CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC Hôn nhân xuyên biên giới...<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hôn nhân xuyên biên giới<br />
ở các tỉnh miền núi Việt Nam hiện nay<br />
Đặng Thị Hoa*<br />
Nguyễn Hà Đông **<br />
<br />
Tóm tắt: Bài viết lý giải hiện tượng hôn nhân xuyên biên giới dưới góc độ văn hóa<br />
tộc người và các yếu tố tác động của nó trong quản lý phát triển xã hội (nghiên cứu<br />
trường hợp vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc; Việt Nam - Lào). Hôn nhân xuyên<br />
biên giới là hiện tượng xảy ra khá phổ biến ở các vùng biên giới, nhất là ở các vùng<br />
biên giới có dân số đông, cư trú liền sát với đường biên giới. Văn hóa tộc người luôn<br />
được biểu hiện rõ nét và được bảo tồn qua các cuộc hôn nhân và các mối quan hệ gia<br />
đình thông qua hôn nhân mà ít bị ảnh hưởng bởi giới hạn của biên giới và quốc gia.<br />
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển hiện nay, hôn nhân xuyên biên giới đang đặt<br />
ra những vấn đề mới trong quản lý phát triển xã hội, nhất là ở vùng biên giới.<br />
Từ khóa: Hôn nhân xuyên biên giới; văn hóa; phát triển xã hội; dân tộc.<br />
<br />
1. Quan niệm hôn nhân xuyên biên giới nhấn mạnh đến ranh giới về mặt địa lý, nhà<br />
Hôn nhân xuyên biên giới là hiện tượng nước, chủng tộc, tầng lớp, giới và văn hóa<br />
xã hội xảy ra ở những vùng lãnh thổ được được thiết lập trong phạm vi của nước nhập<br />
phân định bởi các biên giới quốc gia, biên cư. Những ranh giới này do nhà nước và<br />
giới vùng hoặc lãnh thổ. Hiện tượng hôn các chủ thể xã hội khác tạo ra nhằm phân<br />
nhân xuyên biên giới luôn xảy ra khi các biệt giữa “nước này” và “các nước khác”(1).<br />
cộng đồng dân cư có cùng chung lối sống, Như vậy, khái niệm biên giới trong hôn<br />
một nền văn hóa gốc và bị ảnh hưởng nhân xuyên biên giới có thể là biên giới về<br />
chung bởi những tác động trong quá trình mặt lãnh thổ địa lý nhưng cũng có thể là<br />
phát triển. Nghiên cứu hôn nhân xuyên biên ranh giới về văn hóa, tầng lớp. Hôn nhân<br />
giới không thể không đề cập tới góc độ văn<br />
hóa, bởi lẽ văn hóa là cội nguồn của những (*)<br />
Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện<br />
mối quan hệ hôn nhân và gia đình. Ngược Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.<br />
ĐT: 0913556796. Email: danghoavdth@yahoo.com.<br />
lại, tất cả các mối quan hệ hôn nhân, gia Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài: “Hôn nhân<br />
đình là những sắc thái cơ bản, đặc trưng xuyên biên giới với phát triển xã hội ở các tỉnh miền<br />
trong văn hóa tộc người. Trong bối cảnh hội núi nước ta hiện nay” mã số KX02 - 21 thuộc<br />
nhập và phát triển hiện nay, hôn nhân Chương trình “Nghiên cứu khoa học phát triển xã<br />
hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam đến năm<br />
xuyên biên giới luôn bị tác động, ảnh 2020” KX02/11 - 15.<br />
hưởng bởi các yếu tố phát triển. Do vậy cần (**)<br />
Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện<br />
phải có cách nhìn tổng quan hơn trong Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.<br />
nghiên cứu về hôn nhân xuyên biên giới. ĐT: 0916422155. Email: nguyenhadong@gmail.com.<br />
(1)<br />
ShanYang & Melody Chia -Wen Lu (Eds.), Asian<br />
Khái niệm hôn nhân xuyên biên giới Cross-border Marriage Migration.<br />
<br />
49<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015<br />
<br />
xuyên biên giới vừa là sự kết thúc vừa là sự không đủ để giải thích tại sao phụ nữ Việt<br />
khởi đầu - khởi đầu cho những kết thúc Nam kết hôn với đàn ông Trung Quốc.<br />
khác. Nói cách khác, vấn đề đặt ra với hình Những người sống dọc biên giới hai nước<br />
thức hôn nhân này là kết hôn để di cư hay bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh, biểu<br />
di cư rồi kết hôn(2). “Văn hóa vùng biên gần tượng và tin đồn về nhau(4).<br />
như đã vượt qua giới hạn của nhà nước, của Theo một số nhà nhân học, ranh giới văn<br />
biên giới về lãnh thổ, địa lý”. Văn hóa hóa địa phương luôn vượt qua các ranh giới<br />
không chỉ kết nối con người và các thiết chế lãnh thổ của nhà nước(5). Hôn nhân giữa các<br />
trong nội bộ một đất nước mà còn gắn kết nền văn hóa là thuật ngữ chỉ những cuộc<br />
với những đất nước khác(3). hôn nhân giữa các nền văn hóa, các tộc<br />
Dưới góc nhìn nhân học, các cuộc hôn người và hôn nhân trong cùng một nền văn<br />
nhân ở vùng biên giới được diễn ra là sự tất hoá, tộc người ở hai quốc gia. Thuật ngữ<br />
yếu bởi vùng văn hóa tộc người bao trùm này nhấn mạnh đến tính chất xuyên biên<br />
lên vùng biên giới và theo đó, đường biên giới và đây chính là điều khác biệt của hình<br />
giới chỉ là sự chia cắt về mặt hành chính. thức kết hôn này so với các hình thức kết<br />
Nền văn hóa tộc người được coi là nền tảng hôn khác cũng phải vượt qua rào cản về<br />
và là cơ sở vững chắc để hình thành các không gian địa lý nhưng không phải là biên<br />
cuộc hôn nhân giữa các cộng đồng tộc giới. Theo định nghĩa này, khái niệm hôn<br />
người vùng biên giới. Khi mà nền văn hóa nhân xuyên biên giới có thể diễn ra giữa<br />
tộc người rất khó bị chia cắt bởi đường biên những người ở các nước có chung biên giới<br />
giới quốc gia thì các cuộc hôn nhân và các hoặc không chung biên giới(6).<br />
hoạt động thăm thân vẫn diễn ra thường Trong nghiên cứu của Hastings Donan,<br />
xuyên trong đời sống sinh hoạt thường văn hóa luôn vượt qua các giới hạn của nhà<br />
ngày. Do đó, hiện tượng phụ nữ Việt Nam nước và biên giới về lãnh thổ. Sự toàn cầu<br />
kết hôn với đàn ông Trung Quốc hay các hóa về văn hóa, sự hội nhập của kinh tế và<br />
trường hợp kết hôn qua lại ở các vùng biên chính trị quốc tế, và sự kết thúc của chiến<br />
giới Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - tranh lạnh đã dẫn tới sự mở cửa biên giới và<br />
Lào là khá phổ biến. Những trường hợp kết<br />
hôn này không chỉ là xuất phát từ nhu cầu (2)<br />
Williams Lucy (2010), Global marriage: Cross-<br />
về kinh tế, mà còn xuất phát từ sự lựa chọn border marriage migration in Global context,<br />
mô hình bạn đời lý tưởng. Caroline Grillot Basingstoke: Palgrave Macmillian.<br />
cho rằng yếu tố kinh tế chưa đủ để giải (3)<br />
Hastings Donnan & Thomas Wilson (1999), Borders:<br />
thích hôn nhân xuyên biên giới. Ranh giới frontiers of identity, nation and state, Oxford: Berg.<br />
(4)<br />
Caroline Grillot (2012), “Cross-border marriages<br />
địa lý thường không mạnh bằng biên giới between Vietnamese Women and Chinese men: The<br />
về xã hội và cách thức trong đó các cộng intergration of otherness and the impact of popular<br />
đồng người tương tác với nhau, cách thức representations”. In David Haines, Keiko Yamanaka<br />
họ đánh giá, xây dựng, thể hiện và định & Shinji Yamashita (Eds.), Wind over water: migration in<br />
an east Asian context (pp. 125 - 137), New York:<br />
nghĩa chính họ trong sự phân biệt với Berghahn Books.<br />
những nhóm người khác, ảnh hưởng đến sự (5)<br />
Matthew H Amster (2005), “Cross-Border Marriage<br />
lựa chọn và tình trạng sống của họ ở những in the Kelabit Highlands of Borneo”, Anthropological<br />
vùng xã hội đặc biệt như vùng biên. Trong Forum, 15, 131 - 150.<br />
(6)<br />
Williams Lucy (2010), Global marriage: Cross-<br />
trường hợp biên giới Việt Nam - Trung border marriage migration in Global context,<br />
Quốc, yếu tố đói nghèo và nhân khẩu học Basingstoke: Palgrave Macmillian.<br />
<br />
50<br />
Hôn nhân xuyên biên giới...<br />
<br />
nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước vốn hạn và sự phục tùng của người vợ. Bà thậm chí<br />
chế sự di chuyển của con người, hàng hóa, gọi đàn ông Trung Quốc là những người<br />
vốn tư bản và ý tưởng. Biên giới đã không chồng hoàn hảo đối với phụ nữ Việt Nam<br />
còn chức năng như nó vốn có hoặc ít nhất, sống ở biên giới vì họ có những đặc điểm<br />
không phải trên tất cả các mặt(7). Nghiên cứu văn hóa tương tự nhau nhưng có xu hướng<br />
của Lenore Lyons & Michele Ford (2008) cởi mở hơn do ảnh hưởng của quá trình<br />
về hôn nhân xuyên biên giới diễn ra giữa hiện đại hóa ở Trung Quốc.(11)<br />
đàn ông Singaprore và phụ nữ Indonesia Hôn nhân là hiện tượng xã hội, văn hóa<br />
sống ở đảo Riau (thuộc Indonesia). Thực tế có vai trò quan trọng trong tái sản xuất dân<br />
người phụ nữ ở đảo Riau không có giấy cư và góp phần cải thiện chất lượng cuộc<br />
đăng ký kết hôn nhưng họ vẫn đang sống sống, ổn định và phát triển của mỗi quốc<br />
trên đảo nên họ không bị mất quyền công gia, dân tộc. Hôn nhân không chỉ là hình<br />
dân. Tuy nhiên, họ gần như không thể nhập thái kết hợp giới tính mà còn là thể hiện các<br />
quốc tịch Singapore theo chồng và những sắc thái văn hóa tộc người, luôn chịu ảnh<br />
hoạt động của họ bị giới hạn trong biên giới hưởng bởi các nền văn hóa và thể chế xã<br />
Indonesia do những khó khăn trong chính hội; có mối quan hệ mật thiết và chịu tác<br />
sách nhập cư vào Singapore. Rõ ràng, biên động bởi nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị,<br />
giới về mặt lãnh thổ, chính trị không ngăn tín ngưỡng, quan hệ dòng họ, gia đình và ý<br />
cản được các tương tác xã hội, sự trao đổi thức hệ của mỗi tộc người, cộng đồng trong<br />
của các nhóm người sống ở vùng biên. Như sự vận động và phát triển. Trong mỗi xã<br />
vậy, văn hóa vùng biên gần như đã vượt hội, hôn nhân đã thiết lập nên những mối<br />
qua giới hạn của nhà nước, của biên giới về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,<br />
lãnh thổ, địa lý. Văn hóa không chỉ kết nối dòng họ nhưng đồng thời nó cũng thiết lập<br />
con người và các thiết chế trong nội bộ một nên các mối quan hệ về kinh tế, chính trị,<br />
đất nước mà còn gắn kết với những đất văn hóa giữa các nhóm cộng đồng.<br />
nước khác(8). Ở một góc nhìn khác, hôn 2. Hôn nhân xuyên biên giới: Nghiên cứu<br />
nhân xuyên biên giới có thể diễn ra trong trường hợp vùng biên giới Việt Nam - Lào<br />
nội bộ cộng đồng và giữa các cộng đồng.<br />
Hôn nhân trong nội bộ cộng đồng diễn ra Kết quả khảo sát thực địa (tại 4 tỉnh<br />
giữa những người đến từ một nền văn hóa<br />
gốc, một cộng đồng thân tộc gốc(9). Hôn (7)<br />
Hastings Donnan & Thomas Wilson (1999),<br />
nhân liên cộng đồng diễn ra giữa những Borders: frontiers of identity, nation and state,<br />
người đến từ những nền văn hóa khác nhau, Oxford: Berg.<br />
(8)<br />
Hastings Donnan & Thomas Wilson (1999),<br />
các cộng đồng thân tộc khác nhau(10). Người Borders: frontiers of identity, nation and state,<br />
Việt Nam kết hôn cùng người Đài Loan, Oxford: Berg.<br />
Trung Quốc là những ví dụ minh chứng cho (9), (10)<br />
Williams Lucy (2010), Global marriage: Cross -<br />
hình thức hôn nhân này(11). border marriage migration in Global context,<br />
Basingstoke: Palgrave Macmillian.<br />
Caroline Grillot cho rằng việc nhiều phụ (11)<br />
Caroline Grillot (2012), “Cross-border marriages<br />
nữ Việt Nam tìm được chồng người Trung between Vietnamese Women and Chinese men: The<br />
Quốc đã khiến họ được giải phóng khỏi intergration of otherness and the impact of popular<br />
cuộc sống trước đây của họ. Họ đã phá vỡ representations”. In David Haines, Keiko Yamanaka<br />
& Shinji Yamashita (Eds.), Wind over water:<br />
các quy tắc của cộng đồng, các quan niệm migration in an east Asian context (pp. 125 - 137),<br />
truyền thống về quyền lực của người chồng New York: Berghahn Books.<br />
<br />
51<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015<br />
<br />
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng và Nghệ lựa chọn vợ/chồng là người đồng tộc ở bên<br />
An, đại diện cho vùng biên giới Trung kia biên giới.<br />
Quốc - Việt Nam và Việt Nam - Lào) cho - Hôn nhân ngoại tộc người sống trong<br />
thấy, vùng văn hóa tộc người nằm trùng lên vùng biên giới: là những cuộc hôn nhân của<br />
vùng biên giới bao gồm cả hai bên đường các tộc người cư trú trong vùng biên giới<br />
biên giới. Địa bàn cư trú của các tộc người với các tộc người khác cùng cộng cư. Một<br />
thiểu số vẫn thể hiện sự gắn bó, thân thiết trong những đặc điểm nổi bật trong dân cư<br />
trong mối quan hệ thân tộc, thích tộc, quan vùng biên giới là sự cư trú xen kẽ cài răng<br />
hệ cộng đồng của các tộc người ở hai bên lược của nhiều tộc người cùng cộng cư<br />
đường biên. Do vậy, đây cũng là nguyên trong quá trình lịch sử lâu dài. Do vậy,<br />
nhân quan trọng dẫn tới nhiều cuộc hôn những ảnh hưởng, giao thoa văn hóa giữa<br />
nhân xuyên biên giới. Chính vì vậy, ở các các tộc người trong một địa phương, vùng<br />
địa bàn vùng biên giới, các trường hợp kết văn hóa là tất yếu. Trong các mối quan hệ<br />
hôn xuyên biên giới nội tộc người và ngoại hôn nhân gia đình, nổi lên ở một số tộc<br />
tộc người là khá phổ biến. Có thể khái quát người thường có các mối quan hệ truyền<br />
lên một số dạng hôn nhân như sau: thống về hôn nhân như Tày, Nùng, Thái,...<br />
- Hôn nhân nội tộc người: diễn ra ở các Một số tộc người trong truyền thống vốn rất<br />
tộc người sống hai bên đường biên giới và ít có quan hệ hôn nhân gia đình với các tộc<br />
có mối liên hệ mật thiết với nhau trong đời người khác (chủ yếu vẫn là nội hôn tộc<br />
sống sinh hoạt và quan hệ thân tộc. Đối với người) như Mông, Dao, Hà Nhì, Lô Lô thì<br />
khu vực đường biên giới Việt - Trung có trong khoảng 10 năm trở lại đây đã xuất<br />
khá nhiều nhóm tộc người có mối quan hệ hiện ngày càng nhiều các trường hợp kết<br />
hôn nhân nội tộc người xuyên biên giới hôn với người khác tộc, nhất là giữa các<br />
như: nhóm dân tộc Tày, Nùng ở phía Việt dân tộc cư trú xen kẽ trong vùng. Hiện<br />
Nam với các đồng tộc phía bên Trung Quốc tượng kết hôn khác tộc người diễn ra ở<br />
là Choang; Dân tộc Dao, Mông và các dân vùng biên giới là kết quả của những hoạt<br />
tộc Hà Nhì, Lô Lô phía Việt Nam với đồng động giao lưu văn hóa cộng đồng của các<br />
tộc phía Trung Quốc là người Yi; Đối với dân tộc trong vùng, đặc biệt là các hoạt<br />
khu vực biên giới Việt - Lào có các dân tộc: động giao lưu kinh tế. Trong những năm<br />
Thái, Khơ mú, Mông (thuộc địa bàn các gần đây cũng đã xuất hiện nhiều trường hợp<br />
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An; Chứt, Bru - Vân các cô gái người dân tộc thiểu số ở Việt<br />
Kiều, Giẻ Triêng,.. (thuộc địa bàn từ tỉnh Nam hoặc là người Kinh kết hôn với người<br />
Hà Tĩnh trở vào) cư trú khá tập trung ở cả Hán ở phía Trung Quốc.<br />
hai bên biên giới và thường xuyên có những Xem xét thành phần dân tộc trong quan<br />
trao đổi, quan hệ thân tộc, thăm thân lẫn hệ hôn nhân ở vùng biên giới, kết quả khảo<br />
nhau. Với cùng một nền văn hóa gốc, có sát 1.078 hộ gia đình ở khu vực biên giới<br />
chung những phong tục tập quán, hoạt động Việt Nam - Trung Quốc và Việt Nam - Lào<br />
sinh kế, lễ hội và có chung những đặc điểm cho thấy, một số dân tộc vốn có truyền<br />
trong nghi lễ hôn nhân gia đình. Với quan thống kết hôn nội tộc thì đến nay vẫn rất ít<br />
hệ đồng tộc gần gũi và thân thiết, các mối có kết hôn ngoại tộc như Mông, Dao. Tuy<br />
quan hệ hôn nhân và gia đình luôn nảy sinh nhiên, ở vùng biên giới Lào chỉ có một số<br />
và có những điều kiện rất thuận lợi cho trường hợp người Mông kết hôn với người<br />
thanh niên đến tuổi kết hôn có thể dễ dàng Thái. Ở vùng biên giới Việt - Trung, người<br />
<br />
52<br />
Hôn nhân xuyên biên giới...<br />
<br />
Mông chỉ kết hôn với người Kinh mà rất ít Nùng, Thái,... Đặc biệt ở người Thái, Tày,<br />
trường hợp kết hôn với các dân tộc thiểu số Nùng, Sán Chay có xu hướng kết hôn nhiều<br />
khác; các tộc người khác có xu hướng dễ hơn với người Kinh (xem Bảng 1).<br />
chấp nhận hôn nhân ngoại tộc hơn như Tày,<br />
Bảng 1: Thành phần dân tộc của người thứ nhất và mối quan hệ với người thứ 2<br />
trong gia đình<br />
Thành phần dân tộc người thứ nhất<br />
Thành phần dân tộc Tổng<br />
Sán<br />
người thứ 2 Kinh Tày Nùng Thái Mông Dao Khác cộng<br />
Chay<br />
Kinh Quan Vợ/chồng 112 18 3 2 2 1 138<br />
hệ với Con đẻ 20 0 0 0 0 0 20<br />
người Con dâu/rể 1 0 0 0 0 0 1<br />
trả lời<br />
Cháu 1 0 0 0 0 0 1<br />
Bố/mẹ 1 0 0 0 0 0 1<br />
Tổng cộng 135 18 3 2 2 1 161<br />
Tày Quan hệ Vợ/chồng 5 220 40 2 3 1 271<br />
với người Con đẻ 0 34 0 0 0 0 34<br />
trả lời Con dâu/rể 0 4 0 0 0 0 4<br />
Cháu 0 2 2 0 0 0 4<br />
Tổng cộng 5 260 42 2 3 1 313<br />
Nùng Quan hệ Vợ/chồng 32 198 230<br />
với người Con đẻ 4 51 55<br />
trả lời Con dâu/rể 0 2 2<br />
Cháu 0 2 2<br />
Bố/mẹ 0 4 4<br />
<br />
Tổng cộng 36 257 293<br />
Thái Quan hệ Vợ/chồng 4 152 156<br />
với người Con đẻ 0 7 7<br />
trả lời Cháu 0 1 1<br />
Tổng cộng 4 160 164<br />
Mông Quan hệ Vợ/chồng 1 92 93<br />
với người<br />
trả lời Con đẻ 0 5 5<br />
Tổng cộng 1 97 98<br />
Dao Quan hệ Vợ/chồng 20 20<br />
với người<br />
trả lời Con đẻ 2 2<br />
Tổng cộng 22 22<br />
Nguồn: Điều tra thực địa đề tài Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội, 2014.<br />
<br />
53<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015<br />
<br />
Qua kết quả khảo sát, hầu hết các cặp vợ đều với người đồng tộc. Trong vài năm gần<br />
chồng trong mẫu là kết hôn nội tộc người, đây mới xuất hiện các trường hợp kết hôn<br />
một số ít tộc người có kết hôn ngoại tộc như với người Hán hoặc các tộc người khác ở<br />
Tày (với người Kinh, Nùng, Dao); Nùng (với Trung Quốc.<br />
người Kinh và Tày). Trong những năm gần Do đặc điểm cư trú liền kề với đường<br />
đây, các dân tộc thiểu số kết hôn với người biên giới, các dân tộc ở hai bên đường biên<br />
Kinh có xu hướng ngày càng nhiều hơn. Việc có chung một đặc điểm văn hóa, phong tục<br />
kết hôn giữa các dân tộc thiểu số chỉ xảy ra ở tập quán và thường xuyên có mối liên hệ<br />
một số nhóm dân tộc như nhóm dân tộc theo qua lại với nhau, thăm thân từ nhiều đời<br />
ngôn ngữ Tày - Thái là phổ biến. Còn nhóm nay. Do vậy, các tình huống gặp gỡ vợ/<br />
dân tộc theo ngôn ngữ Mông - Dao ít có xu chồng của các cuộc hôn nhân xuyên biên<br />
hướng kết hôn ngoại tộc hơn. giới chủ yếu là từ phong tục tập quán truyền<br />
Với các trường hợp kết hôn với người thống của các tộc người và có mối quan hệ<br />
nước ngoài (Trung Quốc), hầu hết các cuộc nội tộc hôn hoặc trong nội bộ của các nhóm<br />
hôn nhân diễn ra ở vùng biên giới đối với tộc người có mức tương đồng cao về văn<br />
các dân tộc Mông, Dao, Sán Chay, Nùng hóa (xem bảng 2).<br />
Bảng 2: Tình huống gặp gỡ vợ/chồng của người trả lời chia theo dân tộc<br />
Tình huống gặp Thành phần dân tộc của chủ hộ<br />
vợ chồng của chủ Sán Tổng cộng<br />
Kinh Tày Nùng Thái Mông Dao Khác<br />
hộ Chay<br />
Đi thăm/ giúp 2 3 1 7 6 0 0 0 19<br />
đỡ người thân 1,4% 9% 3% 4,3% 6,2% 0,0% 0,0% 0,0% 1,8%<br />
Đi chơi/ đi chợ 38 62 51 40 46 4 4 5 250<br />
25,9% 19,2% 16,8% 24,4% 47,4% 16,7% 50,0% 45,5% 23,2%<br />
Đi buôn bán, 25 41 88 12 9 1 1 2 179<br />
làm thuê 17,0% 12,7% 28,9% 7,3% 9,3% 4,2% 12,5% 18,2% 16,6%<br />
Giao lưu văn 4 4 5 1 4 0 0 0 18<br />
hóa, lễ hội 2,7% 1,2% 1,6% 0,6% 4,1% 0,0% 0,0% 0,0% 1,7%<br />
Được giới thiệu, 21 126 85 12 11 18 0 0 273<br />
mai mối 14,3% 39,0% 28,0% 7,3% 11,3% 75,0% 0,0% 0,0% 25,3%<br />
Bị bắt cóc, lừa 3 12 14 3 1 0 0 0 33<br />
bán 2,0% 3,7% 4,6% 1,8% 1,0% 0,0% 0,0% 0,0% 3,1%<br />
Người cùng làng/ 53 56 41 87 18 0 3 4 262<br />
bạn học 36,1% 17,3% 13,5% 53,0% 18,6% 0,0% 37,5% 36,4% 24,3%<br />
Khác 1 11 11 2 2 1 0 0 28<br />
0,7% 3,4% 3,6% 1,2% 2,1% 4,2% 0,0% 0,0% 2,6%<br />
Không biết/ 0 8 8 0 0 0 0 0 16<br />
KTL 0,0% 2,5% 2,6% 0,0% 0,0% 0,0% 0,0% 0,0% 1,5%<br />
Tổng cộng 147 323 304 164 97 24 8 11 1078<br />
100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%<br />
Nguồn: Điều tra thực địa đề tài Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội, 2014.<br />
<br />
54<br />
Hôn nhân xuyên biên giới...<br />
<br />
<br />
Kết quả khảo sát cho thấy, với các dân thông qua các hoạt động đi chơi chợ, thăm<br />
tộc Tày, Nùng, Dao tình huống kết hôn của thân và quen biết thông qua người cùng<br />
các cặp vợ chồng do mai mối là chủ yếu thôn bản.<br />
(25,3%, trong đó: Dao 75%; Tày 39%; Khi được hỏi về nguyện vọng về người<br />
Nùng 28%). Trong khi đó ở dân tộc Mông, sẽ kết hôn, hầu hết các ý kiến khẳng định,<br />
Sán Chay tình huống đi chợ, đi chơi gặp họ muốn kết hôn với người đồng tộc hơn là<br />
nhau dẫn tới kết hôn chiếm tỷ lệ cao kết hôn với người khác tộc. Thậm chí người<br />
(47,4%). Ngoài ra, một tỷ lệ khá lớn các đồng tộc có thể ở bên kia biên giới vẫn là<br />
cuộc hôn nhân xuất phát từ quan hệ là lựa chọn ưu tiên 79,9%, trong khi lựa chọn<br />
người cùng làng/bạn học (24,3%) và đi đối với người khác tộc chỉ là 17%.<br />
buôn bán, làm thuê (16,6%). Theo phong 3. Hôn nhân xuyên biên giới trong bối<br />
tục truyền thống của một số dân tộc như cảnh hội nhập và phát triển hiện nay<br />
Tày, Nùng, Dao, Sán Chay, tập quán sắp Trong bối cảnh hội nhập và phát triển<br />
đặt của cha mẹ thông qua vai trò của những hiện nay, bên cạnh những yếu tố truyền<br />
người làm mối là rất phổ biến. Kết quả thống, hôn nhân đang có rất nhiều vấn đề<br />
khảo sát ở các dân tộc vùng biên giới phản mới chịu tác động của nhiều yếu tố của xu<br />
ánh khá rõ đặc trưng văn hóa của từng tộc hướng toàn cầu hóa và hội nhập. Các khuôn<br />
người. Với các dân tộc Tày, Nùng, Dao, mẫu văn hóa và mối quan hệ xã hội trong<br />
Sán Dìu, Sán Chay ở khu vực biên giới Việt hôn nhân đang có những biến đổi do tác<br />
- Trung, việc mai mối hay vai trò của ông động của toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa.<br />
mối, bà mối vẫn giữ vị trí quan trọng trong Tuy không làm thay đổi hoàn toàn những<br />
các cuộc hôn nhân. Các cuộc hôn nhân đặc điểm của hôn nhân truyền thống nhưng<br />
không chỉ nằm trong khu vực biên giới mà đã và đang có những tác động nhất định tới<br />
cả các cuộc hôn nhân xuyên biên giới cũng các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc<br />
mang đậm màu sắc phong tục với vai trò biệt, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu<br />
dẫn dắt của ông mối, bà mối. Trong nhiều số, những biến đổi trong hôn nhân lại chịu<br />
trường hợp, người làm mai mối có thể là ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố văn hóa<br />
những người đã kết hôn với người nước tộc người và tín ngưỡng truyền thống. Quá<br />
ngoài (Trung Quốc) từ nhiều năm trước, trình biến đổi của hôn nhân trong xu thế hội<br />
trong quá trình thăm thân về quê cũ, họ đã nhập đang bị tác động mạnh mẽ bởi những<br />
lựa chọn và là người mai mối trung gian vấn đề xã hội và đang trở nên phức tạp,<br />
cho các cuộc hôn nhân hiện tại. Trong mối nhất là ở khu vực biên giới đất liền, nơi mà<br />
quan hệ này, các cặp thanh niên kết hôn một bộ phận người dân có mối quan hệ chặt<br />
hoàn toàn tự nguyện và đồng ý với sự sắp chẽ với một số dân tộc, nhất là với đồng tộc<br />
đặt của gia đình và ông mối, bà mối. Đối ở bên kia biên giới.<br />
với khu vực biên giới Việt - Lào trong Tình huống dẫn tới các cuộc hôn nhân ở<br />
trường hợp người Thái và người Mông thì vùng biên giới đang có nhiều biến đổi. Bên<br />
tình huống dẫn tới hôn nhân chủ yếu là cạnh các hình thức giới thiệu hôn nhân theo<br />
<br />
55<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015<br />
<br />
cách truyền thống, nhiều hoạt động kinh tế - quan chính quyền xem xét, quyết định. Bên<br />
xã hội trong thời kỳ hội nhập và mở cửa cạnh đó, đa phần họ là người dân tộc thiểu<br />
cũng đã ảnh hưởng khá mạnh mẽ tới các số nên trình độ nhận thức còn hạn chế, mà<br />
cuộc hôn nhân xuyên biên giới. Các hoạt thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài ở nước<br />
động như đi làm thuê, buôn bán, đi chơi ta còn phức tạp cần nhiều giấy tờ chứng<br />
chợ,... cũng là những bối cảnh dẫn tới các nhận nên dẫn đến tâm lý “ngại” đăng ký.<br />
cuộc hôn nhân xuyên biên giới. Một bộ Tình trạng này đã dẫn tới nhiều khó khăn<br />
phận thanh niên ở các xã biên giới đi làm phức tạp trong việc giải quyết chính sách,<br />
thuê, đi buôn bán đã làm quen và dẫn tới chế độ đối với các hộ người dân tộc thiểu số<br />
các cuộc hôn nhân (có thể là đồng tộc hoặc vùng biên giới, nhất là trong các chính sách<br />
khác tộc) với người nước ngoài. Đặc biệt, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo<br />
trong bối cảnh hiện nay, lợi dụng nhu cầu dục, y tế ở các địa phương vùng biên giới.<br />
của một bộ phận nam giới ở nước ngoài có Do đó, hầu hết các cuộc hôn nhân “xuyên<br />
nhu cầu kết hôn, kẻ xấu đã thực hiện nhiều biên giới” không đăng ký với chính quyền<br />
hành vi cưỡng ép, lừa bán các cô gái sang địa phương diễn ra khá phổ biến, nhất là<br />
làm vợ. Trường hợp này không chỉ xảy ra vùng biên giới Việt Nam - Lào và Việt<br />
đối với phụ nữ và trẻ em gái ở vùng biên Nam - Trung Quốc. Các trường hợp này<br />
giới, nhất là khu vực biên giới Việt - Trung đều có con và tài sản chung với nhau nhưng<br />
mà còn có xu hướng diễn ra khá phổ biến ở không ràng buộc nhau bởi bất cứ thủ tục<br />
khu vực miền núi phía Bắc và thậm chí còn pháp lý của nước nào. Tình trạng này đã<br />
lan sâu hơn vào các tỉnh trong nội địa, dẫn đến những khó khăn, rất khó kiểm soát<br />
Trung Bộ và Nam Bộ. về quản lý xã hội ở các địa phương vùng<br />
Tình trạng kết hôn với người đồng tộc ở biên giới. Bên cạnh những cuộc hôn nhân<br />
bên kia biên giới vốn đã xảy ra trong lịch sử tự nguyện do điều kiện lịch sử, văn hóa của<br />
nhưng lại trở nên phức tạp trong xu hướng các dân tộc để lại, trong những năm gần<br />
toàn cầu hóa và hội nhập. Các cuộc kết hôn đây, một số đối tượng tội phạm đã lợi dụng<br />
từ kết quả của các mối quan hệ qua lại, làm các cuộc hôn nhân xuyên biên giới để buôn<br />
ăn, buôn bán, quan hệ gia đình, họ hàng bán phụ nữ và trẻ em gái. Do đặc điểm cư<br />
mật thiết giữa các cộng đồng tộc người cư trú ở hai vùng biên giới là có khá nhiều<br />
trú hai bên đường biên giới với nhau. Với đồng tộc của các dân tộc cư trú sát vùng<br />
quan niệm cho rằng, việc lấy vợ, lấy chồng biên, bọn tội phạm đã lợi dụng những<br />
là người đồng tộc bên kia biên giới đã có từ phong tục tập quán, văn hóa tộc người để<br />
xa xưa và kết hôn với nhau không đăng ký đưa người ra nước ngoài với mục đích thu<br />
kết hôn, chủ yếu sống theo phong tục tập lợi nhuận bất hợp pháp.<br />
quán của dân tộc (chỉ cần có sự có sự nhất Hôn nhân xuyên biên giới mang những<br />
trí và chứng kiến của gia đình những người đặc điểm văn hóa tộc người đậm nét. Ranh<br />
có uy tín trong cộng đồng). Nhiều cặp vợ giới văn hóa tộc người và ranh giới biên<br />
chồng chưa nhận thức hết tầm quan trọng giới quốc gia có sự khác biệt, do vậy, các<br />
của việc đăng ký không trình báo các cơ cuộc hôn nhân xuyên biên giới luôn diễn ra<br />
<br />
56<br />
Hôn nhân xuyên biên giới...<br />
<br />
<br />
từ trong lịch sử và hiện tại. Các nghiên cứu “Ảnh hưởng của hiện tượng di cư quốc tế vì hôn<br />
cũng đã chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa và nhân đối với vấn đề giới và hôn nhân ở những cộng<br />
hôn nhân xuyên biên giới, theo đó, văn hóa đồng có người di cư ở Việt”, in trong kỷ yếu hội<br />
tộc người là nguyên nhân sâu xa dẫn tới các thảo: Di cư của phụ nữ Việt Nam sang các nước<br />
cuộc hôn nhân xuyên biên giới và đồng Đông Á để kết hôn: hướng tới cái nhìn đa chiều,<br />
thời, hôn nhân xuyên biên giới cũng chịu Nxb Lao động, Hà Nội, tr.67 - 83.<br />
nhiều ảnh hưởng, tác động của văn hóa. 4. Le Bach Duong, Daniele Belanger & Khuat<br />
Có thể thấy, hôn nhân xuyên biên giới ở Thu Hong (2005), Transnational migration, marriage<br />
các tỉnh miền núi nước ta hiện nay vẫn còn and trafficking at the China - Vietnam border, Paper<br />
mang đậm dấu ấn văn hóa tộc người và luôn presented at the the Ceped-Cicred-Ined conference<br />
bị chi phối mạnh bởi những phong tục tập “Female deficit in Asia: trends and perspectives”.<br />
quán truyền thống. Các hình thức kết hôn Hastings Donnan, & Thomas Wilson (1999), Borders:<br />
nội tộc người và ngoại tộc người luôn diễn frontiers of identity, nation and state. Oxford: Berg.<br />
ra trong lịch sử và hiện tại. Trong bối cảnh 5. Hong-zen Wang & Shu - ming Chang (2002),<br />
hiện nay, hôn nhân xuyên biên giới đang bị The Commodification of International Marriages:<br />
tác động mạnh mẽ với xu thế hội nhập và Cross-Border Marriage Business in Taiwan and Viet<br />
toàn cầu hóa nhưng vẫn giữ được những nét Nam, International Migration, 40, 93 - 116.<br />
riêng bản sắc tộc người. Bên cạnh đó, nhiều 6. C. Julia Huang và Kuang-ting Chuang (2010),<br />
vấn đề xã hội cũng đang nảy sinh bởi các “Tranh luận với quan niệm về hiện tượng xuyên<br />
cuộc kết hôn xuyên biên giới như việc quản quốc gia: một vài nhận xét ban đầu về những nữ di<br />
lý hôn nhân, vấn đề hỗ trợ pháp lý; vấn đề dân Việt Nam lấy chồng ở Đài Loan và miền Nam<br />
tội phạm cưỡng ép, lừa bán người có mục Việt Nam”, in trong: Hiện đại và động thái của<br />
đích hôn nhân xuyên biên giới,... truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân<br />
học, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp.<br />
Tài liệu tham khảo Hồ Chí Minh, tr.521 - 534.<br />
1. Danièle Bélanger (2011), “Hôn nhân với phụ 7. Lianling Su (2009), Cross-border marriage<br />
nữ ngoại quốc ở Đông Á: buôn bán hôn nhân hay di migration of Vietnamese women to China, Kansas<br />
cư tự nguyện? ”. In trong kỷ yếu hội thảo: Di cư của State University.<br />
phụ nữ Việt Nam sang các nước Đông Á để kết hôn: 8. Xoan Nguyen & Xuyen Tran (2010), Vietnamese<br />
hướng tới cái nhìn đa chiều, Nxb Lao động, Hà Nội, - Taiwanese Marriages. In Wen - ShanYang &<br />
tr. 8 - 13. Melody Chia - Wen Lu (Eds.), Asian Cross - border<br />
2. Danièle Bélanger, Trần Giang Linh, Lê Bạch Marriage Migration: Demographic Patterns and<br />
Dương (2011), “Tiền gửi về nhà của phụ nữ Việt Social Issues (pp. 157 - 178): Amsterdam University<br />
Nam di cư sang các nước Châu Á đề kểt hôn”. In Press.<br />
trong kỷ yếu hội thảo: Di cư của phụ nữ Việt Nam 9. Yu Hua Chen (2009), The influence of cross-<br />
sang các nước Đông Á để kết hôn: hướng tới cái border marriage on reproductive behavior in Taiwan.<br />
nhìn đa chiều, Nxb Lao động, Hà Nội. Paper presented at the XXVI IUSSP International<br />
3. Danièle Bélanger, Trần Giang Linh (2011), Population Conference.<br />
<br />
<br />
57<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
58<br />