NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
VÀI NÉT VỀ NHỮNG
HÌNH THỨC KHAI THÁC
TÀI NGUYÊN RỪNG
CỦA CÁC TỘC
NGƯỜI Ở ĐIỆN BIÊN
(LAI CHÂU)
TẠ LONGỈ)
hững hình thức khai thác tài
Ấn rừng của các tộc người ở
miền núi thường được biết đến chỉ là
những cách săn bắn và hái lượm, trong
khi chúng còn bao gồm cả lấy gỗ và củi.
Trong các tài liệu Dân tộc học / Nhân
học các hình thức săn bắn và hái lượm
được,giới thiệu nhiều, nhưng việc lấy gỗ
làm nhà và củi đun lại không được
quan tâm tới như một cách sống của
người đân. Trong các nghiên cứu sinh
thái - môi trường, săn bắt và hái lượm
chỉ được chú ý tới dưới góc nhìn tác
động của nó tới đa dạng sinh học,
không dưới góc độ văn hóa môi trường.
Nhưng tác động của khai thác gỗ và củi
lại được đặc biệt chú ý trong các nghiên
cứu này,
Trong bài báo này chúng tôi xin giới
thiệu cả các hình thức săn bắn, hái
lượm và khai thác gỗ, củi để tìm hiểu
mức độ tác động của chúng tới biến đổi
môi trường ở xã Mường Phăng!, huyện
Điện Biên (Lai Châu). Chủ nhân của
các hình thức khai thác này là các tộc
TS, Viện Dân tộc học.
người Thái, Khơ mú, Hmông và Kinh
tái định cư.
œ. Phu húi lãm sửn
Trước những năm 1960 rừng Mường
Phăng còn bạt ngàn với đủ loại lâm
sản, trong đó có các loại cây có bột như
búng báng, củ mài, củ nâu...; các loại
mộc nhĩ, nấm rừng và rau rừng như lá
cây, rễ cây, măng (xem thêm: Khổng
Diễn (chủ biên), 1996: 109; Cầm Trọng,
19878: 127; Đặng Nghiêm Vạn và cộng
sự, 1979: 65 - 66; Khổng Diễn (chủ
biên), 1999: 114 - 117).
Người dân ở đây chỉ hái rau và
măng, nấm, mộc nhĩ, ít phải đào củ
rừng để ăn, vì đất còn nhiều, đủ để
sống bằng ruộng và nương. Vì bấy giờ
chưa có thị trường nên người ta chỉ lấy
lâm sản để dùng, không để bán. Muộn
hơn vào những năm gần đây, do thị
trường cần sa nhân (Amomum
xanthioildes) và thảo quả (Amomum
medilecum Lour), người ta đã vào rừng
thu hái chúng để bán.
Nói chung những hình thức thu hái
này không làm tổn hại tài nguyên rừng:
ngày nay người Mường Phăng, chủ yếu
là người Khơ mú, phải sang xã Pú Nhi
(huyện Điện Biên Đông) để lấy măng
rừng, vì rừng tre nứa ở Mường Phăng
đã không còn nữa. Sự mất rừng tre nứa
ở đây chủ yếu do nương rẫy và cũng do
khai thác mây, song và tre để xuất
khẩu trước đây.
b. Săn bắt thú rừng
Như ở trên đã giới thiệu,
Mường Phăng thời kỳ trước những năm
1970, đặc biệt trong thập niên 40 - 50
của thế kỷ trước còn nhiều loài động
vật với số lượng không ít. Thú rừng đã
phá hoại mùa màng và ăn thịt trâu,
rừng
ngựa nhà. Vì vậy, nhiều hình thức săn
bắt thú rừng đã nảy sinh để bảo vệ hoa
màu, gia súc cũng như để làm thức ăn.
Chắc chắn những hình thức này cũng
phổ biến ở các địa phương khác, nhưng
ở đây cũng xin giới thiệu một số hình
thức để bạn đọc hình dung tính chất và
mức độ xâm hại quần thể động vật ở
địa phương:
- Băn bắn sóc: sóc là động vật nhiều
nhất ở Mường Phăng. Ở đây có ba loại
sóc: sóc xanh hay ăn chuối rừng, sóc đồ
mặt hay ăn sắn và hạt đẻ, sóc có lông
đen và đỏ ở ngực hay ăn hạt ở cây cao.
Sóc thường ăn hoa quả rừng từ tháng
10 tới tháng 5 dương lịch và hay bị săn
vào mùa này. Người ta treo ống tre
dựng hạt đẻ lên cây để nhử sóc đến ăn
và bắn chúng bằng nỏ.
- Bây chuột: thường vào mùa mưa
và từ lúc lúa ra đòng tới lúc chín, từ
tháng 7 đến tháng 10. Bẫy chuột chủ
yếu để bảo vệ hoa màu. Thường chuột
đi từ rừng qua suối sang nương ăn lúa.
Người ta chặt hết cây rừng mọc giữa
đòng suối dưới chân nương và đặt 50 -
70 cành cây to khoảng 5em ngang dòng
suối, gài bây vòng trên các cành cây
này. Khi chuột bỏ qua dụng vào hai
thanh tre làm tuột lẫy hãm cần bật
khiến cần bật bật lên kéo thòng lọng
thắt vào người con chuột và treo nó lơ
lửng trên không. Ở nương không có suối
người ta dùng bãy sập để bắt chuột và sóc
phá lúa.
- Bãy lợn rừng: lợn rừng hay vào
nương ngô, nương lúa từ 8 - 12 giờ đêm.
Để bảo vệ nương người ta đã làm ra các
loại bãy lao (ở người Khơ mú) và bẫy
hầm chông (ở người Hmông). Bãy lao là
những cây tre cứng vót nhọn được đặt
TẠ LONG
trên đường đi của thú rừng tới nương:
khi thú rừng chạm vào dây cài của bây
làm bật lẫy, lao phóng ra đâm chết con
thú. Bây hầm chông được đặt ở chân
dốc lên nương, chúng là những hố có
cắm chông tre đài khoảng 60em. Ở đầu
dốc người ta dựng một thân cây và buộc
một sợi dây nối thân cây với người ởi
săn. Người đi săn ngồi núp gần thân
cây này, khi lợn rừng lên dốc, anh ta
giật dây để làm đổ thân cây, gây động
khiến lợn rừng sợ lao xuống dốc làm
sập nắp hầm, con vật rơi xuống bị
chông đâm chết.
- Bây gấu: ở rừng bản Phăng và bản
Khẩu Cắm có nhiều cây đẻ, gấu thường
tới ăn vào tháng 9 -10 khi hạt dẻ chín.
Để bẫy gấu người ta dùng một thang
tre đôi (thang làm bằng hai cây tre có
nấc trèo chốt giữa thân hai cây tre),
đầu thang treo xương trâu hoặc đê,
giữa thang cắm lưỡi dao nhọn. Khi gấu
trèo lên thang với khúc xương bị lưỡi
đao đâm đúng tìm chết.
- Săn bắn khỉ: khỉ là thú rừng
nhiều thứ hai ở Mường Phăng, sống
trong các hang đá, hay đi hàng đàn để
kiếm hoa quả rừng. Người ta săn khỉ
bằng súng kíp, mỗi lần bắn chỉ được 1 -
2 con, vì chúng bỏ chạy rất nhanh vào
các vách đá.
- Săn nai, hoăng: nai, hoăng hay ăn
có non ở những khu cô gianh đã bị đốt
cháy. Người đi săn thường phục kích ở
cuối chiều gió để có thể ngửi thấy mùi
con vật và tránh để nó ngửi thấy mùi
người (khi gió thổi từ chân đồi lên thì
phục ở đỉnh dốc, khi gió thổi từ đỉnh
đổi xuống thì phục ở chân đổi). Khi
thấy con mồi phải bắn ngay, vì tai nó
rất thính. Ở đây người ta không bẫy
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
được nai, hoăng vì chúng không ăn cố
định ở một chỗ. Vào mùa động đực của
chúng (tháng I1 - 2 dương lịch) thường
chúng hay tìm nhau. Người ta lấy lá
chuối thổi giả làm tiếng: nai, hoằng,
chúng tưởng được gọi chạy tới, bị bắn
chết ở cự ly gần.
- Săn cáo: cáo có nhiều loại - loại ăn
thịt gà nhà và gà rừng và loại ăn hoa
quả. Loại cáo ăn thịt gà sống trong rừng
rậm, loại ăn hoa quả thường sống trên
các cây có nhiều dây leo chằng chịt.
Loại cáo ăn hoa quả thường dùng
quả đa, quả móc, chuối rừng. Vào các
tháng 1 - 5, khi quả rừng chín cáo đi ăn
nhiều, rừng lại khô dễ nghe thấy tiếng
động, người ta hay đi săn bắn chúng.
Cáo bắt gà theo thời gian nhất định:
đầu tuần trăng vào lúc 5 - 6 giờ tối;
ngày trăng tròn vào quãng 8 - 10 giờ
tối, cuối tuần trăng thì vào lúc 10 - 12
giờ đêm.
- Săn bắn nhím: nhím thường ăn ở
nương sắn. Vào lúc trăng lên (mồng 1
đến mồng 7 âm lịch chúng hay đi ăn
sớm, từ 18 - 20 âm lịch hay ăn vào lúc
16 giờ tối, ngày trăng tròn lại ăn lúc
gần sáng). Người ta dùng nỏ để bắn
nhím vào giờ nó ra nương ăn sắn hoặc
dùng bãy để bắt.
- Bắt dúi: dúi sống trong hang đất
dưới gốc cây chít. Đúi thường đào hang
sâu vào mùa đông để chống lạnh và đào
hang nông vào mùa mưa vì sợ hang bị
ngập nước và sợ cửa hang bị nước mưa
làm sập. Người ta đào hang bắt nhím
vào mùa mưa.
- Băn bắt gà rừng, gà lôi, chim cu:
gà rừng thường bị bắn bằng súng kíp
hoặc nỏ vào ban đêm, khi chúng đang
s
ngủ. Chim cu hay bị bắt bằng bãy
thòng.
Những hình thức săn bắt được giới
thiệu cho thấy người Mường Phăng đã
tích luy được những trl thức phong phú
và cụ thể về đời sống, đặc tính sinh lý
cũng như hoạt động của động vật sống
trong rừng. Những tri thức này khiến
chúng ta nghĩ rằng chúng có thể giúp
con người ở đây xâm hại và đe dọa sự
tồn tại của các quần thể động vật.
Nhưng phải chăng sự mất còn của
các quần xã sinh vật là do khả năng
tiêu diệt của địch thủ? Trong tự nhiên
loài ăn thịt vốn đã có những khả năng
tiêu điệt con mỗi cao tới mức bản năng,
nhưng loài bị ăn thịt chưa hề bị tiêu
diệt bởi loài ăn thịt, các loài có chưa hề
bị mất đi vì các động vật ăn có. Đó
chính là do sự cân bằng sinh thái. Cũng
như trước đây con người miền núi chưa
hề đe dọa sự tồn tại của thú rừng, mặc
dù họ vẫn rất giỏi săn bắt chúng. Theo
người Mường Phăng rừng bị mất đi làm
thú rừng không còn chỗ sinh sống, và
chúng bỏ sang Lào hoặc bị giảm theo
rừng.
Còn một điểm nữa hiện chưa được
làm sáng tỏ: uì sưo săn bắn thú rừng
không trở thành một hoạt động chuyên
nghiệp của cư dân nông nghiệp? Cũng
như 0ì sao người Việt uen biển ít sống
bằng nghề đánh cá, lại thường khai
hoang lấn biển? Nếu làm rõ được điều
này sẽ hiểu được sự cân bằng sinh thái
giữa con người và động vật miền núi
trước đây.
c. Lấy gỗ làm nhà
Lấy gỗ làm nhà và củi đun cũng là
một vấn đề được chú ý trong nghiên
54
TẠ LONG
——___D————————__—— — ———————— ———————————————————————————m————————==—————
cứu sự mất rừng. Ở đây chỉ xin nêu
mức độ tác động của nó tới khai thác
rừng địa phương thông qua tính toán khối
lượng gồ làm nhà của cư dân ở đây.
Một ngôi nhà sàn trung bình gồm õð
gian (3 gian + 2 chái) dài IÖm, rộng
6,5m cần khối lượng gỗ như sau:
+ Cột chính: 8 cột x (6,5m x 0,2m x
0,25m) = 2,6m”
+ 16 cột phụ: 16 cột x (4,7m x 0,2m
x 0,93) = 3m”
+ Xà khung (dọc và ngang) : 7,2m”
+ Vì kèo chính và vì kèo chái: 2,5m”
+ Xà mái, cầu phong, li tô: 3,7m”
+ Ván tưởng: 120 tấm x (2,2m x
0,42m x 0,02m) = 9,5 mÏ
+ Ván sàn: 65 tấm x (6,5m x 0,3m x
0,03m) = 3,8m”
Tổng cộng = 25,3m”
Khối lượng gỗ này ở một gia đình
được lấy từ ba cây gỗ tổ hạp cao 12m,
đường kính 1m và 1,2m, hai cây gỗ dổi
thân cao 6,7m, đưỡng kính 0,8m và 1m.
Khối lượng gỗ làm nhà trên nền đất
của người Hmông như sau:
Một ngôi nhà kích thước öm x 1lÔm
hết khoảng 10m gỗ.
Ở Mường Phăng tới 4/2000 có 828
hộ Thái, 207 hộ Khơ mú và 106 hộ
Hmông. Trong số này, không phải tất
cả đều có nhà gỗ, có một số ở nhà
khung gỗ nhưng sàn và tường bằng tre
nứa. Theo kết quả điều tra nông thôn
của huyện Điện Biên năm 1994 tại
Mường Phăng có 46% số hộ có nhà bán
kiên cố (tức nhà gỗ) và 54% nhà khác
(tức nhà khung gỗ) tường và sàn bằng
tre nứa. Cho tới nay, số nhà bán kiên cố
chắc đã nhiều hơn, xin tạm ước tính
theo quan sát của chúng tôi trên thực
địa: khoảng 90% nhà gỗ ở người Thái,
80% ở người Hmông và 50% ở người
Khơ mú. Theo đó chúng tôi thử ước tính
số lượng gỗ được sử dụng để làm nhà ở
từng tộc người như sau:
- Ở người Thái: 828 hộ x 90% x
25m”/hộ = 18630 m”
- Ở người Khơ mú: 207 hộ x 50% x
23m”/hộ = 2380 m”
(Nhà người Khơ mú thường nhỏ hơn
nhà người Thái)
- Ở người Hmông: 106 hộ x 80% x
10m”/hộ = 848 m”
)
Tổng cộng : 18630 m” + 2380m'”
+ 848m” = 21858 mỶ
Số cây cần hạ để lấy gỗ sẽ khoảng
như sau:
21858 mỶ : (25m” : 5 cây đường kính
0,8 - Im) = 4372 cây to
Theo số liệu của Chi cục kiểm lâm
Lai Châu mật độ cây ở 1 ha rừng trồng
là 2050 cây. (Chỉ cục Kiểm lâm Lai
Châu, báo số 04.KLBC, 1998:5). Mật
độ cây to có thể thấp hơn khoảng 7 lần,
tức khoảng 293 cây/ha (theo ước tính
của TL). Như vậy 4379 cây to chiếm
khoảng 1ỗ ha, tức khối lượng gỗ làm
nhà có thể làm mất đi 15 ha rừng trong
nhiều thập niên. Và chúng lại được
khai thác tỉa vì cây to thường mọc xen
lẫn với cây nhỏ hơn.
Tuy vậy, vào những năm 1980 để đề
phòng gỗ bị lâm trường khai thác hết,
dân đã tranh thủ khai thác rừng ở các
khu Tân Bình, bản Phăng, bản Mòn và
khu Loọng Luông, Loọng Ngưu. Đối
tượng khai thác chủ yếu là người Thái
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
— - -_-_-______ £Ð O ĐC
và người Hmông, vì họ chủ yếu ở nhà
gô; người Kinh ở Tân Bình không khai
thác gỗ vì họ không an cư nên chỉ làm
nhà nhỏ và đơn giản, cần ít gỗ; người
Khơ mú bấy giờ còn ở nhà sàn và tường
bằng tre nứa, cũng chỉ cần ít gỗ.
Dân địa phương không khai thác gỗ
để bán, vì lâm trường giữ độc quyền
nên kiểm soát chặt chẽ. Tuy vậy, sự
khai thác gỗ làm nhà của dân địa
phương cũng gây trở ngại đáng kể cho
lâm trường: ở khu người Hmông có
nhiều loại gỗ quí như tô hạp, dối, lát,
lâm trường đã làm đường vào để chuẩn
bị khai thác. Thấy vậy, người Hmông
dã khai thác trước, lâm trường lo ngại
và bó đở việc làm đường, cũng không
vào khai thác trong đó nữa. (Điều này
người Hmông không hề nói tới, họ nói
con đường đó do bộ đội làm để lấy đá
rải đường nhựa vào khu hầm Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Chúng tôi biết được
sự việc này qua hỏi chuyện các đội
trưởng đội sản xuất cũ của lâm trường).
d. Lấy củi dun
Củi đun gồm cành hoặc thân cây.
Số lượng củi tiêu thụ hàng năm của
toàn bộ dân cư trong ca nước không
nhỏ, nhưng do củi không phải loại gỗ
quí, mà là gỗ tạp, lại được chặt tỉa,
không khai thác tập trung như gỗ tròn,
nên ít gây lo ngại về tác động của nó tới
môi trường.
Ở Mường Phăng, mức độ tiêu thụ
củi được khảo sát theo các cộng đồng
mẫu. Số liệu dưới đây sẽ cho thấy mức
độ tiêu thụ này.
Bảng I: Khối lượng củi tiêu thụ theo đầu người trong một năm ở
Mường Phăng.
Đơn 0t: bg |người Ínăm
Nguồn: Nghiên cứu thực địa.
So sánh với số lượng củi tiêu thụ ở địa phương khác như tỉnh Tuyên Quang,
người Mường Phăng tiêu thụ củi ít hơn:
Bảng 9: Số lượng củi tiêu thụ theo đầu người ở tỉnh Tuyên Quang qua
một số năm
Tày
Nguồn: De Konnick, R.,1999: 47
Sự chênh lệch khối lượng củi giữa
Mường Phăng và Tuyên Quang do người
Đơn 0t: kø [người | năm
Mường Phăng sử dụng củi tiết kiệm hơn,
hay do nhu cầu sứ dụng ít hơn? Dưới đây
Đ6
TẠ LONG
xin giới thiệu tương quan giữa số củi tiêu
thụ và số kg lợn được nuôi của hộ gia
đình nhằm khảo sát ảnh hưởng của chăn
nuôi tới mức độ tiêu thụ củi:
Bảng 3: Số củi tiêu thụ (kg/hộ) và số kg lợn nuôi của hộ được khảo sát
theo tộc người.
Kg củi Í hộ
125 49
Nguồn: Nghiên cứu thực địa
Số liệu trên có thể khiến suy nghĩ
rằng người Kinh sử dụng củi cho nuôi
lợn hiệu quả nhất, sau đó là người Thái
và Hmông. Để xác định số liệu này cần
biết củi đun thường được sử dụng vào
những việc gì? Ở Mường Phăng củi đun
được đùng để nấu cơm, nấu cám lợn, nấu
rượu và sưởi ấm. Vào thời điểm được
điều tra người Thái nấu rượu nhiều
nhất, sau họ là người Hmông, người Khơ
mú chủ yếu mua rượu của người Thái.
Người Kinh không nấu rượu bán, lại
bg lợn ƒ hộ
Trung bình
1000-5000 | 125 | 49 —
uống ít. Vì vậy số lượng củi để nấu rượu
của người Thái nhiều nhất. Số lượng củi
để sưởi ấm giữa các tộc người chênh lệch
ít, do khí hậu giữa các bản giống nhau.
Như vậy có thể thấy số lượng củi đun
của người Thái và người Hmông nhiều
do chăn nuôi và nấu rượu.
TÌ 200
Trở về với vấn đề mức độ tiêu thụ
củi của các tộc người ở địa phương đã
ảnh hưởng tới sự phát triển của rừng,
số liệu dưới đây sẽ cho thấy phần nào
anh hưởng này.
Bảng 4: Khối lượng củi tiêu thụ của các tộc người ở Mường Phăng năm 2000
Nguồn: Nghiên cứu thực địa
Ngoài khối lượng củi này, người ta
còn dùng củi nung gạch ngói và lấy củi
bán cho người Kinh ngoài Điện Biên. Tuy
kiểm lâm xã và huyện cùng cán bộ Trạm
thuỷ nông quản lý hồ Pa Khoang đã kiểm
soát nghiêm ngặt nhưng hàng năm vẫn
xảy ra các vụ vi phạm Lâm luật.
Nhận xét:
Săn bắn và hái lượm lâm sản dựa
trên nguồn rừng của địa phương: nguồn
rừng còn, động vật và lâm sản phụ (mộc
nhĩ, nấm hương, rau rừng, thảo quả, sa
nhân...) còn. Nguồn rừng mất, động vật
và lâm sản phụ mất theo. Vì vậy, săn
3498 59.983
Đơn uị: Tến |năm
bắn và hái lượm lâm sản phụ không
huỷ diệt đa dạng sinh học.
Lấy gỗ làm nhà và củi đun cũng
không gây tổn hại cho rừng, vì chúng
được khai thác theo phương thức tỉa
chọn, không chặt hàng loạt. Chính phát
rừng làm nương của người địa phương
và khai thác gỗ để bán của sơn tràng và
lâm trường trên qui mô lớn đã huỷ diệt
rừng, từ đó làm mất đa dạng sinh thái
của các địa phương.Ø
T.L
(Xem tiếp trang 86)
86
VÀI NÉT VỀ NHỮNG HÌNH THỨC...
(Tiếp theo trang 56)
(1) Xã Mường Phăng đã từng là nơi đặt
trụ sở của Bộ chỉ huy chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ (1954) và hiện nay còn lưu giữ
những di tích lịch sử của Bộ chỉ huy này.
(2) ) Khối lượng gỗ được điều tra trên cơ sở
cấu tạo của ngồi nhà do người dân giới thiệu
và tính toán. Cấu tạo ngôi nhà của các dân
tộc Kinh (Việt), Thái, Khø mú và Hmông đã
được PG8. Nguyễn Khắc Tụng giới thiệu
trong tác phẩm Nhà ở các dân tộc ở Việt Nam,
tập I,1993.và T..II,1996.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Chi cục Kiểm lâm Lai Châu. Báo cáo
tổng kết công tác quản lý bảo uệ rừng năm
1997, số 04[KL ! BC.
23- De Konnick, R.
Vietnam. — International
Research Centre, jJanuary 1999,
Deƒforestation In
Development
ẳ- Khổng Diễn (chủ biên). Những đặc
điểm binh tế - xã hội của các dân tộc ở miền
(8 vêo Bắc. Nxb hoa học Xã hội, Hà Nội,
l
á- Khổng Diễn (chủ biên). Dân tộc Khơ
mú ở Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
1999.
5- Cầm Trọng. Người Thái ở Tây Bắc Việt
Nam. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.
6- Nguyễn Khắc Tụng. Nhà ở cổ truyền
các dân tộc Việt Nam. Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu kiến trúc-
Đại học Kiến trúc, T.1, Hà Nội, 1893.
7- Nguyễn Khắc Tụng. Nhè ở cổ truyền '
các dân tộc Việt Nam. Nxb Xây dựng, T2, Hà
Nội,1996.
8- Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình,
Nguyễn Văn Huy và Thanh Thiên. Những
nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc
Tá Nam. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1872.