intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở vùng đầm phá huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

78
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện Quảng Điền nói riêng có tiềm năng lớn trong phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS). Nhờ những lợi thế của hệ đầm phá nước lợ (lagoon), nghề NTTS mà đặc biệt là nuôi tôm đang phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây ở vùng đầm phá huyện Quảng Điền, góp phần tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Mời các bạn cùng tìm hiểu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở vùng đầm phá huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 28, 2005<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> HIỆU QUẢ KINH TẾ NUÔI TÔM Ở VÙNG ĐẦM PHÁ<br /> HUYỆN QUẢNG ĐIỀN, THỪA THIÊN HUẾ<br />           Mai Văn Xuân<br />            Trường Đại học Kinh tế, Đại học  <br /> Huế <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Tỉnh Thừa Thiên Huế  nói chung và huyện Quảng Điền nói riêng có tiềm năng <br /> lớn trong phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS). Nhờ những lợi thế của hệ đầm phá  <br /> nước lợ  (lagoon), nghề  NTTS mà đặc biệt là nuôi tôm đang phát triển nhanh chóng  <br /> trong những năm gần đây  ở  vùng đầm phá huyện Quảng Điền, góp phần tạo thêm  <br /> công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, phát triển NTTS, nhất <br /> là nuôi tôm trên địa bàn còn mang tính tự  phát, chưa tương xứng với tiềm năng của  <br /> nó. Vì vậy, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế nghề nuôi tôm ở huyện Quảng Điền  <br /> là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. <br /> Mục đích nghiên cứu:  Đánh giá thực trạng tình hình nuôi tôm vùng đầm phá <br /> huyện Quảng Điền; đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế nuôi tôm  <br /> của địa phương trong những năm đến.<br /> Phương pháp nghiên cứu: ba xã có tình hình nuôi tôm phát triển nhất  ở huyện, <br /> bao gồm Quảng Công, Quảng Thành, Quảng Phước được lựa chọn để  nghiên cứu.  <br /> Sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên không lặp theo khoảng cách tổ <br /> xác định với kích thước mẫu là 45 hộ nuôi tôm theo phương thức quảng canh cải tiến  <br /> (QCCT) chiếm 10% trong tổng số hộ nuôi theo hình thức này; và 42 hộ nuôi bán thâm  <br /> canh (BTC) chiếm 27% trong tổng số hộ  nuôi BTC. Phương pháp nghiên cứu có sự <br /> tham gia của người dân; phương pháp chuyên gia; phương pháp phân tích riêng biệt  <br /> (Discriminant Analysis); phương pháp toán kinh tế... được sử  dụng để  nghiên cứu.  <br /> Dựa vào các tài liệu đã được công bố  của địa phương cùng với số  liệu điều tra thu <br /> thập từ  các hộ  qua bảng điều tra (questionnaire) với những nội dung chủ  yếu như:  <br /> năng lực sản xuất của hộ; kết quả  sản xuất kinh doanh; vấn  đề  thị  trường; môi <br /> trường; những thuận lợi, khó khăn... mà các hộ nuôi tôm gặp phải được sử  dụng để <br /> phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở vùng đầm phá huyện Quảng Điền. Số <br /> liệu được phân tích chủ yếu qua ba năm 2001 ­ 2003. <br /> Vài nét về  đặc điểm vùng nghiên cứu, Quảng Điền là một trong những huyện <br /> vùng đầm phá ven biển của tỉnh TTH, có phá Tam Giang dài hơn 17km, với diện tích <br /> 5<br /> trên 3.850ha (chiếm 17,8% diện tích vùng đầm phá Tam Giang ­  Cầu Hai của tỉnh).  <br /> Đây là vùng hợp lưu của nhiều con sông và cửa biển với điều kiện sinh thái lý tưởng  <br /> cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loại thuỷ sản có giá trị cao. Theo số liệu <br /> của phòng thống kê huyện, tính đến cuối năm 2002, diện tích NTTS của huyện là  <br /> 623ha (chiếm hơn 16% diện tích NTTS toàn tỉnh) tăng 77ha so với năm 2001; sản  <br /> lượng thủy sản nuôi trồng là 388 tấn (tăng 26 tấn so với năm 2001). Nhờ đầu tư  mở <br /> rộng diện tích và tăng năng suất nên tình hình nuôi tôm trong những năm gần đây phát  <br /> triển khá mạnh, năm 2002 diện tích đạt trên 583ha, sản lượng trên 362 tấn. Hiện nay  <br /> nhân dân trong vùng nuôi tôm sú với hai hình thức chủ  yếu là QCCT và BTC. Hai <br /> phương thức này khai thác điều kiện tự  nhiên và sinh thái của vùng khác nhau và  <br /> mang lại hiệu quả kinh tế khác nhau. Vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung <br /> nghiên cứu hiệu quả kinh tế nuôi tôm theo các hình thức nuôi này.<br /> 2. Kết quả và hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở vùng đầm phá huyện Quảng <br /> Điền <br /> a) Năng lực sản xuất của hộ<br /> Diện tích nuôi tôm bình quân hộ  theo các hình thức nuôi QCCT và BTC là <br /> 0,75ha và 0,62ha; vốn đầu tư  bình quân hộ  là 69 và 76 triệu đồng; đầu tư  bình quân <br /> trên 1ha là 92 và 121 triệu đồng; độ tuổi của chủ hộ không có sự chênh lệch đáng kể,  <br /> 39 và 38 tuổi; trình độ văn hóa trung bình là lớp 8 và 9; năm kinh nghiệm nuôi tôm là  <br /> 5,5 và 6,2 năm; số lần tham gia các đợt tập huấn kỹ thuật nuôi tôm là 2,8 và 3,3 lần;  <br /> cả hai hình thức nuôi chủ yếu là sử dụng lao động gia đình.<br /> b) Chi phí sản xuất theo hình thức nuôi<br /> Chi phí trung gian (IE) theo hai hình thức nuôi có sự  chênh lệch nhau đáng kể, <br /> nuôi BTC chi phí bình quân gần 37 triệu đồng/ha cao hơn 44% so với nuôi QCCT. <br /> Điều này là do nuôi BTC chi phí về con giống cao hơn nhiều (gần 15 triệu đồng/ha) <br /> so với nuôi QCCT (trên 6,5 triệu đồng/ha).  Ở cả hai hình thức nuôi, chi phí về  thức <br /> ăn và con giống là đáng kể  hơn cả. Nuôi QCCT, tỷ  lệ  này lần lượt là 45,2% và  <br /> 26,1%; nuôi BTC là 34,8% và 40,8%. Điều cần lưu ý là các hộ nuôi BTC chủ yếu sử <br /> dụng thức ăn công nghiệp trong khi các hộ  QCCT chủ  yếu sử  dụng thức ăn tươi.  <br /> Việc sử dụng thức ăn công nghiệp không những đảm bảo chất lượng, góp phần tăng <br /> năng suất tôm mà còn đảm bảo vệ sinh ao hồ. Chi phí về phòng trừ dịch bệnh và xử <br /> lý ao hồ  chiếm khoảng 24­29% trong tổng chi phí trung gian (tùy theo phương thức <br /> nuôi) và thông thường tỷ trọng này ở  nuôi QCCT cao hơn nuôi BTC. Điều này là do <br /> tác dụng phụ của việc sử dụng thức ăn tươi của QCCT gây ra.<br /> c) Hiệu quả kinh tế theo hình thức nuôi<br /> Số liệu bảng 1 chỉ ra rằng nhờ đầu tư cao hơn mà năng suất tôm của hình thức  <br /> nuôi BTC cao hơn nuôi QCCT đáng kể  (25%). Vì vậy, mà giá trị  gia tăng (VA) của  <br /> hình thức nuôi BTC đạt trên 25 triệu đồng/ha cao hơn 18,5% nuôi QCCT. Mặc dù tỷ <br /> <br /> 6<br /> trọng giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất (VA/GO) của hình QCCT (45,3%) cao  <br /> hơn BTC (40,9%) nhưng rõ ràng trong điều kiện diện tích đất đai nuôi trồng thủy sản <br /> nói chung và nuôi tôm nói riêng còn hạn chế thì hình thức nuôi BTC đã và đang chứng <br /> tỏ   ưu thế  cao hơn. Vì vậy,  ở  vùng đầm phá Quảng Điền nói riêng và tỉnh TTH nói  <br /> chung ngày càng có nhiều hộ  áp dụng hình thức nuôi BTC và thâm canh (TC). Nuôi  <br /> theo hình thức BTC và TC không những tiết kiệm được diện tích mà còn tạo tiền đề <br /> quan trọng để  áp dụng các biện pháp khoa học kỹ  thuật và đề  phòng dịch bệnh tốt  <br /> hơn. <br /> Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức nuôi như  thế  nào còn phụ  thuộc vào nhiều  <br /> yếu tố như khả năng tài chính, kinh nghiệm sản xuất, điều kiện đất đai mặt nước... <br /> Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi cố gắng phân tích ảnh hưởng của các nhân tố <br /> khác nhau đến hiệu quả nuôi theo các hình thức qua đó giúp cho các hộ nông dân nên <br /> áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp nào để tăng hiệu quả kinh tế của quá trình  <br /> kinh doanh trong phát triển nuôi tôm ở vùng đầm phá Quảng Điền.<br /> Bảng 1: Hiệu quả kinh tế theo hình thức nuôi của các hộ ở vùng nghiên cứu năm 2002<br /> <br /> So sánh <br /> Chỉ tiêu ĐVT QCCT BTC BTC/QCCT <br /> (%)<br /> 1. Năng suất kg/ha 604 755 125,0<br /> 2. GO 1.000đ/ha 47.44 62.199 131,1<br /> 3.  IE 1.000đ/ha 25.968 36.757 141,5<br /> 4. VA 1.000đ/ha 21.472 25.442 118,5<br /> 5.  VA/GO % 45,3 40,9 90,4<br /> 6. VA/IE % 82,7 69,2 83,7<br /> Nguồn: Số liệu điều tra<br />  3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị gia tăng theo các mô hình nuôi tôm<br />   Hàm sản xuất Cobb­Douglas được sử  dụng để   ước lượng các nhân tố   ảnh <br /> hưởng đến hiệu quả kinh tế các hình thức nuôi tôm ở vùng nghiên cứu. Các biến số <br /> được đưa vào phân tích bao gồm, biến phụ thuộc: Y ­ VA (1.000đ/ha); các biến độc <br /> lập: D ­ năng lực của chủ hộ, X1 ­ công lao động (ngày­người/ha), X2 ­ mật độ  thả <br /> giống (số  con/m2), X3  ­ chi phí thức ăn công nghiệp (1.000đ/ha), X4 ­ chi phí thức ăn <br /> tươi (1.000đ/ha), và X5 ­ chi phí phòng trừ dịch bệnh (1.000đ/ha).  <br /> Năng lực sản xuất của chủ  hộ  do  ảnh hưởng tổng hợp của nhiều yếu tố. Rõ <br /> ràng không thể dùng một nhân tố riêng biệt nào để đánh giá năng lực của chủ hộ mà  <br /> đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp một số các yếu tố  nhất định. Để  giải quyết vấn đề <br /> này chúng tôi sử  dụng phương pháp phân tích riêng biệt (Disciriminant Analysis) để <br /> tổng hợp nên biến định tính D ­ năng lực chủ hộ với các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu <br /> <br /> 7<br /> như  độ  tuổi, trình độ  văn hoá, trình độ  chuyên môn, năm kinh nghiệm....  Kết quả <br /> phân tích theo các mô hình được phản ảnh ở bảng 2.<br /> Rõ ràng, các nhân tố  nghiên cứu có  ảnh hưởng đáng kể  đến kết quả  sản xuất  <br /> trong cả hai hình thức nuôi. Với hình thức QCCT, 4 biến số có ý nghĩa thống kê là D,  <br /> X1, X4, X5  với P­value lớn nhất là 0,010 (X5) có  ảnh hưởng quyết định gần 64% <br /> (R2=0,637) sự biến thiên của giá trị  gia tăng trên 1 ha; với nuôi BTC, cũng có 4 biến  <br /> số có ý nghĩa thống kê D, X1, X3, X4 với P­value lớn nhất là 0,012 (X1) có ảnh hưởng <br /> quyết định trên 88% (R2=0,884) sự biến động giá trị gia tăng trên 1ha. <br />    Bảng 2: Kết quả ước lượng hàm Cobb­Douglas theo hình thức nuôi ở vùng nghiên cứu<br /> <br /> QCCT BTC<br /> Hệ số  SS  Hệ số  SS <br /> t Sig. T Sig.<br /> (β) chuẩn (β) chuẩn<br /> R 0,818 0,266 0,940 0,147<br /> R2 0,670 0,884<br /> R2 điều <br /> 0,637 0,872<br /> chỉnh<br /> Số quan sát <br /> 45 42<br /> (N)<br /> F 20,277 0,000 70,554 0,000<br /> Hệ số tự do 16,466 2,141 7,689 0,000 8,395 0,761 11,034 0,000<br /> D 0,452 0,094 4,830 0,000 0,260 0,052 4,977 0,001<br /> X1 ­0,827 0,240 ­3,445 0,001 0,253 0,096 2,642 0,012<br /> X3 ­ ­ ­ ­ 0,505 0,059 8,620 0,000<br /> X4 ­0,714 0,139 ­5,144 0,000 ­0,516 0,065 ­7,928 0,000<br /> X5 0,472 0,176 2,688 0,010 ­ ­ ­ ­<br /> Trong cả hai hình thức nuôi, biến số D có ảnh hưởng tích cực đến Y (β d = 0,452 <br /> và 0,260 cho QCCT và BTC), trong khi đó X4,  trong mô hình nuôi QCCT, có  ảnh <br /> hưởng tiêu cực đến Y (β4 = ­0,714). X3 có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả nuôi tôm  <br /> BTC (β3 = 0,505). Theo nghiên cứu của chúng tôi, nhờ nắm bắt được kỹ thuật này mà  <br /> các hộ  nuôi BTC đã tích cực sử  dụng thức ăn công nghiệp nên hạn chế  được dịch  <br /> bệnh và chi phí vệ sinh ao hồ (vì vậy mà X5 không có ý nghĩa thống kê trong mô hình <br /> này). Trong khi đó nuôi QCCT, thức ăn tươi được sử dụng phổ biến, vì vậy vừa hạn  <br /> chế đến hiệu quả nuôi tôm vừa làm tăng chi phí phòng trừ dịch bệnh.<br /> Kết quả  nghiên cứu trên chứng tỏ  rằng nuôi BTC không những có hiệu quả <br /> kinh tế  cao hơn QCCT mà còn bảo vệ  được môi trường tốt hơn. Tuy nhiên, để <br /> chuyển từ QCCT sang BTC không những đòi hỏi chủ hộ phải có năng lực nhất định <br /> mà cần một lượng tài chính nhất định. Theo tính toán của các chuyên gia và nghiên  <br /> cứu của chúng tôi, để  chuyển 1 ha từ  nuôi QCCT sang BTC cần khoảng 24 triệu  <br /> 8<br /> đồng. Đây là một khoản kinh phí đáng kể đối với các nông hộ. Đó cũng là lý do vì sao  <br /> cho đến nay tỷ lệ nuôi BTC ở huyện Quảng Điền còn khá khiêm tốn (157 hộ, chiếm <br /> gần 26% số hộ nuôi tôm). <br /> 4. Thị trường và một số tác động đến tình hình nuôi tôm của các nông hộ:<br /> Thị trường tiêu thụ và kênh phân phối sản phẩm ở huyện khá đơn điệu, bất lợi  <br /> cho nguời nuôi tôm. Theo nghiên cứu của chúng tôi, có trên 95% số hộ nuôi QCCT và  <br /> trên 64% hộ nuôi BTC bán tôm tại hồ; trên 84% số hộ QCCT và trên 90% số hộ BTC  <br /> bán tôm cho tư thương. Người nuôi tôm thường bị tư thương ép cấp, ép giá trong khi <br /> các doanh nghiệp nhà nước thu mua và chế biến hàng thủy sản trên địa bàn đang thua  <br /> lỗ thậm chí bị phá sản khá nhiều. Đây là vấn đề cần quan tâm hỗ trợ cho người nông <br /> dân có điều kiện phát triển con tôm.<br /> Về giống và thức ăn, việc đảm bảo có giống khỏe, rõ nguồn gốc và sạch bệnh <br /> là vấn đề  khá bức xúc, hiện có trên 50% số  hộ  nông dân mua giống từ  ngoài tỉnh.  <br /> Hầu hết các hộ  mong muốn chính quyền địa phương có chính sách hỗ  trợ phát triển  <br /> nguồn cung cấp giống tại chỗ, có sự kiểm soát dịch bệnh. Nguồn thức ăn cung cấp <br /> khá dồi dào, mua bán thuận tiện song thường do các đại lý thực hiện, việc khuyến  <br /> cáo nên sử  dụng loại thức ăn nào, vào thời điểm nào... vẫn chưa được hướng dẫn  <br /> chặt chẽ.<br /> Dịch bệnh và môi trường là những vấn đề  nan giải với hộ  nuôi tôm, trên 78% <br /> số  hộ  nuôi QCCT và trên 71% hộ  nuôi BTC đều cho rằng dịch bệnh là khó khiểm  <br /> soát và đang gây nên những thiệt hại đáng kể cho họ. Trên 97% số hộ nuôi QCCT và  <br /> trên 86% số hộ nuôi BTC cho rằng môi trường đang bị ô nhiễm và tác động không tốt  <br /> đến kết quả nuôi tôm của họ.<br /> 5. Một số  giải  pháp phát triển kinh tế  nuôi tôm vùng đầm phá huyện  <br /> Quảng Điền<br /> Các giải pháp phát triển nuôi tôm vùng đầm phá huyện Quảng Điền phải dựa  <br /> trên quan điểm chung là:  Phát triển bền vững, gắn hiệu quả  kinh tế  với bảo vệ <br /> nguồn tài nguyên và môi trường vùng đầm phá. <br /> a) Qui hoạch tổng thể  việc khai thác, sử  dụng vùng đầm phá và phát triển  <br /> NTTS. Công tác này phải gắn với việc xây dựng cơ  sở  hạ  tầng phục vụ  phát triển <br /> NTTS, tạo điều kiện khai thác lợi thế  so sánh của các tiểu vùng để  bố  trí các công <br /> thức nuôi tôm có hiệu quả. Thực hiện giao quyền sử dụng đất ngập nước cho các hộ <br /> gia đình, phát triển các loại hình kinh tế trang trại nuôi tôm.<br /> b) Phát triển cơ  sở hạ tầng kỹ thuật, các dịch vụ  NTTS nói chung và nuôi tôm  <br /> nói riêng. Cần có hệ thống dịch vụ đồng bộ  phục vụ cho các hộ  nông dân nuôi tôm.  <br /> Hệ thống này bao gồm các trại giống có chất lượng cao, kiểm soát được dịch bệnh; <br /> xây dựng các cơ  sở  chế  biến thức ăn đảm bảo được tiêu chuẩn kỹ  thuật và giá cả <br /> hợp lý. Cho đến nay, ngoài cơ sở chế  biến thức ăn Trường Giang hoạt động có kết <br /> <br /> 9<br /> quả khá tốt, còn hầu hết các cơ sở khác đều không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, tình <br /> trạng sử dụng thức ăn tươi là khá phổ biến gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường.<br /> c) Chính sách tín dụng, đầu tư  cho nuôi tôm cần một lượng vốn đáng kể, nhất <br /> là đối với các hộ nuôi BTC. Hơn thế nữa, như đã phân tích ở trên, cần khuyến khích  <br /> và tạo điều kiện cho các hộ chuyển từ nuôi QCCT sang nuôi BTC có hiệu quả  kinh  <br /> tế cao hơn. Điều này càng đòi hỏi một lượng vốn ban đầu khá lớn. Vì vậy, cần phải  <br /> mở rộng hình thức và đối tượng cho vay, tạo thêm nhiều kênh huy động vốn... <br /> d) Các chính sách về  khuyến ngư, tổ  chức các lớp tập huấn về  kỹ  thuật nuôi  <br /> tôm, kỹ  năng tiếp cận thị  trường và các dịch vụ  kinh doanh khác cho các nông hộ.  <br /> Thiết lập tổ  tư  vấn về  kỹ  thuật phòng trừ  dịch bệnh từ  tuyến xã; kiểm soát được <br /> giống, nhất là giống nhập từ các địa phương khác đến. In ấn và ban hành các tài liệu  <br /> hướng dẫn kỹ  thuật, tổ  chức các đợt tham quan, hội nghị  để  chia sẻ  kinh nghiệm  <br /> nuôi tôm. Hỗ  trợ  việc cung cấp thức ăn công nghiệp, đẩy mạnh tuyên truyền hạn <br /> chế sử dụng thức ăn tươi.<br /> e) Giải quyết tốt khâu tiêu thụ  sản phẩm, tăng cường hợp tác, liên doanh, liên <br /> kết giữa các hộ nuôi tôm với các cơ quan nghiên cứu khoa học và các cơ sở thu mua, <br /> chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Thành lập các hội nghề để mở rộng qui mô, tăng khả <br /> năng đầu tư  và tiêu thụ  sản phẩm. Tăng cường thông tin thị  trường, gắn sản phẩm  <br /> với thị trường, nâng cao chất lượng và vệ  sinh thực phẩm đáp ứng được nhu cầu và <br /> thị  hiếu của khách hàng, nhất là tiêu chuẩn kỹ  thuật của các nước nhập khẩu thủy <br /> sản lớn như Mỹ, EU, Đông Âu, Nhật Bản, Hồng Kông...<br /> 6. Kết luận:<br /> Nghề NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng đã và đang là ngành kinh tế  mũi  <br /> nhọn của huyện Quảng Điền, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo  <br /> hướng công gnhiệp hóa, hiện đại hóa, khai thác có hiệu quả nguồn lực và lợi thế của  <br /> địa phương góp phần giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. <br /> Nuôi tôm theo hình thức BTC tỏ  ra có nhiều  ưu điểm hơn nuôi QCCT: tiết kiệm  <br /> được diện tích nuôi trồng, dễ  áp dụng các biện pháp kỹ  thuật chăn nuôi tiên tiến; <br /> năng suất nuôi BTC đạt 755kg/ha cao hơn 25% so với QCCT; giá trị gia tăng đạt trên <br /> 25 triệu đồng/ha, cao hơn 18% so với nuôi QCCT; ngoài ra, do sử dụng thức ăn công  <br /> nghiệp là chủ  yếu nên nuôi BTC còn góp phần bảo vệ  môi trường, hạn chế  được  <br /> dịch bệnh hơn so với nuôi QCCT. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, hiệu quả kinh  <br /> tế  của nuôi tôm  ở  vùng đầm phá Quảng Điền chịu  ảnh hưởng của nhiều nhân tố,  <br /> trong đó chủ yếu là năng lực của chủ hộ, phương thức nuôi (QCCT hay BTC), biện  <br /> pháp kỹ thuật canh tác (đặc biệt là việc sử dụng thức ăn và phòng trừ dịch bệnh). Vì  <br /> vậy, thực hiện các giải pháp nêu ra không những góp phần tích cực nâng cao hiệu <br /> quả kinh tế nuôi tôm mà còn đảm bảo vệ sinh môi trường, phát triển bền vững nghề <br /> NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng của địa phương.<br /> <br /> 10<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Báo cáo tổng kết công tác NTTS các xã Quảng Công, Quảng Phước, Quảng  <br /> Thành huyện Quảng Điền, tỉnh TTH (2000 ­ 2003).<br /> 2. Báo   cáo   tình   hình   NTTS   từ   năm   2000   ­   2003,   phòng   Nông   nghiệp,   huyện  <br /> Quảng Điền, tỉnh TTH.<br /> 3. Niên giám thống kê huyện Quảng Điền, tỉnh TTH (2000 ­ 2003).<br /> 4. Kết quả  tổng hợp số  liệu điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm  <br /> 2001, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, Hà nội (2002)<br /> 5. Báo cáo tổng kết công tác NTTS từ năm 2000 ­ 2003, Sở Thủy sản tỉnh TTH.<br /> 6. Chu Văn Cáp. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá  <br /> trình hội nhập kinh tế quốc tế. NXB Chính trị Quốc gia. Hà nội (2003).<br /> 7. C. Davis & Y. Trevor.  Nguyên lý kinh tế  nông nghiệp: thị  trường và giá cả  <br /> trong các nước phát triển. NXB Nông nghiệp. Hà nội (1994).<br /> 8. IUCN. How Much Is an Ecosystem Worth? The World Bank. Washington DC <br /> (2004).<br /> 9. C.   Ian   &   B.   Gladys.   Seeking   Sustainability:  Challeges   of   Agricultural  <br /> Development   and   Environmental   Management   in   a   Philippine   Watershed.  Los <br /> Banos, Laguna (2001). <br /> 10. Le   Van   Mien,   Ton   That   Phap   and   Hoang   Nghia   Duyet.  Aquaculture   –   Its  <br /> introduction  and development.  In:  V.J.  Brzeski   and G.F.  Newkirk  (eds.)   Lessons <br /> from   the   Lagoon.   Coastal   Resources   Research   Network,   Dalhousie   University, <br /> Halifax, Canada (2000) 115 ­ 133 <br /> 11. Ton That Phap and Le Thi Nam Thuan.  Aquatic animal health assessment in  <br /> Tam   Giang   Lagoon,   Vietnam.  Presented   at   the   DFID/FAO/NACA/GOB   Asia <br /> Regional Scoping Workshop “Primary Aquatic Animal Health Care in Rural, Small­<br /> Scale, Aquaculture Development” held in Dhaka, Bangladesh (1999).<br /> <br /> ECONOMIC EFFICIENCY OF SHRIMP FARMING IN THE LAGOON AREA <br /> OF QUANG ĐIEN DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE<br /> Mai Van Xuan<br /> College of Economics, Hue University<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br /> SUMMARY<br /> Quang Đien District has a great potential in aquacultural development. Endowed with  <br /> 3,850 ha of water surface (accounting for 17.8% total area of Tam Giang ­ Cau Hai  <br /> lagoon of Thua Thien Hue Province), aquacultural development in general and shrimp  <br /> farming     in   particularly   play   an   important   role   in   exploiting   the   comparative  <br /> advantages of the locality and improving the living condition of farming households.  <br /> Currently, there are two types of shrimp farming in the district: improved­extensive  <br /> farming   and   semi­intensive   farming.   The   findings   show   that   the   income   of   the  <br /> households from shrimp culture is affected by several factors such as the capacity of the  <br /> household head, the type of farming, the foods consumed (industrial or fresh food) ect.  <br /> The study also illustrates that semi­intensive farming not only brings in higher profit  <br /> but also gives better protection to the ecosystem than the improved­extensive farming  <br /> does. However, the farmers have to deal with many difficulties such as finding markets,  <br /> foods and breeding, environment and diseases ect. In order to boost the shrimp raising  <br /> industry, the study suggests following solutions: a) general planning of exploiting and  <br /> using   lagoon   resources;   b)   upgrading   infrastructure   and   service   system;   c)   credit  <br /> policies; d) aqua­cultural extension services; and e) market.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 12<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2