KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN<br />
CỦA GIUN QUẾ (Perionyx excavatus Perrier. 1872)<br />
TRÊN CÁC NGUỒN DINH DƯỠNG KHÁC NHAU<br />
TRẦN VĂN GIANG<br />
VÕ VĂN CHÍNH - HỒ TIẾN HƯNG<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Giun quế đã được xem là sinh vật quan trọng để chuyển đổi nguồn<br />
chất thải hữu cơ và tạo sinh khối. Đánh giá tiềm năng sinh trưởng và sinh sản<br />
của giun quế trên các môi trường khác nhau có ý nghĩa to lớn trong việc sản<br />
xuất giun trên quy mô lớn. Trong nghiên cứu này, những nỗ lực đã được thực<br />
hiện để đánh giá sự tăng trưởng và khả năng sinh sản khi sử dụng chất thải của<br />
gia súc và một số chất thải rắn làm môi trường để nuôi giun trong điều kiện<br />
nông hộ. Giun quế sinh trưởng tốt nhất trên môi trường 50% phân gia súc và<br />
50% đất, đạt kích thước và trọng lượng tối đa sau 60 ngày nuôi. Chúng sinh<br />
sản tốt nhất trên môi trường 50% bèo hoa dâu và 50% đất; 50% phân gia súc<br />
và 50% đất; 50% tro trấu và 50% đất, ngược lại, chúng sinh sản kém ở môi<br />
trường 50% tro trấu và 50% mùn cưa; và ở môi trường hoàn toàn đất.<br />
Từ khóa: giun quế, sinh trưởng, sinh sản, chất thải hữu cơ<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Giun quế (Perionyx excavatus Perrier. 1872) sinh trưởng và phát triển khá phổ biến ở<br />
vùng nhiệt đới châu Á. Đây là loài giun thích sống trong môi trường bề mặt ẩm ướt và<br />
chúng phân giải các loại chất thải hữu cơ khác nhau, trong đó phân gia súc là thức ăn và<br />
môi trường sống ưa thích nhất của chúng [2]. Giun quế có kích thước tương đối nhỏ, có<br />
màu từ đỏ đến mận chín, cơ thể có hình trụ thuôn dài gồm nhiều đốt nối với nhau [3].<br />
Giun quế có khả năng phân giải chất thải hữu cơ cũng như có hàm lượng protein cao<br />
nên chúng được nuôi để sử dụng cho công nghiệp thức ăn và xử lý rác thải nông nghiệp<br />
với mục đích tạo cho đất có độ màu mỡ cao và sản xuất sinh khối protein cho thức ăn<br />
chăn nuôi. Chăn nuôi đóng vai trò rất quan trọng trong nông nghiệp. Năm 2014, ngành<br />
chăn nuôi chiếm tỷ lệ 31,5 - 32% tổng giá trị của ngành nông nghiệp (Niên giám thống<br />
kê năm 2014), đồng thời chi phí thức ăn trong chăn nuôi cũng rất lớn. Hiện nay, xu<br />
hướng nuôi giun quế để sử dụng làm thức ăn cho vật nuôi đang hình thành và phát triển<br />
bởi giun quế chứa nhiều yếu tố dinh dưỡng cần thiết đối với sự sinh trưởng, sinh sản của<br />
gia súc và gia cầm. Ngoài ra, phân giun quế là loại phân hữu cơ giàu chất dinh dưỡng,<br />
nó có tác dụng lớn trong cải tạo và làm tăng độ phì nhiêu cho đất đồng thời cũng là biện<br />
pháp để thực hiện chu trình khép kín trong sản xuất nông nghiệp [3]. Việc tận dụng các<br />
nguồn thức ăn tại chỗ để giảm chi phí thức ăn trong chăn nuôi là vấn đề luôn được quan<br />
tâm. Do vậy, việc xác định được sức sinh trưởng và sinh sản của giun quế trên các<br />
nguồn chất thải hữu cơ khác nhau góp phần quan trọng trong chăn nuôi cũng như xử lý<br />
rác thải nông nghiệp.<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 04(36)/2015: tr. 63-69<br />
<br />
64<br />
<br />
TRẦN VĂN GIANG và cs.<br />
<br />
2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
2.1. Nguyên liệu<br />
Giun quế được mua từ trung tâm bảo tồn giống Thủy An của Đại học Nông Lâm Huế.<br />
Nguyên liệu nuôi giun là phân gia súc (trâu, bò), bèo lục bình, tro trấu, rác, mùn cưa và<br />
đất. Nguyên liệu khi thu về được xử lý sơ bộ trước khi cho vào thùng nuôi giun.<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
- Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được tiến hành nghiên cứu từ 15/1/2015 đến 14/5/2015<br />
tại các nông hộ thuộc huyện Phú Vang – Thừa Thiên Huế. Các lô thí nghiệm được bố<br />
trí ngẫu nhiên và phân làm hai nhóm để theo dõi và đánh giá hai chỉ tiêu sinh trưởng và<br />
sinh sản của giun quế. Các thí nghiệm sinh trưởng được bố trí trong thùng xốp có kích<br />
thước 50x30x25cm, bổ sung môi trường đến 2/3 thùng, phía trên thùng có che bằng lưới<br />
mắt cáo để bảo vệ giun. Các thí nghiệm sinh sản được bố trí trong các chậu nhựa và xi<br />
măng có kích thước 10x20x30cm, (sở dĩ chúng tôi bố trí thí nghiệm sinh sản trong chậu<br />
nhỏ hơn để tăng khả năng gặp nhau, bắt cặp giao phối cũng như thuận lợi trong việc<br />
đếm giun con). Tất cả các chậu đều có lỗ nhỏ vừa đủ để thoát nước khi cần thiết nhưng<br />
không để giun thoát ra ngoài. Các nghiệm thức được bố trí thành 7 lô có thành phần<br />
như sau: NT1 (50% bèo hoa dâu; 50% đất); NT2 (50% phân gia súc; 50% đất); NT3<br />
(50% tro trấu; 50% mùn cưa); NT4 (50% tro trấu; 50% đất); NT5 (50% mùn cưa; 50%<br />
đất); đối chứng âm (ĐC-) (100% đất); đối chứng dương (ĐC+) (75% phân bò; 25 rác%,<br />
theo Bùi Văn Lợi, 2008 [4]). Các thí nghiệm nghiên cứu về chỉ tiêu sinh trưởng, chúng<br />
tôi thả 60 con giun con có kích thước và trọng lượng tương đối đồng đều (19 - 21mg, 15<br />
- 15,5mm). Các thí nghiệm nghiên cứu khả năng sinh sản, chúng tôi thả 10 cặp giun đã<br />
thành thục về sinh sản.<br />
- Nuôi dưỡng, chăm sóc và theo dõi: Việc tưới nước và duy trì độ ẩm chất nền cho<br />
giun là vô cùng quan trọng. Độ ẩm chất nền được kiểm tra bằng cách dùng một que khô<br />
chọc xuống chất nền trong thùng, sau đó rút lên nếu thấy que ướt thì chưa cần tưới,<br />
nhưng nếu que không ướt chứng tỏ trong đất độ ẩm và nước ít lúc đó cần phải tưới,<br />
hoặc dùng tay lấy một ít chất nền vo nhẹ, thấy có nước ướt thì không tưới, nhưng khô<br />
thì phải bổ sung nước ngay lập tức. Bởi vì giun quế rất nhạy cảm với độ ẩm, nếu thấy<br />
quá khô hoặc ướt chúng sẽ bỏ đi, hoặc có thể chết. Thông thường, nước được tưới 3<br />
ngày/1 lần. Đối với những ngày nắng nóng thì trung bình ngày tưới nước khoảng 1-2<br />
lần. Tưới nước thì dùng bình vòi sen để tưới vì nó tạo ra tia nước nhỏ, đều.<br />
Trong quá trình nuôi, các thùng nuôi được che chắn cẩn thẩn, tránh ánh sáng nắng quá<br />
mạnh, hoặc mưa trực tiếp lên thùng nuôi để đảm bảo cho sự sinh trưởng và sinh sản của<br />
giun. Trên mỗi thùng nuôi, đều được đặt một tấm vải lưới, hoặc là lá cây to, như lá chuối<br />
để bảo vệ giun, giữ độ ẩm trong thùng, đồng thời tạo bóng tối cho giun có thể hoạt động<br />
lên tầng gần bề mặt chất nền và kết đôi sinh sản. Giun quế rất nhạy cảm với ánh sáng và<br />
nhiệt độ nếu không che chắn chúng chỉ hoạt động phía bên dưới như vậy sẽ ảnh hưởng<br />
đến kết quả thí nghiệm. Ngoài ra, khi nuôi giun phải xới luống, xới chất nền bên trong<br />
<br />
KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA GIUN QUẾ...<br />
65<br />
<br />
thùng để làm thông thoáng và tránh cho giun khỏi tình trạng ngộ độc khí (bởi vì trong quá<br />
trình phân hủy rác thải hữu cơ, sẽ sinh ra các loại khí độc cho giun như khí metan).<br />
Quá trình theo dõi giun phải thường xuyên để đánh giá chính xác sự phát triển giữa các<br />
nghiệm thức đồng thời kiểm tra được các tình huống xảy ra khi nuôi giun như khi bị<br />
bệnh, bị các con vật ăn giun tấn công… Bên cạnh đó, thức ăn hay chất nền cần được bổ<br />
sung theo định kỳ (1tuần/1lần).<br />
- Nghiên cứu quá trình sinh trưởng: hệ số sinh trưởng được tính theo công thức<br />
của Mazantseva (1982) [5]:<br />
Tỷ lệ sinh trưởng (mg/con/ngày) = (W2 - W1)/(t2 – t1).<br />
Trong đó, W1: trọng lượng ban đầu của giun (mg).<br />
W2: trọng lượng cuối của giun theo thời gian nghiên cứu (mg).<br />
t1: tuổi của giun tại thời điểm bắt đầu thí nghiệm (ngày).<br />
t2: tuổi của giun tại thời điểm lấy mẫu nghiên cứu (ngày).<br />
- Nghiên cứu khả năng sinh sản: Tuổi thành thục sinh sản của giun được xác định khi<br />
quan sát hình thái của đai sinh dục. Đồng thời số lượng con non được sinh ra và sống<br />
sót được tính theo công thức:<br />
Số lượng giun con được sinh ra (N) = (N1 + N2 + Nn). Trong đó N1, N2 và Nn là số<br />
lượng giun con được đếm qua các mốc thời gian nghiên cứu.<br />
- Phương pháp xử lý số liệu: số liệu được ghi chép, thu thập, tính toán và xử lý thống<br />
kê trên phần mềm Excel 2010.<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1. Khả năng sinh trưởng của giun quế<br />
Quá trình sinh trưởng của giun quế được thể hiện qua sự tăng lên về kích thước, khối<br />
lượng và chiều dài đốt thân. Ở các nghiệm thức được khảo sát, môi trường nuôi giun<br />
cũng là nguồn thức ăn của giun.<br />
Xét về khối lượng, qua 2 đợt thí nghiệm cho thấy khối lượng giun tăng khá đều trong<br />
thời gian thí nghiệm. Trong đợt nuôi thứ nhất với các nguồn thức ăn khác nhau, giun đạt<br />
trọng lượng tối đa sau 60 ngày nuôi thể hiện ở NT2 (50% phân gia súc; 50% đất) là<br />
297mg với hệ số tăng trưởng là 4,6, kết quả này tương đương với đối chứng dương<br />
(292mg và 4,52). Tiếp đó khối lượng giun lần lượt giảm dần ở các nghiệm thức NT1;<br />
NT4; NT5 và thấp nhất ở NT3 (50% tro trấu; 50% mùn cưa) là 166mg và hệ số tăng<br />
trưởng là 2,43 (Bảng 1). Ở NT3 đạt kết quả thấp có thể do môi trường tro trấu và mùn<br />
cưa giữ nước không được tốt và khá ít chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, ở nghiệm thức này<br />
vẫn cao hơn khá nhiều so với môi trường hoàn toàn đất (ĐC-). Vì vậy, khi nuôi loài<br />
giun này nên có phân gia súc và các loại chất hữu cơ để tăng sản lượng và sinh khối của<br />
giun. Trong đợt thí nghiệm lần thứ 2, khối lượng giun tăng ở NT2 (50% phân gia súc;<br />
50% đất) vẫn là cao nhất (301mg và hệ số tăng trưởng là 4,67) và ở NT3 (50% tro trấu;<br />
<br />
66<br />
<br />
TRẦN VĂN GIANG và cs.<br />
<br />
50% mùn cưa) vẫn là thấp nhất (165mg và hệ số tăng trưởng là 2,4) và ở các nghiệm<br />
thức khác cho kết quả khá tương tự (Bảng 1). Như vậy, xét về sự tăng khối lượng giữa<br />
các công thức và đối chứng thì kết quả của 2 đợt thí nghiệm là tương tự nhau. Có kết<br />
quả như vậy là trong 2 đợt thí nghiệm này được bố trí vào mùa xuân, các yếu tố thời tiết<br />
biến động không nhiều nên không ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng của giun<br />
quế. Còn chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, nguồn dinh dưỡng thì hoàn toàn tương tự.<br />
Bảng 1. Tốc độ tăng sinh khối của giun theo các nghiệm thức sau 60 ngày nuôi.<br />
Nghiệm<br />
thức<br />
Chỉ tiêu<br />
<br />
Đơn vị<br />
tính<br />
<br />
NT1<br />
<br />
NT2<br />
<br />
NT3<br />
<br />
NT4<br />
<br />
NT5<br />
<br />
ĐC (-)<br />
<br />
ĐC (+)<br />
<br />
Đợt 1 (từ 15/1 đến 15/3)<br />
KL ban đầu<br />
<br />
mg<br />
<br />
20 ±1<br />
<br />
21 ±1<br />
<br />
20 ±2<br />
<br />
20 ±2<br />
<br />
20,5 ±1<br />
<br />
19,5 ±1<br />
<br />
21 ±2<br />
<br />
KL kết thúc<br />
<br />
mg<br />
<br />
255± 9<br />
<br />
297 ±12<br />
<br />
166± 5<br />
<br />
196± 7<br />
<br />
178± 2<br />
<br />
106± 4<br />
<br />
292 ± 14<br />
<br />
Hệ số tăng<br />
trưởng<br />
<br />
mg/con/<br />
ngày<br />
<br />
3,91<br />
<br />
4,6<br />
<br />
2,43<br />
<br />
2,93<br />
<br />
2,63<br />
<br />
1,45<br />
<br />
4,52<br />
<br />
Đợt 2 (từ 16/3 đến 14/5)<br />
KL ban đầu<br />
<br />
mg<br />
<br />
20 ±1<br />
<br />
20,5 ±1<br />
<br />
21 ±1<br />
<br />
20 ±1<br />
<br />
20±1<br />
<br />
21 ±1<br />
<br />
19 ±1<br />
<br />
KL kết thúc<br />
<br />
mg<br />
<br />
267± 7<br />
<br />
301 ±13<br />
<br />
165± 5<br />
<br />
201± 3<br />
<br />
183 ± 6<br />
<br />
102± 4<br />
<br />
303 ± 13<br />
<br />
Hệ số tăng<br />
trưởng<br />
<br />
mg/con/<br />
ngày<br />
<br />
4,11<br />
<br />
4,67<br />
<br />
2,4<br />
<br />
3,01<br />
<br />
2,71<br />
<br />
1,35<br />
<br />
4,73<br />
<br />
Xét về kích thước chiều dài, cũng tương tự như khối lượng, chiều dài cơ thể giun quế<br />
tăng khá đều qua 2 đợt thí nghiệm. Kích thước của giun đạt tối đa sau 60 ngày nuôi thể<br />
hiện ở NT2 (đợt 1: 92,4mm và hệ số tăng trưởng là 1,29; đợt 2: 92,5mm và hệ số tăng<br />
trưởng là 1,28), kết quả này tương tự như đối chứng dương (đợt 1: 90,5mm và hệ số<br />
tăng trưởng là 1,25; đợt 2: 92,6mm và hệ số tăng trưởng là 1,29). Kích thước của giun<br />
cũng lần lượt giảm dần ở các nghiệm thức NT1; NT4; NT5 và thấp nhất ở NT3<br />
(50,6mm với hệ số tăng trưởng là 0,58 (đợt 1), 55,7mm với hệ số tăng trưởng là 0,68<br />
(đợt 2)) (Bảng 2).<br />
Bảng 2. Tốc độ tăng kích thước của giun theo các nghiệm thức sau 60 ngày nuôi.<br />
Nghiệm<br />
thức<br />
Chỉ tiêu<br />
<br />
Đơn vị<br />
tính<br />
<br />
NT1<br />
<br />
NT2<br />
<br />
NT3<br />
<br />
NT4<br />
<br />
NT5<br />
<br />
ĐC (-)<br />
<br />
ĐC (+)<br />
<br />
Đợt 1 (từ 15/1 đến 15/3)<br />
Chiều dài<br />
ban đầu<br />
<br />
mm<br />
<br />
15 ±1<br />
<br />
15,3 ±1<br />
<br />
15,5 ±2<br />
<br />
15,5±2<br />
<br />
15,7 ±1<br />
<br />
15 ±1<br />
<br />
15,3 ±2<br />
<br />
Chiều dài<br />
kết thúc<br />
<br />
mm<br />
<br />
81,2±1,2<br />
<br />
92,4±1,6<br />
<br />
50,6±2,3<br />
<br />
62,8±2,1<br />
<br />
63,2±2,4<br />
<br />
40,2±1,4<br />
<br />
90,5 ±1,5<br />
<br />
KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA GIUN QUẾ...<br />
67<br />
Hệ số tăng<br />
trưởng<br />
<br />
mm/con<br />
/ngày<br />
<br />
1,1<br />
<br />
1,29<br />
<br />
0,58<br />
<br />
0,79<br />
<br />
0,79<br />
<br />
0,42<br />
<br />
1,25<br />
<br />
Đợt 2 (từ 16/3 đến 14/5)<br />
Chiều dài<br />
ban đầu<br />
<br />
mm<br />
<br />
15,2 ±1<br />
<br />
15,4 ±1<br />
<br />
15,1 ±2<br />
<br />
15 ±2<br />
<br />
15,4 ±1<br />
<br />
15,2 ±1<br />
<br />
15,5 ±2<br />
<br />
Chiều dài<br />
kết thúc<br />
<br />
mm<br />
<br />
82,2±1,3<br />
<br />
92,5±1,4<br />
<br />
55,7±1,4<br />
<br />
71,0±1,1<br />
<br />
62,1±1,2<br />
<br />
42,3±1,5<br />
<br />
92,6±2,3<br />
<br />
Hệ số tăng<br />
trưởng<br />
<br />
mm/con<br />
/ngày<br />
<br />
1,12<br />
<br />
1,28<br />
<br />
0,68<br />
<br />
0,93<br />
<br />
0,78<br />
<br />
0,45<br />
<br />
1,29<br />
<br />
Như vậy, xét về sự tăng khối lượng và kích thước giữa các công thức và đối chứng thì<br />
kết quả của 2 đợt thí nghiệm là ít thay đổi và tương đương với đối chứng dương. Giun<br />
sinh trưởng và phát triển tốt ở NT2 tức là môi trường có chứa phân gia súc, điều này<br />
cũng tương tự với nhiều kết quả nghiên cứu đã khẳng định nguồn dinh dưỡng tốt nhất<br />
nuôi giun quế là phân gia súc trộn ủ với rác hữu cơ (Edwards, 1998; Lợi, 2008; Bình,<br />
2008, Suthar 2009). Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, giun<br />
sinh trưởng khá tốt trên môi trường có chứa bèo hoa dâu (NT1) (Bảng 2), điều này có ý<br />
nghĩa quan trọng khi tận dụng các nguồn chất hữu cơ hiện có ở địa phương để nuôi giun<br />
và bảo vệ môi trường.<br />
Sau thời gian 60 ngày nuôi, giun quế đạt được khối lượng và kích thước tối đa đồng thời<br />
giun đã trưởng thành và có khả năng sinh sản. Tuy nhiên, kích thước và khối lượng tối<br />
đa của giun cũng phụ thuộc vào nguồn dinh dưỡng trong môi trường sống, cao nhất ở<br />
NT2 và thấp nhất NT3 (Bảng 3).<br />
Bảng 3. Chiều dài và khối lượng tối đa của giun trên các nguồn dinh dưỡng khác nhau<br />
Chiều dài tối đa (mm)<br />
<br />
Khối lượng tối đa (mg)<br />
<br />
Đợt 1<br />
<br />
Đợt 2<br />
<br />
Đợt 1<br />
<br />
Đợt 2<br />
<br />
NT1<br />
<br />
81,2 ± 1,2<br />
<br />
82,2 ± 1,3<br />
<br />
255 ± 9<br />
<br />
267 ± 7<br />
<br />
NT2<br />
<br />
92,4 ± 1,6<br />
<br />
92,5 ± 1,4<br />
<br />
297 ± 12<br />
<br />
301 ± 13<br />
<br />
NT3<br />
<br />
50,6 ± 2,3<br />
<br />
55,7 ± 1,4<br />
<br />
166 ± 5<br />
<br />
165 ± 5<br />
<br />
NT4<br />
<br />
62,8 ± 2,1<br />
<br />
71,0 ± 1,1<br />
<br />
196 ± 7<br />
<br />
201 ± 3<br />
<br />
NT5<br />
<br />
63,2 ± 2,4<br />
<br />
62,1 ± 1,2<br />
<br />
178 ± 2<br />
<br />
183 ± 6<br />
<br />
ĐC (-)<br />
<br />
40,2 ± 1,4<br />
<br />
42,3 ± 1,5<br />
<br />
106 ± 4<br />
<br />
102 ± 4<br />
<br />
ĐC (+)<br />
<br />
90,5 ± 1,5<br />
<br />
92,6 ± 2,3<br />
<br />
292 ± 14<br />
<br />
303 ± 13<br />
<br />
3.2. Khả năng sinh sản của giun quế<br />
Giun quế là loài mắn đẻ và sinh sản nhanh quanh năm, thời gian thành thục thì lại ngắn.<br />
Vì vậy, nếu nuôi tốt, trong thời gian ngắn có thể tạo ra số lượng cá thể rất nhiều. Số<br />
lượng giun con được đếm sau thời gian nghiên cứu là 10 ngày/1 lần. Kết quả cho thấy,<br />
<br />