intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khai thác sáng chế: Góc nhìn từ ngành dược phẩm Ấn Độ

Chia sẻ: Long Nguyễn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

35
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc khai thác sáng chế, thông tin sáng chế phục vụ cho phát triển. Đây cũng là một cách làm mà Việt Nam có thể học hỏi để phát triển hệ thống sáng chế nhằm phục vụ mục tiêu đổi mới sáng tạo mà Chính phủ đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khai thác sáng chế: Góc nhìn từ ngành dược phẩm Ấn Độ

Diễn đàn khoa học và công nghệ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Khai thác sáng chế:<br /> Góc nhìn từ ngành dược phẩm Ấn Độ<br /> Phùng Minh Hải<br /> Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ<br /> <br /> <br /> Bài viết giới thiệu kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc khai thác<br /> sáng chế, thông tin sáng chế phục vụ cho phát triển. Đây cũng là<br /> một cách làm mà Việt Nam có thể học hỏi để phát triển hệ thống<br /> sáng chế nhằm phục vụ mục tiêu đổi mới sáng tạo mà Chính phủ<br /> đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ.<br /> <br /> Một số kết quả nổi bật của ngành<br /> dược phẩm Ấn Độ<br /> Ấn Độ là một quốc gia có nền<br /> công nghiệp dược phẩm ra đời<br /> khá sớm và phát triển trên thế<br /> giới. Sở dĩ đạt được điều này vì<br /> Chính phủ Ấn Độ đã khuyến<br /> khích các công ty trong nước<br /> sản xuất thuốc từ những năm<br /> đầu thập niên 60 của thế kỷ XX,<br /> vì sau khi giành độc lập từ Anh<br /> vào năm 1947, Ấn Độ phải đối<br /> mặt với nhiều khó khăn do kinh tế<br /> nghèo nàn, vấn đề cung cấp dịch<br /> vụ chăm sóc sức khỏe cho người<br /> dân là một bài toán hóc búa và<br /> cấp thiết đối với các nhà lãnh đạo Ngành dược phẩm Ấn Độ được dự đoán đạt 55 tỷ USD vào năm 2020.<br /> quốc gia này khi đó...<br /> Hiện nay, Ấn Độ có một vị trí cầu về các loại vắc xin, 40% nhu Ngành dược phẩm Ấn Độ<br /> quan trọng trong lĩnh vực dược cầu thuốc gốc ở Mỹ và 25% tất cả được định giá 33 tỷ USD vào<br /> phẩm toàn cầu và đang là nhà các loại thuốc ở Anh. Hiện có hơn năm 2017, và được dự đoán đạt<br /> cung cấp thuốc gốc (generic 80% thuốc kháng vi rút được sử 55 tỷ USD vào năm 2020.  Năm<br /> drug)1 lớn nhất thế giới.  Ngành dụng trên toàn cầu để chống lại 2018, xuất khẩu dược phẩm của<br /> công nghiệp dược phẩm Ấn Độ AIDS (hội chứng suy giảm miễn Ấn Độ đạt 17,27 tỷ USD, và chỉ<br /> cung cấp hơn 50% nhu cầu toàn dịch mắc phải) được cung cấp bởi trong 6 tháng đầu năm 2019<br /> các công ty dược phẩm Ấn Độ2. giá trị xuất khẩu của ngành này<br /> 1<br /> https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuốc_gốc# đã đạt hơn 15 tỷ USD.  Các mặt<br /> targetText=Thuốc%20gốc%20(generic%20<br /> drug)%20là,được%20bán%20với%20giá%20 2<br /> https://www.ibef.org/industry/pharmaceutical<br /> hàng dược phẩm xuất khẩu của<br /> rẻ. -india.aspx. Ấn Độ bao gồm thuốc (chiếm số<br /> <br /> <br /> <br /> 9<br /> Số 3 năm 2020<br /> Diễn đàn Khoa học và Công nghệ<br /> <br /> <br /> lượng lớn), công thức thuốc, các hệ thống quản lý bằng sáng chế cho công ty khác sản xuất thuốc<br /> sản phẩm thảo dược... Doanh đầu tiên của Ấn Độ. Cũng như đó nếu chúng (1) không đáp ứng<br /> thu từ thị trường dược phẩm trong Luật Sáng chế năm 1856 và tất đủ nhu cầu sử dụng thuốc và tiếp<br /> nước của Ấn Độ đạt hơn 18 tỷ cả các lần sửa đổi tiếp theo, Luật cận thuốc của người dân; (2) giá<br /> USD trong năm 2018, tăng hơn Bằng sáng chế quy định về việc thuốc quá cao so với khả năng<br /> 9% so với cùng kỳ năm 2017. cấp bằng sáng chế các sản phẩm chi trả của người dân; (3) đang<br /> Các công ty Ấn Độ đã được phê dược phẩm và cho phép các công thực hiện sản phẩm được bảo hộ<br /> duyệt hơn 300 đơn xin cấp phép ty nước ngoài ngăn chặn việc sản sáng chế trên lãnh thổ Ấn Độ.<br /> thuốc mới (ANDA) từ Cục Quản xuất thuốc được cấp bằng sáng Thay vì công nhận các bằng<br /> lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ chế của họ ở Ấn Độ. Tuy nhiên, sáng chế gồm quy trình và sản<br /> (FDA) năm 2017. Quốc gia này sau khi giành độc lập năm 1947, phẩm - vốn là tiêu chuẩn của các<br /> chiếm khoảng 30% (theo khối Ấn Độ phải đối mặt với sự nghèo quốc gia phát triển, Luật Sáng<br /> lượng) và khoảng 10% (giá trị) thị đói, dân số đông, thiếu dịch vụ y chế 1970 của Ấn Độ chỉ bảo vệ<br /> trường thuốc gốc của Mỹ với giá tế... nên các nhà lãnh đạo Ấn Độ các bằng sáng chế liên quan đến<br /> trị hàng chục tỷ USD. Xuất khẩu đã đánh giá lại Luật Bằng sáng quy trình mà không bảo hộ sản<br /> của ngành công nghiệp dược chế năm 1911 và thay thế nó phẩm. Theo Luật này, các nhà<br /> phẩm Ấn Độ sang Mỹ được dự bằng Luật Sáng chế năm 1970 sản xuất thuốc Ấn Độ có thể sao<br /> báo sẽ tiếp tục tăng mạnh, vì các (có hiệu lực từ năm 1972), tạo chép các sản phẩm dược phẩm<br /> loại thuốc mới có giá trị hơn 50 tỷ nên những thay đổi to lớn đối với được cấp bằng sáng chế ở nước<br /> USD sẽ được cấp bằng sáng chế ngành dược phẩm. ngoài, dẫn đến sự bùng nổ trong<br /> trong giai đoạn 2019-2020. sản xuất thuốc và sản phẩm<br /> Năm 1970, dưới sức ép của<br /> Chính phủ Ấn Độ đã công bố các công ty trong nước chuyên thuốc gốc ở quốc gia này. Từ năm<br /> “Tầm nhìn Pharma 2020” nhằm sản xuất các loại thuốc tương tự 1978, Ấn Độ vươn lên trở thành<br /> mục đích đưa nước này trở thành các loại thuốc được sản xuất ở trung tâm hàng đầu về sản xuất<br /> quốc gia hàng đầu thế giới về phương Tây, Chính phủ của Thủ thuốc gốc.<br /> sản xuất thuốc từ đầu đến cuối. tướng Indira Ghandi đã cấm việc Tại Ấn Độ, theo Luật Sáng chế<br /> Để đạt được những thành tựu bảo hộ sáng chế đối với các sản năm 1970 thời gian bảo hộ sáng<br /> nêu trên, Chính phủ Ấn Độ đã phẩm dược phẩm. Suốt từ năm chế chỉ khoảng 5-7 năm3, đây là<br /> có những bước đi khôn ngoan về 1970 đến năm 2005, Ấn Độ chỉ điều rất có lợi cho ngành dược<br /> chính sách liên quan đến sở hữu bảo hộ cho các sáng chế là quy phẩm vì các công ty có thể sản<br /> trí tuệ nói chung và sáng chế nói trình và cũng chỉ bảo hộ cho các xuất đại trà sản phẩm sau thời<br /> riêng. công ty tiến hành đầu tư dài hạn hạn bảo hộ để giảm giá thành.<br /> trong lĩnh vực nghiên cứu và phát Điều này hoàn toàn khác biệt<br /> Hỗ trợ của Chính phủ Ấn Độ về sáng<br /> triển thuốc ở nước này. Luật Sáng với Mỹ hay nhiều nước phương<br /> chế cho ngành dược phẩm<br /> chế không cấp giấy phép độc Tây cho phép bảo hộ kéo dài<br /> Ấn Độ thông qua Luật Sáng quyền sáng chế cho thuốc chữa hàng chục năm. Từ đây các nhà<br /> chế đầu tiên vào năm 1856 trong bệnh, và cho phép các công ty khoa học địa phương đã có thể<br /> thời kỳ là thuộc địa của Anh. Luật Ấn Độ có thể sản xuất một công nghiên cứu và giải mã các hợp<br /> này dựa trên Luật Sáng chế của thức thuốc nào đó nếu được công chất dược phẩm được sản xuất<br /> Anh năm 1852. Sau một số sửa ty đang sở hữu bằng sáng chế tại các nước công nghiệp. Cách<br /> đổi, Luật này sau đó đã nhường thuốc đó cấp giấy phép tự nguyện. họ thực hiện việc này không được<br /> chỗ cho Luật Sáng chế và kiểu Điều 84 của Luật này còn cho biết đến rộng rãi, nhưng đáng để<br /> dáng năm 1888. Năm 1911, phép cấp giấy phép cưỡng bức chúng ta xem xét. Về cơ bản, các<br /> người Anh đã thay thế Luật Sáng (compulsory license), bắt buộc<br /> chế và kiểu dáng năm 1888 bằng công ty sở hữu bằng sáng chế https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/<br /> 3<br /> <br /> Luật Bằng sáng chế, để thiết lập một loại thuốc phải cấp giấy phép PMC6044128/.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 10<br /> Số 3 năm 2020<br /> Diễn đàn khoa học và công nghệ<br /> <br /> <br /> nhà sản xuất dược phẩm tại Ấn của bằng sáng chế sản phẩm chế và văn bằng bảo hộ sáng<br /> Độ đã sử dụng tốt hệ thống cơ dược phẩm. Bên cạnh đó, với nỗ chế tăng trung bình 16-18%/năm,<br /> sở thông tin sáng chế hiện có để lực đáp ứng nhu cầu về thuốc giá hoạt động khai thác, thương mại<br /> phát triển kiến thức và năng lực rẻ, Chính phủ Ấn Độ đã ban hành hóa tài sản trí tuệ được chú trọng,<br /> của họ bằng cách nghiên cứu các một luật chỉ bảo vệ những bằng đẩy mạnh; tỷ lệ sáng chế được<br /> sáng chế. Công nghệ được bộc lộ sáng chế dược phẩm nếu trong khai thác thương mại đạt 8-10%<br /> trong những đơn sáng chế hoàn thành phần các chất hóa học tạo số sáng chế được cấp văn bằng<br /> toàn tự do sử dụng tại Ấn Độ. Các nên chúng hoàn toàn mới hoặc bảo hộ). Đồng thời, Bộ Khoa học<br /> công ty Ấn Độ đã tận dụng những tăng cường thêm chất mới5. Ấn và Công nghệ cũng đang chủ trì<br /> lợi thế của nguồn kiến thức giàu Độ không cấp bản quyền cho việc nghiên cứu sửa đổi bổ sung<br /> có này, và vì vậy các công ty khác các sáng chế dược phẩm không một số điều của Luật Sở hữu trí<br /> hiện đang trong một nền văn hóa đem lại hiệu quả vượt trội so với<br /> tuệ, tuy nhiên tác giả cho rằng<br /> đổi mới cũng có thể làm như vậy, thuốc cũ trừ khi các nhà khoa học<br /> hiện nay Luật Sở hữu trí tuệ vẫn<br /> trong trường hợp này, thực hiện chứng minh được điều đó.<br /> chú trọng về xác lập và thực thi<br /> được hay không phần lớn là do<br /> Thay lời kết quyền, việc chưa có một cơ chế<br /> nhận thức của họ4.<br /> pháp lý về khai thác và thúc đẩy<br /> Từ mô hình của Ấn Độ có<br /> Trong nhiều năm trước khi trở thương mại hóa sáng chế tương<br /> thể thấy, quốc gia này đã ra<br /> thành thành viên của Tổ chức tự như Luật Sáng chế Ấn Độ<br /> được chính sách quan trọng, đó<br /> thương mại thế giới (WTO), Ấn Độ năm 1970 và Đạo luật Bayh-Dole<br /> là sáng chế không bảo hộ sản<br /> đã không công nhận bằng sáng 19806 của Mỹ cũng là một hạn<br /> phẩm, chỉ bảo hộ quy trình, từ<br /> chế sản phẩm cho dược phẩm. chế. Nhiều nước như Nhật Bản,<br /> đây các nhà sản xuất thuốc của<br /> Khi không có bằng sáng chế sản Hàn Quốc, Trung Quốc đều xây<br /> Ấn Độ có thể sao chép sản xuất<br /> phẩm, công ty dược phẩm Ấn Độ dựng chiến lược sáng chế quốc<br /> các loại thuốc không được bảo hộ<br /> đã có thể tạo ra vô số loại thuốc gia dựa trên Đạo luật Bayh-Dole,<br /> tại nước này mà không vi phạm<br /> trong đó có cả thuốc gốc, với giá vì vậy để thực hiện được các mục<br /> luật pháp quốc tế. Ngoài ra, việc<br /> thành rẻ cung cấp cho thị trường tiêu nêu trong Chiến lược Sở hữu<br /> tận dụng kho kiến thức khổng lồ<br /> trong nước và xuất khẩu, đã đưa trí tuệ đến năm 2030 về khai thác<br /> từ các bằng sáng chế đã được<br /> Ấn Độ trở thành một trong những tài sản trí tuệ, cụ thể là sáng chế,<br /> công bố mà không bảo hộ tại Ấn<br /> nhà sản xuất thuốc hàng đầu trên Độ đã giúp các nhà khoa học ở cần phải có các văn bản hướng<br /> thế giới. Tuy nhiên vào năm 2005, nước này đi tắt đón đầu, hấp thụ dẫn đi kèm để cụ thể hóa Chiến<br /> do các nghĩa vụ phải tuân theo được các công nghệ mới nhất lược này và có học tập kinh<br /> Hiệp định về các khía cạnh liên trong thời gian nhanh nhất (hơn nghiệm của Ấn Độ và Đạo luật<br /> quan đến thương mại của quyền 30 năm, từ năm 1972 đến 2005). Bayh-Dole ?<br /> sở hữu trí tuệ (TRIPS), Ấn Độ đã<br /> buộc phải sửa đổi luật của mình Mới đây, Chính phủ Việt Nam<br /> để bảo vệ bằng sáng chế sản đã ban hành Chiến lược Sở hữu<br /> phẩm cho dược phẩm. Khi thực trí tuệ đến năm 2030 trong đó<br /> hiện các điều chỉnh cần thiết đối nhấn mạnh đến việc gia tăng số<br /> với luật pháp để đáp ứng các yêu lượng, chất lượng tài sản trí tuệ 6<br /> Đạo luật Bayh-Dole 1980 đã trao cho các<br /> và chú trọng khai thác tài sản trí trường đại học và doanh nghiệp nhỏ của Mỹ<br /> cầu của TRIPS, Chính phủ Ấn Độ quyền sở hữu các sáng chế được tạo ra từ<br /> đã giữ lại các biện pháp hợp pháp tuệ (số lượng đơn đăng ký sáng các nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà<br /> nước. Từ khi Đạo luật này ra đời, các trường<br /> để cân bằng các khuyến khích đại học của Mỹ đã đẩy mạnh việc hình thành<br /> đổi mới và ổn định chi phí xã hội 5<br /> Lauren Ulrich (2015), “TRIPS and các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ<br /> Compulsory Licensing: Increasing nhằm thương mại hóa các kết quả nghiên<br /> participation in the medicines patent pool cứu của mình. Đạo luật này được đánh giá<br /> 4<br /> Carsten Fink, Keith Maskus (2004), in the wake of an HIV/AIDS treatment là có tác động sâu rộng đến thương mại hóa<br /> Intellectual property and development, timebomb”, Emory International Law kết quả nghiên cứu và phát triển của các<br /> Oxford Press and World Bank. Review, 30, pp.51-84.  trường đại học Mỹ.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br /> Số 3 năm 2020<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0