ cụt tinh thần, tạo điều kiện cho bản năng chết trỗi dậy.<br />
3.3. Biểu tượng phồn thực<br />
Tín ngưỡng phồn thực là một hiện tượng tôn giáo phổ biến trong đời sống nhân loại từ<br />
thuở xa xưa. Nó biểu hiện trước hết ở tục thờ cúng sinh thực khí. “Chính sự cấm kị đi<br />
kèm với nỗi khát khao quả cấm, sự bất cập của lý trí nguyên thủy đã mang lại một ánh<br />
sáng khác thường cho các cơ quan sinh sản, làm thiêng hóa chúng” [8, tr.65]. Nguyễn<br />
Đình Chính đã sử dụng những siêu mẫu có tính chất hoài niệm phồn thực để khai mở<br />
phần bản năng tính dục. Đó là hình ảnh linga, yoni, sự sinh nở, hình ảnh về những bộ<br />
phận nữ giới - “bức tượng sành cụt đầu đàn bà có bộ mông to tướng tròn vo như cái<br />
chum còn đàn ông thì cứ ưỡn bộ phận sinh dục ra méo mó cứng đờ chẳng khác gì những<br />
vòi ấm tích sứt sẹp bị nung quá lửa” (Ngày hoàng đạo). Những biểu tượng phồn thực<br />
xuất hiện với tần số lớn nhằm phát lộ phần bản năng gốc của con người.<br />
Đa phần nhân vật của Nguyễn Đình Chính đều hành động theo sự chi phối của bản<br />
năng gốc, bản năng tính dục. Nhà văn tập trung khám phá bản năng này ở nhân vật như<br />
một thuộc tính tất yếu bất kể tầng lớp, giới tính, tuổi tác. Theo Freud, tính dục là một<br />
trong những ẩn ức quan trọng, là bản năng sinh lý thuộc về bản thể tự nhiên nhất của<br />
con người, nếu nhu cầu tính dục không được thỏa mãn thì con người sẽ bị ám ảnh đến<br />
thành bệnh tật. Vì vậy, việc đưa hình tượng con người với bản năng tính dục vào văn<br />
học sẽ chạm vào cõi sâu tâm hồn, góp phần phản ánh mọi góc khuất bên trong, sâu kín<br />
của con người, biểu hiện khát vọng hạnh phúc chính đáng mang ý nghĩa nhân sinh sâu<br />
sắc. Tiểu thuyết Online… ba lô chủ yếu viết về cuộc sống miền núi; nhưng trong những<br />
mạch liên văn bản; số phận người lính sau chiến tranh được nhà văn đề cập qua góc<br />
nhìn bản năng. Kiểu nhân vật chấn thương tính dục xuất hiện trong tiểu thuyết không<br />
nhiều nhưng gây ấn tượng sâu sắc và đậm chất nhân bản. Cô gái Thổ bị xua đuổi đã<br />
dâng hiến sự trinh bạch của mình, đón chờ một cuộc sống hạnh phúc nhưng niềm hạnh<br />
phúc tinh thần chưa đạt đã vùi chôn thân xác trong cơn núi lỡ. Người lính trở về từ<br />
chiến tranh, thương tật khiến anh mang mặc cảm khiếm khuyết/hoạn; để rồi luôn mơ<br />
những giấc mơ tình dục. Anh thương binh Bàn Kỳ Páo bị mảnh cối ”chém đứt phăng bộ<br />
đồ nghề. Cụt chim” (Online… balô). Những ham muốn, khát khao được làm một con<br />
đực đúng nghĩa không bao giờ được thỏa mãn trên thực tế, vì vậy, Bàn Kỳ Páo luôn có<br />
<br />