intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiểm họa sinh thái tiềm ẩn từ nuôi tôm trên cát

Chia sẻ: Nguyen Phuonganh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

90
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nuôi tôm Lần đầu trên cát ở tiên các nhà Nuôi tôm Ninh trên cát ở Thuận. khoa học đưa ra những Ninh Thuận. chứng cứ thuyết số vùng ven biển miền Trung do nuôi tôm trên cát. Thiệt hại mà nó gây ra có thể lớn hơn rất nhiều so với người ta tưởng, thậm chí lớn hơn cả lợi nhuận do nuôi tôm mang lại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiểm họa sinh thái tiềm ẩn từ nuôi tôm trên cát

  1. Hiểm họa sinh thái tiềm ẩn từ nuôi tôm trên cát Nuôi tôm Lần đầu trên cát ở tiên các Nuôi tôm Ninh nhà trên cát ở Thuận. khoa Ninh học đưa ra những Thuận. chứng cứ thuyết
  2. số vùng ven biển miền Trung do nuôi tôm trên cát. Thiệt hại mà nó gây ra có thể lớn hơn rất nhiều so với người ta tưởng, thậm chí lớn hơn cả lợi nhuận do nuôi tôm mang lại. Thông tin này được các nhà khoa học đưa ra tại hội thảo "Nuôi tôm trên cát và các vấn đề môi trường" tổ chức ngày 4/6 tại Quảng Ngãi. Những năm cuối của thế kỷ 20, Viện Kinh tế và Quy
  3. hoạch Thủy sản và một số hộ dân ở tỉnh Ninh Thuận đã thành công trong việc thử nghiệm nuôi tôm trên cát dùng nilon làm chất phủ chống thấm. Chỉ sau chưa đầy hai năm, đến giữa năm 2002, nuôi tôm trên cát đã loang ra khắp miền trung. Theo thống kê của Bộ Thủy sản, hiện tại Ninh Thuận có 200 ha, Quảng Ngãi có 60 ha, Thừa Thiên - Huế 16ha, Quảng Bình 1 ha và Quảng Trị 6 ha. Năng suất bình quân mỗi vụ trung bình đạt 1,72 tấn/ha tại Bình Định,
  4. 3 tấn/ha tại Quảng Trị, thậm chí 6 tấn/ha tại Ninh Thuận. Chính các nhà khoa học tìm ra công nghệ này cát thừa nhận họ không lường hết phong trào trở nên "nóng" đến thế và có nguy cơ vượt tầm kiểm soát. Theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Thọ, Trung tâm nghiên cứu Thủy sản III, sự khác biệt lớn nhất với nuôi tôm thông thường là ở chỗ nuôi tôm trên cát cần rất nhiều nước, cả nước biển lẫn nước ngọt. Bởi thế, dân Ninh Thuận, nơi khởi
  5. nguồn nuôi tôm trên cát, thường nói: "Nuôi tôm trên cát thực chất là nuôi nước". Vụ Khoa học công nghệ, Bộ Thủy sản tính toán, nhu cầu nước ngọt cho một ha nuôi tôm trên cát một vụ là 16.000- 17.000 m3. Nếu thay nước ba lần trong một vụ, lượng nước ngọt cần cho mỗi ha lên đến 50.000m3. Nên nhớ nước này chủ yếu là nước ngầm. Một số nơi có các hồ chứa nước ngọt có thể sử dụng nuôi tôm nhưng tiền phải trả cao. Trong
  6. khi đó, nước ngầm coi như miễn phí do chưa được ai quản lý. Chính vì thế, người ta đổ sang khoan nước ngầm. Khảo sát mới nhất cho thấy tại các vùng nuôi tôm trên cát hiện nay, chất lượng nước ngọt tốt song trữ lượng lại rất hạn chế. Nguồn tích trữ chủ yếu là nước mưa thấm qua cát và được giữ lại. Các nhà khoa học ước tính, nếu đưa vào nuôi tập trung quy mô 300 ha thôi và nuôi mỗi năm hai vụ, nhu cầu nước ngọt đã lên đến
  7. gần 15 triệu m3/năm. Trong dự án 2.000 ha với 800 ha nuôi tôm trên cát, phần còn lại dành cho dịch vụ trại giống và nhà máy chế biến ở hai huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), nhu cầu nước ngọt sẽ là 40 triệu m3/năm. Lượng nước ấy tương đương với toàn bộ lượng nước ngọt cấp cho cả thủ đô Hà Nội trong ba tháng với công suất 450.000 m3/ngày. Còn trong dự án lớn nhất Việt Nam tại hai huyện
  8. Lệ Thủy và Quảng Ninh (Quảng Bình) với tổng diện tích 2.800 ha trong đó có 2.000 ha nuôi tôm trên cát, thì lượng nước ngọt cần là 100 triệu m3/năm, tương đương với lượng nước cho Hà Nội trong vòng 7,5 tháng. Hà Tĩnh và Quảng Bình là hai địa danh khan hiếm nước. Các tỉnh miền trung khác cũng không khá hơn gì. Không nghi ngờ gì nữa, nuôi tôm trên cát đang lặng lẽ nuốt chửng hàng triệu tấn nước, tài nguyên
  9. sống còn cho cuộc sống của người miền trung. Khai thác quá mức nước ngọt ở các vùng cát còn khiến địa tầng một số nơi sụt lún. Nước ngầm cạn kiệt gây mất cân bằng áp lực, tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập từ biển vào, gây mặn hóa nước ngọt. Tại Ninh Thuận, địa phương tiên phong về nuôi tôm trên cát, các nhà khoa học đã ghi nhận được hiện tượng rừng cây phi lao ven biển chết do thiếu nước ngọt. Có nơi rừng
  10. phòng hộ bị suy kiệt, gió cát vùi lấp cả ao nuôi tôm. Liên quan đến chất thải, với mật độ 40 con tôm/m3 tại các hệ thống đầm nuôi tôm trên cát quy mô lớn, lượng chất thải lỏng và rắn cần xử lý hàng năm vượt quá sức tưởng tượng của những người trong cuộc. Tính toán sơ bộ của các nhà khoa học ở Bộ Thủy sản cho thấy, mỗi ha nuôi tôm trên cát thải ra gần 8 tấn chất thải rắn như vỏ tôm khi tôm lột vỏ, thức ăn dư thừa, cùng hàng
  11. nghìn m3 nước thải. Trên một diện tích 800 ha của cơ sở nuôi tôm Hà Tĩnh, vùng biển lân cận phải tiếp nhận chừng 6.400 tấn chất thải rắn trong một vụ nuôi. Tại liên hợp ở Quảng Bình, lượng chất thải rắn trong một vụ đổ ra biển lên đến 16.000 tấn. Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Trương, Viện trưởng Viện Kinh tế sinh thái, cảnh báo, "sự xuống cấp về môi trường tại vùng đất cát rất nhanh chóng mà phục hồi lại rất khó.
  12. Không chỉ gây ô nhiễm, nó còn là thảm họa khôn lường trên vùng địa lý rộng hơn do vành đai bảo vệ bị phá hủy ngay từ bờ biển. Do đó, phải hết sức thận trọng khi tác động vào vùng đất cát trong lúc chúng đang ở trạng thái ổn định".
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2