intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khái niệm đạo đức - đạo đức nghề nghiệp (Tâm lý y đức)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài học này giới thiệu khái niệm về đạo đức, đạo đức học và đặc biệt là đạo đức y học, bao gồm các nguyên lý và quan niệm cốt lõi. Chúng ta sẽ tìm hiểu các quy tắc đạo đức và định hướng nghề nghiệp trong lĩnh vực y tế. Bài học sẽ nhấn mạnh vào việc ứng dụng kiến thức đạo đức và đạo đức nghề nghiệp vào thực tiễn chăm sóc sức khỏe người bệnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khái niệm đạo đức - đạo đức nghề nghiệp (Tâm lý y đức)

  1. KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC - ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP MỤC TIÊU: 1. Trình bày được những khái niệm về đạo đức, đạo đức học và đạo đức y học. 2. Trình bày được những nguyên lý và quan niệm về đạo đức y học. 3. Trình bày được quy tắc về đạo đức và định hướng nghề điều dưỡng. 4. Ứng dụng những kiến thức đã học về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp áp dụng vào công tác chăm sóc sức khỏe người bệnh. NỘI DUNG 1. Khái niệm đạo đức 1.1. Đạo đức - Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở. - Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão tử) tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức. - Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: Lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; Nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này. - Định nghĩa đạo đức (Từ điển Tiếng Việt) “Những phép tắc căn cứ vào chế độ kinh tế và chế độ chính trị mà đặt ra để quy định quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội cốt để bảo vệ chế độ kinh tế và chế độ xã hội”. - Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, những tiêu chuẩn, những khuôn phép, những mẫu mực về hạnh kiểm, phong cách hay hành vi có liên quan đến bổn phận, đến trách nhiệm của con người đó với xã hội, với bản thân mình”. - Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. (Học viện chính trị Quốc gia. Giáo trình đạo đức học. Hà Nội-nxb Chính trị Quốc gia, 2000, trang 816). Theo quan niệm phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, của Đạo giáo, của Nhà giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Có thể nói, khái niệm đạo đức ở phương Đông có nghĩa là đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn 95
  2. mực về các mối quan hệ vua, tôi, cha con, chồng vợ, anh em, làng xóm, bạn bè, tu thân, dưỡng tâm, rèn luyện khí tiết....theo những định hướng giá trị nhất định. ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ mos trong ngữ vựng Latinh, có nghĩa là lề thói. Moralis có nghĩa là thói quen. Ngoài ra, trong tiếng Hy Lạp còn có khái niệm ethicos có nghĩa là tập tục gắn với thói quen. Cả hai từ này đều chỉ đạo đức của xã hội, tức là nói về tập quán, tập tục, lề thói trong các quan hệ giao tiếp giữa người với người. Trong tác phẩm Nhà nước pháp quyền, Hêghen đã phân biệt hai khái niệm moralis (luân lý) và ethicos (đạo đức) như sau: luân lý là đạo đức chủa quan, còn đạo đức là luân lý khách quan. Nội dung xã hội của đạo đức hay luân lý bắt nguồn từ quan niệm người này giúp đỡ người khác một cách vô tư. Khái niệm quốc tế của đạo đức là moral. Tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức đều dùng thuật ngữ moral để chỉ các quan hệ, các hành vi, các phẩm giá về sự quan tâm của người này đối với người khác theo các chuẩn mực về cái tốt trong một cộng đồng xã hội từ gia đình, nhà trường, xóm làng, phường phố đến toàn xã hội. Theo Martin Heigdergger thì: “Đạo đức là lĩnh vực của con người mà hành vi, các mối quan tâm, những tình cảm được chia sẻ giữa người này và người khác theo những mục tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan đến tự do và trật tự phức tạp của cộng đồng”2. Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G.Bandzeladze đã viết: “Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội... Nơi nào không có những hành động tự nguyên, tự giác của con người thì nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã hội. Đặc trưng của đời sống con người, và của bản thân tính người (hoặc nhân phẩm) là ở đạo đức và nội dung của đạo đức chính là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của người khác và của toàn thể xã hội”1 Đạo đức là một quan hệ xã hội có quy tắc, có chuẩn mực, có đánh giá, có giá trị, nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy, mà thông thường là nếp sống, phong tục, tập quán do một công đồng nhất định tạo thành khi chung sống với nhau. Các quan hệ đạo đức trong xã hội thường được điều chỉnh bởi các dư luận xã hội. Đó là những ý kiến, các trạng thái tinh thần tán thưởng hoặc phê phán của số đông người trong xã hội đối với một hành vi, một ý tưởng, một cảm xúc đạo đức của cá nhân hay của một nhóm người nhất định trong xã hội. Dư luận xã hội cũng truyền bá, chấp nhận hoặc phủ định các chuẩn mực, các giá trị nào đó trong một quan hệ xã hội nhất định. Dư luận xã hội có ảnh hưởng đặc biệt trong các quan hệ đạo đức của xã hội. Nó mang tính cổ vũ, định hướng, kìm trói rất rõ rệt. Nó có thể tạo nên giá trị hoặc phủ định. Dư luận xã hội thông thường là một con dao hai lưỡi. Nếu dư luận xã hội tốt thì sự phát triển đạo đức của xã hội lành mạnh. Nếu dư luận xã hội mang tính hạn chế chủ quan, thì có thể không phản ánh đúng các quan hệ đạo đức xã hội. Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này và người khác được điều chỉnh bằng dư luận xã hội. Đạo đức luôn luôn là quan hệ điều chỉnh các hành vi 96
  3. của con người trong sinh tồn và giao tiếp xã hội, là phương thức xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng của đạo đức là ý thức đạo đức. ý thức đạo đức phản ánh những thói quen, các tục lệ, các hành vi ứng xử của người này với người khác trong cộng đồng thông qua các chuẩn mực và quy tắc. Trong các hoạt động sống của con người, ý thức đạo đức thể hiện rõ trên hai bình diện: xã hội và cá nhân. Nhờ hệ thống các chuẩn mực, các quy tắc, đạo đức được điều chỉnh theo các thước đo nhất định xoay quanh các phạm trù thiện, ác, lương tâm, vinh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ và ý nghĩa cuộc sống. Cá nhân tự giác chấp nhận các chuẩn mực xã hội và xã hội thông qua các chuẩn mực đó mà gìn giữ sự phát triển và ổn định chung của xã hội. Mọi ý thức đạo đức đều được thể hiện thông qua các hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức vừa là biểu hiện của nhận thức và tình cảm đạo đức cá nhân, vừa bị chi phối bởi các chuẩn mực và quy tắc của xã hội. Quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá nhân. Sự lựa chọn tự do trong ứng xử giữa người này và người khác là do những tính cách quyết định. Mỗi người có một tính cách mang bản chất cá nhân sâu sắc. Mỗi tính cách đều bao hàm tính xác định của những nhu cầu, lợi ích, xu hướng nhất định thông qua các hoạt động sống của cá nhân. Tính cách là sản phẩm của quá trình đối tượng hoá và chủ thể hoá trong hoạt động thực tiễn của con người. Các hành vi đạo đức của con người tích cực hay tiêu cực gắn với các phẩm chất cả về mặt chất và lượng của nhân cách, nó vừa là hành vi tự điều chỉnh vừa là hành vi được điều chỉnh trong các mối quan hệ xã hội. Nếu ý thức đạo đức là sự ý thức về các tương quan lợi ích của cá nhân và cộng đồng, thì hành vi đạo đức luôn phục tùng tự nguyện ý thức đó. Mỗi chủ thể đạo đức không chỉ bao gồm mặt ý thức - mặt trí tuệ, mà còn bao gồm mặt tình cảm và mặt ý chí nữa. Mỗi hành vi đạo đức được thực hiện do ý thức soi sáng, tình cảm mách bảo và nghị lực được rèn luyện. Các hành vi ứng xử đạo đức của cá nhân đều có khuynh hướng tự bảo tồn thành nếp, tạo nên các tập quán. Tập quán đạo đức là nội dung xác định các hành vi đạo đức giữa người này và người khác được lặp đi lặp lại trong một cộng đồng xã hội do các điều kiện lao động, điều kiện sống, điều kiện giao tiếp tạo nên. Các tập quán đạo đức thông thường gắn với quá trình phát triển tổng thể lâu dài của các nhóm dân cứ có chung một lịch sử các quan hệ kinh tế và tâm lý. Tập quán đạo đức thể hiện một thói quen ứng xử được quy định bởi các giá trị văn hoá. Tập quán giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn, tập quán thăm hỏi nhau lúc ốm đau, trong các ngày giỗ, tết mang nội dung đạo đức xác định của các vùng, các miền văn hóa. Phong tục, tập quán là các hình thức biểu hiện ổn định của một nội dung đạo đức nhất định, nó gìn giữ một cách lâu dài các giá trị của cộng đồng. Tuy nhiên, ở vào những thời kỳ có biên chuyển xã hội lớn, các cuộc di cư, sự thay đổi các quan hệ văn hoá như sự áp đặt văn hoá, các cuộc cách mạng văn hoá, các thay đổi phổ biến rộng khắp về công nghệ, khoa học, kỹ thuật..thì nhiều tập quán đạo đức cũ sẽ biến đổi và tạo ra những tập 97
  4. quán, phong tục mới và do đó xuất hiện hệ thống đánh giá đạo đức mới phù hợp với sự biến đổi văn hoá. Đánh giá đạo đức là hoạt động thẩm định các hành vi, các quan hệ ứmg xử đạo đức phù hợp với các thước đo, các chuẩn mực, các quy phạm nhất định về mặt xã hội. Giá trị xã hội không phải do đánh giá mà có, nhưng đánh giá sẽ xác định các ứng xử, các quan hệ đạo đức nào được xã hội cho là đúng, là tốt, là đẹp. Hành vi đạo đức luôn liên quan tới các lợi ích. Vì thế, các giá trị đạo đức có quan hệ với các cách thức đánh giá khác nhau. Trong đánh giá đạo đức về hành vi có đánh giá về mặt khách quan và đánh giá về mặt chủ quan. Sự đánh giá mặt khách quan của hành vi tương đỗi dễ. Cái chuẩn chính của nó là lợi ích chung của xã hội, tức là cái mà mọi người đều thấy đúng, thấy tốt và thấy đẹp. Song, đằng sau mặt khách quan của hành vi. Có hành vi đạo đức, nhìn về mặt khách quan là thiện, nhưng đằng sau đó, tính chất vụ lợi, tính chất ích kỷ lại là động cơ thực sự. Vì vậy, sự đánh giá đạo đức trong các môi trường văn hoá đều có sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Mọi hành vi và hoạt động của con người nếu gắn với nguyên lý “Không làm điều gì cho người khác cái mà mình không muốn” thì đều là những hành vi có giá trị đạo đức. Có thể nói, về bản chất, giá trị đạo đức thống nhất với cái có ích mang tính tự nguyên, tự giác của hành vi. Tính chất vô tư của mọi hành vi được xem là bản chất của những giá trị đạo đức. Hành vi đạo đức có cơ chế điều chỉnh là các tư tưởng đạo đức. Tư tưởng đạo đức là những quan niệm có tính chất lý luận về các quan hệ đạo đức, về tương quan giữa các lợi ích, về đánh giá và định hướng hành vi. Tư tưởng đạo đức là ý thức đạo đức ở trình độ khái quát lý luận, chi phối các lợi ích, gắn bó chặt chẽ với hệ tư tưởng. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, tư tưởng đạo đức vừa phản ánh tồn tại xã hội, vừa có mối quan hệ mật thiết với tư tưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng đạo đức cũng như tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nghệ thuật, đều là sự phản ánh một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Dưới các hình thức phản ánh khác nhau, các tư tưởng ấy đều biểu hiện các lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền, đạo đức của một dân tộc, một giai cấp, một thời đại nhất định. Sự tương tác giữa tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức, tư tưởng tưởng pháp quyền, tư tưởng triết học, tư tưởng tôn giáo, tư tưởng khoa học tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các hình thái ý thức xã hội. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tư tưởng đạo đức có tính độc lập tương đối so với cơ sở kinh tế và trong tương quan với tư tưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Biểu hiện rõ rệt nhất của tính độc lập tương đối ấy là một số truyền thống, ít nhiều phong tục, tập quán và thước đo giá trị đã mất đi. Nhiều quan hệ đạo đức vẫn còn tác dụng giữ gìn sự phát triển của các mối quan hệ nhân bản giữa con người với con người, khi điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội đã qua đi lâu rồi. Có thể nói, khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng bao gồm các hành vi đạo đức, tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, lý tưởng đạo đức.... 98
  5. Sự biến đổi của các quan hệ đạo đức trong xã hội phụ thuộc vào phương thức sản xuất của xã hội. Đạo đức phát sinh và phát triển do nhu cầu của xã hội, đặc biệt là các nhu cầu về lao động, về sản xuất, về sinh tồn, về giao tiếp. Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra các quan hệ đạo đức bình đẳng nguyên thuỷ. Lúc ấy, cá nhân con người hoà nhập với cuộc sống của cộng đồng nguyên thuỷ. Chủ nghĩa tập thể nguyên thuỷ tạo ra các quan hệ đạo đức gắn con người với tự nhiên và với cộng đồng của mình, cá nhân không tách khỏi cộng đồng. A.Mac và Ph. Ăngghen thường nói đến đạo đức của các hình thái xã hội cổ điển, ở đó con người vẫn gắn chặt với cuống rốn cộng đồng. Trong hình thái xã hội chưa có sự phân chia giai cấp không có hiện tượng người bóc lột người. Con người cùng nhau hái lượm, đánh bắt muông thú, chim cá và ăn ở tập thể. Các phong tục, tập quán, uy tín, sự tôn kính nhau, sự giúp đỡ nhau tự nguyện là hiện tượng đạo đức phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ. Trong thị tộc nguyên thuỷ, các quan hệ đạo đức bình đẳng, nhất trí, đoàn kết là nghĩa vụ. Nhiều nhà nghiên cứu đạo đức nguyên thuỷ đều cùng có chung một nhận xét rằng: các quan hệ giữa người và người trong các xã hội nguyên thuỷ rất thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm, theo đúng nghĩa vụ. Tất nhiên, bên cạnh những quan hệ đạo đức thuần phác, nguyên thuỷ, trong xã hội thị tộc còn có tục lệ người ăn thịt người, con người đối xử với con người trong tình trạng lạc hậu, dã man. Sự quần hôn, tạp hôn..phản ánh một xã hội chưa phát triển về các tri thức khoa học. Các quan hệ đạo đức trong xã hội có giai cấp gắn với phân công lao động, sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hộ lô lệ đã tạo ra các quan hệ đạo đức: Chủ nô và nô lệ, gia đình một vợ một chồng, hoặc là có vợ chồng riêng, không tạp hôn, đồng thời sinh mệnh con người tuy là nô lệ nhưng không ăn thịt nhau. Lao động kiểu nô lệ đã tạo nên quan hệ đạo đức chủ nô và nô lệ. Người nô lệ là một vật mua bán, không có đạo đức, không có quyền bình đẳng. Phụ nữ cũng trong tình trạng đó dưới xã hội nô lệ. Các quan hệ đạo đức trong xã hội nô lệ tạo ra sự bất bình đẳng to lớn. Phương thức sản xuất phong kiến đã tạo ra các quan hệ đạo đức phong kiến: địa chủ và nông nô. Các quan hệ đạo đức dưới chế độ phong kiến cả ở phương Đông và phương Tây đều có sự bất bình đẳng giới tính, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng dân tộc. Xã hội phong kiến là một xã hội có sự thống trị của sự cưỡng bức siêu kinh tế. Bầy tôi phải trung thành với vua, chư hầu phải trung thành với thiên tử, nông dân phải trung thành với địa chủ. Trung thành là khái niệm đạo đức cơ bản gắn với những lợi ích siêu kinh tế trong xã hội phong kiến. Thiết chế đạo đức ở các xã hội phong kiến phương Đông như một gia đình mở rộng. Vua là cha mẹ dân. Vua là thiên tử, là con trời. Vua cho sống thì được sống, vua bắt chết phải chết. Chết cho vua, chết vì vua là một giá trị đạo đức được dư luận xã hội đồng tình. 99
  6. Khác với các quan hệ đạo đức phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra các quan hệ đạo đức tư bản chủ nghĩa. Đó là một quan hệ đạo đức coi trọng tự do cá nhân nhưng gắn với lợi nhuận. Với sự phát triển của công nghiệp, đạo đức trong xã hội tư bản gắn với các quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân. Nhà tư bản là quan trọng nhất. Do gắn với lợi ích nhà tư bản mà các vấn đề cưỡng bức lao động, bóc lột lao động đã tạo nên sự bần cùng to lớn trong đời sống của những người lao động. Sự quốc tế hoá việc bóc lột giá trị thặng dư, sự mở rộng thị trường đã tạo ra các quan hệ vô đạo đức to lớn trong xã hội tư bản. Chủ nghĩa đế quốc đã đàn áp, bóc lột nhân dân các nước thuộc địa, tạo nên sự đảo lộn các giá trị đạo đức to lớn trong lịch sử nhân loại và đặt ra vấn đề xây dựng các quan hệ đạo đức mới trong xã hội - xã hội sau chế độ tư bản... 1.2. Đạo đức học Đạo đức học là một trong những môn lý thuyết cổ xưa nhất mà đối tượng nghiên cứu của nó là đạo đức, là tính tất yếu của lịch sử sự hình thành và phát triển đạo đức. Đạo đức xuất hiện trong thời kỳ hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ, nó tách khỏi ý thức tự phát của xã hội như một môn khoa học “thực hành” chỉ dẫn cách ứng xử, khác với tri thức thuần tuý về thực tại. Nhìn chung, các học thuyết đạo đức đã có trước đây là những kiến giải duy tâm, siêu hình, để ra những quy tắc đạo đức vĩnh viễn cho mọi thời đại, dân tộc, giai cấp và tập đoàn người, nhu cầu tự nhiên của con người, khát vọng về tình cảm bẩm sinh của con người, nhưng con người của họ là con người trừu tượng, phi lịch sử. Vì vậy, tuy có những yếu tố duy vật, song nói chung vẫn là quan niệm duy tâm. Tóm lại, có những học thuyết tìm cơ sở đạo đức bên ngoài tồn tại của con người, trong mệnh trời, ý chí của thần thánh, họ cho rằng, nhiệm vụ của đạo đức là nghiên cứu cái đáng có chứ không nghiên cứu cái có thực, thuyết đó đã phủ nhận cơ sở hiện thực, tính quy định xã hội của đạo đức, tính giai cấp của đạo đức trong xã hội có giai cấp. - Nhiệm vụ chủ yếu của đạo đức học là nhận thức đạo đức trong tất cả các hình thái của nó, nghiên cứu quy luật hình thành và phát triển của đạo đức về lý luận và thực tiễn. Hoàn thành nhiệm vụ đó, đạo đức học phải có một nhận thức khoa học về xã hội. Để tiến tới một khoa học thực sự, đạo đức học phải trải qua một lịch sử đấu tranh phức tạp, đa dạng. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, những tiền đề xác lập cơ sở khoa học của đạo đức học đã được hình thành. - Bắt đầu từ chủ nghĩa Mác, con người đứng ở trung tâm của trí thức triết học, từ đó toả ra những sợi dây thông qua xã hội, nối liền con người với toàn bộ vũ trụ, những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Duy vật về con người được xác lập. + Điều kiện quyết định sự hình thành con người là lao động. Lao động làm biến đổi toàn bộ bản chất tự nhiên của tổ tiên con người. Lao động đưa đến hình thành chất xã hội của con người như: ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp. Lao động đưa đến sự cải tạo bản năng của con người. + Từ lao động dẫn đến hình thành con người có lý tính và con người mang tính xã hội, bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng vốn có của một cá nhân 100
  7. riêng biệt. Trong hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà của tất cả những quan hệ xã hội. - Chủ nghĩa Mác cho rằng chỉ có con người tồn tại thực sự mới là giá trị cao nhất, là kẻ duy nhất sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Nhưng những cá thể sống và hoạt động không tách rời nhau mà gắn bó với nhau trong xã hội - nghĩa là trong hệ thống mối quan hệ qua lại tất yếu đang tồn tại khách quan, trong đó quan hệ sản xuất là yếu tố chủ yếu của tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội của con người mà đạo đức xã hội là một trong những hình thức đó. Vì vậy, phải tìm nguồn gốc đạo đức ở trong tồn tại xã hội, trong thế giới hiện thực, trong những điều kiện vật chất của đời sống con người. Phải tìm nguồn gốc đạo đức trong sự biến đổi, phát triển của phương thức sản xuất, nhân tố có ý nghĩa quyết định các quan hệ xã hội khác. Ăng ghen đã chỉ rõ “Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại thì mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”. - Trên cơ sở những quan điểm khoa học về xã hội của triết học Mác, hiện nay có hai khuynh hướng khác nhau khi định nghĩa đạo đức học: khuynh hướng thứ nhất là định nghĩa đạo đức học không tách đạo đức Mác - Lênin ra khỏi đạo đức học nói chung. Khuynh hướng thứ hai là định nghĩa đạo đức học riêng và đạo đức học Mác – Lê nin riêng. Trong hai khuynh hướng đó, khuynh hướng định nghĩa đạo đức học không tách rời đạo đức học Mác - Lênin ra khỏi đạo đức học được nhiều người thừa nhận. “Đạo đức học là khoa học triết học nghiên cứu đạo đức, làm rõ vai trò đạo đức trong hệ thống các quan hệ xã hội, nguồn gốc và sự phát triển đạo đức trong lịch sử cũng như trong cơ sở lý luận của chúng trong hệ thống đạo đức cụ thể”. 2. Khái niệm đạo đức y học: - Đạo đức y học là một bộ phận của đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức y học không phải là tổng hợp các quy tắc, quy định về cách sử xự nghề nghiệp của người thầy thuốc, về những trách nhiệm công dân của người thầy thuốc. Đạo đức y học hay y đức: “Cách xử thế hay các hành vi của người thầy thuốc trong khi hành nghề hàng ngày, nghĩa là trong khi tiếp xúc với các người bệnh, chữa bệnh, chăm sóc họ và qua họ chăm sóc sức khoẻ của gia đình họ, cho cộng đồng xã hội trong đó có họ sinh sống hàng ngày, tuỳ theo vị trí của người thầy thuốc làm công tác y tế trong một cơ quan nhà nước, ở trạm y tế cơ sở hay một thầy thuốc làm tư, người thầy thuốc gia đình”. - Sự xuất hiện và phát triển đạo đức y học liên hệ với yêu cầu của y học thực hành và phụ thuộc vào tính chất của phương thức sản xuất. Khi phương thức sản xuất thay đổi thì đạo đức y học thay đổi cơ bản. Ngày nay, đất nước ta đang trên con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, đạo đức người thầy thuốc Việt Nam Chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa tiêu chuẩn đạo đức chung và tiêu chuẩn đạo đức y học. Nói cách khác, trong bộ luật đạo đức xây dựng Chủ nghĩa xã hội đối với người thầy thuốc là có tính chất nghề nghiệp. 101
  8. - Mọi người đều biết rằng đạo đức nói chung, và đạo đức y học hay y đức nói riêng, không cố định bất di bất dịch; Chúng thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, tâm lý. - Nhu cầu về đạo đức y học trong y đức xuất phát từ tinh thần nhân đạo, đặc trưng của loài người; Sự tôn trọng đời sống con người mà mọi sự tổn thất gây nên sẽ không thể phục hồi lại nguyên vẹn được; Sự tôn trọng con người mà không một người máy nhân tạo nào, dù tinh xảo đến mấy, có thể so sánh được. 3. Những nguyên lý về đạo đức y học: Nghề y từ lâu đã chấp thuận một số những tuyên bố về đạo đức được hình thành và phát triển chủ yếu của người bệnh. Là thành viên của ngành này người thầy thuốc phải chấp nhận thức được trách nhiệm trước tiên và trên hết của mình với bệnh nhân ,đồng thời trách nhiệm đối với xã hội, với đồng nghiệp khác và đối với chính bản thân mình. Những nguyên lý về đạo đức y khoa sau đây không phải là những điều luật, mà là các tiêu chuẩn về đạo đức ứng xử, mô tả các điểm chủ yếu trong phong cách và hành vi rất đáng tôn kính của người thầy thuốc. 3.1. Người thầy thuốc phải cống hiến đời mình cho việc chăm sóc y khoa, có trình độ cao, đi đôi với tình thương và lòng trắc ẩn, cùng sự tôn trọng các quyền lợi và phẩm giá của người bệnh. 3.2. Người thầy thuốc phải luôn vững và đề cao các tiêu chuẩn của sự chuyên nghiệp, trung thực trong quan hệ với các đồng nghiệp, đấu tranh tố giác những biểu hiện thoái hóa về phẩm chất, yếu kém về chuyên môn, những mánh khóe gian lận và lừa bịp đến các bộ phận có trách nhiệm 3.3. Người thầy thuốc phải tuân thủ luật pháp, nhưng đồng thời cũng cần nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc tìm cách thay đổi những yêu cầu và đòi hỏi đi ngược lại quyền lợi và lợi ích của người bệnh. 3.4. Người thầy thuốc cần phải tôn trọng các quyền của người bệnh, quyền của các đồng nghiệp, của các nhân viên y tế khác, phải bảo vệ những điều riêng tư và thầm kín của người bệnh theo khuôn khổ của pháp luật. 3.5. Người thầy thuốc cần phải nghiên cứu, học hỏi liên tục ,áp dụng và góp phần thúc đẩy các tiến bộ khoa học, duy trì giao ước của mình với nền giáo dục y khoa, làm sao cho những thông tin xác đáng có thể đến được với người bệnh, với đồng nghiệp, với công chúng. Phải mời hội chẩn, và sử dụng tài năng của các chuyên viên y tế khác khi có chỉ định. Biển học y khoa vô cùng, người thầy thuốc phải luôn ôn tập và cập nhật kiến thức của mình. Người thuốc phải luôn chú ý đào tạo và truyền thụ kinh nghiệm, kiến thức của mình cho lớp đàn em. Người thầy thuốc phải luôn nghiên cứu khoa học, đam mê tìm tòi, học hỏi, áp dụng những tiến bộ y học vào điều trị và góp phần bé nhỏ của mình thúc đẩy các tiến bộ trong y học 102
  9. 3.6. Người thầy thuốc cần nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc tham gia vào các hoạt động góp phần cải thiện sức khỏe cộng đồng. 3.7. Người thầy thuốc khi chăm sóc cho người bệnh, phải xem trách nhiệm của mình đối với bệnh nhân là điều tối thượng. Chăm sóc bệnh nhân với sự đồng cảm, tình thương và lòng trắc ẩn. 3.8. Người thầy thuốc cần ủng hộ để tất cả mọi người đều có thể tiếp cận được sự chăm sóc y tế. 4. Những quan niệm về đạo đức ứng dụng trong chăm sóc Điều dưỡng Đạo đức Điều dưỡng quy định những chuẩn mực chi phối quyết định và hành vi Điều dưỡng. Đạo đức Điều dưỡng phải phù hợp với tính đa dạng của công tác Điều dưỡng một cách xác đáng. Phạm vi Điều dưỡng bao gồm mọi khía cạnh của công tác chăm sóc con người chứ không chỉ việc chăm sóc người bệnh. Vì vậy vai trò Điều dưỡng trong công tác Điều dưỡng ngày càng lớn, đòi hỏi các Điều dưỡng viên phải đối mặt với những vấn đề phức tạp hơn về đạo đức. Các quy định về Điều dưỡng tạo điều kiện cho Điều dưỡng viên có sự lựa chọn đúng đắn. Mọi tiền đề lý luận cơ bản về Điều dưỡng giúp cho người Điều dưỡng đưa ra quyết định đúng trong chăm sóc. Lý luận cơ bản bao gồm 4 nguyên tắc chính sau: Quyền tự quyết, không được làm điều xấu có hại cho người bệnh, làm mọi việc có lợi cho sức khoẻ người bệnh và bình đẳng, vô tư. Những nguyên tắc này dẫn dắt các hành vi đạo đức. Những vấn đề nảy sinh trong công tác chăm sóc sức khoẻ đã thử thách năng lượng của Điều dưỡng trong việc tuân thủ các nguyên tắc trên. Ví dụ: Một người bệnh có thể từ chối thuốc, Điều dưỡng viên phải tìm cách thuyết phục họ dùng thuốc. Vì vậy Điều dưỡng viên phải chuẩn bị thật tốt về kiến thức, kỹ năng để phục vụ, thuyết phục họ. - Quyền tự quyết : Là quyền tự do hành động của người bệnh (ví dụ: Quyền của người bệnh trong việc viết giấy cam đoan) thái độ của Điều dưỡng viên là ủng hộ người bệnh, khuyến khích họ đưa ra quyết định. - Không được làm điều xấu có hại cho người bệnh: Cân nhắc, thận trọng, tránh gây nguy cơ có hại hoặc tai biến trong khi chăm sóc người bệnh. Sử dụng các tiến bộ kỹ thuật để giảm nguy cơ có hại cho người bệnh. - Làm mọi việc có lợi cho sức khoẻ người bệnh: Tìm mọi cách giúp đỡ người bệnh tốt nhất. - Bình đẳng, vô tư: Đảm bảo chăm sóc công bằng cho người bệnh. Đạo đức là một hệ thống với các tiêu chuẩn nghề nghiệp mà mọi người Điều dưỡng phải hiểu biết một cách cặn kẽ để hướng dẫn tất cả hành vi của mình quy về một mục tiêu chung trong suốt quá trình hành nghề. Đạo đức còn là một ngành khoa học (khoa học về hành vi) bản thân đạo đức luôn luôn tồn tại do những quy luật để dẫn con người hướng đến những điều tốt đẹp. - 4 trách nhiệm cơ bản của người điều dưỡng: + Nâng cao sức khoẻ. 103
  10. + Phòng bệnh + Phục hồi sức khoẻ + Làm giảm đau đớn cho người bệnh - Đặc tính của chăm sóc Điều dưỡng: Để việc chăm sóc được thực hiện, đạo đức người Điều dưỡng phải có tính đặc biệt và thái độ nghề nghiệp : + Tôn trọng nhân phẩm và quyền con người. + Không bị giàng buộc bởi quy định tín ngưỡng, màu da, địa vị xã hội… + Người Điều dưỡng cùng kết hợp với cán bộ y tế khác chăm sóc sức khoẻ cho từng cá nhân và cộng đồng. 5. Quy tắc về đạo đức - Gồm những chuẩn mực về ứng xử, những trách nhiệm đặc biệt cho người làm công tác chăm sóc sức khoẻ cho người bệnh. - Gồm những quy định đạo đức được mọi người trong nghề chấp thuận. Những quy định này chỉ ra những điều mà Điều dưỡng viên phải cân nhắc trước khi hành động. - Điều dưỡng viên có trách nhiệm và bổn phận với ca chăm sóc được giao. - Trách nhiệm nghề nghiệp được thể hiện: + Đánh giá việc thực hiện chuyên môn. + Duy trì chuẩn mực về chăm sóc. + Tạo thuận lợi cho các phản ánh cá nhân và sự phát triển của cá nhân trong tập thể y tế . 6. Định hướng nghề Điều dưỡng Điều dưỡng là một nghề dịch vụ sức khoẻ cộng đồng. Tổ chức Y tế thế giới đánh giá dịch vụ chăm sóc sức khoẻ do Điều dưỡng - hộ sinh cung cấp là một trong những trụ cột của hệ thống dịch vụ Y tế nên đã đưa ra nhiều nghị quyết về củng cố và tăng cường dịch vụ Điều dưỡng - hộ sinh toàn cầu. Phát triển nguồn nhân lực Điều dưỡng có trình độ được coi là một chiến lược quan trọng để tăng cường sự tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ Y tế, cũng như đảm bảo công bằng xã hội trong Y tế. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo các nước xây dựng và củng cố ngành Điều dưỡng theo các định hướng cơ bản sau đây. 6.1. Điều dưỡng là một nghề chuyên nghiệp: - Y học ngày càng phát triển đòi hỏi phải nâng cao kiến thức và trình độ chuyên nghiệp của Điều dưỡng. + Việc nâng cao trình độ chuyên nghiệp của Điều dưỡng ở bậc đại học và sau đại học đã tạo ra sự thay đổi về mối quan hệ giữa người thầy thuốc và người Điều dưỡng. + Người Điều dưỡng trở thành người cộng sự của thầy thuốc, một thành viên của nhóm chăm sóc thay vì chỉ là người thực hiện y lệnh. - Nghề Điều dưỡng với bản chất nghề nghiệp là chăm sóc, nuôi dưỡng, đáp ứng nhu cầu cơ bản cho người bệnh giúp họ nhanh chóng trở về trạng thái bình thường khoẻ mạnh. 104
  11. - Đối tượng phục vụ của người Điều dưỡng là con người. Đối tượng phục vụ này đòi hỏi người Điều dưỡng phải có kiến thức, kỹ năng, thái độ thích hợp để đảm đương công việc hết sức nặng nề và vinh quang này mà Đảng và Nhà nước giao phó: + Duy trì. + Bảo Vệ. + Nâng cao tình trạng sức khoẻ của nhân dân. - Điều dưỡng là một khoa học về chăm sóc người bệnh. - Người Điều dưỡng không phải là bác sỹ thu nhỏ về phương diện kiến thức và kỹ năng, nói một cách khác kiến thức và kỹ năng của người thầy thuốc sẽ vừa thừa vừa thiếu đối với người Điều dưỡng. Do bởi hai nghề có định hướng khác nhau về vai trò nghiệp vụ. + Vai trò chính của bác sỹ là chẩn đoán và điều trị vai trò chính của người Điều dưỡng là chăm sóc và đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người bệnh về thể chất và tinh thần. + Do đó đào tạo một đội ngũ giảng viên là Điều dưỡng để giảng dạy Điều dưỡng trong tương lai là một trong những chính sách thiết yếu để phát triển nghề Điều dưỡng ở Việt Nam. - Người làm công tác Điều dưỡng phải trải qua một quá trình đào tạo thích đáng về nghề nghiệp, trong các trường đào tạo tin cậy để được trang bị các kiến thức khoa học y học và Điều dưỡng. 6.2. Điều dưỡng là một ngành học: - Do đặc thù của nghề Điều dưỡng là làm các công việc chăm sóc từ đơn giản nhất đến những công việc phức tạp. + Từ việc thay ga trải giường tới các công việc nghiên cứu, quản lý, đào tạo và trở thành những chuyên gia Điều dưỡng lâm sàng có trình độ. + Nên các nước đã đào tạo Điều dưỡng ở các trình độ từ sơ học đến trung học, đại học và sau đại học để đáp ứng nhu cầu hành nghề. + Ngày nay Điều dưỡng không chỉ là một nghành học có nhiều chuyên khoa như Điều dưỡng nhi, Điều dưỡng phòng mổ, Điều dưỡng cộng đồng, Điều dưỡng tâm thần và nhiều nước còn áp dụng đào tạo hộ sinh là một chuyên khoa của Điều dưỡng. - Phạm vi hành nghề của Điều dưỡng được pháp luật quy định. + Bao gồm luật về phạm vi hành nghề và đạo đức nghề Điều dưỡng. Những quy định này là rất cần thiết đề người Điều dưỡng thực hiện đúng nghĩa vụ nghề nghiệp của mình đối với xã hội, đồng thời người Điều dưỡng cũng được pháp luật bảo vệ trong quá trình hành nghề. - Nước ta, trước đây do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài nên mãi tới những năm 1990 ngành Điều dưỡng mới có cơ hội để tiếp cận với nghành Điều dưỡng thế giới và khu vực . + Trong thập kỷ vừa qua, Chính Phủ và Bộ Y tế đã quan tâm xây đựng ngành Điều dưỡng và đã tạo điều kiện cho ngành Điều dưỡng rút ngắn được sự tụt hậu so với các nước khu vực như: 105
  12. + Đã hình thành mạng lưới quản lý và chỉ đạo Điều dưỡng từ bộ đến các sở Y tế các bệnh viện và các khoa. + Đã có hệt hống trường đào tạo ở các bặc. Quyết định của chính phủ về việc thành lập trường đại học Điều dưỡng Nam Định là một chính sách rất quan trọng đặt nền móng cho nghành Điều dưỡng Việt Nam phát triển và hội nhập. + Các mô hình chăm sóc toàn diện đang được thực hiện đã góp phần làm tăng chất lượng dịch vụ Điều dưỡng và qua đó động viên toàn xã hội có sự nhìn nhận về vai trò của người Điều dưỡng và nghành Điều dưỡng ngày càng rõ nét. + Kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường công tác Điều dưỡng - hộ sinh đến 2020 sẽ là cơ sở cho việc xây dựng những chính sách phát triển nguồn nhân lực Điều dưỡng cũng như đầu tư phát triển ngành Điều dưỡng 6.3. Nhu cầu nhân lực điều dưỡng: Tính đến tháng 5 năm 2010 Cả nước hiện có khoảng10 trường ĐH, 20 trường CĐ đào tạo ngành điều dưỡng. ở hệ trung cấp, ngành này còn được đào tạo tại nhiều cơ sở khác. Ngoài các trường công lập, Bộ còn giao chỉ tiêu đào tạo ngành này cho các trường dân lập. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Y tế, số cán bộ y tế bậc đại học (trong đó có cả điều dưỡng) ra trường hàng năm vào thời điểm 2015 vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển của các cơ sở y tế công lập và tư nhân; Kể cả trong điều kiện lý tưởng là tất cả học viên ra trường đều đi làm và được tuyển dụng đồng đều giữa các vùng miền. Như vậy, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo hiện nay còn xa mới đạt được nhu cầu phát triển xã hội, nhất là với đội ngũ cán bộ y tế có trình độ ĐH trở lên. ở khu vực bệnh viện, tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ cần đạt 2,5/1 đến 3,5/1, tuy nhiên con số này ở nước ta mới chỉ đạt 1,27/1. Càng ở bệnh viện tuyến trên, con số này lại càng thấp gây nhiều khó khăn. Chính vì vậy, để phát triển nhân lực y dược, đáp ứng nhu cầu xã hội, nước ta phấn đấu năm 2015 đạt tỷ lệ 20 điều dưỡng từ trung cấp trở lên/10.000 dân và năm 2020 đạt tỷ lệ 25 điều dưỡng. LƯỢNG GIÁ I. Câu hỏi tự luận: Câu 1: Trình bày khái niệm về đạo đức, đạo đức học? Câu 2: Trình bày khái niệm về đạo đức y học? Câu 3: Trình bày những nguyên lý về đạo đức y học? Câu 4: Trình bày quan niệm về đạo đức y học? Câu 5: Trình bày quy tắc về đạo đức và định hướng nghề điều dưỡng? II. Câu hỏi trắc nghiệm: Hãy chọn đáp án đúng nhất cho các câu hỏi sau đây: Câu 6: Sống đúng luân thường là có đức thuộc câu nói của nhà triết gia nào sau đây? A. Khổng tử. B. Lão tử. 106
  13. C. C. Mác. D. V. Lênin. E. Ph. Ăngghen. Câu 7: Tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hòa với mọi người là có đức là câu nói của nhà triết gia nào sau đây? A. Ph. Ăngghen. B. Khổng tử. C. Lão tử. D. C. Mác. E. Martin Heigdergger. Câu 8: “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, những tiêu chuẩn, những khuôn phép, những mẫu mực về hạnh kiểm, phong cách hay hành vi có liên quan đến bổn phận, đến trách nhiệm của con người đó với xã hội, với bản thân mình” là quan điểm của nhà triết học nào sau đây? A. Hêghen. B. Martin Heigdergger. C. G. Bandzeladze. D. Ph. Ăngghen. E. Mác - Lê nin. Câu 9: Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội... là quan điểm của nhà triết gia nào sau đây? A. Hypocrater B. Hêghen. C. Martin Heigdergger. D. Ph. Ăngghen. E. G. Bandzeladze. Câu 10: Có 4 trách nhiệm cơ bản của người điều dưỡng nào sau đây trong chăm sóc và nâng cao sức khỏe người bệnh? Loại trừ : A. Nâng cao sức khoẻ. B. Phòng bệnh. C. Phục hồi sức khoẻ. D. Làm giảm đau đớn cho người bệnh. E. Khám và điều trị cho người bệnh. 107
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2