Hoa -“Chút dư vang thân thiết” trong văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
lượt xem 3
download
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, mỗi trang viết của ông là một sự khởi nguyên rất chân thật. Bằng cặp mắt tinh tế, sắc sảo, bằng tâm hồn nhạy cảm, ông đã nói về cuộc sống với một cái nhìn “gần gũi hóa” vạn vật. Biến mọi vật từ xa lạ thành quen, từ quen thành thân thuộc. Đọc văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có thể sẽ ngạc nhiên trước những hình ảnh hàng ngày tưởng chừng như bé nhỏ, giản đơn, qua cây bút của ông, nó trở thành những biểu tượng mang những tầm ý nghĩa lớn lao.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hoa -“Chút dư vang thân thiết” trong văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
- HOA - “CHÚT DƯ VANG THÂN THIẾT” TRONG VĂN HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH Khoa Ngữ văn “Mai kia rồi cũng xa người Tôi về ngồi dưới khung trời cỏ hoa” 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, mỗi trang viết của ông là một sự khởi nguyên rất chân thật. Bằng cặp mắt tinh tế, sắc sảo, bằng tâm hồn nhạy cảm, ông đã nói về cuộc sống với một cái nhìn “gần gũi hóa” vạn vật. Biến mọi vật từ xa lạ thành quen, từ quen thành thân thuộc. Đọc văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có thể sẽ ngạc nhiên trước những hình ảnh hàng ngày tưởng chừng như bé nhỏ, giản đơn, qua cây bút của ông, nó trở thành những biểu tượng mang những tầm ý nghĩa lớn lao. Hoa là một biểu tượng trở đi trở lại trong các sáng tác của ông như một ám ảnh… 2. THẾ GIỚI HOA – THẾ GIỚI CỦA CÁI ĐẸP Không phải đến Hoàng Phủ Ngọc Tường hoa mới được quy về phạm trù cái đẹp, thế giới hoa, tự nó đã mang một vẻ đẹp không thể phủ nhận. Nhưng phải đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp đó mới được nhìn nhận, thể hiện một cách chi tiết hơn, nghệ thuật hơn, nhờ đó, có sức cảm hóa, lay động sâu sắc hơn đến những trái tim ngày nay với quá nhiều chai sạn. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, mỗi loài hoa đều là hiện thân của một tính cách riêng, một tâm hồn riêng. Dù là hoa hồng quyến rũ, hoa sen cao khiết hay hoa dại ven đường… mỗi loài hoa đều được nhà văn xếp ngang nhau và ban cho nó những tình cảm không hề thiên lệch. Hoàng Phủ Ngọc Tường là vậy, luôn dành cho hoa cỏ một tấm lòng yêu mến đặc biệt. Trong những tháng ngày “chế ngự cát” ở Hải Lăng, khoảng thời gian mà con người phải chạy đua với thời tiết, nhưng ông vẫn không bỏ mặc hay thờ ở với cỏ hoa: “Sau những ngày mưa nắng quá dài, những trận mưa rào đến muộn trong mùa thu hình như đã đem lại một sự kích thích làm hưng phấn cây cỏ. Cả vùng cát mênh mông ven biển dậy lên trong sắc đẹp của hoa đồng nội. Dải rú dài chạy qua các làng Hải Quế phủ kín trong màu trắng hoa bướm bạc. Xương rồng nở hoa trắng muốt, hàng chục đóa xòe ra xung quanh mỗi thân cây thẳng đứng chênh vênh, trông như những giá nến đang thắp sáng trên đồi. Dọc theo những dòng suối nhỏ trong vắt, hoa mua ở đây nở thật xinh, nở những cánh mỏng manh màu hồng tươi, giống như hoa tầm xuân. Hoa dại nhiều quá, có hoa tai, cỏ ca, tràm, chổi, mộc… đua nhau nở cùng một lúc, làm cho cánh đồng cát bỗng nhiên tươi mát, và đẹp như thảo nguyên mùa xuân” [2, tr. 85]. Niềm đam mê cái đẹp, hướng về cái đẹp, bằng cách này hay cách khác đều đưa nhà văn đến với thiên nhiên một cách rất tự nhiên. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì hoa luôn là thế giới được Hoàng Phủ Ngọc Tường chiêm bái, ngưỡng vọng. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2013-2014 Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 12/2013, tr: 122-128
- HOA – “CHÚT DƯ VANG THÂN THIẾT”... 123 Là người đi nhiều, am tường nhiều lĩnh vực, những hiểu biết của ông về thế giới của loài hoa có thể xem là một cuốn từ điển cầm tay. Đến với mỗi vùng miền, dường như điều mà tác giả quan tâm đầu tiên chính là loài hoa đặc trưng ở đó. Với ông, hoa cỏ cũng chính là ấn tượng đầu tiên làm nên cái hồn của vùng quê, và hơn thế, đôi khi nó còn là hình ảnh biểu trưng cho cả một dân tộc: “Khi tôi đến, mùa hoa đào nỗi tiếng của Mẫu Sơn đã qua, nhưng Mẫu Sơn đã đền bù cho tôi một mùa hoa lê trắng cả núi non. Tôi không thể nào ngờ rằng trên cái tọa độ lửa này, đất lại vẫn nở được một mùa hoa lê trắng đến như vậy. Như thể là từ nội tâm của nó, đất đã mang sẵn một sự hài hòa vĩnh cửu mà không một thứ địa chấn nào phá vỡ nổi. Từ đỉnh núi biên giới chót vót kia, tôi đã lặng lẽ chiêm ngưỡng khuôn mặt uy nghi của Tổ quốc đột ngột hiện ra trong màu trắng hoành tráng ấy: cái màu trắng vừa dịu dàng, vừa nghiêm nghị mà tôi chỉ có thể so sánh với sắc tuyết của mùa đông năm 1812 trong tâm hồn người lính Nga trên trận địa Bô-rô-đi-nô” [2, tr. 296]. Nếu như từ trước đến nay, trong tâm thức người Việt, hễ nói đến quốc hoa của dân tộc người ta thường nghĩ đến hình ảnh hoa sen tinh khiết, thanh cao, thì với Hoàng Phủ Ngọc Tường, màu trắng của hoa lê lại là biểu trưng cho “khuôn mặt của Tổ quốc”. Bởi với tác giả, vẻ đẹp, linh hồn của đóa hoa không chỉ nằm ở màu sắc mà còn ở hương thơm, hình dáng và cả ở cách thức cây “kiếm sống” cũng như việc lựa chọn cách tàn nở của mỗi loài. Đọc Sử thi buồn, chúng ta sẽ bắt gặp bài học về bản lĩnh sống của loài cây bé nhỏ: “Nơi bãi sông đó, lần đầu tiên tôi thấy một loài hoa lạ: trên mặt đá khô, với vài ba nhánh lá lơ thơ dáng lá rong, trên đầu mỗi cây nở một bông hoa giống như hoa tigôn, và tất cả hoa đỏ một màu máu tươi. Không phải chỉ dăm bảy cây hiếm hoi và dễ đến hàng vạn cây mọc rải khắp các bãi đá dài hàng cây số, quả là một loài cỏ chỉ nở hoa trên một cánh đồng đá. Quan sát kĩ tôi biết rằng, hoa chỉ nở và tàn trong một ngày, và cũng giống như ở cây hướng dương, cây chỉ nở một lần hoa rồi chết. Mỗi cây chỉ dính vào mặt đá bằng ba mẫu rễ li ti, không biết tự nuôi sống bằng cách nào để nở ra một đóa hoa cao sang đến thế” [2, tr. 671], hay phong cách của hoa súng trong Hoa trái quanh tôi: “Phong cách của hoa súng cũng lạ, giống như lá, nó dính sát mặt nước, nở ra, khép lại một vài lần là hết, người ta không nhìn thấy nó tàn và rã cánh dần như hoa sen, nó lún xuống, trốn vào trong nước và biến mất” [2, tr. 392-393] và hình ảnh hoa mai vào độ cuối mùa: “Tuần hoa của hoa mai khá dài, nụ mới tiếp tục nẩy thêm, nụ già nở hoa trên cành, và những cánh hoa đã nở xong rơi xuống thành những đám vàng tươi trên mặt cỏ khác nào “bóng hoa”, và đó là vẻ đẹp lần thứ hai của hoa mai. Nhìn nó, tôi không hề nhận ra chút tủi thân thường có ở những bông hoa đẹp tàn héo, chẳng hạn ở hoa trà mi hoặc hoa phù dung. Cánh mai rụng vẫn tươi nguyên dưới mưa phùn, trẻ trung, khiến ta ưa nhìn. Có lẽ, tôi đang chứng kiến khoảnh khắc hóa thân nhẹ nhàng của hoa mai để luân hồi vào một mùa Xuân khác” [2, tr. 786- 787]… Tất cả những điều đó đều được hình thành trên sự quan sát tỉ mẩn, tình cảm trân quý của tác giả trước thế giới muôn hoa. Bởi trước hoa, cũng như trước thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn là một con chiên ngoan đạo như chính lời trích dẫn Mác trong bài bút kí của ông: “Chúng ta không thể đối xử với thiên nhiên, thống trị thiên nhiên như kẻ xâm lược
- 124 NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH thống trị dân tộc khác, như một kẻ đứng ngoài thiên nhiên. Trái lại, chúng ta thuộc về nó, cả xương thịt, máu và trí tuệ và chúng ta ở bên trong nó” [2, tr. 373]. 3. THẾ GIỚI HOA GỢI NHẮC ĐẾN CỐ NHÂN, KỈ NIỆM Như người anh em, đồng chí, người bạn, người tri kỉ, người tình, hình ảnh từng loài hoa cứ thế hiện lên trong tác phẩm đẹp đến nao lòng. Trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, hơn bốn mươi loài hoa từng xuất hiện, chúng đều được tác giả dành cho những tình cảm đặc biệt, và những xúc cảm đó không bao giờ lặp lại trong mỗi loài. Cái tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là ông không chỉ ép lên trang văn những xác hoa vô hồn mà mỗi bông hoa bừng nở một nỗi niềm, một ẩn dụ về cuộc đời, số phận con người. Đối với ông, cùng với mộng, hoa cũng là một “báu vật của trời cho khi còn trẻ”. Hoa không chỉ là thiên nhiên mà còn là linh hồn của biết bao kỉ niệm dọc đời người. Năm tháng đi qua, lớp bụi mù có thể rêu phong tất cả, song những gì là kỉ niệm thì vẫn còn đó, dai dẳng, day dứt không nguôi. Trong Hoa bên trời, Hoàng Phủ Ngọc Tường tâm sự: “Đã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm nhận tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi, có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cái hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo”[1]. Suốt dặm dài cuộc đời cũng như trong hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hoa vẫn nở trên mỗi bước chân ông đi qua. Trước khi bước vào chiến trường, nơi bàn làm việc của ông ở thành phố được xem là khoảng trời “mộng dưới hoa”. Bởi ở khoảng trời đó luôn có một chậu hoa thơm ngát. Vào chiến trường, bình hoa đầu tiên ông nhận được ở Trường Sơn là một loài hoa địa lan lạ: “Hoa gồm có một cọng dài, trên đầu nở hai tầng hoa màu khác nhau: tầng trên các cánh hoa màu trắng, tầng dưới màu vàng cháy” [1]. Nhận được hoa “Tôi cảm ơn em trai tôi đã mang tặng tôi chút dư vang thân thiết của thành phố trong những ngày tôi đi “đánh bạn với lau lách” ở rừng Trường Sơn. Tôi còn phải sống nhiều năm với tình bạn ấy và sau này tôi nghiệm ra rằng đấy là những năm tháng mang tất cả ý nghĩa của cuộc đời tôi. Những năm tháng ấy giống như ý niệm hạt nhân của nguyên tử, mang toàn bộ trọng lượng của đời tôi và nếu như loại trừ những tháng năm ấy ra khỏi đời mình thì mọi biến cố còn lại của tôi sau này sẽ trở nên hụt hẫng mất trọng lượng như những vật thể ở ngoài không gian”[1]. Giữa những ngày bom đạn gian khổ ấy, đời sống vật chất khó khăn đôi lúc cũng làm cho tinh thần con người cằn cỗi. Hoa đánh thức nơi tâm hồn sâu kín của con người niềm yêu cái đẹp. Vô tình gặp hoa trong khi đi lạc vào cánh rừng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thốt lên như gặp lại cố nhân: “A, đúng là hoa Păng xê”. Cứ thế, những kỉ niệm của “người xưa” chợt ùa về: “Có một dạo tôi rất mê hoa Păng xê. Cô em gái của tôi bèn nhổ trộm cây hoa ấy trong vườn hoa của bà hiệu trưởng định mang về tặng tôi. Chẳng may sự việc bị phát giác và cô bé tội nghiệp suýt bị đưa ra tòa án về tội ăn cắp. Hoa Păng xê đã để lại một kỉ niệm cay đắng như thế trong tâm hồn tôi, nên tôi chợt vui mừng vô kể khi gặp lại nó giữa chốn hoang vu này. Dù nó không phải màu tím nhưng tôi cứ tin rằng nó là hoa
- HOA – “CHÚT DƯ VANG THÂN THIẾT”... 125 Păng xê thứ thiệt; biết đâu hoa Păng xê cũng có một màu khác, giống như kỉ niệm có nhiều màu” [1] rồi ước ao: “một ngày chấm dứt chiến cuộc để tôi đi lang thang trên những nẻo đường rụng đầy lá vàng tươi, hoặc ngẩn ngơ đứng nhìn dòng sông mượt mà trôi đi với những con đò áo trắng, và tôi sẽ hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố của tôi, với một biểu tượng của hoa Păng xê trên ngực” [1]. Bước ra từ khói lửa, nhìn lại, những loài hoa như trở thành cuốn nhật kí của những tháng ngày đạn bom, để rồi, nhìn đâu cũng thấy kí ức ùa về. Nhớ thương. Hoài niệm. Ngắm những cánh hoa sầu đông nở thầm lặng cũng gợi cho ông những nỗi nhớ mơ hồ: “Trong lòng mỗi bông sầu đông trắng nhỏ xíu có mang một vết tím huyền, khiến nhìn gần những chùm hoa trở thành màu xám, vết tím ấy giống như chút kỉ niệm ẩn giấu trong một kí ức đã mơ hồ. Lang thang một mình trên đường vắng, tôi thường bắt gặp một mùi hương sầu đông rất sâu, chạm thấu từng tế bào của trí nhớ và đánh thức trong tôi nhiều điều như đã quên trong đời. Ôi! Những kỉ niệm của tôi sao lại thơm hương sầu đông. Lạ Thật!” [2, tr. 788-789]. Dưới con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hoa còn mở ra một khung trời tuổi thơ xưa cũ. Hoa dâm bụt (bông cẩn) hiện lên thật gần gũi, bởi tuổi thơ của mỗi người đều khó có thể vắng bóng loại hoa này: “Hai con bé của tôi đang ríu rít quanh bụi bông cẩn không màng gì đến mọi thứ hoa trái nào khác. Đúng là bông cẩn có một chất tuổi thơ riêng không hoa nào thay thế được. Hai cô bé, cùng với các bạn của chúng, vẫn dành lấy một thế giới riêng dưới bụi hoa này, bày đồ hàng, làm món ăn, làm lồng đèn, và với những cuốn nhị lấm tấm vàng, chúng còn làm những đôi tằm đeo tai xinh đẹp. Mấy năm đi xa chúng nó cũng thấy nhớ, thỉnh thoảng hai chị em lại kéo nhau chạy, nói vu vơ “mau về nhà mình ở dưới bụi hoa” [2, tr. 381]. Cùng với bông cẩn, hoa ngũ sắc cũng chạy dài suốt tuổi thơ mỗi người: “nhờ hoa ngũ sắc mà tuổi thơ đầy ràng buộc trong sự giáo dục nghiêm khắc của cha tôi, vẫn có đôi phần hoang dại”. Hoa ngũ sắc với ông có những kỉ niệm rất đẹp: “bông của chúng nở đầy ký ức, giống như nụ môi chúm chím của những bầy trẻ con đứng chào tôi bên đường” , vì vậy mà ông không chấp nhận cái tên gọi mà mọi người vẫn gán cho nó một cách vô tâm – hoa cứt lợn, ông phản ứng mạnh mẽ “nó chẳng có gì là “cứt lợn” cả, rằng tôi đã hút mật ngọt của nó suốt thời thơ ấu; và gọi thế là “xúc phạm thiên nhiên”… Tình yêu của ông dành cho các loài hoa đằm thắm, thiết tha. Với ông, tuổi thơ của mỗi con người luôn để lại dấu ấn sâu đậm, khó phai trong đời người. Và thời thơ ấu của ông cũng vậy. Nó được tô màu sặc sỡ, sinh động của hoa ngũ sắc và đem đến cho ông tình cảm yêu mến lạ thường. Để sau này, nhớ về hoa, đi đâu ông cũng dõi mắt tìm nó và khi chợt bắt gặp loài hoa này ở nơi xứ lạ: “Té ra bông ngũ sắc không chỉ dành riêng cho tuổi ấu thơ của tôi. Nó là một loài hoa toàn thế giới. Ở đâu có tuổi thơ thì nó có. Và thế giới cũng có một tuổi thơ riêng mình” [2, tr. 284]. Tuổi thơ còn gắn liền với những ngày cắp sách đến trường, khao khát đến ngày hè để được thỏa thích rong chơi sau những ngày thi cử. Nếu như ngày nay, hoa phượng như là một tín hiệu mà lũ trẻ con mòn mỏi ngóng đợi, thì trước đó, hoa hòe lại chính là sứ giả của mùa hè. Để rồi, khi đi qua thời học sinh nhìn hoa hòe lại ngẩn ngơ tiếc nhớ một thời son trẻ: “thuở xưa thành phố chưa trồng phượng, cây hòe nở hoa vàng trước cửa sổ
- 126 NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH luôn luôn đánh thức nỗi xôn xao của đèn sách, người học trò xưa vẫn nhớ câu: “Hòe hoa vàng, cử tử mang” [2, tr. 374]. Hoa cỏ cứ thế đồng hành cùng hành trình của đời người. Mỗi loài hoa lại gắn với một chặng đường khác nhau, để rồi khi nhìn lại, đời người như một vườn hoa đầy hương sắc. Hoa trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là những hình ảnh gắn bó với tuổi thơ, lưu dấu những hoài niệm, nó còn được ông xem như những người bạn, biết nhớ, biết thương, biết đợi chờ: “Lê năm nay sao muộn, mãi hôm qua mới nở. Nghe anh về cô cứ nghĩ trong bụng, không chừng nó chờ anh lên” [2, tr. 381]. Và khi cuộc sống hiện đại cuốn phăng con người vào vòng xoáy của nó, những kí ức đôi lúc trở nên mờ nhạt dần, những thứ đã từng là một phần tâm hồn bay biến cùng cơm áo gạo tiền, con người ta bỗng trở nên xa lạ với quá khứ của chính mình thì hoa lại hiện lên như một người mẹ nhân hậu, bao dung nhắc nhở, gợi lại cho con người những kí ức một thời là máu thịt: “…Mỗi thân cây đều in sâu những lớp lịch sử bằng dấu vết chiến tranh, từ bom tọa độ B57 hồi đầu thả vào cuộc chiến, cho đến màu đen trùi trũi của bom xăng vào hồi cuối cuộc chiến, vốn là những thùng xăng do Việt Nam cộng hòa lăn qua cửa trực thăng, vâng, chính không gian ấy, cùng một loài cây ngũ sắc nở toàn hoa đỏ thắm. Tôi lạ lùng nhìn hoa, tự hỏi thầm, ở những nơi khác, hoa này thường mọc chung nhiều màu, cớ sao nơi đây nó chỉ nở một màu hoa đỏ?... Rằng hoa là trí nhớ của đất, và đất này thì tưới nhiều máu, nên cây nở hoa màu đỏ. Có nhiều điều quan trọng của mảnh đất này mà con người đã quên đi nên cây nhắc lại…”. Có lẽ, đứng trước đóa hoa ngũ sắc này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, không ít người phải ngã mũ cúi đầu hổ thẹn. Như thế mới thấy, hoa cỏ không chỉ làm đẹp cho đời mà còn làm cho tâm hồn con người trở nên thanh cao hơn: “Và nếu vậy, thiên nhiên không hoàn toàn là một gã vô tri và ngu xuẩn. Thiên nhiên vẫn tìm cách để nhớ được một điều gì đó, nếu đấy là điều có ý nghĩa mà con người đã quên đi” [2, tr. 645]. 4. THẾ GIỚI HOA ẨN CHỨA NHỮNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH Cuộc sống luôn ẩn chứa bên trong nó những bí mật mà nếu cố công giải mã, ta sẽ có được những chân lý có giá trị, và loài hoa cũng vậy. Như một tri kỉ, sau những mẫu “đối thoại” cùng hoa cỏ, Hoàng Phủ Ngọc Tường thường chiêm nghiệm, nghĩ suy: “Lớn lên ở thành phố Huế, không lúc nào tôi không cảm thấy thành phố như một khu vườn thân mật của mình: “Ở đó, tôi có thể tư duy cùng với hoa sen, khát vọng với hoa phượng, mơ mộng với mùi hương sâu thẳm của hoa ngọc lan ban đêm, và khi thành phố lộng lẫy trong sắc mai vàng mùa xuân , không hiểu sao lại thấy lòng thức dậy một niềm ngưỡng mộ bao la đối với cuộc sống.” [2, tr. 371]. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, những đặc trưng của từng loài hoa đều mang những ý nghĩa triết lý sâu xa. Màu trắng khôi nguyên, hương thơm tinh khiết của hoa sen được nhìn nhận như một nhân cách cao đẹp “gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn”: “Đúng, sen có đức giáo hóa, đức khiêm nhường, thanh khiết hơn mọi loại hoa khác”. Sự vô định, nở đó, rồi bám vào áo người, bay theo gió đó của hoa cỏ may được Hoàng Phủ Ngọc Tường xem là hình ảnh biểu trưng cho cái quy luật sắc sắc không không của cuộc đời. Bông hoa dại nhỏ xíu, đỏ thắm, mong manh, vươn lên trên đá sỏi khô cằn là biểu
- HOA – “CHÚT DƯ VANG THÂN THIẾT”... 127 tượng sức sống và sự cống hiến cho cuộc đời. Trước bông hoa bé nhỏ ấy, nhà văn đã phải thốt lên câu hỏi đầy ngưỡng mộ: - Hỡi những bông hoa nhỏ! Hãy cho ta biết, ngươi ước vọng gì trong cuộc sống vô tư của ngươi? - Chỉ cần một ngày nắng đẹp để nở hoa, thế thôi. Tôi có một trái tim hồng ngọc để chỉ sống và chết một lần với trái tim của tôi…” [2, tr. 671] Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc đối thoại với những sinh thể li ti mà ngồn ngộn sức sống này. Dường như nhà văn lắng nghe, cảm nhận đến từng vi mạch của loài hoa cỏ nội. “Mẫu đối thoại đầy chất độc thoại, như mở lòng, như bậc hiền triết xưa bộc bạch cái tâm minh triết giữa đất trời cây cỏ. Phải chăng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đạt tới Tâm Thiền để nghe tiếng thì thầm của nội cỏ trong trạng thái giao cảm kì diệu với vạn vật. Trái tim của loài cỏ dại cũng chính là trái tim hồng ngọc với một chữ tâm sáng run rẩy hoài trong lồng ngực của một nhà văn đau đáu với quá khứ, hết mình với hiện tại và nhiều ước vọng ở tương lai.” [3] Ngoài ra, khi nói đến hoa trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, chúng ta không thể bỏ qua hoa phù dung - loài hoa sớm nở tối tàn, đổi màu thay sắc trong ngày. Với ông, phù dung là biểu tượng của cái đẹp mong manh, của thời gian trôi chảy đến chóng mặt, của sự hữu hạn một đời người. Không phải ngẫu nhiên mà có cả tập thơ mang tên Người hái phù dung. Sắc diện của loài hoa này thường trở đi trở lại trong văn thơ ông đầy ám ảnh: “Mỗi lần nghe nhắc đến hoa phù dung, tôi lại thấy một cảm giác rờn rợn như đối với một số phận đầy bi thảm. Như thể nó không phải là một loài thực vật mà là một thiếu nữ” [1] hay “Thú thật là từ trước đến nay, tôi không ngờ có một loài hoa oái oăm đến thế, màu trắng buổi sáng thì tưởng như không có vật gì trắng hơn, màu hồng vào buổi trưa thì quyến rũ như màu má giai nhân và màu tím buổi chiều luôn luôn khiến ta đau xót, như một niềm thương tiếc khôn nguôi. Cứ ba màu như thế nối tiếp nhau và trải qua chỉ trong một ngày. Hoa phù dung biểu lộ với tôi lòng ham thích cuộc sống của nó, mặt khác, hình như nó phải sống hụt một đời hoa. Thậm chí, có khi ngồi buồn, tôi nghĩ rằng trong thế giới này nếu có một vật gì có vận tốc nhanh nhất thì vật ấy chính là cuộc đời hoa phù dung…” [1]. Cái chảy trôi của thời gian không chỉ được Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận qua sự biến đổi màu sắc của hoa phù dung mà trên cả thế giới hoa cỏ: “từ thời còn trẻ, tôi đã nhiễm chứng ưu du của người Huế, lơ đãng nhìn tháng ngày. Quả thật, tôi không mấy quan tâm đến cuốn lịch nhật dụng, mà trước kia vẫn mang dấu kiềm ấn Tòa Khâm Giám. Tôi chỉ say mê dõi theo cuộc biến ảo của Xuân, Hạ, Thu, Đông, qua bộ lịch vĩnh hằng của Tự Nhiên viết trên cây cỏ.” [2, tr. 786]. Không hiểu sao cách nghĩ này của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại làm tôi liên tưởng đến ca từ trong một bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Nhìn những mùa thu đi/ Em nghe sầu lên trong nắng / Nghe lá rụng ngoài hiên / Nghe tên mình vào quên lãng/ Nghe tháng ngày chết trong thu vàng…”. Dường như cả hai tác giả đều cảm nhận thời gian trên gam trầm của thiên nhiên hoa cỏ. Điều đó, làm nên một nốt lắng sâu trong lòng người tiếp nhận. Hoa cỏ, với những giá trị
- 128 NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH đó, khi đi vào tác phẩm của họ luôn có một sức sống lâu bền, bám rễ được trong lòng mọi người. 5. KẾT LUẬN Trong một lần nói về hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng bày tỏ: “Hãy trân trọng hoa và phụ nữ. Vì đó là nguồn mĩ cảm nuôi nấng cảm hứng sáng tạo không chỉ của các nhà văn mà cả loài người”. Thế giới muôn hoa hiện lên trong ký của ông thật đẹp. Nó cho thấy được tài năng, sức sáng tạo cũng như vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Nó được viết bằng huyết lệ của một đời con tằm nhả tơ, con ong góp mật, bằng “trái tim hồng ngọc chỉ sống và chết một lần” với trái tim yêu.Thế giới hoa nhờ thế tạo được niềm say mê trong lòng bạn đọc, gây âm hưởng nhẹ nhàng, lan tỏa, “bồng bềnh cho tới mai sau”… TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hoàng Phủ Ngọc Tường (2008). Hoa bên trời, http://www.vnweblogs.com/post/8627/107624. [2] Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002). Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập hai: bút ký, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. [3] Lê Thị Hường (2009). Thế giới cỏ dại trong văn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí sông Hương, số 202/12-05. [4] Trần Thị Thu Nga (2010). Một số hình ảnh biểu tượng trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/bieu- tuongky-hoang-phu-ngoc-tuong.html. NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH SV lớp Văn 4C, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 01668.894.229, Email: myhanhnguvan.dhsphue@gmail.com
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn