intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (1986 - 2016)

Chia sẻ: Nguyễn Thị Kim Thoa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:10

208
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (1986 - 2016) nêu lên sự kết hợp sức mạnh dân tộc vơi sức mạnh thời đại ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986) và thời kỳ đổi mới (1986-2016).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (1986 - 2016)

1<br /> <br /> <br /> <br /> KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG<br /> <br /> THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (1986­2016)<br /> <br />  <br /> Xu thế  chung cho sự  phát triển của lịch sử  xã hội loài người luôn luôn theo  <br /> hướng đi lên, ngày một tiến bộ  hơn, văn minh hơn.Thật vậy, chưa bao giờ  thế  giới  <br /> phát triển như ngày nay. Năng suất lao động tăng nhanh, sự phát triển mạnh mẽ của  <br /> khoa học – kỹ thuật với công nghệ cao trở nên phổ  biến, quá trình khu vực hóa, nhất  <br /> thể  hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã cuốn hút tất cả  các quốc gia, dân tộc,  <br /> và tác động tới hầu hết tất cả các đối tượng như  con người, hàng hóa, dịch vụ, tiền  <br /> tệ, tư tưởng, văn hóa,…một mặt nó tạo điều kiện cho sự hội nhập và vươn lên của tất  <br /> cả  các nước, nhưng mặt khác, nó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự  phân biệt  <br /> giàu nghèo giữa các nước với nhau, tạo ra thế siêu độc quyền của các trung tâm công  <br /> nghiệp phát triển trong các lĩnh vực tài chính, kỹ  thuật công nghệ  cao, sự  đe dọa an  <br /> ninh chủ  quyền của nhiều quốc gia,….Vì thế, vấn đề  kết hợp sức mạnh dân tộc với  <br /> sức mạnh thời đại trở  thành nhiệm vụ  cấp thiết hơn bao giờ  hết đối với mỗi quốc  <br /> gia, dân tộc. Đối với Việt Nam, vấn đề kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh  <br /> của thời đại luôn luôn được Đảng ta chú trọng, quan tâm và là mục tiêu hàng đầu,  <br /> cần phải thực hiện song song với quá trình đổi mới. <br /> <br /> Với bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới như hiện nay, mỗi quốc gia, mỗi dân  <br /> tộc cần phải biết và nhận thức rõ về  đặc điểm, tính chất, nội dung cũng như  xu thế <br /> phát triển của thời đại mà mình đang sống, nhằm giúp chúng ta có tầm nhìn sâu rộng,  <br /> nắm bắt được khuynh hướng phát triển và quy luật vận động của xã hội thời hậu  <br /> công nghiệp, từ  đó có thể lựa chọn hướng đi phù hợp với nội lực của từng quốc gia,  <br /> từng dân tộc; đồng thời, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có thể dự đoán được những thách  <br /> thức gặp phải trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, góp phần tránh được <br /> những hướng đi sai lệch, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để  làm <br /> được điều này, đòi hỏi những nhà lãnh đạo quốc gia phải biết kết hợp hài hòa, phát <br /> huy cao độ nội lực, ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với  <br /> sức mạnh thời đại nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển bền vững đất nước,  <br /> bắt kịp nhịp sống của thời đại. Đây cũng chính là con đường nghệ thuật để một quốc <br /> gia phát triển bền vững,  ứng biến linh hoạt trước thời đại có nhiều biến động cả  về <br /> chính trị, kinh tế lẫn văn hóa –xã hội.<br /> <br /> Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cũng chính là nội dung cơ  bản <br /> của tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa  <br /> yếu tố  bên trong giữ  vai trò quyết định và yếu tố  bên ngoài có tác động,  ảnh hưởng  <br /> quan trọng đến sự  phát triển của đất nước. Trong thời chiến, nhờ  sự  vận dụng, kết  <br /> 2<br /> <br /> <br /> hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại mà Người đã dẫn dắt cách <br /> mạng Việt Nam đi từ  thắng lợi này đến thắng lợi khác, trong thời bình thì tư  tưởng <br /> này chính là “kim chỉ  nam” dẫn đường cho công cuộc xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc  <br /> của dân tộc Việt Nam.  Vậy sức mạnh dân tộc là gì? Sức mạnh thời đại được hiểu <br /> như thế nào? Và mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, cũng như <br /> vai trò của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đối với sự  tồn tại <br /> của một quốc gia, một dân tộc ra sao? Hoặc để biết quá trình phát triển tư duy lý luận <br /> của Đảng Cộng Sản Việt Nam về việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời <br /> đại trong công cuộc đổi mới ở nước ta như  thế nào? Tất cả sẽ được lần lượt làm rõ <br /> qua các phần tiếp theo.<br /> <br /> Nói đến sức mạnh dân tộc, tức là đề cập đến sức mạnh tổng hợp của những giá  <br /> trị  về  vật chất và về  tinh thần nhằm đảm bảo cho sự  tồn tại và phát triển của một  <br /> quốc gia, một dân tộc. Trong đó, giá trị  vật chất là những giá trị  được đánh giá từ <br /> những sản phẩm lao động phục vụ cho nhu cầu vật chất của xã hội như ăn, mặc, ở, đi  <br /> lại,….. Giá trị  tinh thần của xã hội bao gồm những giá trị  khoa học, đạo đức, nghệ <br /> thuật,… đánh dấu sự phát triển về các mặt chân, thiện, mỹ, của đời sống xã hội. Đó là  <br /> những quan hệ tốt đẹp mà xã hội đã đạt được nhằm phát triển và hoàn thiện đời sống <br /> xã hội như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, như độc lập, tự do, dân chủ, hòa <br /> bình, bình đẳng, công lý,.... Có thể nói, sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định đến sự <br /> tồn vong của một quốc gia, một dân tộc; nó chính là tiêu chí để phân biệt các quốc gia <br /> dân tộc với nhau, ví dụ  như  khi nhắc dân tộc Việt Nam, có rất nhiều nhận xét khác <br /> nhau: (1) “Người Mỹ có thể tàn phá hết đất nước này bằng bom đạn, nhưng đất nước  <br /> này thậm chí kể cả khi bị tàn phá hết cũng không chịu cúi đầu khuất phục” – R. Guy­<br /> lanh,   báo Pháp, Thế  giới; (2) “Nhân dân Việt Nam đã cho thế  giới một tấm gương  <br /> hầu như không sao tưởng tượng nổi về khí phách anh hùng, ý chí kiên nhẫn và tài ba <br /> của họ” – Đac  Ôxtơbéc­ giáo sư đại học Oslo, Na­uy, tạp chí ba châu; (3) “Ở Phương <br /> Tây người ta thường đặt câu hỏi, lẽ nào người Việt Nam vẫn chưa mệt mỏi vì chiến  <br /> tranh kéo dài ư? Thì ra đây là câu trả lời của tôi. Cái phát hiện kinh ngạc nhất mà tôi đã  <br /> tìm ra cho mình trong thời gian đi thăm miền Bắc là không một lần nào, không một  <br /> phút nào tôi cảm thấy sự  mệt mỏi  ở  những con người Việt Nam. Ngược lại, tôi có  <br /> cảm tưởng rằng tất cả đất nước này luôn luôn tràn trề sức sống. Đất nước này có thể <br /> động viên được tất cả  sức mạnh tinh thần, sức mạnh vật chất để  gan góc chịu đựng <br /> một cách vô cùng bình thản bất cứ cuộc chiến tranh nào cho dù nó khốc liệt và kéo dài  <br /> đến đâu” – Gôfrêđô Parizo, tuần báo Ý, Rôme express.... [Trần Văn Giàu (1980; tr. 295­<br /> 296] tất cả những lời nhận xét ấy đều chỉ nói lên một giá trị  duy nhất, một giá trị  mà <br /> dân tộc Việt Nam đã hun đúc từ ngàn xưa, đó là giá trị của tinh thần yêu nước, yêu tự  <br /> do dân chủ, khác khao độc lập dân tộc­ đây chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến  <br /> trình lịch sử Việt Nam, làm nên sức mạnh dân tộc trường tồn của dân tộc Việt Nam.<br /> 3<br /> <br /> <br /> Sức mạnh thời đại, thực chất nó chính là những diễn biến về  chính trị, kinh tế, <br /> khoa học công nghệ,  văn hóa –xã hội của một quốc gia, một khu vực, một châu lục <br /> hay rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu và nó có tác động,  ảnh hưởng đến tất cả  các  <br /> nước trên thế giới thường theo hướng tích cực. Nếu như nội hàm của sức mạnh thời  <br /> đại trong thời kỳ  đấu tranh giải phóng dân tộc là sức mạnh của ba dòng thác cách  <br /> mạng: Một là, sức mạnh của nhân dân các thuộc địa trong phong trào đấu tranh giải <br /> phóng dân tộc, sức mạnh này được nâng lên gấp bội khi kết hợp với cuộc cách mạng <br /> vô sản trong thời đại mới; Hai là, sức mạnh của giai cấp vô sản kết hợp với cuộc cách  <br /> mạng vô sản của thời đại­ Hồ Chí Minh đã vận dụng rất linh hoạt và sáng tạo việc  <br /> kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn này, điều này càng  <br /> được minh chứng rõ ràng qua tiến trình lịch sử  cách mạng của Việt Nam từ  đầu thế <br /> kỷ XX trở đi; Ba là, sức mạnh của lực lượng sản xuất phát triển cao kết hợp với sức  <br /> mạnh của thời đại phát triển khoa học ­kỹ  thuật với công nghệ  cao. Ngày nay, “nội <br /> hàm của sức mạnh thời đại là sức mạnh đoàn kết đấu tranh của các lực lượng tiến bộ <br /> trên thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập, dân chủ và phát triển, là sức mạnh của lực  <br /> lượng sản xuất, là sự  tiến bộ  vượt bậc của cách mạng khoa học – công nghệ, là <br /> những mặt thuật lợi của quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế mang lại”  [Đảng Cộng <br /> Sản Việt Nam (2006); tr. 276]. Sức mạnh thời đại ở mỗi giai đoạn lịch sử có nội hàm  <br /> khác nhau, muốn khai thác, tiếp thu tốt sức mạnh của thời đại, thì ta phải luôn luôn  <br /> củng cố  và nâng cao sức mạnh dân tộc. Nếu sức mạnh nội lực (sức mạnh dân tộc) <br /> không vững, thì dù sức mạnh ngoại lực (sức mạnh thời đại) có mạnh, có nhiều đến  <br /> đâu cũng không phát huy được tác dụng, đôi khi còn có thể có tác động ngược lại. <br /> <br /> Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có nhận thức về thời đại rất rõ ràng và cụ  thể  qua <br /> từng thời kỳ, từng giai đoạn. Điều này được thể hiện qua các phương hướng, nhiệm <br /> vụ được đề ra qua các lần Đại hội, cụ thể: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III <br /> (1960), trong Báo cáo chính trị  của Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Bí thư  Lê  <br /> Duẫn trình bày đã nhận định: “chúng ta đang sống trong một thời đại vĩ đại chưa từng <br /> có trong lịch sử  loài người. Đó là thời đại mà nội dung cơ  bản là sự  quá độ  từ  chủ <br /> nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại mà chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống <br /> thế giới và đã giành được ưu thế rõ rệt trên trường quốc tế, thời đại mà lực lượng xã <br /> hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ  và hòa bình đã mạnh hơn lực lượng của chủ <br /> nghĩa đế  quốc, thời đại mà phong trào cách mạng trên thế  giới phát triển vô cùng  <br /> mạnh mẽ  và chủ  nghĩa đế  quốc đang trên đà diệt vong không thể  cứu vãn được”  <br /> [Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001); tr. 612,613]. Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng  <br /> đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội <br /> đã chỉ rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuôc đấu tranh <br /> giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân  <br /> tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử <br /> thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng  <br /> nhất định sẽ  tiến tới chủ  nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử” [Đảng  <br /> 4<br /> <br /> <br /> Cộng Sản Việt Nam (2005); tr.314]. Cụm từ “trong giai đoạn hiện nay của thời đại” có <br /> hàm ý là thời đại chung vẫn là thời đại quá độ  từ  chủ  nghĩa tư  bản lên chủ  nghĩa xã <br /> hội, song trong giai đoạn hiện nay thì cuộc đấu tranh rất gay go, phức tạp. Đai hội lần  <br /> IX và Đại hội lần X của Đảng, trong các văn kiện không đề cập thời đại, mà chỉ đưa <br /> ra những nhận định về tình hình thế giới. Đến đại hội XI (2011), Cương lĩnh xây dựng  <br /> đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội đã được thông qua, ghi rõ: “Đặc  <br /> điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế  độ  xã hội và  <br /> trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay  <br /> gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. [Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011); tr. 69].<br /> <br /> Khi xét mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc (mang yếu tố tương đối tĩnh) với sức  <br /> mạnh thời đại (mang yếu tố  động), ta không thể không nhớ  đến triết lý “Dĩ bất biết <br /> ứng vạn biến” của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh. Mối quan hệ  giữa cái “bất biến” và cái  <br /> “vạn biến”, giữa cái “không thay đổi” và cái “thay đổi, giữa cái “đơn lẻ” với “cái <br /> nhiều” ­ đây chính là vấn đề  trung tâm xuyên suốt của triết học từ  cổ  chí kim.  Ứng <br /> dụng triết lý này, ta thấy sức mạnh dân tộc là không thay đổi về  bản chất, có chăng  <br /> chỉ là sự thay đổi về phương pháp, về cách thức, ..... còn sức mạnh thời đại luôn luôn <br /> thay đổi, luôn luôn biến động theo thời gian. Sự  kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với <br /> sức mạnh thời đại thực chất là sự  kết hợp giữa “cái tĩnh” với “cái động”. Chúng có <br /> mối quan hệ biện chứng với nhau, sức mạnh dân tộc chính là nền tảng tạo điều kiện  <br /> thuận lợi để tiếp thu và ứng dụng sức mạnh thời đại, sức mạnh thời đại chính là động <br /> lực, là cơ hội để củng cố và phát huy hơn nữa sức mạnh dân tộc, không có sức mạnh <br /> dân tộc hoặc sức mạnh dân tộc yếu sẽ làm cản trở quá trình tiếp nhận cũng như tranh <br /> thủ cơ hội mà thời đại tạo ra. Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc  <br /> với sức mạnh thời đại cũng như  vai trò của mối quan hệ  này đối với quá trình xây <br /> dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta cùng xét quan điểm của Đảng Cộng Sản  <br /> Việt Nam về việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại qua các kỳ  đại  <br /> hội Đảng.<br /> <br /> Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam về việc kết hợp  <br /> sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc đổi mới  ở  Việt Nam được  <br /> chia làm hai thời kỳ:  Thời kỳ  trước đổi mới (trước năm 1986) và thời kỳ  đổi mới  <br /> (1986­2016).<br /> <br /> Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986):<br /> <br /> Phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại luôn luôn được <br /> Đảng ta coi là hai nhiệm vụ có mối quan hệ biện chứng với nhau nằm trong một chủ <br /> trương có tính chiến lược, nhưng trong đó việc phát huy sức mạnh dân tộc được coi là <br /> nhiệm vụ tiên quyết. Do đó, phát huy sức mạnh toàn diện của dân tộc, tinh thần đoàn  <br /> kết mọi tầng lớp nhân dân qua các thời kỳ  cách mạng đã trở  thành chiến lược cách <br /> 5<br /> <br /> <br /> mạng xuyên suốt và là yếu tố quyết định tới những thắng lợi huy hoàng của dân tộc ta <br /> trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.<br /> <br /> Để phát huy sức mạnh thời đại trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng  <br /> dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra sức tranh thủ sự ủng hộ của hệ thống  <br /> xã hội chủ  nghĩa hình thành và phát triển sau Chiến tranh thế  giới lần thứ  II, của  <br /> phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở Châu Á, châu Phi, Mỹ latinh, của <br /> phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ  và tiến bộ  xã hội trên toàn thế  giới. Trong  <br /> đó, mối liên minh chiến đấu keo sơn giữa nhân dân ba nước Đông Dương, tình đoàn <br /> kết sâu nặng và sự ủng hộ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô, Cuba và các nước xã  <br /> hội chủ nghĩa Đông Âu là sự thể hiện tiêu biểu nhất thành tựu của đường lối kết hợp  <br /> sức mạnh trong nước với sức mạnh thế  giới của  Đảng, góp phần quan trọng vào <br /> thắng lợi của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Những thành công đó góp phần bổ sung, làm  <br /> sinh động bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân <br /> dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, kiểu mới và <br /> phát triển trong xu thế  toàn cầu hóa mạnh mẽ  hiện nay.[Nhiều tác giả, Đảng Cộng  <br /> Sản Việt Nam (2014); tr.407,408].<br /> <br /> Đến thời kỳ  xây dựng chủ  nghĩa xã hội, Đảng ta đặc biệt coi trọng tới việc vận  <br /> dụng bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Ngay  <br /> trong thời kỳ 1954­1975, Đảng ta đặt công cuộc cách mạng xã hội chủ  nghĩa ở  miền  <br /> Bắc trong tổng thể  quá trình phát huy mạnh mẽ  sức mạnh của toàn dân tộc và tận  <br /> dụng triệt để  sự   ủng hộ  của hệ  thống các nước xã hội chủ  nghĩa và nhân dân yêu <br /> chuộng hòa bình trên thế  giới vì mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.  <br /> Chính đường lối đúng đắn, sáng tạo đó đã góp phần quan trọng để  miền Bắc hoàn <br /> thành xuất sắc nhiệm vụ là hậu phương lớn, có vai trò quyết định tới thắng lợi vĩ đại <br /> của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. [Nhiều tác giả, Đảng  <br /> Cộng Sản Việt Nam (2014); tr. 409].<br /> <br /> Từ  sau năm 1975, do chưa đánh giá hết những chuyển biến của tình hình thế  giới  <br /> bao gồm cả  cục diện địa – chính trị, sự  phát triển của cách mạng khoa học – công <br /> nghệ  và vai trò của nó trong đời sống kinh tế  mỗi quốc gia – dân tộc, sự  điều chỉnh <br /> của chủ  nghĩa tư  bản về các chiến lược lớn từ  sau Chiến tranh thế giới II, khả năng <br /> và chiều hướng quốc tế hóa của lực lượng sản xuất cũng như khó khăn ngày càng gay  <br /> gắt của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự tác động của nó đối với sự nghiệp cách mạng <br /> của nhân dân ta,… vì thế chưa tranh thủ được những điều kiện quốc tế  thuận lợi để <br /> xây dựng lại đất nước sau mấy chục năm bị  chiến tranh tàn phá. Mặt khác do chưa  <br /> nhận thức đúng về tầm quan trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời  <br /> đại trên phương diện kinh tế, khoa học –kỹ  thuật và tận dụng một cách triệt để <br /> những tiến bộ  của khoa học công nghệ   ứng dụng vào sản xuất, nên lực lượng sản  <br /> xuất của đất nước những năm trước đổi mới ở tình trạng phát triển thấp và lạc hậu.  <br /> 6<br /> <br /> <br /> Đồng thời,những hạn chế trong chính sách đối ngoại, nhất là “vấn đề Campuchia” đã <br /> làm phương hại đến mối quan hệ bang giao với nhiều nước trong khu vực và trên thế <br /> giới. Chính những hạn chế  đó khiến cho công cuộc xây dựng đất nước sau Chiến  <br /> tranh của ta chưa phát huy được thế  chủ động trong quan hệ đối ngoại, mở rộng hợp <br /> tác vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nước ta bị rơi vào thế  bị  bao vây, cô lập và  <br /> trong một mức độ  nhất định chưa phát huy được sức mạnh dân tộc kết hợp với sức  <br /> mạnh thời đại một cách cao độ. Đây là một trong những tác nhân đẩy tới những khó  <br /> khăn toàn diện của tình hình kinh tế ­ xã hội những năm cuối thập kỷ 70 trên đất nước  <br /> ta. Thực tế đó đòi hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam phải đổi mới nhận thức và có những <br /> chủ trương phù hợp nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại <br /> vì  mục   tiêu chủ  nghĩa  xã   hội.  [Nhiều  tác  giả,   Đảng Cộng  Sản  Việt Nam (2014);  <br /> tr.410].<br /> <br /> Thời kỳ đổi mới (1986­2016):<br /> <br /> Bước đầu đổi mới nhận thức về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại  <br /> trong điều kiện mới (1986­1996):<br /> <br /> Đại biểu toàn quốc lần thứ  VI (12/1986)  của Đảng với tinh thần “nhìn thẳng vào <br /> sự thật, đánh giá đúng sự thật” đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một bước <br /> phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội nói chung và mặt trận đối  <br /> ngoại nói riêng.<br /> <br /> Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VI  tổng kết bốn bài <br /> học lớn có ý nghĩa chỉ  đạo công cuộc đổi mới, trong đó bài học thứ  ba là “phải biết  <br /> kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”. Khi <br /> đánh giá về  sức mạnh thời đại, Đảng đã cho ra đời một số  quan điểm mới, nhấn  <br /> mạnh hơn yếu tố “sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật ngày nay và  <br /> xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế ­  <br /> xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng <br /> chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Chúng ta phải “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan  <br /> hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ  công <br /> cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Quan điểm mới này đánh dấu bước chuyển từ trọng <br /> tâm của việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là phục vụ  sự  nghiệp  <br /> đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc sang phục phụ phát triển kinh tế, từ <br /> quan hệ chính trị  chủ  yếu sang quan hệ chính trị  ­ kinh tế là chủ  yếu; nhìn nhận khả <br /> năng mở  rộng việc hợp tác với các nước có chế  độ  kinh tế  ­xã hội khác nhau; nhấn  <br /> mạnh hơn vai trò của nội lực, chủ thể của đất nước trong quá trình mở rộng quan hệ <br /> thương mại, hợp tác kinh tế  và khoa học, kỹ  thuật.[Nhiều tác giả, Đảng Cộng Sản  <br /> Việt Nam (2014); tr.411].<br /> 7<br /> <br /> <br /> Vào cuối thập kỷ  80, đầu những năm 90 của thế  kỷ  XX, tình hình thế  giới có <br /> nhiều diễn bến phức tạp, đặc biệt là những diễn biến xấu của tình hình Liên Xô và  <br /> Đông Âu đã tác động mạnh mẽ tới công cuộc đổi mới của nước ta. Những biến động  <br /> chính trị đó gây ra nhiều khó khăn, thách thức lớn đối với Đảng ta trong sự nghiệp lãnh <br /> đạo cách mạng nói chung và lãnh đạo hoạt động đối ngoại nối riêng. Trong đó, việc  <br /> tìm ra đường lối đối ngoại phù hợp, phát huy và tận dụng tốt bài học kinh nghiệm về <br /> kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong những thời điểm trong những  <br /> thời điểm lịch sử chứa đựng nhiều thử thách nêu trên là yêu cầu lớn đặt ra đòi hỏi bản  <br /> lĩnh chính trị  của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự  nghiệp đổi mới mục tiêu chủ <br /> nghĩa xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6­1991) , Đảng ta khẳng định <br /> hải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời  <br /> đại trong tình hình mới. Đại hội VII còn chỉ  rõ: “Cần nhạy bén nhận thức và dự  báo  <br /> được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ  quốc tế, sự  phát <br /> triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế <br /> giới để  có những chủ  trương  đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới càng hải coi  <br /> trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh <br /> trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để  phục <br /> vụ  sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc xã hội chủ  nghĩa”. [Nhiều tác giả, Đảng <br /> Cộng Sản Việt Nam (2014); tr.414].<br /> <br /> Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phục vụ  sự  nghiệp đẩy mạnh  <br /> công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế (1996­2016)<br /> <br /> Những thành tựu đạt được trong 10 năm đầu của công cuộc đổi mới (1986­1996) đã <br /> tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam. Về tình hình đất nước những nă 1991­<br /> 1996,  Đại hội VIII của Đảng (1996) đánh giá: “ổn định chính trị  ­ xã hội được giữ <br /> vững. Quốc phòng, an ninh được củng cố. Quan hệ  đối ngoại phát triển mạnh mẽ; <br /> phá được thế bị bao vây, cô lập; mở rộng hợp tác và tham gia tích cực đời sống cộng  <br /> đồng quốc tế”. Có được thành tựu trên là do Đảng ta đã rút ra một số bài học, trong đó  <br /> có bài học về nhận thức đúng đắn và thực hiện có hiệu quả  việc kết hợp sức mạnh  <br /> dân tộc với sức mạnh thời đại. Đại hôi VIII tiếp tục phát triển bài học mà Đại hội VII <br /> đã tổng kết: “Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của <br /> nhân dân thế  giới, kết hợp sức mạnh của dân tôc với sức mạnh của thời đại. Động <br /> viên mọi nguồn lực bên trong là chính, đồng thời khai thác tốt những điều kiện thuận <br /> lợi mới trong quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ những <br /> nhân tố tích cực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Việc mở rộng quan <br /> hệ  đối ngoại phải trên cơ  sở  giữ  vững độc lập tự  chủ, giữ  gìn, phát huy bản sắc và  <br /> truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[Nhiều tác giả, Đảng Cộng Sản Việt Nam (2014);  <br /> tr.418].<br /> <br /> Đại hội VIII của Đảng quyết định đưa đất nước chuyển sang thời kỳ  đẩy mạnh <br /> công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ  bản trở  thành  <br /> 8<br /> <br /> <br /> nước công nghiệp. Đại hội khẳng định, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời  <br /> đại là một trong những điều kiện có tính chất quyết định đảm bảo thắng lợi của sự <br /> nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. <br /> <br /> Đại hội IX của Đảng (4­2001) trong khi khẳng định con đường xã hội chủ  nghĩa,  <br /> thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh đến sức mạnh của  <br /> dân tộc cần được phát huy trong tình hình mới là: “Với những thắng lợi giành được <br /> trong thế  kỷ  XX, nước ta từ  một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở  thành một  <br /> quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc <br /> tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta <br /> từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta <br /> từ  một nền kinh tế  nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp  <br /> hóa, hiện đại hóa”. Và sức mạnh dân tộc trong thời đại hiện nay là: “Thế kỷ  XXI sẽ <br /> tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế <br /> tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn  <br /> cầu hóa kinh tế  là một xu thế  khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, <br /> vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu <br /> thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ  khác nhau vẫn  <br /> tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp  <br /> tục diễn gia gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc  <br /> gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương….Chủ nghĩa  <br /> xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như  từ  những khát  <br /> vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kện và khả  năng tạo ra bước phát triển  <br /> mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã  <br /> hội”. “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của <br /> các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh,  <br /> tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới”. [Nhiều tác giả, Đảng Cộng <br /> Sản Việt Nam (2014); tr.420].<br /> <br />  Đại hội  đại biểu toàn quốc lần X (4­2006)  đã tổng kết bài học của 20 năm đổi  <br /> mới, trong đó có bài học “phát huy cao độ  nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ  ngoại  <br /> lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”. Trên cơ <br /> sở những bài học kinh nghiệm đó và từ thực tiễn nhu cầu đổi mới đất nước thời gian  <br /> tới, Đại hội X đã đề  ra năm tư  tưởng chỉ đạo phát triển kinh tế  ­ xã hội, trong đó có  <br /> hai tư  tưởng đề  cấp đến yêu cầu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.  <br /> Về  yếu tố  nội lực, Đại hội đã nhấn mạnh: Nội lực có vai trò quyết định đối với sự <br /> phát triển. Có phát huy được nội lực mới thu hút và sử  dụng có hiệu quả  ngoại lực.  <br /> Nội lực được tăng cường mới đảm bảo độc lập tự  chủ  về  kinh tế  và thực hiện hội  <br /> nhập kinh tế quốc tế thành công ;Về ngoại lực, cần chú ý khai thác các lĩnh vực như <br /> vốn, tri thức, công nghệ, kỹ năng quản lý và mở rộng thị trường, …nhằm bổ sung cho  <br /> nội lực và đảm bảo cho nội lực phát huy hiệu quả hơn. Giải pháp để phát huy ngoại  <br /> 9<br /> <br /> <br /> lực phục vụ  cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là “phải có một chiến lược  <br /> phù hợp và môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ  thống <br /> thể chế, chính sách đồng bộ, nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả” [Nhiều  <br /> tác giả, Đảng Cộng Sản Việt Nam (2014); tr.423].<br /> <br /> Đại hội Đảng lần XI (1­2011)  nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức <br /> mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh  <br /> nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát  <br /> huy cao độ  nội lực, đồng thời tranh thủ  ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với  <br /> yếu tố hiện đại” [Nhiều tác giả, Đảng Cộng Sản Việt Nam (2014); tr.423].<br /> <br /> Đại Hội lần thứ XII (2016) của Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn kiên trì tiếp tục chỉ <br /> rõ phương hướng, nhiệm vụ  việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại  <br /> thể hiện qua việc nhìn nhận và đánh giá những yếu kém, từ đó đưa ra những phương  <br /> hướng và nhiệm vụ cụ thể nhằm đạt được hiệu quả cao trong công cuộc xây dựng và <br /> bảo vệ Tổ quốc. <br /> <br /> Như  vậy, ta có thể  kết luận rằng: Qua các kỳ  Đại hội của Đảng Cộng Sản Việt  <br /> Nam đều chú trọng việc tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước  <br /> nhanh và bền vững, trong đó lấy phát huy nội lực là nhân tố  quyết định, khai thác  <br /> ngoại lực là nhân tố quan trọng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Có  <br /> thể nói ngoại lực được khai thác đã làm nhân lên sức mạnh nội lực, còn nội lực được  <br /> phát huy tạo cơ  sở  cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả  hơn. Và sức mạnh thời  <br /> đại được phát huy sẽ chuyển thành sức mạnh dân tộc, trái lại, sức mạnh của dân tộc <br /> được phát huy thì mới sử  dụng có hiệu quả  cơ  hội, thuận lợi do sức mạnh của thời  <br /> đại tạo ra, vượt qua nguy cơ, thách thức được khắc phục. Trong việc khai thác ngoại <br /> lực, sử dụng sức mạnh của thời đại chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc như <br /> tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội <br /> bộ  của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ  vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội <br /> chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa ngày <br /> càng trở  nên phổ  biến, tác động mãnh mẽ  đến nhiều quốc gia, nhiều dân tộc; trong  <br /> điều kiện cuộc cách mạng khoa học – công nghệ  phát triển gắn với phát triển nền <br /> kinh tế tri thức.<br /> 10<br /> <br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 1. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị  truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa  <br /> học xã hội, Hà Nội.<br /> <br /> 2. GS.TS Vũ Văn Hiền, Việt Nam và Thế  giới Đương Đại, Nxb Chính trị  quốc  <br /> gia, Hà Nội, 2014.<br /> <br /> 3. TS Doãn Hùng – PGS.TS  Đoàn Minh Huấn, PGS.TS Nguyễn Ngọc  Hà –TS <br /> Nguyễn Thị  Thanh Huyền (đồng chủ  biên) (20140, Đảng Cộng Sản Việt Nam  <br /> Những Tìm Tòi và Đổi Mới Trên Con Đường Lên Chủ  Nghĩa Xã Hội (1986­<br /> 2011),Nxb Lý Luận Chính trị, Hà Nội.<br /> <br /> 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc <br /> gia, Hà Nội, tập 21.<br /> <br /> 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn Kiện Đại hội Đảng thời kỳ  đổi mới  <br /> (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> <br /> 6. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Tham Luận tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc  <br /> lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> <br /> 7. Việt Nam 20 năm đổi mới (2006), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> <br /> 8. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần  <br /> thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.<br /> <br /> 9. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần <br /> thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.<br /> <br /> 10.  Các trang điện tử: <br /> <br />  http://khcncaobang.gov.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=Hoc-tap-tu-tuong-<br /> dao-duc-chu-tich-Ho-Chi-Minh/Hoc-tap-tu-tuong-dai-doan-ket-dan-toc-cua-Chu-tich-<br /> Ho-Chi-Minh-trong-cong-cuoc-xay-dung-dat-nuoc-hien-nay-226<br /> <br />  http://vov.vn/chinh-tri/phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-164433.vov<br /> <br />  http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-<br /> dang-XI/Noi-dung-co-ban-van-kien/2011/11964/Phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket-<br /> toan-dan-toc.aspx<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2