YOMEDIA
ADSENSE
Hội chứng Parry ‐ Romberg: Nhân 2 trường hợp
56
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nội dung của bài viết trình bày về 2 trường hợp Hội chứng Parry‐Romberg đến khám và điều trị tại Khoa Tạo hình ‐ Thẩm mỹ bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và phương pháp điều trị: điều trị khi bệnh ngưng tiến triển, bao gồm bù đắp phần thiếu hụt mô mềm bằng cách chuyển vạt cơ hoặc cấy ghép mỡ tự thân.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hội chứng Parry ‐ Romberg: Nhân 2 trường hợp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
HỘI CHỨNG PARRY‐ROMBERG: NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP <br />
Nguyễn Anh Tuấn*, Nguyễn Mạnh Đôn**, Nguyễn Văn Phùng*** <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Mục tiêu: Tác giả trình bày 2 trường hợp Hội chứng Parry‐Romberg đến khám và điều trị tại Khoa Tạo <br />
hình ‐ Thẩm mỹ bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM. <br />
Tư liệu và phương pháp: Trình bày hai ca lâm sàng BN nam 26 tuổi và BN nữ 21 tuổi đến từ hai địa <br />
phương khác nhau, tiền căn khỏe mạnh, không bệnh lý bẩm sinh, không mắc các bệnh nhiễm khuẩn mạn tính, <br />
không bị cắt bỏ u bướu hay chiếu tia xạ, tình cờ phát hiện bớt sắc tố một bên mặt ở độ tuổi thiếu niên, cùng với <br />
teo dần mô da và dưới da. Tình trạng teo các mô dưới da diễn tiến ngày càng trầm trọng trong nhiều năm gây <br />
biến dạng khuôn mặt. Chẩn đoán dựa vào đặc điểm lâm sàng, thời gian khởi phát và tiến triển, chẩn đoán loại trừ <br />
các bệnh cảnh tương tự. Việc điều trị bao gồm bù đắp phần khuyết mất mô tùy theo mức độ teo mô, điều trị các <br />
sang thương ngoài da và điều chỉnh các rối loạn cơ năng nếu có. Cần tư vấn kỹ cho bệnh nhân giúp họ có lại tự <br />
tin trong cuộc sống. <br />
Kết quả: BN nam teo lõm nửa mặt trầm trọng nhưng thân nhân và bệnh nhân không đồng ý can thiệp. BN <br />
nữ đã được can thiệp bằng phương pháp cấy ghép mỡ đem lại kết quả khả quan, bệnh nhân hài lòng và cảm thấy <br />
tự tin hơn, cần tiếp tục theo dõi diễn tiến và điều trị các sang thương ngoài da cho BN. <br />
Kết luận: Hội chứng Parry‐Romberg là tình trạng teo nửa mặt bẩm sinh gây mất cân đối khuôn mặt làm <br />
người bệnh mất tự tin. Điều trị khi bịnh ngưng tiến triển, bao gồm bù đắp phần thiếu hụt mô mềm bằng cách <br />
chuyển vạt cơ hoặc cấy ghép mỡ tự thân. <br />
Từ khóa: Hội chứng Parry‐Romberg, teo nửa mặt, cấy ghép mỡ tự thân <br />
<br />
ABSTRACT <br />
PARRY‐ROMBERG SYNDROM: 2 CASES REPORT <br />
Nguyen Anh Tuan, Nguyen Manh Don, Nguyen Van Phung <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 287 ‐ 291 <br />
Objectives: The authors presented two cases Parry‐Romberg syndrome was consulted and treated at the <br />
University Medical Center of HoChiMinh city. <br />
Material and methods: Two clinical cases: a male 26 yrs old and a female 21 yrs old came from different <br />
province, health history normal, no congenital disease, not infectious diseases, without tumor excision or <br />
radiation treatment. Discovered a side less pigment in their teens at random, then shrinks the skin and <br />
subcutaneous tissue. Status of subcutaneous atrophy progressive worsening for years causing facial deformity. <br />
Diagnosis is based on clinical characteristics, onset and progression, different diagnosis of similar illness. The <br />
treatment consists of compensate the loss of tissue depending on the degree of tissue atrophy, treat skin lesions <br />
and adjustment disorders function, if any. Consult carefully to patients to help them with self‐confidence in life. <br />
Results: Our male patient with severe hemifacial concave atrophy but he and his relatives disagree <br />
intervention. Our female patient who had been autogenous fat transplantation provides satisfactory results, she <br />
pleased and feel more confident, we will continue to monitor the progress and treatment of skin lesions for her. <br />
<br />
* Khoa – Bộ môn Tạo hình Thẩm mỹ, Đại học Y Dược TP HCM. <br />
** Khoa Tạo hình Thẩm mỹ, BV ĐHYD TP HCM *** Bộ môn TH‐TM ĐHYD TP HCM <br />
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Mạnh Đôn ĐT: 0906630109 Email: manhdon@gmail.com <br />
<br />
Tạo Hình Thẩm Mỹ <br />
<br />
287<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
Conclusions: Parry‐Romberg syndrome is a condition caused progressive hemifacial atrophy congenital. It <br />
makes patients lose confidence. Treatment including compensate the soft tissue defect by muscle flap transfer or <br />
autologous fat grafts. <br />
Key words: Parry‐Romberg syndrom, hemifacial atrophy, cut of the en coup de sabre, autogenous fat grafts <br />
được điều trị bằng thuốc thoa không rõ loại kể <br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
cả thuốc nam, bớt sắc tố không giảm nhưng thấy <br />
Hội chứng Parry‐Romberg là tình trạng teo <br />
mô vùng má teo dần, đến năm 22 tuổi, vùng mặt <br />
nửa mặt tiến triển ảnh hưởng đến da, mô mềm <br />
bên phải teo đét so với bên trái. Bệnh nhân đi <br />
dưới da, mô sụn và cấu trúc xương bên dưới; <br />
khám tại Bệnh viện đa khoa huyện và của tỉnh, <br />
bệnh tương đối hiếm gặp; được Caleb Parry mô <br />
được điều trị bằng thuốc, châm cứu chạy điện … <br />
tả lần đầu tiên năm 1815, sau đó được các tác giả <br />
nhưng không đem lại kết quả: bớt giảm sắc tố <br />
khác mô tả kỹ hơn như Moritz Romberg năm <br />
lan rộng kèm với teo mô da và dưới da ngày <br />
1846, Eulenberg năm 1871 (5,6,8). Bệnh thường xảy <br />
càng nặng. <br />
ra ở nữ hơn là nam, hầu hết các trường hợp là <br />
Tháng 2/2013, bớt giảm sắc tố không thay <br />
một bên mặt. Bệnh khởi đầu ở tuổi niên thiếu, <br />
đổi, tình trạng teo vùng mặt không cải thiện, <br />
tiến triển liên tục trong khoảng 5 năm sau đó đột <br />
nhãn cầu bên phải thụt vào rõ rệt so với bên trái; <br />
nhiên dừng diễn tiến. Bệnh không gây tử vong <br />
bệnh nhân tiếp tục khám tại một bệnh viện tại <br />
nhưng làm biến dạng khuôn mặt của người trẻ <br />
TP Hồ Chí Minh được chẩn đoán ”Teo nửa mặt <br />
nên ảnh hưởng sự tự tin, khả năng hòa nhập <br />
bẩm sinh”. Khi đến khoa Tạo hình Thẩm mỹ <br />
cộng đồng của họ. <br />
Bệnh viện Đại học y Dược, bệnh nhân được xác <br />
TỔNG QUAN TÀI LIỆU(1,2,1,3,1,8) <br />
định Hội chứng teo nửa mặt tiến triển, khớp cắn <br />
bình thường, mắt nhắm kín bình thường. Bệnh <br />
‐ Parry‐Romberg là một rối loạn mắc phải <br />
nhân được gửi khám chuyên khoa mắt chẩn <br />
chủ yếu gây tình trạng teo nửa mặt tiến triển, <br />
đoán teo mô dưới da vùng hốc mắt, hội chẩn với <br />
làm biến chất mỡ, da, cơ và xương. Lưỡi và các <br />
chuyên khoa nội thần kinh chẩn đoán bệnh lý <br />
chi cũng có thể bị ảnh hưởng. <br />
teo nửa mặt không rõ nguyên nhân. <br />
‐ Nó trùng lặp trên lâm sàng với tình trạng <br />
xơ cứng bì “en coup de sabre” là một vệt xơ <br />
cứng bì dọc hoặc chéo ở vùng trán. <br />
‐ Các vấn đề thần kinh đi kèm bao gồm có <br />
động kinh (đôi khi kèm bất thường não trên <br />
MRI), co thắt nửa cơ nhai và nhức nửa đầu. <br />
‐ Sinh lý bệnh học thì chưa chắc chắn <br />
nhưng bịnh dường như có một cơ chế miễn <br />
dịch mắc phải. <br />
‐ Phẫu thuật tạo hình có thể hữu ích và trong <br />
trường hợp nặng nên xét đến việc dùng ức chế <br />
miễn dịch. <br />
<br />
BỆNH ÁN 1 <br />
BN Nguyễn Đức C., nam, sinh năm 1987, <br />
nhà ở thị trấn Ái Nghĩa, Đại Lộc, Quảng Nam; <br />
vào viện ngày 01/03/2013. <br />
Lúc 17 tuổi, bệnh nhân có bớt giảm sắc tố má <br />
phải, đi khám nhiều nơi không rõ chẩn đoán, <br />
<br />
288<br />
<br />
Bệnh nhân được làm các xét nghiệm huyết <br />
đồ, sinh hóa, đường máu, albumin máu, ion đồ, <br />
ASLO, Rhumatoid Factor, VS, đông máu và tìm <br />
tế bào SLE (Le‐cell), tổng phân tích nước tiểu <br />
đều trong giới hạn bình thường. Xquang ngực <br />
thẳng, ECG và siêu âm tim bình thường. Trên <br />
phim MRI cho thấy hình ảnh teo nhóm cơ vận <br />
nhãn, nhóm cơ nhai, tuyến mang tai, nửa lưỡi <br />
bên phải. Dây thị phải bị lệch sang phải. Có bất <br />
thường tín hiệu nửa phải xương hàm dưới, <br />
không gây biến dạng xương, không bắt thuốc <br />
sau tiêm. <br />
Bệnh nhân được hội chẩn bệnh viện chẩn <br />
đoán teo nửa mặt nặng do hội chứng Parry <br />
Romberg, hướng xử trí chuyển vạt cơ vùng cạnh <br />
vai có kết nối vi phẫu để bù đắp khuyết mô <br />
vùng mặt. Nhưng sau khi giải thích và tư vấn <br />
kỹ, thân nhân và bệnh nhân không đồng ý phẫu <br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
thuật do kết quả mang lại không đáp ứng được <br />
mong mỏi của gia đình cũng như nhưng tai biến <br />
rủi ro có thể xảy ra. Bệnh nhân được cho xuất <br />
viện. <br />
<br />
BỆNH ÁN 2 <br />
BN Nguyễn Thị T.T., nữ, sinh năm 1992, nhà <br />
ở huyện Di linh, Lâm đồng; vào viện ngày <br />
18/03/2013. <br />
Lúc 11 tuổi, Bệnh nhân tình cờ phát hiện có <br />
bớt sắc tố ở trán phải gần chân tóc, bớt lan <br />
nhanh xuống góc trong đầu cung mày – góc mắt <br />
phải, lan lên chân tóc gây rụng tóc. Bớt sắc tố lan <br />
đến đâu kèm theo teo mô dưới da đến đó: đầu <br />
tiên mô dưới da vùng bớt ở trán lõm xuống, khi <br />
bớt lan lên chân tóc làm rụng tóc và teo mỏng da <br />
đầu, lan qua góc mắt xuống má gây teo mô dưới <br />
da vùng má và teo nhỏ vành tai trái. Sau khoảng <br />
5 năm tiển triển liên tục, khuôn mặt bệnh nhân <br />
biến dạng, giữa mặt có vết sẹo tựa một nhát dao. <br />
Nửa mặt bên trái da và mô dưới da teo mỏng, <br />
mắt trái vẫn nhìn rõ, khớp cắn bình thường. <br />
Bệnh nhân được một đoàn Bác sĩ quốc tế đến <br />
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Thành <br />
phố Hồ Chí Minh khám và chẩn đoán Hội <br />
chứng Parry Romberg. Bệnh nhân được các Bác <br />
sĩ Việt nam phẫu thuật 2 lần: thu nhỏ bớt sắc tố <br />
vùng trán và vùng mất tóc, bù đắp phần teo mô <br />
dưới da vùng mặt bằng phương pháp cấy mỡ <br />
nội bì tuy nhiên chỉ sau vài tháng phần mỡ cấy <br />
xẹp dần và tan đi nhanh chóng, vết sẹo giữa mặt <br />
vẫn còn rõ. <br />
Tháng 3‐2013 bệnh nhân đến khoa Tạo hình <br />
Thẩm mỹ Bệnh viện Đại học y Dược với lý do <br />
teo nửa mặt. Khám thấy nửa mặt phải teo nhỏ rõ <br />
rệt so với bên trái, trục mặt cong lồi về bên trái, <br />
mất tóc phần đính phải, vết sẹo dọc giữa mặt đi <br />
từ trán phải xuống đầu trong cung mày phải, <br />
khóe mắt cạnh mũi phải, khóe miệng phải <br />
xuống gần giữa cằm. Mô dưới da sụt lún, teo <br />
mỏng toàn bộ nửa mặt phải đến trước tai, teo <br />
mỏng một phần ba dưới tai phải, mỏng mô dưới <br />
da vùng chũm và dừng lại ở chân tóc sau tai. Bớt <br />
sắc tố hình vệt dài bên trên rãnh mũi má phải và <br />
gần như toàn bộ da cổ bên phải. Trục ngang hai <br />
<br />
Tạo Hình Thẩm Mỹ <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
mắt nghiêng về bên phải, mắt hai bên nhắm kín, <br />
thị lực hai mắt bình thường. Cánh mũi phải teo <br />
mỏng, thu hẹp bớt khẩu kính lỗ tiền đình mũi, <br />
không bị khó thở. Môi trắng trên và dưới phải <br />
teo mỏng, môi đỏ teo nhỏ còn khoảng 4/5 so với <br />
bên trái, vùng cằm phải gần đường giữa mô <br />
dưới da teo mỏng tạo thành vệt rõ xuống bên <br />
dưới cằm. Khớp thái dương hàm hầu như <br />
không bị ảnh hưởng, khớp cắn bình thường. <br />
Tình trạng biến dạng khuôn mặt làm bệnh nhân <br />
mặc cảm, thiếu tự tin. Bệnh nhân mong muốn <br />
được phục hồi một phần sự cân đối của khuôn <br />
mặt. <br />
Bệnh nhân được làm các xét nghiệm huyết <br />
học, sinh hóa máu, ion đồ đều trong giới hạn <br />
bình thường, Xquang phổi, điện tâm đồ bình <br />
thường. CT scan cho thấy có vẹo vách ngăn mũi, <br />
xương hàm trên và dưới không cân xứng, nửa <br />
bên phải lớn hơn nửa bên trái mức độ nhẹ, mô <br />
mềm nửa phải vùng đầu và mặt mỏng hơn bên <br />
trái đáng kể. <br />
Bênh nhân được hội chẩn khoa và quyết <br />
định cấy mỡ tự thân vùng mặt, lượng mỡ hút từ <br />
vùng bụng quanh rốn sau khi ly tâm tách lắng <br />
cấy vào các khuyết mô vùng mặt chủ yếu vùng <br />
má, trán và đầu mày tổng cộng 22ml, sau bốn <br />
tuần tiếp tục được cấy mỡ lần hai khoảng 20ml <br />
vào các vùng gian mày, cằm, môi trên, cánh mũi. <br />
Bệnh nhân được tiếp tục theo dõi thấy có hao <br />
hụt dần lượng mỡ so với lúc cấy ghép, đến nay <br />
sau 7 tháng phần mô được cấy ghép mỡ hầu <br />
như đã ổn định, phần đầu mày và vùng cằm <br />
chưa đạt được cao độ tương tự bên lành, bệnh <br />
nhân hài lòng với kết quả này và sống tự tin <br />
hơn. <br />
<br />
BÀN LUẬN <br />
Về nguyên nhân của hội chứng là chưa <br />
rõ(1,6,1,3,1,6,8), người ta không tìm thấy bất cứ một <br />
bằng chứng di truyền nào có liên quan, tỷ lệ <br />
xuất hiện ở nữ là cao hơn trong hầu hết các lô <br />
nghiên cứu. Bệnh nhân thường nhớ đến sự kiện <br />
khỏi phát và thời điểm này thường liên quan <br />
đến chấn thương hoặc nhiễm trùng dù chưa tìm <br />
thấy bằng chứng liên quan đến bệnh sinh. Cả <br />
<br />
289<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
hai bệnh nhân trong báo cáo này đều có gia đình <br />
khỏe mạnh, không ai mắc bệnh tương tự. Bệnh <br />
nhân nam khởi đầu lưu ý về bớt giảm sắc tố <br />
vùng má phải và tìm thuốc điều trị, sau đó thấy <br />
tình trạng teo mô vùng mặt xuất hiện và nhiều <br />
thầy thuốc cũng cho rằng một loại thuốc thoa <br />
nào đó đã làm teo mô dưới da. Tuy nhiên khi đã <br />
ngưng thuốc thoa, tình trạng teo mô vẫn diễn <br />
tiến và kéo dài trong nhiều năm. Bệnh nhân nữ <br />
thì lại thấy có một bớt giảm sắc tố kèm theo tình <br />
trạng teo mô dưới da diễn tiến nhanh. Cả hai <br />
trường hợp đều không có chấn thương hay <br />
nhiễm trùng trước đó. Có ba giả thiết về nguyên <br />
nhân của bệnh là nhiễm trùng, viêm dây thần <br />
kinh sinh ba (V) ngoại biên và giả thiết giao cảm <br />
nhưng chưa cho đề nay vẫn có một bằng chứng <br />
xác thực nào được công nhận. <br />
Tiêu chuẩn chẩn đoán cho đến nay là chưa <br />
có, hội chứng được xác định dưa vào đặc điểm <br />
lâm sàng, thời điểm khỏi phát, diễn tiến bệnh, <br />
các triệu chứng liên quan. Cần chẩn đoán phân <br />
biệt với các tình trạng hoặc bệnh lý gây teo mô <br />
hoặc giảm sản như u bướu, chấn thương, giảm <br />
tưới máu, sau chiếu xạ. Cả hai bệnh nhân của <br />
chúng tôi có tiền căn, bệnh sử, đặc điểm khỏi <br />
phát, diễn tiến lâm sàng phù hợp với hội chứng <br />
Parry‐Romberg. <br />
Về đánh giá mức độ nặng, Inigo và cộng <br />
(6) theo dõi 35 trường hợp đã đề ra ba mức độ <br />
sự<br />
của hội chứng teo nửa mặt tiến triển dựa trên <br />
tình trạng teo của da và mô dưới da cũng như <br />
mức độ ảnh hưởng đến xương trong phạm vi <br />
chi phối của dây thần kinh sinh ba (dây V): <br />
Nhẹ: teo da và mô dưới da khu trú tại một <br />
vùng do một nhánh dây V chi phối, không ảnh <br />
hưởng đến xương. <br />
Trung bình: teo da và mô dưới da khu trú tại <br />
hai vùng do hai nhánh dây thần kinh V chi phối, <br />
xương không bị ảnh hưởng. <br />
Nặng: teo da và mô dưới da ở tất cả các <br />
vùng do cả ba nhánh dây thần kinh chi phối <br />
hoặc cấu trúc xương bị ảnh hưởng. <br />
Theo cách phân loại này, cả hai trường hợp <br />
của chúng tôi đều thuộc mức độ nặng dù không <br />
<br />
290<br />
<br />
bị ảnh hưởng đến xương. <br />
Các phương pháp điều trị khác nhau tùy <br />
theo mức độ ảnh hưởng. Robert J.H(1) đề xuất <br />
chuyển vạt tự do ghép nối vi phẫu như là tiêu <br />
chuẩn vàng trong tái cấu trúc ở bệnh nhân <br />
Parry‐Romberg; các trường hợp teo nhẹ hoặc <br />
mất cân đối nhẹ có thể dùng acid hyaluronic <br />
hoặc collagen tiêm dưới da cho kết quả trong <br />
ngắn hạn; đối với các vùng mất cân xứng nhỏ có <br />
thể sử dụng ghép nội bì, ghép mỡ hoặc ghép <br />
mảnh cân cơ nhưng cần lưu ý khả năng sống <br />
của các chất liệu này và dự kiến phải chỉnh sửa <br />
bù đắp sau một thời gian. Các tác giả Luca <br />
Vaienti(7), Silva‐Pinheiro(4), Y.G. Illouz(3), dùng <br />
phương pháp cấy mỡ dưới da cho kết quả khả <br />
quan. Bệnh nhân nam của chúng tôi dự kiến sử <br />
dụng vạt cạnh vai chuyển ghép vi phẫu để phục <br />
hồi phần teo khuyết mô vùng mặt trầm trọng <br />
nhưng chưa thực hiện được; bệnh nhân nữ đã <br />
được cấy ghép mỡ theo phương pháp Coleman <br />
cho kết quả khá sau 8 tháng theo dõi. Chúng tôi <br />
cho rằng cấy ghép mỡ là một phương pháp <br />
tương đối đơn giản, dễ thực hiện, có thể là biện <br />
pháp chính trong phục hồi mất cân đối mặt hay <br />
dùng để điều trị bổ sung hoặc lặp lại nhiều lần. <br />
<br />
KẾT LUẬN <br />
Hội chứng Parry‐Romberg là tình trạng teo <br />
nửa mặt bẩm sinh gây mất cân đối khuôn mặt <br />
làm người bệnh kém tự tin. Điều trị khi bịnh <br />
ngưng tiến triển, bao gồm bù đắp phần thiếu <br />
hụt mô mềm vùng mặt bằng cách chuyển vạt cơ <br />
hoặc cấy ghép mỡ tự thân. Cần tiếp tục theo dõi <br />
diễn tiến của bệnh và dự kiến cấy ghép mỡ bổ <br />
sung khi phần mô bù đắp bị hao hụt. Điều trị <br />
các sang thương ngoài da đi kèm giúp bệnh <br />
nhân tự tin hơn. <br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO <br />
1.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Havlik RJ (2007). Miscellaneous craniofacial conditions: <br />
Fibrous dysplasia, moebius syndrome, romberg’s syndrome, <br />
treacher collins syndrome, dermoid cyst, neurofibromatosis, <br />
In Charles H. Thorne Grabb and Smith’s Plastic Surg <br />
Henta T, Itoh Y, Tajima S, Ishibashi A (1999). “Axonal <br />
Degeneration of Peripheral Facial Nerve in a patient with <br />
progressive hemifacial atrophy”, Plastic and Reconstructive <br />
Surgery, May 1999, Vol. 103, No. 6, 1700 – 1702.ery, pp 281‐<br />
296, Lippincott Williams & Wilkins, Sixth edition, <br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
<br />
3.<br />
<br />
4.<br />
<br />
5.<br />
6.<br />
<br />
7.<br />
<br />
Philadenphia, PA 19106 USA. <br />
Illouz YG (1994). Lipoplastie et chirurgie de la silhouette, In <br />
Pierre Banzet et Jean‐marie Servant Chirurgie plastique <br />
reconstructrice et esthetique, pp 805‐859, Flammarion Medecine‐<br />
Sciences, Paris France. <br />
Pinheiro TP, Silva CC, Silveira CS, Botelho PC, Pinheiro MD, <br />
Pinheiro Jde J (2006). “Progressive hemifacial atrophy ‐ case <br />
report”, Med Oral Patol Oral Cir Bucal 2006; 11(2): E112‐4. <br />
Stone J (2006). “Parry‐Romberg syndrome”, Practical Neurology <br />
2006; 6, 185‐188. <br />
Terenzi V, et al (2005). “Parry‐Romberg syndrome: case report”, <br />
Plastic and Reconstructive Surgery, Oct 2005, Vol. 116, No. 5, <br />
97‐102. <br />
Vaienti L, Soresina M, Menozzi A (2005). “Parascapular free flap <br />
and fat grafts: combined surgical methods in morphological <br />
<br />
<br />
Tạo Hình Thẩm Mỹ <br />
<br />
8.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
restoration of hemifacial progressive atrophy”, Plastic and <br />
Reconstructive Surgery.Vol. 116, No. 3, 699‐711. <br />
Zaparulla MY (1985). “Progressive hemifacial atrophy: a case <br />
report”, Bristish Journal of Ophthamology, 1985, 69(7), 545‐<br />
547. <br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 <br />
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013 <br />
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 <br />
<br />
<br />
291<br />
<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn