KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG<br />
CƯỜNG QUỐC PHÒNG - AN NINH,<br />
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA<br />
QUỐC TOẢN - MẠNH DŨNG<br />
<br />
Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý,<br />
bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự<br />
toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị,<br />
phát triển toàn diện đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ<br />
trương chính sách kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc<br />
phòng - an ninh bảo vệ biên giới quốc gia; đồng thời, luôn xác định xây dựng<br />
biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng là quan<br />
điểm xuyên suốt. Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Tạp chí Quốc phòng toàn dân (số<br />
11 và số 12- 2010) sẽ lần lượt đăng chùm bài của đồng tác giả Quốc Toản Mạnh Dũng; trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.<br />
<br />
I<br />
MÔ HÌNH KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI<br />
TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG - AN NINH TRÊN CÁC ĐỊA BÀN<br />
CHIẾN LƯỢC BIÊN GIỚI<br />
Biên giới quốc gia là nơi “ phên dậu” thiêng liêng của đất nước, cùng với<br />
đất liền tạo ra môi trưòng sinh tồn và phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam.<br />
Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được xác định bằng<br />
điều ước quốc tế đã ký kết (hoặc gia nhập) và do pháp luật Việt Nam quy định,<br />
bao gồm cả trên đất liền, biển đảo, vùng trời và dưới lòng đất. Nước ta có đường<br />
biên giới đất liền dài 4.516 km, tiếp giáp với 3 nước láng giềng (Trung Quốc,<br />
Lào, Căm-pu-chia); có bờ biển dài khoảng 3.260 km, vùng biển rộng trên 1triệu<br />
km² với hơn 3.000 đảo, quần đảo (trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo<br />
Trường Sa), tiếp giáp với 8 quốc gia trong khu vực Biển Đông1; 44 tỉnh, thành<br />
phố trực thuộc Trung ương với 227 huyện (101 huyện miền núi, 126 huyện ven<br />
biển) gồm 1.028 xã (408 xã miền núi, 620 xã ven biển) có biên giới quốc gia,<br />
khu vực biên giới (KVBG).<br />
1<br />
<br />
Gồm: Trung Quốc, Căm-pu-chia, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, In-đô-nê-xi-a, Brunây,<br />
Phi-lip-pin.<br />
<br />
1<br />
<br />
Với quan điểm hợp tác xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định<br />
lâu dài với các nước láng giềng, Việt Nam đã đàm phán, ký kết song phương<br />
nhiều văn kiện pháp lý về biên giới, như: Nghị định thư về phân giới cắm mốc;<br />
các hiệp định và hiệp ước hoạch định biên giới đất liền, Hiệp định phân định<br />
Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam – Trung Quốc, các hiệp ước hoạch định biên giới<br />
quốc gia Việt Nam – Lào và Việt Nam – Căm-pu-chia, các hiệp định phân định<br />
biển Việt Nam – In-đô-nê-xi-a, Việt Nam – Ma-lay-xi-a…Qua đó, thể hiện thiện<br />
chí và quyết tâm của Việt Nam sẵn snàg đàm phán giải quyết mọi tranh chấp về<br />
biên giới lãnh thổ, các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng trên cơ<br />
sở tôn trọng độc lập,chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp và<br />
thực tiễn quốc tế.<br />
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương<br />
lĩnh 91) chỉ rõ: “Nhiệm vụ của quốc phòng – an ninh (QP-AN) là bảo vệ vững<br />
chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN,<br />
sự ổn định về chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân,<br />
làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá<br />
hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”2; đồng thời, cũng xác định quan<br />
điểm, phương châm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ): “Sự ổn định<br />
và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của QP-AN. Phát triển kinh tếxã hội (KT –XH) đi đôi với tăng cường tiềm lực QP-AN. Kết hợp chặt chẽ kinh<br />
tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế trong các kế hoạch phát triển KT-XH”3. Để<br />
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, quan điểm, phương châm BVTQ trong thời kỳ<br />
mới, việc kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN bảo vệ biên giới<br />
quốc gia, KVBG có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ<br />
quyền của quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển toàn diện<br />
đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại. Đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên<br />
của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trước hết là của cấp uỷ, chính quyền, nhân dân<br />
KVBG và các lực lượng vũ trang; trong đó, Quân đội nhân dân là lực lượng<br />
nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, biển đảo (Bộ đội Biên<br />
phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên<br />
giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự , an toàn xã hội KVBG theo quy định của<br />
pháp luật; Quân chủng Hải quân. Cảnh sát biển là lực lượng nòng cốt quản lý,<br />
bảo vệ chủ quyền biển, đảo).<br />
<br />
2<br />
3<br />
<br />
ĐCSVN- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51 (1991), nxb CTQG, H.2007, tr.142.<br />
ĐCSVN- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51 (1991), nxb CTQG, H.2007, tr.143.<br />
<br />
2<br />
<br />
Cùng với việc ban hành nhiều nghị quyết chỉ thị, hệ thống văn bản pháp<br />
luật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ<br />
trương, chính sách phát triển KT-XH, bảo đảm an sinh xã hội, gắn với củng cố,<br />
tăng cường tiềm lực QP-AN trên các địa bàn chiến lược, KVBG. Đặc biệt, từ khi<br />
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg, ngày 31-7-1998 về<br />
“Phê duyệt Chương trình phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn miền núi,<br />
vùng sâu, vùng xa, biên giới”, đã tạo bước chuyển biến toàn diện cả về KT-XH<br />
và QP-AN trên các địa bàn chiến lược, biên giới đất liền, ven biển. Cũng tại<br />
Quyết định này, Chính phủ giao Bộ Quốc phòng “Xây dựng các vùng kinh tế<br />
mới ở những nơi có điều kiện, đỡ đầu, đón nhận 100.000 hộ dân đến lập nghiệp<br />
ở những vùng đất còn hoang hoá ở biên giới, hải đảo”; đồng thời ban hành<br />
Quyết định số 277/QĐ-TTg và Quyết định số 43/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án<br />
tổng thể quân đội tham gia phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu,<br />
vùng xa gắn với xây dựng các Khu KT-QP là “Phát triển KT – XH các Vùng dự<br />
án, góp phần cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của<br />
nhân dân, kết hợp bảo đảm QP-AN ở địa bàn chiến lược, biên giới, trên cơ sở bố<br />
trí lại dân cư theo quy hoạch của sản xuất và mục tiêu lâu dài của QP-AN, hình<br />
thành các cụm làng, xã biên giới, tạo nên vành đai biên giới trong thế trận quốc<br />
phòng toàn dân BVTQ”. Như vậy, có thể nói, Khu KT-QP là mô hình đặc trưng<br />
về kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN trên các địa bàn chiến<br />
lược, vùng sâu, vùng xa, KVBG.<br />
Với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao<br />
động sản xuất, Quân đội nhân dân được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao nhiệm<br />
vụ xây dựng Khu KT- QP trên các địa bàn chiến lược, biên giới. Đây là một<br />
vinh dự to lớn, nhưng cũng là trọng trách nặng nề, khó khăn của cán bộ chiến sĩ<br />
quân đội trong thời kỳ mới. Trên cơ sở Đề án tổng thể của Chính phủ phê duyệt,<br />
Bộ quốc phòng đã chỉ đạo các cơ quan đơn vị phối hợp chặt chẽ với các Bộ,<br />
ngành và các địa phương trong Vùng dự án tiến hành điều tra, khảo sát lập quy<br />
hoạch chi tiết và phân kỳ kế hoạch xây dựng các khu KT-QP; thành lập các<br />
Đoàn KT-QP làm lực lượng nòng cốt xây dựng Khu KT-QP. Dự án Khu KT-QP<br />
mang tính tổng hợp, thuộc nhiều ngành, lĩnh vực; triển khai trên phạm vi rộng,<br />
địa hình phức tạp, chủ yếu là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, KVBG; khí hậu khắc<br />
nghiệt; giao thông đi lại khó khăn; kinh tế, văn hoá, xã hội chậm phát triển, mật<br />
độ dân cư thưa, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đời sống nhân<br />
dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao nhất cả nước (khoảng 25%, có<br />
nơi lên đến 90% theo tiêu chuẩn nghèo mới của quốc gia); một số khu vực còn<br />
bị nhiễm bom, mìn sót lại sau chiến tranh…; một số địa bàn tình hình an ninh<br />
3<br />
<br />
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố mất ổn định; là trọng điểm chống phá<br />
bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch với nhiều âm<br />
mưu, thủ đoạn tinh vi, nhất là việc chúng lợi dụng vấn đề “ dân tộc, tôn giáo,<br />
dana chủ, nhân quyền” để xúi giục, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số làm<br />
mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội…<br />
Nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, trách nhiệm trên “mặt trận mới”xây dựng Khu KT-QP, hơn 12 năm qua, các đơn vị quân đội, trực tiếp là các<br />
Đoàn KT-QP đã phát huy tốt vai trò nòng cốt, chủ động khắc phục mọi khó<br />
khăn, gian khổ, phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền và nhân dân các địa<br />
phươg triển khai xây dựng khu 22 Khu KT-QP trên các địa bàn chiến lược, tại<br />
những vị trí xung yếu dọc tuyến biên giới đất liền thuộc địa giới của 20 tỉnh, từ<br />
Bình Liêu - Quảng Hà – Móng Cái (Quảng Ninh) đến Dào San –Sì Lờ Lầu (Lai<br />
Châu) ở phía Bắc chạy suốt dãy Trường Sơn ở phía Tây đến Tây Nguyên, Đông<br />
Nam Bộ, Tây Nam Bộ (Tân Hồng -Đồng Tháp). Các Khu KT – QP đã và đang<br />
trở thành những điểm sáng về kinh tế, văn hoá xã hội, dân cư. QP – AN nơi<br />
“phên dậu” của đất nước.<br />
Về KT-XH. Các Khu KT – QP đã xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng<br />
tương đối đồng bộ; trong đó, mở mới hơn 1.085 km đường giao thông chạy dọc,<br />
ngang trong Vùng dự án, nối liền với Đường tuần tra biên giới; xây dựng 37<br />
bệnh xá kết hợp quân - dân y với diện tích 20.135 m²; 104 lớp học và 29 nhà trẻ<br />
mẫu giáo với diện tích 32.787 m²; 36 công trình cấp điện sinh hoạt; 142 công<br />
trình cấp nước sạch; 22.303 m² trại chăn nuôi; 29,7 ha trại cây giống; 6 trạm<br />
thuỷ điện; 30 ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản; hơn 1.000 m² nhà chợ và 133<br />
công trình thuỷ lợi nhỏ; xây dựng 242.183 m² doanh trại cho quân đội;… cùng<br />
với nhiều khối lượng các công trình đang thực hiện chuyển tiếp. Trong phát<br />
triển sản xuất các Khu KT – QP cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ.<br />
Các Khu KT – QP trực tiếp tổ chức sản xuất trên địa bàn Tây Nguyên, Đông<br />
Nam Bộ đã tổ chức khai hoang, ươm trồng được hơn 42.000 ha cây công nghiệp,<br />
chủ yếu là cao su, cà phê. điều cao sản, phần lớn đã cho thu hoạch (năm 2009 lợi<br />
nhuận khu vực này đạt trên 160 tỷ đồng) và hơn 13.000 ha cây nguyên liệu giấy<br />
đang phát triển tốt. Các Khu KT – QP không tổ chức sản xuất tập trung mà (từ<br />
Bắc đèo Hải Vân trở ra) đã giúp dân khai hoang, cải tạo đồng ruộng, xây dựng<br />
ruộng lúa nước, xây dựng đồng cỏ phục vụ chăn nuôi gia súc, tổ chức khuyến<br />
nông, khuyến lâm, giúp dân phát triển sản xuất; xây dựng mô hình phát triển<br />
tròng trọt chăn nuôi; tổ chức cơ sở chế biến nông sản và hoạt động dịch vụ cung<br />
ứng cây, con giống, vật tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân. Qúa<br />
4<br />
<br />
trình triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất được các Đoàn KT –<br />
QP gắn chặt với công tác quy hoạch, bố trí lại các điểm, cụm dân cư và ổn định<br />
đời sống đồng bào các dân tộc trên vành đai biên giới; coi đây là một nội dung<br />
vừa cấp thiết, vừa lâu dài. Đến nay, các Khu KT – QP đã hình thành hệ thống<br />
thôn, bản định cư trên vành đai biên giới (có 121 bản định cư mơi); đỡ đầu, đón<br />
nhận trên 85.000 hộ dân của các địa phương và đồng bào các dân tộc di cư tự do<br />
vào lập nghiệp trong các Vùng dự án (trong đó, đỡ đầu, ổn định tại chỗ, giúp dân<br />
xoá đối giảm nghèo, tạo việc làm cho 62.000 hộ dân ổn định cuộc sống và tạo<br />
việc làm thường xuyên; đón nhận, sắp xếp 25.325 hộ dân đến ổn định cuộc<br />
sống). Tại các bản di dân định cư mới đã xây dựng được Nhà văn hoá để bảo tồn<br />
và phát triển văn hoá dân tộc, xây dựng lớp học tại bản cho trẻ em đến tuổi được<br />
đi học tại nơi sinh sống. Trong mỗi Khu KT – QP có từ 1-3 bệnh xá quân – dân<br />
y kết hợp để chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng, thu hút hầu hết đồng bào các<br />
dân tộc đến khám và chữa bệnh, thay vì đi cúng thầy mo như trước đây; ngoài ra,<br />
cán bộ quân y còn xuống tận các thôn, bản khám bệnh và phát thuốc cho dân. Là<br />
lực lượng trực tiếp tổ chức sản xuất, phát triển văn hoá, xã hội tại các thôn, bản,<br />
các đơn vị của Đoàn KT – QP cũng đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận<br />
động quần chúng chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,<br />
pháp luật của Nhà nước; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Bộ đội Biên phòng và<br />
các đơn vị đứng chana trên địa bàn tham gia củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở<br />
ngày càng vững mạnh (tổ chức đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể quần<br />
chúng), tạo nền tảng vững chắc cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu Vùng dự án.<br />
Trên lĩnh vực QP – AN. Nhờ kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc<br />
phòng, quốc phòng với kinh tế trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế,<br />
văn hoá, xã hội, dân cư, đã tạo nền tảng vững chắc cho xây dựng, tăng cường<br />
tiềm lực, thế trận QP – AN bảo vệ biên giới, KVBG. Cùng với đó, các Đoàn KT<br />
– QP đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng được cấp trên giao;<br />
thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng nắm chắc tình hình địa bàn,<br />
sẵn sàng chiến đấu cao, xử lý có hiệu quả các tình huống về QP – AN xảy ra;<br />
phát huy tốt vai trò của lực lượng nòng cốt trong phòng chống, khắc phục hậu<br />
quả thiên tai, thảm hoạ; tổ chức xây dựng lực lượng tự vệ, dự bị động viên ngày<br />
càng vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an<br />
ninh nhân dân bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia, KVBG.<br />
Thực tiễn cho thấy, các Khu KT – QP đã và đang phát huy hiệu quả<br />
toàn diện cả về KT – XH, QP – AN và cả đối ngoại trên các địa bàn chiến<br />
lược biên giới. Quá trình thực hiện các chương trình, dự án đầu tư xây dựng<br />
5<br />
<br />