Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội
lượt xem 16
download
Việt Nam có truyền thống là một nước nông nghiệp, với trên dưới 70% dân cư là nông dân. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn coi trọng hỗ trợ phát triển nông nghiệp và các hợp tác xã (HTX) với tư cách đã, đang và sẽ tiếp tục là một trong các khu vực kinh tế quan trọng của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua Nghị quyết 26-NQ/TW về nông ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội
- Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội Nguyễn Ngọc Bích Trường Đại học Kinh tế Luận văn Thạc sĩ ngành: Kinh tế Chính trị; Mã số: 60 31 01 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Minh Phong Năm bảo vệ: 2012 Abstract. Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về hợp tác xã (HTX) và đặc biệt là HTX dịch vụ nông nghiệp. Đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành công và hạn chế của mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội giai đoạn 1997- 2008 và giai đoạn 2008-2011. Nghiên cứu một số kinh nghiệm trong nước và quốc tế có thể vận dụng vào việc tăng cường hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội. Phân tích bối cảnh, phương hướng, đề xuất quan điểm và kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020. Keywords. Kinh tế chính trị; Dịch vụ nông nghiệp; Hà Nội; Hợp tác xã Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Việt Nam có truyền thống là một nước nông nghiệp, với trên dưới 70% dân cư là nông dân. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn coi trọng hỗ trợ phát triển nông nghiệp và các hợp tác xã (HTX) với tư cách đã, đang và sẽ tiếp tục là một trong các khu vực kinh tế quan trọng của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Theo đó, chương trình xây dựng nông thôn mới đã trở thành chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm tạo mọi điều kiện và phối hợp đồng bộ các giải pháp, nguồn lực cho phát triên toàn diện khu vực nông thôn, ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Hơn nữa, theo tinh thần Nghị quyết trên, các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTX DVNN) vừa là một trong những tiêu chí cần đạt được, vừa là công cụ phát huy nội lực rất hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới. Trong 5 năm qua, hoạt động của các hợp tác xã ở Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất định như tổ chức bộ máy quản lý chặt chẽ, gọn nhẹ hơn trước; hoạt động trong các ngành, lĩnh vực đã có chuyển biến và tạo ra bước phát triển mới; từng HTX có điều lệ phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ riêng, có danh sách xã viên chính thức và tuyển dụng
- lao động có hợp đồng theo đúng quy định. Tình hình tài chính của các HTX cũng đã có sự phân định rõ ràng; thu hút, giải quyết việc làm và thu nhập ổn định cho hàng trăm ngàn xã viên và lao động; tham gia thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn và từng bước tham gia các chương trình xã hội hóa trong phát triển kinh tế, xã hội của thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, thời gian qua, nhất là từ năm 2008, khi địa giới hành chính Hà Nội được mở rộng, sự phát triển của các HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp ở Hà Nội còn nhiều hạn chế và tồn tại, cả về cơ cấu tổ chức và nội dung hoạt động; Nội lực các HTX nhìn chung còn yếu; Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, chưa đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của xã viên và đòi hỏi của cơ chế thị trường. Khu vực nông nghiệp hàng năm đang tạo ra khoảng gần 6% GDP của Thủ đô, tạo việc làm cho khoảng 1/3 tổng số lao động của Hà Nội. Sự phát triển mạnh mẽ nông nghiệp sẽ góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp ở Hà Nội hiện nay là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn cuộc sống, đồng thời phù hợp chủ trương chung về phát triển khu vực HTX của Đảng và Nhà nước, cũng như của Thành phố Hà Nội, góp phần xây dựng bộ mặt thủ đô mới, phát triển phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường. Cho đến nay, cả trên phạm vi quốc gia, cũng như ở Hà Nội chưa có công trình khoa học nào trực tiếp đề cập đến chủ đề này. Vì vậy, tác giả chọn “Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và được nghiên cứu dưới góc độ, phạm vi, mức độ và trên nhiều phương diện khác nhau, như: - Kết quả Tổng điều tra các HTX nông nghiệp năm 2004 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục HTX và Phát triển nông thôn (2007). - Hiê ̣n trạng Hợp tác xã ở nước ta : Phân tích một số kế t q uả tổng điều tra Hợp tác xã năm 2008 của Bô ̣ Kế hoa ̣ch và Đầ u tư, Vụ HTX (2009). - Kinh nghiệm hoạt động của một số HTX sau 6 năm thực hiện Luật HTX ở Việt Nam của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2009). - Mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá của Liên minh HTX thành phố Hà Nội (2009). - Đổi mới tổ chức và quản lý các hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn của GS.TS Lương Xuân Quỳ (chủ biên), nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội (2005). - Mô hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam của GS.TS Hồ Văn Vĩnh (chủ biên), nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội (2005). Hầu hết các công trình này về cơ bản là nghiên cứu HTX ở tầm vĩ mô, giai đoạn trước năm 2008, chưa có công trình nào tập trung chuyên sâu nghiên cứu về thực trạng HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp ở Hà Nội sau khi Hà Nội mở rộng địa giới. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu của đề tài nhằm trả lời hai câu hỏi nghiên cứu sau:
- a, Thực trạng tổ chức và hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội giai đoạn 2008 - 2011; b, Phương hướng và giải pháp tăng cường hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để trả lời hai câu hỏi nghiên cứu trên, đề tài đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể: - Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về HTX và đặc biệt là HTX dịch vụ nông nghiệp. - Đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành công và hạn chế của mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội giai đoạn 1997-2008 và giai đoạn 2008-2011; - Nghiên cứu một số kinh nghiệm trong nước và quốc tế có thể vận dụng vào việc tăng cường hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội; - Phân tích bối cảnh, phương hướng, đề xuất quan điểm và kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: + Các khái niệm, mô hình tổ chức và nội dung hoạt động của HTX và HTX dịch vụ nông nghiệp. + Các cơ chế chính sách của Nhà nước có liên quan đến HTX, HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội từ năm 2008 đến nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Thành phố Hà Nội (sau khi mở rộng địa giới). + Về thời gian: Từ năm 1997 đến năm 2020 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: - Sử dụng đồng bộ, linh hoạt và hài hòa các phương pháp nghiên cứu khoa học như: thu thập tư liệu, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và sự kế thừa khoa học. - Tiếp cận nghiên cứu mang tính hệ thống, liên ngành, lịch sử, cụ thể và biện chứng. 6. Những đóng góp mới của luận văn: - Luận văn sẽ góp phần luận giải rõ những đặc điểm, thành công, bất cập trong phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp sau khi Hà Nội mở rộng địa bàn. - Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về HTX dịch vụ nông nghiệp Chương 2: Thực trạng HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội giai đoạn 2008-2011 Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP 1.1 Khái niệm hợp tác tác xã: Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “HTX là sự liên kết của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết lại trên cơ sở bình đẳng
- về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung”. Liên minh HTX quốc tế (ICA) đưa ra định nghĩa về HTX: “HTX là một hiệp hội tự chủ của các cá nhân tự nguyện tập hợp lại nhằm thoả mãn những nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua doanh nghiệp đồng sở hữu và quản lý dân chủ” Luật HTX năm 2003 của Việt Nam đã phát triển định nghĩa về HTX của Luật HTX năm 1996 đó là “HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. 1.2. Hợp tác xã nông nghiệp: 1.2.1. Khái niệm: Tại điều 1, chương 1 của Điều lệ mẫu HTX Nông nghiệp của Việt Nam đã ghi rõ: Hợp tác xã Nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình của xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Như vậy, HTX nông nghiệp là HTX hoạt động trong nông nghiệp, được thành lập bởi những thể nhân và pháp nhân tự nguyện góp vốn và công sức nhằm giúp nhau thỏa mãn lợi ích chung trong lĩnh vực nông nghiệp. 1.2.2. Mô hình hoạt động của HTX nông nghiệp: Hiện nay, các HTX nông nghiệp hoạt động theo năm mô hình chủ yếu sau: - Mô hình dịch vụ hỗ trợ hay HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp. - Mô hình HTX vừa dịch vụ vừa kinh doanh tổng hợp hay HTX nông nghiệp đa chức năng. - Mô hình HTX chuyên ngành. - Mô hình HTX trang trại. - Liên hiệp HTX nông nghiệp là mô hình liên kết giữa các HTX nông nghiệp. 1.3. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp: 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại dịch vụ nông nghiệp: 1.3.1.1 Khái niệm dịch vụ nông nghiệp: Dịch vụ nông nghiệp được hiểu là những điều kiện, những yếu tố và động tác cần thiết cho một quá trình sản xuất, kinh doanh loại sản phẩm nào đó trong nông nghiệp (ví dụ: cung ứng giống cây trồng, con gia súc, làm đất, tưới tiêu, bảo vệ đồng điền và phòng trừ sâu bệnh,…), mà người sản xuất không có sẵn, không thể làm hoặc tạo ra được, hoặc nếu tự làm thì không có hiệu quả, cho nên họ phải tiếp nhận các điều kiện, các yếu tố đó từ bên ngoài bằng các hình thức khác nhau như: mua, bán, trao đổi, thuê và nhờ,… 1.3.1.2. Đặc điểm dịch vụ nông nghiệp: -Tính chất thời vụ
- -Dịch vụ nông nghiệp được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau và mang tính cạnh tranh cao -Dịch vụ nông nghiệp chỉ có hiệu quả cao khi được thực hiện đồng thời và trên phạm vi rộng lớn. -Nhiều loại dịch vụ nông nghiệp rất khó định lượng chính xác 1.3.1.3. Phân loại dịch vụ nông nghiệp: a, Phân theo quá trình sản xuất: - Dịch vụ trước sản xuất; - Dịch vụ trong sản xuất; - Dịch vụ sau sản xuất. b, Phân loại theo tính chất kinh tế - kỹ thuật: - Dịch vụ tài chính; - Dịch vụ thương mại; - Dịch vụ kỹ thuật; - Dịch vụ khuyến nông. 1.3.2. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp: 1.3.2.1 Khái niệm: Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTX DVNN) là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sực lập ra theo quy định của luật HTX để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp kinh doanh những hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng do đặc điểm nông nghiệp thường gắn liền với nông thôn. Vì vậy những hoạt động của HTX nông nghiệp không chỉ gói gọn trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác để phục vụ nhu cầu dân cư trên địa bàn. Đối tượng phục vụ của những hoạt động này cũng chính là xã viên HTX, dân cư trong khu vực. 1.3.2.2. Phân loại HTX DVNN: a) Phân loại theo tính chất thành viên: Bao gồm: - HTX cấp I: tham gia là các cá nhân, hộ nông dân,… - HTX cấp II: Tham gia là các HTX cấp I. - HTX cấp III: tham gia các HTX cấp I và HTX cấp II. b)Phân loại theo giới hạn trách nhiệm: Bao gồm HTX trách nhiệm hữu hạn và HTX trách nhiệm vô hạn. c) Phân theo hình thức pháp lý: - HTX có đăng ký là loại hình chịu sự điều chỉnh của Luật HTX. - Các hình thức kinh tế có tính chất HTX hoạt động theo luật dân sự hay các luật pháp khác. d) Phân loại theo mục tiêu: Bao gồm HTX đơn mục tiêu, HTX đa mục tiêu (như trường hợp của Nhật Bản). e)Phân theo chức năng kinh doanh: Bao gồm HTX dịch vụ và HTX sản xuất. 1.3.2.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX DVNN:
- - Nguyên tắc 1: Tự nguyện. - Nguyên tắc 2: Dân chủ, bình đẳng và công khai. - Nguyên tắc 3: Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi. - Nguyên tắc 4: Hợp tác và phát triển cộng đồng 1.3.2.4. Vai trò của HTX dịch vụ nông nghiệp đối với sự phát triển của nền kinh tế: a) Vai trò kinh tế: - Hỗ trợ kinh tế hộ nông dân và các thành viên khác phát triển. - Góp phần vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta. b) Vai trò xã hội: - Bảo đảm việc làm, thu nhập và lao động. - Tập hợp, đoàn kết và bình đẳng xã hội. 1.4. Kinh nghiệm hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp : 1.4.1. Kinh nghiệm trong nước: 1.4.1.1. Kinh nghiệm của HTX dịch vụ nông nghiệp Dân Chủ - Thành phố Hòa Bình: - Quy hoạch các vùng sản xuất từ cây lúa không ăn chắc thành vùng có giá trị kinh tế cao. - Tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất - Mở thêm dịch vụ cộng đồng kinh doanh nhà hàng ăn uống theo hình thức góp vốn của xã viên. Dịch vụ này đã thu được lợi nhuận đáng kể. - Tích cực đề nghị các chính sách ưu tiên và tìm nguồn vốn kinh 1.4.1.2. Kinh nghiệm của HTX dịch vụ nông nghiệp HTX DVNN Nghĩa Hồng - Nam Định: HTX chia hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ ra làm hai lĩnh vực hoạt động trọng tâm là: - Nhóm dịch vụ kỹ thuật, gồm: dịch vụ khuyến nông, thủy nông, bảo vệ thực vật và dịch vụ thú y. HTX tổ chức các tổ dịch vụ chuyên trách điều hành hoạt động đồng bộ, khoa học, hợp lý giữa các vùng, các mùa vụ, đáp ứng yêu cầu thâm canh cao. - Nhóm kinh doanh dịch vụ, gồm: dịch vụ vật tư, dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ làm đất, dịch vụ điện, dịch vụ tín dụng nội bộ.Đặc biệt quan tâm đến các dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển; Quan tâm đến việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh. 1.4.2. Kinh nghiệm quốc tế: 1.4.2.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản: Nhật Bản có nền công nghiệp và dịch vụ phát triển, nhưng họ vẫn chú trọng vào phát triển nông nghiệp. Các HTX DVNN ở Nhật Bản thường tập trung vào cung ứng một số dịch vụ chủ yếu sau: a) Dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp: Các HTX nông nghiệp Nhật Bản cung cấp các yếu tố đầu vào, nhu yếu phẩm cho xã viên với giá cả hợp lý và chất lượng cao. b) Dịch vụ tiếp thị và tiêu thụ nông sản: Khâu tiếp thị và phân phối hàng nông sản thông qua HTXNN Nhật Bản được thực hiện qua các khâu (1) phối hợp cùng vận chuyển, (2) phối hợp lựa chọn sản phẩm, (3) phối hợp tiêu thụ và (4) phối hợp điều chỉnh cung cầu để ổn định giá cả. c) Hoạt động chế biến nông sản:
- Các HTX nông nghiệp thực hiện chế biến theo ba loại: 1) chế biến và tiêu thụ nông sản; 2) kết hợp sử dụng tập thể các phương tiện chế biến và 3) mua hàng và chế biến. d Hoạt động tín dụng: Nguyên tắc hoạt động của HTX tín dụng nông nghiệp là hoạt động tương hỗ. HTXNN huy động vốn từ xã viên có tiền nhàn rổi rỗi cho xã viên có nhu cầu vay để sản xuất. e) Dịch vụ hướng dẫn nhà nông, hỗ trợ đào tạo (Chuyển giao các tiến bộ KHKT trong HTX cho hộ xã viên nông dân) : Đội ngũ cố vấn nhà nông, là người hướng dẫn trực tiếp người dân áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như giống mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, quy trình chăm bón, giảm chí phí sản xuất bằng việc khuyến khích người dân tham gia sử dụng các cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật sản xuất nông nghiệp mới, vật tư đầu vào và thị trường đầu ra. 1.4.2.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc: a) Dịch vụ cung ứng vật tư và hàng tiêu dùng cho nông dân: Để đảm bảo cho nông dân có đủ vật tư thiết yếu đúng thời gian, giá rẻ, chất lượng đảm bảo, Liên đoàn HTX Hàn Quốc (NACF) chịu trách nhiệm cung cấp phân, thuốc, máy công cụ, hạt giống, thức ăn gia súc và các vật tư nông nghiệp khác cho sản xuất nông nghiệp. NACF tiến hành nhập khẩu và phân phối vật tư thiết bị nông nghiệp chủ yếu cho nông dân thông qua 236 HTX thành viên chuyên trách vận chuyển và phân phối. b) Dịch vụ tiếp thị, tiêu thụ nông sản: Với mục tiêu là cầu nối giữa xã viên, nông trại với người tiêu dùng NACF đã thiết lập các trung tâm buôn bán, phân phối nông sản để nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản và bảo vệ thị trường. Các kênh tiếp thị được tổ chức tại các trung tâm tiêu dùng quan trọng với các tổ hợp thương mại, kho tàng hiện đại, cửa hàng bán buôn, bán lẻ và chợ nông dân. c) Dịch vụ chế biến nông sản của HTX: Để tăng giá trị nông sản, tạo thu nhập và việc làm cho dân cư nông thôn và tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản, NACF hiện điều hành 153 nhà máy chế biến nông sản hiện đại qui mô lớn trên toàn quốc. Trong đó có 14 nhà máy chế biến rau, 13 nhà máy làm dưa kim chi, 12 nhà máy chế biến gạo, 12 nhà máy chế biến nước uống, 11 nhà máy chế biến đậu tương, 10 nhà máy chế biến chè, 9 nhà máy làm thuốc đông y và 8 nhà máy chế biến ớt. Ngoài ra NACF còn vận hành 400 tổ hợp chế biến lúa gạo hiện đại ở các vùng chuyên canh lúa. Tại mỗi tổ hợp có kho chứa, máy sấy, máy xay sát, hệ thống vận chuyển hiện đại và quản lý hiệu quả để hạ tối thiểu chi phí chế biến gạo. d) Dịch vụ tín dụng ngân hàng: NACF điều hành cả hệ thống ngân hàng nông nghiệp và các quỹ tín dụng ở HTX. Để giúp nông dân có thể vay tiền từ ngân hàng, NACF mở dịch vụ bảo hiểm tín dụng. e) Chính sách của chính phủ Hàn Quốc đối với HTX nông nghiệp: Liên đoàn HTX nông nghiệp sẽ được miễn tất cả các loại thuế do chính quyền địa phương đưa ra. Chính phủ có chính sách cho vay ưu đãi đối với các nhóm nông dân, các khoản hỗ trợ này thông qua hệ thống Ngân hàng nông nghiệp (ví dụ Chính phủ cho nông dân vay với lãi suất từ 2-3% trong khi các tổ chức khác vay với lãi suất là 10%) và chính sách bảo
- hiểm xã hội nông nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ hỗ trợ người dân mua máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là 50% theo giá thị trường và khi người nông dân mua xăng, dầu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp được miễn thuế. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn Chính phủ hỗ trợ từ 30 – 40% tổng kinh phí đầu tư, sau đó bàn giao cho các HTX quản lý. Hay khi HTX mua đất thì Chính phủ ưu đãi thuế là 100%. Về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ HTX, Chính phủ hỗ trợ theo từng mức thông qua các chương trình của khóa học, như các khóa học về quy trình chuyên môn hóa về nông nghiệp thì mức hỗ trợ là 90% tổng kinh phí bồi dưỡng, đào tạo với thời gian bồi dưỡng chuyên môn tối thiểu là 3 tuần và tối đa là 6 tháng, . . . Về thuế VAT, các HTX, doanh nghiệp khi mua nông sản được Chính phủ ưu đãi không phải nộp thuế VAT. Về thuế thu nhập doanh nghiệp, thì các HTX phải nộp 11%, các doanh nghiệp phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%. 1.4.2.3. Kinh nghiệm của Thái Lan: a) Cho vay: Với sự hỗ trợ của chính phủ, ngân hàng nông nghiệp, HTX nông nghiệp và các tổ chức tín dụng khác, các xã viên đã có thể tiếp cận với các khoản vay dể dàng hơn với lãi suất thấp và thời hạn phù hợp. Các khoản vay được phân loại dưới dạng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Với các khoản vay này giúp các xã viên có thể mua được hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc, mua mới hoặc cải tạo đất đai… b) Tích lũy và tiết kiệm: Đây là một trong những hoạt động của HTX bởi vì theo họ tích lũy tiết kiệm có thể giúp cải thiện đời sống của xã viên. Các khoản tiền gởi có thể được sử dụng vào mục đích kinh doanh của HTX giúp đem lại lợi nhuận cho cả HTX lẫn xã viên. Hiện nay, các xã viên có thể gởi các khoản tiết kiệm ở tại HTX của họ. c) Kinh doanh nông sản và sản phẩm tiêu dùng: Cùng với hoạt động tín dụng, HTX cũng thu mua các sản phẩm chất lượng tốt để bán cho các xã viên và bên ngoài. Người mua được đảm bảo về giá cả cạnh tranh và số lượng đầy đủ khi họ đặt hàng với số lượng lớn thông qua HTX. d) Marketing: Thông qua hoạt động kinh doanh, các xã viên không chỉ được mua với giá tốt mà còn yên tâm về cân đo đong đếm, số lượng, trọng lượng sản phẩm. Với sự hỗ trợ của chính phủ, HTX đã thiết lập các trung tâm phân phối sản phẩm không chỉ trong nước lẫn nước ngoài. Một trong những sản phẩm đạt được thành công và được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài là chuối Hom Thong không hóa chất. e) Các dịch vụ mở rộng và phát triển nông nghiệp: HTX cung cấp cho xã viên các dịch vụ mở rộng và phát triển nông nghiệp với chi phí hợp lí như cải tạo đất đai, tưới tiêu… dựa trên nguyên tắc chia sẻ chi phí. 1.4.3. Những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho việc tăng cường hoạt động HTX DVNN ở Hà Nội: Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp thế giới tác giả rút ra hai bài học nổi bật sau: Thứ nhất, nhận thức được vai trò của HTX DVNN: HTX DVNN ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, hay Thái Lan đã chiếm lĩnh được thị phần chi phối trong cung cấp
- dịch vụ đầu vào, chế biến, đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp với hệ thống phân phối rộng lớn khắp khu vực nông thôn. Bên cạnh đó thì dịch vụ chuyển giao khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp cũng đã được HTX nông nghiệp đảm nhận và thực hiện tốt, đáp ứng được nhu cầu của người nông dân. Ngoài những dịch vụ chính, thì các dịch vụ khác như cung ứng tiêu dùng, tín dụng tiết kiệm, tín dụng cho vay cũng được HTX nông nghiệp làm tốt. Thực tế thế giới đã, đang và sẽ còn cho thấy trong số các mô hình HTX nông nghiệp thì hình thức tốt nhất là HTX dịch vụ nông nghiệp. Vì nó có thể mang đến nhiều lợi ích cho nông dân như: (1) Cung cấp hàng hoá, vật tư đầu vào sản xuất cho nông dân với giá phải chăng, tiện lợi và đảm bảo chất lượng. (2) Giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, có kế hoạch với chi phí giảm, giá cả hợp lý, ổn định, tiêu chuẩn hoá sản phẩm ở mức cao. (3) Tạo thế cạnh tranh tốt cho nông dân (tăng khả năng đàm phán) khi mua và bán sản phẩm hàng hoá. (4) Liên kết nông dân sử dụng hết công suất máy móc, chi phí sản xuất thấp. (5) Đào tạo năng lực tự quản lý, năng lực áp dụng kỹ thuật tiên tiến cho nông dân. Thứ hai, về mặt tổ chức trong HTX: Hiện nay các HTX nông nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, hay Thái Lan đều có hệ thống tổ chức cung cấp dịch vụ chuyên ngành từ trên xuống, hay hệ thống chế biến, tiêu thụ nông sản (thành lập các liên đoàn quốc gia, tỉnh rồi đến HTX nông nghiệp đa chức năng). Đặc biệt cần củng cố, sắp xếp, hợp nhất những HTX nông nghiệp qui mô nhỏ, thiếu cơ sở vật chất, yếu đội ngũ quản lý thành những HTX qui mô lớn hơn. Bên cạnh đó cần quan tâm đào tạo đội ngũ xã viên có kiến thức và kinh nghiệm, tập trung vào các chức danh chủ nhiệm, phó chủ nhiệm và trưởng ban kiểm soát HTX cũng như đào tạo các chuyên gia (nhân viên) chuyên nghiệp làm việc cho HTX. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2008 – 2011 2.1. Tổng quan về Hà Nội: 2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên: 2.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình: Với vị trí địa lý đắc địa, Hà Nội có đầy đủ các điều kiện cho phát triển công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại. Nông sản được vận chuyển, tiêu thụ trên các địa bàn trong và ngoài thành phố một cách dễ dàng; việc trao đổi, tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp cũng rất thuận lợi. 2.1.1.2. Đất đai: Hà Nội nằm trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng nên đất đai mầu mỡ, trù phú, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, đất nông nghiệp hiện bị thu hẹp rất nhanh, nhiều cánh đồng mầu mỡ đang biến mất dần, nhường chỗ cho các xa lộ lớn, các khu công nghiệp, sân gôn và đô thị mới. Làm sao để giảm diện tích đất nông nghiệp nhưng vẫn bảo đảm được an ninh lương thực, đang là một bài toán khó cho các cấp lãnh đạo của Hà Nội. 2.1.1.3. Khí hậu: Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng đông Bắc Bộ với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng, ẩm, mưa nhiều về mùa hè và lạnh, khô, ít mưa về mùa đông. Đặc điểm này khá thuận lợi cho phát triển các các ngành kinh tế, nhất là rất thích hợp cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp.
- 2.1.1.4. Tài nguyên nước: Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng nên có rất nhiều hệ thống sông chảy qua như: sông Hồng, sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ,... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu,... Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Như vậy, tiềm năng nước của Hà Nội trên lý thuyết rất phong phú nhưng tài nguyên thực tế để khai thác lại không nhiều, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nông nghiệp ở Hà Nội. 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội: 2.1.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội: Cùng với sự đi lên của nền kinh tế quốc gia, kinh tế Hà Nội trong những năm qua tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao. Năm 2011, mức tăng trưởng kinh tế của thành phố Hà Nội đạt 10,1%, mức tăng này tuy thấp hơn năm 2010 (11%) và kế hoạch năm (12%), nhưng cao hơn 1,67 lần của cả nước. Bảng 2.1: Tăng trƣởng kinh tế (GDP) Hà Nội giai đoạn 2008-2011 2008 2009 2010 2011 Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Chỉ tiêu Giá trị Giá trị Giá trị Giá trị tăng tăng tăng tăng (Tỷ (Tỷ (Tỷ (Tỷ trưởng trưởng trưởng trưởng đồng) đồng) đồng) đồng) (%) (%) (%) (%) * Tổng 62177 - 66288 6.61 73547 11 80952 10.1 GDP 1. N-L-TS 4557 - 4561 0.1 4890 7.2 5105 4.4 2. CN-XD 26265 - 28051 6.8 31277 11.5 34467 10.2 3. Dịch vụ 31356 - 33676 7.4 37380 11 41380 10.7 * Cơ cấu 100 - 100 100 100 GDP(%) 1. N-L-TS 7.3 - 6.9 6.6 6.3 2. CN-XD 42.2 - 42.3 42.5 42.6 3. Dịch vụ 50.4 - 50.8 50.8 51.1 (Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2010 và theo sự tính toán của tác giả) Năm 2011, trong 3 ngành kinh tế của Thành phố thì ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng lớn nhất, đạt 10,7%; tiếp đến là ngành công nghiệp - xây dựng tăng 10,2% và ngành nông - lâm - thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng chậm nhất, đạt 4,4%. Cơ cấu kinh tế Thành phố Hà Nội tương đối ốn định: ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng 7,3% vào năm 2009, năm 2011 giảm xuống còn 6,3%. Trong khi ngành công nghiệp – xây dựng giữ ổn định ở mức 42,2% năm 2008 và 42,6% năm 2011. Ngành dịch vụ luôn chiếm tỷ trọng trên 50% trong cơ cấu kinh tế thủ đô và nhìn chung ít thay đổi trong những năm qua
- Sự tăng trưởng của các ngành kinh tế được minh họa rõ hơn trong biểu đồ dưới đây. 45000 40000 35000 30000 25000 Năm Nông lâm- thủy sản 20000 Công nghiệp-xây dựng 15000 Dịch vụ 10000 5000 0 2008 2009 2010 2011 Tỷ đồng Biểu đồ 2.1: Tăng trƣởng các ngành kinh tế giai đoạn 2008-2011 (Nguồn: Bảng 2.1) 2.1.2.2. Hạ tầng giao thông: Là Thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. 2.1.2.3. Hạ tầng giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ: Hà Nội là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất cả nước. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có: 77 trường đại học và cao đẳng; 47 trường trung học chuyên nghiệp và 252 trường công nhân kỹ thuật và cơ sở đào tạo nghề. Hà Nội cũng là trung tâm nghiên cứu của cả nước với khoảng trên 100 viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học công nghệ khác nhau, trực thuộc các bộ ngành Trung ương và địa phương. Đánh giá chung, các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thủ đô - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá và khoa học công nghệ của cả nước - cho thấy Thủ đô Hà Nội có những lợi thế mà không một địa phương nào trong nước có được. Điều này tạo thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh của tất cả các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có loại hình kinh tế HTX. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn đã và đang lấn át khu vực kinh tế tập thể. Có thể nói, so với các HTX ở các tỉnh và thành phố khác trong cả nước, các HTX ở Hà Nội đã và đang phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn với các thành phần kinh tế khác trong địa bàn. 2.2. Các chủ trƣơng, chính sách tăng cƣờng hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội: 2.2.1. Các chủ trương, chính sách của Nhà nước: Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở những chủ trương, đường lối lớn của Đảng, đã khẳng định: kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi.
- Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, ngày 20/3/1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá 9, Luật HTX được thông qua, mở ra một trang sử mới cho công tác tổ chức, quản lý và phát triển kinh tế tập thể nói chung, HTX nói riêng. Theo đó Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản dưới luật như: (1) Nghị định 15/CP ngày 21/1/1997 quy định chính sách khuyến khích phát triển HTX; (2) Nghị định 16CP ngày 21/2/1997 về xử lý công nợ của HTX cũ chuyển đổi sang hoạt động theo luật; và (3) Thông tư số 14 BKH ngày 29/3/1997 của Bộ kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn việc chuyển đổi và đăng ký gia đình HTX. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Luật HTX sửa đổi đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 4 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2004. Luật đã có nhiều thay đổi tích cực so với Luật của năm 1996, tạo ra nhiều thuận lợi và thông thoáng hơn cho các HTX phát triển. Theo đó, Luật đã tạo khung pháp lý phù hợp hơn cho các HTX tiếp tục phát triển trong điều kiện mới. Bên cạnh đó, Thủ tướng và Chính phủ còn ban hành một số nghị định, quyết định nhằm hỗ trợ phát triển cho các HTX như: Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã. Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Hay, Quyết định số 1252/QĐ-TTg ngày 18/9/2007 về việc hỗ trợ từ ngân sách trung cho ngân sách địa phương để thực hiện xóa nợ đọng của các hợp tác xã. 2.2.2. Các chủ trương, chính sách của thành phố Hà Nội: Để phát triển mô hình kinh tế HTX, Thành phố Hà Nội ban hành nhiều đề án, chương trình, chỉ thị như Đề án 17/ĐA-TU của Thành uỷ về phát triển kinh tế tập thể ở Hà Nội theo tinh thần Nghị quyết 13-NQ/TW Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá IX), chỉ thị 31/CT-TU ngày 09/05/2008 của Thành ủy Hà Nội về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện nghị quyết hội nghị trung ương 5 (khóa 9), kế hoạch số 31/KH-UBND ngày 04/12/2008 của UBND Thành phố về việc triển khai chỉ thị số 31 của Thành ủy và theo Luật HTX năm 2003. Ngoài ra, Liên minh HTX Thành phố Hà Nội cũng đã triển khai những giải pháp cụ thể phát triển kinh tế tập thể, góp phần phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Điển hình là ngày 6/10/2011, Liên minh HTX TP Hà Nội đã phát động thi đua xây dựng nông thôn mới (NTM) trong khu vực kinh tế hợp tác, HTX và hệ thống liên minh HTX của Hà Nội. 2.3. Tổng quan về tình hình hoạt động HTX nông nghiệp ở Hà Nội: 2.3.1. Từ 1997 đến 2008 (số liệu của Hà Nội trước mở rộng) : Tính đến năm 2002, Hà Nội đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi HTX, đã có 272 HTX được chuyển đổi. Đến hết năm 2007, Hà Nội có 318 HTX nông nghiệp, trong đó 255 HTX chuyển đổi từ các HTX cũ (một số HTX sau khi chuyển đổi hoạt động không hiệu quả đã giải thể), 63 HTX mới thành lập. Bảng 2.2: Tình hình hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2002-2007 Số hợp tác xã Năm 2002 Năm 2007 Chuyển đổi 272 255 Thành lập mới 13 63 Chưa chuyển đổi 6 Giải thể 9 37
- Tổng số 291 318 (Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội) Cũng trong năm 2007, các HTX có 153.098 xã viên, trong đó số xã viên từ các HTX cũ chuyển sang là 142.243, xã viên mới 10.855 (bao gồm các HTX mới thành lập và xã viên tham gia thêm vào các HTX chuyển đổi). Tính đến giai đoạn này, các HTX hầu như không có đất, chỉ có một số HTX có đất chuyên dùng như trụ sở, trạm bơm, kho, bãi…; mới có 21 HTX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cùng với đất đai, vốn được coi là điều kiện quan trọng trước tiên cho các hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh của các HTX. Tuy nhiên, vốn của các HTX hiện nay không nhiều, hoặc tồn tại trên sổ sách (nợ khó đòi trong dân). Bảng 2.3: Vốn của các HTX năm 2006 Đơn vị: nghìn đồng Huyện Vốn cố định Vốn lƣu động Tổng vốn Sóc Sơn 11.487.400 1.854.850 13.442.250 Đông Anh 12.006.081 6.603.103 18.609.184 Gia Lâm 15.273.880 13.667.106 28.940.986 Thanh Trì 8.472.316 13.990.647 22.462.963 Từ Liêm 37.550.105 32.940.585 70.490.690 Tây Hồ 1.756.468 4.302.488 6.058.956 Đống Đa 0 1.982.274 1.982.274 Hoàng Mai 15.450.184 10.503.030 25.953.214 Hai Bà Trưng 125.000 0 125.000 Long Biên 6.392.399 6.004.087 12.396.486 Thanh Xuân 4.510.475 7.699.230 12.209.705 Cầu Giấy 14.124.000 6.654.000 20.778.000 Tổng 127.148.308 106.201.400 233.349.708 (Nguồn: Chi cục Hợp tác xã và phát triển nông thôn Hà Nội (2007)) Vốn cố định của các HTX hiện nay chủ yếu do các HTX cũ chuyển đổi bàn giao cho bao gồm: hệ thống kênh mương, một số nhà kho, sân phơi, trạm bơm cũ nát. Nói chung, tình hình tài chính của các HTX hiện nay chỉ có các HTX mới được thành lập trên cơ sở nhu cầu thực tế cần hợp tác và một số ít các HTX mạnh dạn mở rộng dịch vụ, kinh doanh các dịch vụ nông nghiệp mới có tài chính lành mạnh; còn lại vốn, quỹ của đa số các HTX chỉ tồn tại trên sổ sách. Năm 2006, tổng thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX đạt 323.057,591 triệu đồng, trung bình các HTX thu được 1.015,9 triệu đồng, trong đó dịch vụ điện có doanh thu lớn nhất (47,27%), dịch vụ nông nghiệp chiếm 20,41% tổng thu của các HTX. Mặc dù có tổng thu tương đối lớn nhưng trung bình năm 2006, mỗi HTX cũng chỉ lãi 78.517.000 đồng (có 258 HTX làm ăn có lãi, còn lại là hòa vốn và thua lỗ (bảng 2.4).
- Bảng 2.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX năm 2006 Đơn vị: Nghìn đồng Tổng thu Tổng chi Lãi Dịch vụ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Giá trị Giá trị Giá trị (%) (%) (%) Dịch vụ nông nghiệp 65.942.456 20,41 60.094.100 20.16 5.848.356 23,42 Dịch vụ điện 152.717.852 47,27 143.548.849 48,16 9.169.003 36,72 Dịch vụ dân sinh 12.283.345 3,8 10.536.624 3,53 1.746.721 7 Dịch vụ khác 92.113.938 28,51 83.909.588 28,15 8.204.350 32,86 Tổng 323.057.591 100 298.089.161 100 24.968.430 100 (Nguồn: Chi cục Hợp tác xã và phát triển nông thôn Hà Nội (2007)) 2.3.2. Từ 2008 đến nay (số liệu của Hà Nội sau mở rộng): Tính đến cuối năm 2010, toàn thành phố có 1.617 HTX, trong đó có 963 HTX nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp (chiếm gần 60%), 255 HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (chiếm 15,8%), 144 HTX dịch vụ - thương mại (chiếm 8,9%), 71 HTX vận tải (chiếm 4,4%), 20 HTX xây dựng (chiếm 1,2%), 98 Quỹ tín dụng nhân dân (chiếm 6%) và 66 HTX lĩnh vực khác (chiếm 3,7%). Năm 2009, doanh thu các HTX toàn Thành phố đạt 5.419,57 tỷ đồng, lợi nhuận là 341,2 tỷ đồng, bình quân mỗi HTX thu 257,7 triệu đồng lợi nhuận. Bảng 2.5: Vốn, doanh thu và lơ ̣i nhuâ ̣n bình quân 1 HTX Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2009 Tăng /giảm 1. Tổ ng vố n điề u lê ̣ - 258.217,2 - - Vố n điề u lê ̣ bình quân 1 HTX - 950,3 - 2. Tổ ng vố n kinh doanh của các HTX 2.737.480,9 5.234.615,1 2.497.134,3 - Vốn bình quân 1 HTX 2.067,60 3.953,60 1.886 3. Tổ ng vố n cố đinh của các HTX ̣ 1.137.242,7 1.757.523,1 620.280,4 - Vố n cố đinh binh quân 1 HTX ̣ ̀ 858,9 1327,4 468,5 4. Tổ ng vố n lưu đô ̣ng của các HTX 1.600.238,2 3.477.092,0 1.876.853,9 - Vố n lưu đô ̣ng binh quân 1 HTX ̀ 1.208,7 2.626,2 1.414,5 5. Tổ ng doanh thu của các HTX 3.507.276,00 5.419.529,20 1.912.253,2 - Doanh thu bình quân / HTX 2.649,0 4.093,3 1.398,1 6. Tổ ng lơ ̣i nhuâ ̣n của các HTX 204.007,35 341.165,91 137.158,6 - Lợi nhuận trước thuế bình quân/HTX 154,1 257,7 103,6 7. Tổ ng nô ̣p Ngân sách NN của các HTX 91.160,2 207.710 116.550,3 - Nộp NSNN bình quân / HTX 68,9 157 88,0 (Nguồ n: Kế t quả điề u tra HTX năm 2009 của Liên minh HTX Hà Nội) Như vậy, sau 4 năm hoạt động, vốn kinh doanh bình quân 1 HTX đã tăng gần 1,9 tỷ đồng, trong đó đặc biệt là các HTX phi nông nghiệp, tăng trên 5,1 tỷ đồng. Doanh thu bình quân 1 HTX cũng tăng đáng kể, tăng gần 1.398,1 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế bình quân
- 1 HTX cũng tăng đáng kể sau 4 năm, tuy nhiên mức lợi nhuận bình quân 1 HTX vẫn thấp, chỉ đạt 257,7 triệu đồng năm 2009. So với vố n điề u lê ̣ binh quân 1 HTX trong toàn quố c (882,61 triê ̣u) thì vốn điều lệ của ̀ 1 HTX Hà Nô ̣i (950,32 triê ̣u) cao hơn 67,71 triê ̣u. Còn so với vốn kinh doanh bình quân 1 HTX trong toàn quố c (2.375,09 triê ̣u) thì vốn vốn kinh doanh bình quân 1 HTX Hà Nô ̣i (3.953,6 triê ̣u) cao hơn 1.578,51 triê ̣u. Doanh thu binh quân HTX của Hà Nô ̣i la4,093 tỷ đồng, ̀ 1 ̀ cao gấ p đôi doanh thu binh quân HTX trong cả nước(gầ n 2 tỷ đồng). Lơ ̣i nhuâ ̣n trước thuế binh ̀ 1 ̀ quân 1 HTX Hà Nô ̣i la257,7 triê ̣u đồ ng ̀ . 2.4. Thực trạng hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội từ 2008-2011: 2.4.1. Thực trạng hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp: 2.4.1.1. Một số đánh giá chung về tình hình hoạt động của HTX DVNN ở Hà Nội hiện nay: - Các HTX DVNN hoạt động theo Luật (kể cả HTX chuyển đổi và HTX thành lập mới) những năm qua nhìn chung đều xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh rõ ràng hơn. Nội dung hoạt động của các HTX khá đa dạng, phong phú và đáp ứng được phần lớn nhu cầu của hộ nông dân trong một số khâu dịch vụ đầu vào của sản xuất như dịch vụ thủy nông, bảo vệ đồng ruộng, bảo vệ thực vật, thú y, khuyến nông,cung ứng giống, vật tư nông nghiệp và đặc biệt là các làng nghề truyền thống. - Hoạt động dịch vụ của các HTX DVNN phần lớn được tổ chức theo cách hình thành các đội, tổ dịch vụ chuyên trách cho từng khâu dịch vụ. - Các dịch vụ của HTX được đa số hộ sử dụng đánh giá tốt cả về chất lượng và giá cả. Bộ máy quản lý của HTX DVNN đã được tổ chức gọn nhẹ hơn so với trước chuyển đổi. 2.4.1.2. Về mô hình tổ chức của HTX: Mô hình tổ chức của HTX đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, trình độ cán bộ với các loại hình sau: a) Phân loại theo tính chất xã viên: - Mô hình mỗi hộ nông dân cử 1 người là xã viên HTX: Mô hình này phù hợp với nhu cầu và tâm lý hiện nay của hộ nông dân vẫn có nhu cầu gắn bó với HTX nông nghiệp do yếu tố lịch sử. Song việc phát huy động lực dân chủ trực tiếp bị hạn chế, nhất là ở các hợp tác xã quy mô toàn xã. - Mô hình một số xã viên thành lập HTX: Trong số các HTX thành lập mới thì mô hình HTX được tổ chức gọn nhẹ, năng động phát huy dân chủ trực tiếp, những người tham gia HTX đều thực sự có nhu cầu hợp tác và có góp vốn góp sức cho HTX, đã huy động vốn góp theo đúng điều lệ (thường từ vài trăm nghìn đến vài triệu động một xã viên). Tuy nhiên mô hình này chủ yếu là các hợp tác xã chuyên ngành làm ăn có hiệu quả, một số HTX đã tổ chức được nhiều khâu dịch vụ phục vụ xã viên và cộng đồng dân cư, mô hình này cần được tiếp tục tạo điều kiện để tiếp tục phát triển nhưng việc tổ chức quản lý dịch vụ với xã viên ngoài hợp tác xã cần có hợp đồng chặt chẽ. - Mô hình hợp tác xã toàn dân (bao gồm toàn bộ nông dân từ 18 tuổi trở lên ở các hộ là xã viên HTX): Tuy có đáp ứng yêu cầu về mặt tâm lý nhưng mô hình này tổ chức cồng kềnh, hình thức như mô hình HTX trước đây, gắn bó xã viên với hợp tác xã rất hạn chế, không phát huy được vai trò của kinh tế hợp tác, cần được điều chỉnh cho phù hợp. b) Phân loại theo tư cách pháp nhân:
- - HTX có tư cách pháp nhân như một doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế, mặc dù nội dung tổ chức hoạt động có tính đặc thù riêng. HTX đăng ký kinh doanh trong đó nội dung các ngành nghề rất quan trọng. - Bộ máy tổ chức của HTX được tổ chức theo quy định của Luật HTX và điều lệ HTX nông nghiệp. Đại hội xã viên (đại hội đại biểu xã viên) bầu ra Chủ nhiệm, thành viên Ban quản trị, Ban kiểm soát. Ban quản trị cử Kế toán trưởng và bầu Phó chủ nhiệm. Bộ máy của HTX gọn nhẹ 3 - 5 người. Những HTX quy mô lớn, địa bàn rộng có các đội trưởng đội xã viên ở các khu vực dân cư. 2.4.1.3. Về tài sản, vốn quỹ của HTX: - Vốn quỹ của HTX DVNN chủ yếu hình thành từ HTX cũ chuyển sang và tích lũy qua hoạt động của các HTX DVNN; Các HTX chuyển đổi xã viên không góp vốn điều lệ mà quy từ vốn tích lũy thành vốn điều lệ; HTX DVNN mới thành lập xã viên có góp vốn điều lệ nhưng việc góp vốn không được tính toán cụ thể để xác định vốn tối thiểu mà từng HTX, mỗi xã viên góp từ 1- 20 triệu đồng, quy mô HTX từ 10- 50 xã viên, những HTX này không có vốn tích lũy nên vốn hoạt động ít, kinh doanh dịch vụ rất khó khăn. - Quan hệ phân phối trong HTX DVNN: Các HTX thu phí dịch vụ theo khối lượng và đơn giá sản phẩm dịch vụ. Sau khi trừ đi phí đầu vào, chi phí quá trình tổ chức dịch vụ, trong đó trả công cho cán bộ, những người trực tiếp lao động trong các tổ đội chuyên, số còn lại là lãi được phân bổ cho các quỹ, vốn góp của xã viên. 2.4.1.4. Về hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ: - Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng HTX DVNN vẫn có vị trí, vai trò hết sức quan trọng giúp kinh tế hộ xã viên phát triển. - Nội dung hoạt động của các HTX DVNN tập trung chủ yếu vào các dịch vụ phục vụ hộ xã viên, các dịch vụ có tính cộng đồng cao, nếu để từng hộ làm thì không làm được, hoặc làm hiệu quả không cao như: + Hướng dẫn, điều hành sản xuất, khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân + Thuỷ nông: Doanh thu bình quân năm 2008 là 750 triệu đồng/HTX. Số HTX có lãi chiếm 76%, hoà vốn: 15%, số HTX lỗ là 9%. Bình quân 1 HTX lãi 60,2 triệu đồng. Tuy nhiên, do việc nợ đọng sản phẩm, nhiều HTX tuy hoạch toán có lãi nhưng bị xã viên chiếm dụng vốn nên không có vốn hoạt động. Những HTX quy mô nhỏ, doanh thu thấp, lãi thấp rất khó khăn trong thực hiện các chính sách với cán bộ và xã viên HTX. Nhiều dịch vụ nông dân rất cần vai trò HTX như: Chế biến, tiêu thụ sản phẩm, việc làm, dịch vụ cho ngành chăn nuôi, môi trường …..các HTX chưa làm được. Các HTX mới thành lập thường hoạt động chuyên một lĩnh vực như HTX chăn nuôi, HTX rau an toàn, HTX cây ăn quả, HTX thủy sản có 2 dạng: Dạng HTX của các trang trại liên kết lại chủ yếu làm dịch vụ thú y, thức ăn, tiêu thụ sản phẩm, HTX này có ít và hoạt động có hiệu quả; Dạng HTX của một số hộ trồng rau, trồng cây ăn quả, tuy thành lập HTX nhưng mới hoạt động đơn giản chủ yếu trao đổi kỹ thuật và hợp tác một số dịch vụ đầu vào. 2.4.1.5. Về đội ngũ cán bộ quản lý HTX DVNN: Cán bộ HTX DVNN trên địa bàn Hà Nội xuất thân từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Có người là xã viên lâu năm, có người là cán bộ mất sức, về hưu hoặc dời bỏ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước vì những lý do khác nhau, có người là cán bộ chính trị, kỹ thuật, công nhâ, bộ đội, công an, xuất ngũ phục viên,... Một số có học vị kỹ sư, cử nhân, trung cấp, nhiều
- người có truyền thống gia đình, có tài tổ chức quản lý, có mối quan hệ rộng rãi với các cơ quan, đơn vị kinh tế Nhà nước,... Qua công tác thực tế tại cơ quan, tác giả đã tiến hành một số bài phỏng vấn, điều tra đối với các HTX DVNN đã được tiếp cận. Theo số liệu phỏng vấn hơn 200 chủ nhiệm HTX DVNN trên địa bàn Hà Nội cho biết về đội ngũ chủ nhiệm hiện nay. Trong tổng số cán bộ chủ chốt của các HTX DVNN được phỏng vấn ở trên thì có tới 60% các đồng chí chưa có kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường, trên 40% chưa có kiến thức về tài chính - kế toán trong kinh doanh, 70% chưa biết lập dự án kinh doanh và đầu tư, 50% thiếu thông tin về môi trường kinh doanh và các điều kiện cần thiết để mở rộng thị trường. 2.4.2. Những kết quả đạt được: Các HTX DVNN đã có sự chuyển biến tích cực, bước đầu làm rõ xã viên, vốn góp, công nợ, rõ nhiệm vụ của các bộ phận trong HTX. Những dịch vụ thiết yếu có tính cộng đồng cao, liên quan chặt chẽ tới sản xuất của hộ xã viên, nhiều HTX đã làm tốt như: Thuỷ lợi, khuyến nông, giống, chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn sản xuất, thời vụ, khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt, hạn hán, chống rét cho mạ,… nhiều HTX đã mở rộng nhiều lĩnh vực phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã viên và nhân dân trong vùng như nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, tín dụng nội bộ, quản lý các công trình được Nhà nước giao, dịch vụ vui chơi giải chí, ăn uống,… Vì vậy HTX đã góp phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu phát triển nông nghiệp của Thành phố. 2.4.3. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 2.4.3.1. Hạn chế, tồn tại: a, Tính hình thức trong chuyển đổi HTX theo Luật hợp tác xã chưa được khắc phục căn bản: b, Nhiều HTX DVNN có quy mô nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, khả năng cạnh tranh thấp, chậm đổi mới, năng lực nội tại của các HTX còn yếu: Các hoạt động dịch vụ của HTX còn nhỏ lẻ, đơn điệu. Việc cung ứng vật tư nông nghiệp của các HTX khó cạnh tranh với tư nhân do nguồn vốn hạn hẹp. Song song với một số ít HTX làm ăn hiệu quả và có lãi thì vẫn còn không ít HTX làm ăn kém hiệu quả, lợi ích mang lại cho xã viên không nhiều lại chưa thiết thực còn nhiều HTX vẫn chưa thể hiện được sự năng động đổi mới trong sản xuất kinh doanh để thích ứng với cơ chế thị trường. c, Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế về trình độ, năng lực, không ổn định làm việc lâu dài trong HTX: Một trong những khó khăn lớn nhất của các HTX hiện nay là chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý HTX. Đa số chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, cán bộ chủ chốt HTX không ổn định, thay đổi thường xuyên, nhiều cán bộ không nhiệt tình. Số cán bộ có năng lực muốn chuyển sang làm công việc khác ổn định hơn, như chuyển sang làm cán bộ UBND xã,... Số các HTX DVNN hoạt động yếu kém (trừ yếu tố rủi ro) thường do chủ nhiệm vấp phải sự lúng túng, khó khăn trong điều hành giải quyết công việc, thiếu thông tin để đánh giá thị trường và lập kế hoạch kinh doanh, có chủ nhiệm thiếu hiểu biết về các chính sách pháp luật, chưa làm quen với tin học và máy tính trong quản lý,... 2.4.3.2. Nguyên nhân: Tình trạng nhiều HTX hoạt động chưa hiệu quả, thậm chí là phải tiến hành các thủ tục giải thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan như:
- - Thứ nhất, sau khi có Luật HTX năm 1996 (sau đó được thay thế bằng Luật HTX năm 2003), các HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn thành phố đã chuyển đổi mô hình hoạt động từ cơ chế bao cấp, tập trung sang kinh doanh dịch vụ theo cơ chế thị trường. Do việc chuyển đổi chưa đúng luật nên ảnh hưởng xấu tới hoạt động của HTX. - Thứ hai, công tác quản lý Nhà nước đối với HTX còn nhiều hạn chế. Ở nhiều địa phương, chính quyền buông lỏng, chưa quan tâm đến HTX. Hàng năm, công tác quản lý Nhà nước về HTX chỉ dừng lại ở một số hoạt động như: tập huấn cho cán bộ HTX, điều tra đánh giá hiện trạng HTX, thực hiện một số báo cáo về HTX. - Thứ ba, quá trình đô thị hoá nhanh ở các quận và ở các huyện như: Từ Liêm. Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Hà Đông, Hoài Đức… dẫn đến các HTX DVNN bị thu hẹp diện tích đất canh tác, lao động dư thừa ngày càng lớn. Sự thay đổi nhanh của môi trường hoạt động làm cho một số HTX lúng túng trong chuyển đổi hình thức hoạt động cho phù hợp. - Thứ tư, năng lực nội tại HTX yếu nên tổ chức sản xuất, kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất của HTX vừa yếu, vừa thiếu, ngày càng xuống cấp, khó đáp ứng yêu cầu thực tế. Đa số HTX chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhiều HTX chưa có trụ sở làm việc. Việc huy động vốn để sản xuất, kinh doanh không đáng kể do đóng góp của xã viên rất ít và việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn. Công tác thu hồi công nợ chưa dứt điểm trong khi nợ mới tiếp tục nảy sinh. Lợi nhuận kinh doanh thấp, việc tái đầu tư sản xuất, kinh doanh khó thực hiện. Định hướng kinh doanh, hoạt động của nhiều HTX chưa thích ứng với cơ chế thị trường. Năng lực, trình độ của cán bộ quản lý HTX còn yếu, với nền kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh như hiện nay, để trở thành một đơn vị làm ăn phát đạt thì HTX không chỉ cần vốn là cần phải chú trọng đến đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý một cách bài bản, chuyên nghiệp, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ quản lý trong các HTX DVNN yếu kém như hiện nay. Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020 3.1. Bối cảnh kinh hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp trong thời gian tới: - Việt Nam đang khởi động quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển mạnh sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Phát triển HTX DVNN trên nền tảng sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân, người lao động đã, đang và sẽ trực tiếp tạo động lực phát triển sản xuất hàng hóa đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bối cảnh mới cũng đòi hỏi và cho phép đẩy nhanh việc đổi mới các hoạt động dịch vụ của HTX (dịch vụ chế biến, tiêu thụ nông sản, giống và các tiến bộ kỹ thuật, tín dụng. HTX DVNN không thể chỉ “dừng” mãi ở dịch vụ bơm nước, làm đất, cung ứng vật tư... mà phải hướng mạnh đến việc bảo quản, chế biến sau thu hoạch, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và phục vụ xuất khẩu. - Các HTX đã, đang và sẽ phải gánh chịu những sức ép và thách thức lớn hơn nhiều so với khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nhà nước. Rủi ro chắc chắn sẽ gia tăng và một bộ phận không nhỏ trong thành phần kinh tế này đã rơi vào tình trạng khó khăn do tác động của cạnh tranh kinh tế gây ra. - Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Hà Nội cũng đặt ra yêu cầu phải phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa, khắc phục tình trạng manh mún, khép kín, tự cấp tự túc của kinh tế hộ nhằm tạo nhu cầu và động lực tham gia HTX
- nông nghiệp của kinh tế hộ. Vì vậy, chính quyền Thành phố cần phối hợp với các cơ quan trung ương và chủ động trong khuôn khổ phân cấp quản lý xây dựng chính sách tài chính - tín dụng, chính sách khoa học - công nghệ và khuyến nông, chính sách đầu tư, chính sách thị trường, chính sách lao động… để hỗ trợ cho các HTX DVNN và kinh tế hộ nông dân dần chuyển sang sản xuất hàng hóa bền vững và có hiệu quả. 3.2. Phƣơng hƣớng tăng cƣờng hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020: 3.2.1 Phương hướng tăng cường hoạt động HTX nói chung: Phương hướng phát triển của các HTX đến năm 2020 theo các nội dung chủ yếu sau: - Phát triển HTX phải gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. - Phát triển HTX trên cơ sở đảm bảo một cách hài hoà, ngày một tốt hơn lơ ̣i ích c ủa các xã viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng quê hương, làm giàu cho các xã viên và phát triển cộng đồng bền vững. - Tiến hành hoạch định và quy hoạch cụ thể với quy mô, bước đi phù hợp cho các loại hình HTX, đặc biệt là HTX dịch vụ tổ ng h ợp nông nghiệp, các HTX dịch vụ du lịch theo hướng quy mô xã, liên xã nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn phù hợp với quá trình hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. - Xây dựng, mở rộng mô hình HTX tiên tiến có hiệu quả, một số mô hình Liên hiê ̣p HTX nông nghiệp, Liên hiệp HTX chăn nuôi, Liên hiê ̣p HTX dịch vụ đa ngành nghề… nhằm đảm bảo đến năm 2015 xây dựng được một số mô hình tập đoàn HTX có năng lực tài chính mạnh, đa dạng hoá ngành nghề, làm ăn có hiệu quả và đủ năng lực cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác. - Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, sự phát triển của các HTX phải được duy trì trên cơ sở tăng cường nghiên cứu thị trường, mở rộng các quan h ệ hợp tác liên kết, liên doanh với các đơn vị thuô ̣c các thành phần kinh tế, các cá nhân trong và ngoài Thành phố, kể cả hợp tác với nước ngoài. 3.2.2. Phương hướng tăng cường hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp nói riêng: - Phát triển các HTX nông nghiệp theo hướng đa ngành và tổng hợp, vừa làm dịch vụ phục sản xuất nông nghiệp, vừa phát triển chế biến, sản xuất, tổ chức tín dụng nội bộ, cung ứng vật tư, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đời sống... Đồng thời khuyến khích phát triển các HTX chuyên (chuyên rau sa ̣ch, cây ăn quả , chăn nuôi…) để hình thành các tiểu vù ng chuyên canh sản xuấ t nguyên liê ̣u hàng hóa cung cấ p cho thi ̣trường Thành phố . Tập trung những cây, con mũi nhọn có lợi thế sau: + Phát triển sản xuất rau xanh, hoa, cây ăn quả: tập trung vào các loại chất lượng cao, đảm bảo phẩm chất tốt, đạt tiêu chuẩn sản xuất sạch. + Phát triển mạnh chăn nuôi lợn, bò, gia súc, gia cầm và thuỷ sản ở những vùng xa đô thị, ít chịu ảnh hưởng của đô thị hoá. + Phát triển mạnh các dịch vụ trong nông nghiệp và tưu tiên cho các HTX DVNN đảm nhận cung ứng chúng theo nguyên tắc thị trường 3.3. Các giải pháp tăng cƣờng hoạt động HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội đến năm 2020: 3.3.1. Kiện toàn HTX DVNN:
- Kiện toàn những HTX kinh doanh dịch vụ tốt để nhân rộng mô hình. Xem xét lại các HTX làm ăn kém hiệu quả để có biện pháp xử lý. Để phát triển các mô hình HTX DVNN mạnh, làm nền tảng thúc đẩy các mô hình hoạt động trung bình và yếu kém từng bước vươn lên, Liên minh HTX Hà Nội cần chủ động tham gia vào quá trình khảo sát, tổng kết kinh tế tập thể và chuẩn bị các nội dung hướng dẫn xây dựng mô hình HTX điển hình tiên tiến, xem đây là cái nền để xây dựng HTX DVNN mạnh. Tổ chức thăm quan học tập kinh nghiệm tại các tỉnh đã có mô hình HTX sản xuất kinh doanh mạnh. Định kỳ khảo sát, đánh giá tình hình hoạt động nhằm kịp thời giúp đỡ khi HTX khó khăn. Hàng năm, tổ chức hội nghị, hội thảo, chuyên đề và định kỳ 3 năm, 5 năm tổ chức sơ, tổng kết. Tổ chức cho các HTX mạnh báo cáo kết quả hoạt động và kinh nghiệm xây dựng HTX mạnh tại các lớp tập huấn bồi dưỡng, tuyên truyền về HTX ở các trường, các địa phương. Phát động phong trào thi đua, đăng ký xây dựng mô hình HTX DVNN điển hình tiên tiến thành phong trào thi đua sôi nổi trong ngành. 3.3.2. Giải pháp về đất đai: Một số quy định về đất đai hiện nay chưa thật sự thông thoáng, chưa khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá và đảm bảo công bằng trong nhân dân, cần được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp, cụ thể: Thứ nhất, thúc đẩy nhanh quá trình nông dân chuyển đổi ruộng đất, tiến hành “dồn điền, đổi thửa” để hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Thứ hai, tạo điều kiện giao cho HTX nông nghiệp những diện tích đất nhỏ lẻ, xen kẹt trong các khu dân cư hoặc các vùng quy hoạch để HTX thực hiện các hoạt động kinh tế nhằm phát triển kinh tế HTX và phục vụ tốt hơn cho kinh tế xã viên. Vấn đề ở đây là cần biến thành chủ trương của Thành phố để có thể triển khai rộng khắp tới tất cả các HTX cũng như đảm bảo thực hiện tốt Luật đất đai, chống lấn chiếm. 3.3.3. Giải pháp về lao động: - Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX. - Hàng năm Thành phố dành một khoản ngân sách để làm học bổng cho cán bộ đi tập huấn, đào tạo ở trong nước và nước ngoài nhằm tạo ra những cán bộ “đầu đàn” cho lĩnh vực chọn lọc giống rau, hoa, quả, chăn nuôi, thuỷ sản, chế biến. - Phải có các lớp dạy nghề và bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày, nghiệp vụ xây dựng và quản lý dự án, những vấn đề quản lý Nhà nước đối với khu nông nghiệp công nghệ cao, nghiệp vụ kiểm tra chất lượng hàng nông sản. - Thành phố cần đề ra các chính sách đào tạo có địa chỉ. Việc quý trọng và bồi dưỡng nhân tài không chỉ thể hiện trong công tác đào tạo cán bộ nguồn mà còn phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, chính sách tiền lương cũng như việc quản lý, sử dụng cán bộ, đào tạo trong quá trình thực tế công tác, thi tuyển trong bố trí việc làm. 3.3.4. Giải pháp về đầu tư: Do nguồn vốn hiện nay đang có hạn, nên cần lựa chọn lĩnh vực ưu tiên đầu tư hợp lý sẽ tạo ra động lực thúc đẩy lĩnh vực khác và toàn bộ nền nông nghiệp nông thôn phát triển. Trước mắt, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên đầu tư: - Chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chăn nuôi tập trung xa khu dân cư: chuyển diện tích lúa sang trồng hoa, cây ăn quả; đất trũng sang phát triển thuỷ sản... Ưu tiên nhập và ứng dụng các giống mới vào sản xuất; hỗ trợ xây dựng hạ tầng đường, điện, nước cho những
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Về quản lý rừng cộng đồng của tỉnh Gia Lai
10 p | 632 | 87
-
Cẩm nang Hợp TÁC xã NÔNg NgHIệp
104 p | 211 | 40
-
Hiệu Quả Mô Hình Trồng Khoai Lang Nhật
6 p | 263 | 34
-
CÔNG NGHIỆP HOÁ NÔNG THÔN VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY (Nghiên cứu trường hợp xã Ái Quốc, Nam Sách- Hải Dương)
16 p | 132 | 18
-
Mô hình ứng dụng công nghệ cao dựa trên chuỗi giá trị cà phê: Nghiên cứu trường hợp Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ Quyết Tiến, tỉnh Đắk Lắk
11 p | 68 | 9
-
Thực trạng chăn nuôi tại năm xã phía Tây thành phố Thái Nguyên
7 p | 84 | 6
-
Hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp với kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Thái Bình và Hòa Bình
8 p | 42 | 6
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình thành viên các hợp tác xã nông nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
10 p | 41 | 6
-
Vai trò của hợp tác xã trong cung cấp vật tư đầu vào và tiêu thụ lúa cho nông dân ở tỉnh Hậu Giang
10 p | 20 | 6
-
Tài liệu đào tạo khuyến nông cộng đồng kỹ năng tư vấn dịch vụ khuyến nông
40 p | 13 | 4
-
Thực Hiện Biện Pháp Cấp Bách Phòng Chống Bệnh Đậu Cho Đàn Dê
6 p | 80 | 3
-
Đánh giá tác động của việc chuẩn hóa sản phẩm trong sản xuất lúa theo vietgap của hợp tác xã Khiết Tâm, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ
8 p | 66 | 3
-
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân Ma-giê (Mg) đến một số giống lúa tại Thừa Thiên Huế
8 p | 10 | 2
-
Ứng dụng các giải pháp kỹ thuật thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Đức Vĩnh, xã Đức Phú, huyện Mộ Đức
5 p | 33 | 2
-
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của thành viên và người dân đối với dịch vụ hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu
8 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn