Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2016<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
HIỆN TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP<br />
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN ĐẦM Ô LOAN HUYỆN TUY AN, PHÚ YÊN<br />
AQUACULTURE STATUS AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT SOLUTIONS<br />
FOR O LOAN LAGOON -TUY AN DISTRICT, PHU YEN PROVINCE<br />
Phạm Thị Anh1, Nguyễn Thanh Sơn2<br />
Ngày nhận bài: 16/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 29/4/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Kết quả điều tra tình hình nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên đầm Ô Loan huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên dựa<br />
trên việc phỏng vấn trực tiếp 100 hộ gia đình ở 5 xã: An Hải, An Cư, An Hiệp, An Ninh Đông và An Hòa. Nguồn<br />
lao động chính xung quanh hồ chủ yếu là nam giới (89,11%), tỷ lệ lao động trong nhóm tuổi từ 40 - 55 cao<br />
nhất chiếm 67,33%; hầu hết những người tham gia vào NTTS đều có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề với<br />
93% có kinh nghiệm từ 5 năm trở lên, trình độ văn hóa của người tham gia NTTS trình độ 9/12 cao nhất chiếm<br />
61,39%. Năm 2014, tổng sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan lần lượt là 1548,7 tấn và<br />
541,5 trong đó chủ yếu là diện tích nuôi tôm chiếm 96,21% tổng diện tích nuôi, sản lượng nuôi chiếm 98,41%<br />
tổng sản lượng nuôi trồng xung quanh đầm. Tất cả số hộ NTTS nuôi tôm đều sử dụng thuốc kháng sinh và hóa<br />
chất để phòng trị bệnh cho tôm và xử lý môi trường ao nuôi.<br />
Từ khóa: đầm Ô Loan, nuôi trồng thủy sản, hiện trạng, đầm<br />
ABSTRACT<br />
A survey was conducted to evaluate the aquaculture status on O Loan lagoon. A total of 100 households<br />
were interviewed belong to the communes An Hai, An Cu, An Hiep, An Ninh Dong and An Hoa in O Loan<br />
lagoon. The results showed that the labors in the lagoon were mainly male (89.11%), the percentage of workers<br />
in the age from 40 to 55 years are highest, accounted for 67.33%. Most people who involved in aquaculture<br />
have at least 5 years of experience or higher (93%). They have low level of education with the highest<br />
percentage at 9/12 (61.39%). In 2014, the total area and production of aquaculture activities of O Loan lagoon<br />
were 541.5 hectares and 1548.7 tons, respectively. Especially, shrimp farming was dominant with the area and<br />
production accounted for 96.21 % and 98.41 % of the total, respectively. All shrimp farms used antibiotic and<br />
chemical products for disease preventing and water treatment.<br />
Keywords: O loan lagoon, aquaculture, penaeus vannamei, status, lagoon<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Khu vực Nam Trung Bộ từ lâu đã nổi tiếng<br />
với những đầm phá nổi như đầm Nại (Bình<br />
Thuận), đầm Ô Loan (Phú Yên), đầm Thị Nại<br />
(Bình Định), đầm Nha Phu (Khánh Hòa), đầm<br />
Môn (Khánh Hòa), đầm phá Tam Giang - Cầu Hai<br />
1<br />
2<br />
<br />
(Thừa Thiên Huế), đầm Cù Mông (Phú Yên),<br />
vịnh Xuân Đài (Phú Yên)… Các đầm đều có<br />
hình dạng và cấu tạo rất đa dạng, chủ yếu<br />
là các thủy vực nông sát biển, nhận nước từ<br />
một hoặc vài con sông và thải nước ra biển<br />
qua cửa riêng của mình, rộng hẹp tùy đầm.<br />
<br />
Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br />
Viện Công nghệ Sinh học - Môi trường - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
NHA TRANG UNIVERSITY • 3<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Những sông trong vùng thường nhỏ, tổng<br />
lượng nước ít và chỉ chảy rất tập trung trong<br />
một vài tháng. Trong mùa khô kéo dài, sông lại<br />
rất cạn kiệt, nhiều nơi lòng sông trơ ra để lại<br />
hai bên bờ những dải cát, hay có những đầm bị<br />
khống chế hoàn toàn bởi nước biển, ở những<br />
đầm này độ muối thường cao, có trường hợp<br />
trở nên quá mặn, đạt giá trị 39 - 40‰ và khá<br />
ổn định [6]. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản<br />
trên các đầm phá ngày càng phát triển với quy<br />
mô rộng với nhiều đối tượng nước lợ, nước<br />
mặn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cao như:<br />
tôm sú, tôm chân trắng, tôm hùm, cua ghẹ, cá<br />
biển và một số loài nhuyễn thể, rong biển. Hiện<br />
nay hầu hết các đầm phá đều được sử dụng<br />
để phát triển nuôi trồng thủy sản, các hoạt<br />
động nuôi trồng thủy sản đang diễn biến hết<br />
sức phức tạp trên quy mô lớn, đặc biệt các<br />
ngành nghề nuôi tôm thâm canh, chuyên canh<br />
đã và đang mang lại những tác dụng tiêu cực<br />
cho môi trường các đầm phá ven biển [2,7].<br />
Phú Yên là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ,<br />
với lợi thế bờ biển dài gần 190 km cùng với<br />
nhiều eo, vịnh, đầm phá là nơi nuôi dưỡng,<br />
sinh trưởng của rất nhiều loài thủy hải sản<br />
khác nhau, có nhiều tiềm năng và lợi thế<br />
trong việc phát triển toàn diện ngành kinh tế<br />
thủy sản cũng như một số ngành kinh tế quan<br />
trọng khác [1]. Từ lâu đầm Ô Loan từ lâu đã<br />
nổi tiếng với nguồn lợi thủy sản đa dạng với<br />
rất nhiều các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao<br />
như sò huyết, ghẹ xanh, cua và hàu…, trong<br />
đó sò huyết đầm Ô Loan được coi là đặc sản<br />
của vùng [1]. Nghề nuôi trồng thủy sản xung<br />
quanh đầm Ô Loan đã góp phần nâng cao<br />
năng suất và sản lượng thủy sản, thúc đẩy<br />
nền kinh tế cho huyện Tuy An và tỉnh Phú Yên.<br />
Có thể khẳng định rằng đời sống của dân cư<br />
5 xã vùng đầm phụ thuộc vào nguồn lợi thuỷ<br />
sản của đầm Ô Loan. Đầm Ô Loan vẫn đóng<br />
một vai trò quan trọng trong chiến lược phát<br />
triển kinh tế thuỷ sản của tỉnh Phú Yên cũng<br />
như phát triển kinh tế huyện Tuy An, nguồn lợi<br />
<br />
4 • NHA TRANG UNIVERSITY<br />
<br />
Số 4/2016<br />
thủy sản từ đầm giúp nâng cao đời sống của<br />
cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh đầm.<br />
Năm 2013, diện tích nuôi trồng thủy sản trong<br />
đầm là 360,75 ha, trong số này diện tích nuôi<br />
cao triều là 20,5 ha (trong đó nuôi trên cát là 3,5<br />
ha), diện tích hồ hở (hồ chất đá) là 125 ha [4].<br />
Hoạt động nuôi trồng thủy sản của huyện Tuy<br />
An tập trung chủ yếu ở vùng đầm Ô Loan do<br />
người dân của 5 xã An Ninh Đông, An Hải, An<br />
Cư, An Hòa và An Hiệp tham gia nuôi trồng<br />
thủy sản, tổng diện tích nuôi xung quanh đầm<br />
là 420 ha, chiếm hơn 80% diện tích nuôi toàn<br />
huyện [8]. Tuy nhiên, do hoạt động nuôi trồng<br />
thuỷ sản quá mức, thiếu quy hoạch đã dẫn<br />
đến môi trường đầm suy thoái, tình hình dịch<br />
bệnh trong nuôi trồng thủy sản diễn biến phức<br />
tạp: Năm 2008 dịch bệnh trên tôm bùng phát<br />
ở đầm Ô Loan, 50/180 ha tôm sú bị mất trắng<br />
do bệnh, chủ yếu là bệnh đỏ thân và bệnh đốm<br />
trắng. Đầu năm 2009, có gần 70 ha tôm bị chết<br />
chủ yếu do bệnh taura và các bệnh có liên<br />
quan đến môi trường [3]. Theo báo cáo của<br />
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn<br />
huyện Tuy An, những tháng đầu năm 2009,<br />
biên độ triều trong đầm Ô Loan thấp hơn trung<br />
bình từ 0,2-0,3m, độ mặn giảm so với trung<br />
bình nhiều năm từ 0,5 - 0,6 %. Đáng chú ý là<br />
kết quả tại điểm thu mẫu An Hải về chỉ tiêu ô<br />
nhiễm vi sinh đã vượt ngưỡng cho phép. Đầu<br />
năm 2010, 85 ha tôm chân trắng bị nhiễm bệnh<br />
chủ yếu tập trung ở 2 huyện Tuy An và Đông<br />
Hòa. Năm 2011 riêng khu vực đầm Ô Loan có<br />
gần 100 ha nuôi tôm bị dịch bệnh, tập trung<br />
chủ yếu ở các xã An Ninh Đông, An Ninh Tây<br />
và An Cư, ngoài ra đại đa số hồ ở đây chủ yếu<br />
là hồ hở nên việc lây lan dịch bệnh rất nhanh<br />
chóng [3].<br />
Do đó việc đánh giá lại hiện trạng nuôi<br />
trồng thủy sản xung quanh đầm Ô Loan hiện<br />
nay là cần thiết để có những giải pháp kịp thời<br />
nhằm phát triển các hoạt động nuôi trồng thủy<br />
sản xung quanh đầm một cách bền vững và ít<br />
nguy hại nhất đến môi trường đầm.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2016<br />
<br />
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu<br />
Nội dung nghiên cứu tiến hành từ tháng 02/2014 đến hết tháng 12/2014 xung quanh đầm Ô Loan Phú Yên. Đối tượng phỏng vấn là các hộ nuôi trồng thủy sản trên đầm ở 5 xã: xã An Hòa, An Hiệp,<br />
An Ninh Đông, An Hải và An Cư.<br />
<br />
Hình 1. Đầm Ô Loan và cửa đầm Tân Quy [12]<br />
<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
- Số liệu thứ cấp được thu thập tại Sở<br />
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài<br />
nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên, Phòng<br />
Nông nghiệp huyện Tuy An và các sách báo,<br />
tài liệu có liên quan.<br />
- Số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa trên<br />
quá trình phỏng vấn trực tiếp các ngư dân nuôi<br />
trồng thủy sản xung quanh vùng đầm Ô Loan<br />
thuộc 5 xã ven đầm (xã An Hòa, An Hiệp, An<br />
Ninh Đông, An Hải và An Cư) và cán bộ quản<br />
lý khu vực nghiên cứu qua bộ câu hỏi điều tra<br />
với 101 phiếu.<br />
- Thông tin thu thập được xử lý theo từng<br />
nội dung riêng dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn<br />
và dữ liệu được xử lý trên phần mềm Excel.<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Nguồn lao động nuôi trồng thủy sản trên<br />
đầm Ô Loan<br />
- Tỷ lệ giới tính: Trong 101 phiếu được khảo<br />
sát về tình hình NTTS xung quanh đầm Ô Loan<br />
cho thấy có số lượng nữ tham gia NTTS chiếm<br />
tỷ lệ 10,89% (11/101 phiếu), còn lại đều là nam<br />
giới chiếm tỷ lệ 89,11% (90/11 phiếu). Đây là một<br />
trong những thực tế hiện nay do tính chất của<br />
các công việc trong nuôi trồng thủy sản đòi hỏi<br />
<br />
nhiều sức lực cũng như thời gian làm việc nên<br />
nam giới tham gia có tỷ lệ chiếm rất cao.<br />
- Cơ cấu độ tuổi của những người tham<br />
gia NTTS: Những người tham gia NTTS có thể<br />
chia thành 3 nhóm độ tuổi khác nhau là dưới<br />
40 tuổi, từ 40 đến 55 tuổi, trên 55 tuổi. Trong<br />
đó, tỷ lệ lao động trong nhóm tuổi từ 40 - 55<br />
cao nhất chiếm 67,33% (68/101 phiếu), đây là<br />
nguồn lao động có sức khỏe tốt và nắm bắt<br />
các kĩ thuật nuôi, kinh nghiệm nuôi tốt hơn so<br />
với những nhóm tuổi khác. Nhóm tuổi trên 55<br />
chiếm 13,86 % (14/101 phiếu), nhóm tuổi dưới<br />
40 chiếm 18,81% (19/101 phiếu).<br />
- Số năm kinh nghiệm trong NTTS: Nguồn<br />
lao động có số năm kinh nghiệm tham gia vào<br />
NTTS khá cao, số chủ hộ có thâm niên NTTS<br />
từ 10 đến 15 năm chiếm tỷ lệ cao nhất đạt<br />
40,59%, từ 5 đến 10 năm chiếm 32,67%, từ 15<br />
- 20 năm chiếm 14,85%, các chủ hộ nuôi trên<br />
20 năm chiếm 4,95%.<br />
- Trình độ văn hóa thấp: Kết quả điều tra<br />
cho thấy, đa số các chủ hộ có trình độ văn hóa<br />
(9/12) chiếm tỷ lệ 61,39%, tiếp theo đến trình<br />
độ 12/12 chiếm 20,79%, trình độ 8/12 chiếm<br />
6,93%, trình độ tiểu học chiếm 4,95% và tỷ lệ<br />
người không biết chữ chiếm 5,94%. Khảo sát<br />
này cũng chỉ ra rằng trong tất cả các hộ được<br />
NHA TRANG UNIVERSITY • 5<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
phỏng vấn không có chủ hộ nào đã qua lớp<br />
đào tạo chuyên môn có trình độ đại học, tất<br />
cả kinh nghiệm trong NTTS chủ yếu được học<br />
tập theo kiểu truyền miệng và kinh nghiệm của<br />
bản thân.<br />
- Thu nhập bình quân đầu người/năm: Năm<br />
2010, thu nhập bình quân đầu người/năm đạt<br />
mức 12,1 triệu/năm, con số này ngày càng gia<br />
tăng và đến năm 2013 là 20,1 triệu/người/năm<br />
và năm 2014 là 22,6 triệu/người/năm, tăng gấp<br />
1,86 lần so với năm 2010.<br />
2. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản trên đầm<br />
Ô Loan<br />
<br />
Số 4/2016<br />
2.1. Diện tích nuôi và sản lượng nuôi trồng thủy<br />
sản trên đầm Ô Loan<br />
Diện tích nuôi trồng thủy sản của 5 xã An<br />
Hải, An Hiệp, An Hòa, An Cư và An Ninh Đông<br />
năm 2014 có sự chênh lệch đáng kể: xã Ninh<br />
Đông và An Hòa có diện tích nuôi lớn nhất<br />
chiếm lần lượt là 133ha và 152ha, đây là hai xã<br />
có diện tích NTTS chiếm chủ lực xung quanh<br />
đầm Ô Loan. Tổng diện tích NTTS trong đầm<br />
Ô Loan năm 2014 là 541,5 ha, trong đó diện<br />
tích nuôi tôm công nghiệp là 521 ha (chiếm<br />
96,21%). Tổng sản lượng NTTS năm 2014 đạt<br />
1548,7 tấn, trong đó sản lượng tôm nuôi đạt<br />
1524,1 chiếm 98,41% [8].<br />
<br />
Hình 2. Diện tích và sản lượng NTTS của các xã trên đầm Ô Loan năm 2014 [7]<br />
<br />
Nhìn vào biểu đồ hình 2 cho thấy xã An<br />
Cư năm 2014 có diện tích nuôi đứng thứ 3 chỉ<br />
sau xã An Ninh Đông và An Hòa, tuy nhiên sản<br />
lượng nuôi lại thấp nhất so với các xã khác, chỉ<br />
đạt 137 tấn, điều này là do vấn đề dịch bệnh.<br />
Sáu tháng đầu năm 2014 toàn huyện Tuy An<br />
có 169,5 ha tôm bị bệnh, trong đó diện tích mất<br />
trắng là 67 ha (tôm chân trắng 61 ha, tôm sú 6<br />
ha). Tôm bị dịch bệnh rải rác khắp các xã: An<br />
Ninh Đông 44 ha, An Cư 39 ha, An Hòa 45 ha,<br />
An Hiệp 15 ha và An Hải 0,5 ha. Tôm chủ yếu<br />
bị bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp tính,<br />
dịch bệnh xảy ra ở tôm nuôi 10 đến 20 ngày<br />
tuổi [3]. Theo Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy<br />
sản (Sở NN-PTNT 3/2014), qua lấy mẫu phân<br />
tích cho thấy, nước tại vùng nuôi cách xa cửa<br />
biển như An Cư, ngoài ra còn bị ảnh hưởng<br />
<br />
6 • NHA TRANG UNIVERSITY<br />
<br />
của nước ngọt từ sông Cái và sông Hà Yến đổ<br />
xuống nên độ mặn và độ kiềm tương đối thấp,<br />
độ mặn dưới 10‰, độ kiềm thấp từ 30 đến<br />
40 ppm. Cũng theo Trung tâm này, ô nhiễm<br />
dinh dưỡng cũng được phát hiện ở vùng nuôi<br />
này: hàm lượng NH3-N hoặc NO2-N cao vượt<br />
ngưỡng cho phép, lần lượt dao động từ 0,5<br />
đến 1ppm và 0,1 đến 0,3ppm. An Hải là xã có<br />
diện tích nuôi thấp nhất với 40ha, đây là xã<br />
nằm gần cửa biển nên mực nước ở khu vực<br />
này sâu, chế độ thủy lực không ổn định, nước<br />
mặn hơn phía trong đầm do thường xuyên trao<br />
đổi với nước biển, nên phù hợp với việc nuôi<br />
các loài ưa độ mặn cao như cá mú, cá hồng,<br />
hàu,... Diện tích nuôi cá biển của xã An Hải<br />
cũng chiếm nhiều nhất trong vùng với 12/23 ha<br />
(chiếm 52,17%)[1].<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2016<br />
<br />
2.2. Đối tượng nuôi xung quanh đầm Ô Loan<br />
Bảng 1. Một số đối tượng nuôi ở các xã xung quanh vùng đầm Ô Loan năm 2014<br />
<br />
Đơn vị tính: %<br />
<br />
STT<br />
<br />
Hình thức nuôi<br />
<br />
An Ninh Đông<br />
<br />
An Hải<br />
<br />
An Cư<br />
<br />
An Hiệp<br />
<br />
An Hòa<br />
<br />
1<br />
<br />
Tôm he chân trắng<br />
<br />
92,16<br />
<br />
71,43<br />
<br />
33,33<br />
<br />
66,67<br />
<br />
100<br />
<br />
2<br />
<br />
Tôm sú<br />
<br />
7,84<br />
<br />
19,05<br />
<br />
50<br />
<br />
33,33<br />
<br />
0<br />
<br />
3<br />
<br />
Cá các loại<br />
<br />
0<br />
<br />
4,76<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
4<br />
<br />
Sò huyết<br />
<br />
0<br />
<br />
4,76<br />
<br />
16,67<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
Đối tượng nuôi chính trên đầm Ô Loan<br />
chủ yếu là tôm he chân trắng (Penaeus<br />
vanamei) và tôm sú (Penaeus monodon), số<br />
lượng các hộ nuôi hai đối tượng này chiếm hầu<br />
hết diện tích nuôi trong đầm Ô Loan. Theo số<br />
liệu phỏng vấn người dân xung quanh các xã<br />
thì xã An Hòa có 100% số hộ nuôi tôm he chân<br />
trắng, tiếp đến là An Ninh Đông là 92,16%, An<br />
Hải 71,43% và An Cư là 33,33%. Các hộ nuôi<br />
cá (cá mú Epinephelus fuscoguttatus, cá hồng<br />
Lutjanus campechanus) và nhuyễn thể (hầu,<br />
sò huyết) rất ít chủ yếu nằm ở hai xã An Hải<br />
và An Cư.<br />
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy diện tích<br />
xung quanh vùng đầm Ô Loan chủ yếu là nuôi<br />
tôm thẻ chân trắng và tôm sú, các đối tượng<br />
nuôi truyền thống và nổi tiếng của vùng ít được<br />
quan tâm chú trọng như ghẹ xanh, sò huyết,<br />
cua, hàu, tôm đất v.v... Tuy nhiên các đối tượng<br />
này lại được khai thác một cách triệt để để<br />
phục vụ khách du lịch, đây cũng là một trong<br />
những vấn đề đáng quan tâm của địa phương<br />
<br />
trong quá trình phát triển nuôi trồng thủy sản<br />
một cách bền vững. Sò huyết đầm Ô Loan từ<br />
lâu đã nổi tiếng trên cả nước và đây cũng là<br />
một trong những lý do để đầm nước lợ Ô Loan<br />
được công nhận là danh lam thắng cảnh quốc<br />
gia, tuy nhiên hiện nay nguồn lợi này đang bị<br />
giảm sút nghiêm trọng.<br />
2.3. Hình thức nuôi trồng thủy sản<br />
Nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan chủ<br />
yếu theo hai hình thức là nuôi tôm chuyên canh<br />
và nuôi ghép tôm với cua và cá biển. Diện tích<br />
nuôi các đối tượng như nhuyễn thể (hầu hoặc<br />
sò huyết) chủ yếu là nuôi theo hình thức bán<br />
thâm canh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản<br />
năm 2014 có xu hướng tăng hơn so với các<br />
năm trước, mặc dù chính quyền địa phương<br />
đã có thông báo cấm mở rộng diện tích nuôi<br />
trên đầm, tuy nhiên một số hộ nuôi vẫn tiến<br />
hành đào thêm các ao nuôi mới, điều này đang<br />
là mối đe dọa lớn đối với hệ sinh thái cũng như<br />
địa chất của đầm [10,12,13].<br />
<br />
Bảng 2. Hình thức nuôi tôm và kiểu hồ nuôi tôm tại các xã xung quanh đầm Ô Loan<br />
STT<br />
<br />
Hình thức nuôi<br />
<br />
An Ninh Đông<br />
<br />
An Hải<br />
<br />
An Cư<br />
<br />
An Hiệp<br />
<br />
An Hòa<br />
<br />
1<br />
<br />
Thâm canh (%)<br />
<br />
84,31<br />
<br />
66,67<br />
<br />
66,67<br />
<br />
66,67<br />
<br />
100<br />
<br />
2<br />
<br />
Bán thâm canh (%)<br />
<br />
15,69<br />
<br />
33,33<br />
<br />
33,33<br />
<br />
33,33<br />
<br />
0<br />
<br />
3<br />
<br />
Nuôi hồ kín (%)<br />
<br />
100<br />
<br />
76,19<br />
<br />
33,33<br />
<br />
66,67<br />
<br />
100<br />
<br />
4<br />
<br />
Nuôi hồ hở (%)<br />
<br />
0<br />
<br />
23,81<br />
<br />
66,67<br />
<br />
33,33<br />
<br />
0<br />
<br />
Hình thức nuôi tôm chủ yếu là nuôi thâm<br />
canh trên vùng cao triều (bằng các ao đất<br />
lót bạt) với mật độ nuôi cao, hình thức nuôi<br />
này chiếm đến 100% ở xã An Hòa, 84,31% ở<br />
An Ninh Đông. Có hai loại hồ nuôi tôm thâm<br />
canh chính ở các xã xung quanh đầm là hồ<br />
kín và hồ hở. Hồ kín là hồ được đắp bằng đất<br />
<br />
có lót bạt bờ và bạt đáy, hồ kín cao hơn mực<br />
nước trong đầm và nằm ở vùng cao triều, hồ<br />
kín có thể tự điều tiết nước bằng hệ thống bơm<br />
(chiếm 100% ở An Ninh Đông và An Hòa, An<br />
Hải và An Hiệp lần lượt là 76,19% và 66,67%).<br />
Hồ hở là hồ được chất bằng đá, san hô hoặc<br />
bao lưới vây tạo thành hồ nên mực nước<br />
NHA TRANG UNIVERSITY • 7<br />
<br />