Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
KHẢO SÁT CÁC BẤT THƯỜNG NƯỚC TIỂU<br />
BẰNG QUE THỬ NƯỚC TIỂU TẠI HAI TRƯỜNG TIỂU HỌC<br />
VÀ TRUNG HỌC – TP HỒ CHÍ MINH<br />
Nguyễn Thị Phương Thảo*, Đào Bích Thủy*, Hoàng Thị Diễm Thúy*,**, Trần Thị Mộng Hiệp*,**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ của những bất thường nước tiểu ở trẻ không triệu chứng tại<br />
trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền quận 3 và trường trung học cơ sở Trương Công Định quận Bình Thạnh<br />
TP. Hồ Chí Minh.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 09/2009 đến 12/2009 trên 546 trẻ khỏe<br />
mạnh từ 6 đến 14 tuổi. Việc tầm soát được thực hiện bằng que thử nước tiểu 10 thông số.<br />
Kết quả: Trong 546 trẻ khỏe mạnh (286 nam, 260 nữ), có 35 (6,41%) trường hợp bất thường nước<br />
tiểu ở tổng phân tích nước tiểu lần đầu và chỉ còn 3 (0,55%) trường hợp bất thường ở lần 2. Trong nhóm<br />
những trẻ bất thường nước tiểu lần 1, có 2,75% trẻ tiểu đạm đơn độc, 2,56% tiểu máu đơn độc, 0,37%<br />
tiểu bạch cầu đơn độc, 0,37% tiểu nitrit đơn độc, 0,37% tiểu bạch cầu kết hợp với nitrit và không ghi nhận<br />
trường hợp tiểu máu kết hợp tiểu đạm. Cả 3 trường hợp có bất thường nước tiểu lần 2 đều là tiểu hồng cầu<br />
và những tầm soát ghi nhận: 1 trường hợp thiếu máu tán huyết do thiếu men G6PD, 1 trường hợp thận ứ<br />
nước và 1 trường hợp hẹp bao quy đầu.<br />
Kết luận: Que thử nước tiểu thực hiện ở học sinh khỏe mạnh tại 2 trường cấp 1 và cấp 2 tại TP. Hồ Chí<br />
Minh phát hiện rất ít bất thường, tuy nhiên vẫn giúp phát hiện được bệnh ở trẻ không triệu chứng.<br />
Từ khóa: Bệnh thận nguyên phát; Viêm đài bể thận ; Nitrit ; Leucocyte esterase<br />
<br />
ABSTRACT<br />
URINE SCREENING TEST IN CHILDREN AT TWO PRIMARY AND JUNIOR HIGH SCHOOL - HO<br />
CHI MINH CITY<br />
Nguyen Thi Phuong Thao, Dao Bich Thuy, Hoang Thi Diem Thuy, Tran Thi Mong Hiep<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 42 - 47<br />
Objective: This study attempted to determine the prevalence of urinary abnormalites in asymptomatic<br />
children in Nguyen Thanh Tuyen primary school (District 3) and Truong Cong Dinh junior high school (Binh<br />
Thanh District) in Ho Chi Minh city.<br />
Methods: A cross – sectional study from 09/2009 to 12/2009 was conducted in 546 apparently healthy<br />
children from 6 to 14 years of age. Urinary screening was performed with the dipstick method.<br />
Results: In 546 apparently healthy children (286 boys, 260 girls), urinary abnormalities were detected in 35<br />
(6.41%) subjects at the first screening and only 3 (0.55%) cases at the second screening. Of the children who had<br />
urinary abnormalities at the first sceening, isolated proteinuria was found in 2.75% of the cases, isolated<br />
hematuria in 2.56%, leukocyte esterase in 0.37%, nitrit positive in 0.37% and combined leukocyte esterase and<br />
nitrit in 0.37%. No case with combined hematuria and proteinuria was found. Hematuria was found in all the 3<br />
<br />
* Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch<br />
** Khoa Thận - Nội Tiết BV Nhi Đồng 2<br />
Tác giả liên lạc: TS.BS Trần Thị Mộng Hiệp ĐT: 0908198104<br />
Email: tranmonghiep@yahoo.fr<br />
<br />
42<br />
<br />
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
patients with urinary abnormalities at the second screening and investigation showed G6PD deficiency anaemia<br />
in 1 case, hydronephrosis in 1 case and phimosis in 1 case.<br />
Conclusion: Urine screening test in healthy primary and junior high school children in Ho Chi Minh city<br />
showed very low rate of urine abnormalities, but can detect underlying disease in asymptomatic children.<br />
Keywords: Primary renal disease; Pyelonephritis; Nitrit; Leucocyte esterase<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Bất thường nước tiểu là một trong những<br />
dấu hiệu phản ánh bệnh lý hệ thận niệu như<br />
nhiễm trùng tiểu, viêm cầu thận, bệnh thận mô<br />
kẽ, dị tật bẩm sinh hệ niệu… hay một số bệnh lý<br />
toàn thân như bệnh Lupus đỏ, bệnh ban xuất<br />
huyết Henoch-Schönlein, hội chứng tán huyết<br />
tăng urê huyết… Những bệnh này nếu không<br />
được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến<br />
suy thận mạn, mà diễn tiến lâu dài, tất yếu là<br />
bệnh thận giai đoạn cuối.<br />
Suy thận mạn, ở trẻ em gây ảnh hưởng<br />
nghiêm trọng đến sự tăng trưởng, phát triển,<br />
cuộc sống gia đình, khả năng học tập và cuối<br />
cùng đưa đến chỉ định điều trị chạy thận nhân<br />
tạo và thay thế thận(4). Do vậy, việc phát hiện<br />
sớm bệnh thận mạn ở trẻ là vấn đề quan trọng<br />
ảnh hưởng đến điều trị và tiên lượng. Trong<br />
những năm gần đây, một số chương trình tầm<br />
soát bất thường nước tiểu ở trẻ em trong độ tuổi<br />
đi học đã được triển khai tại một số quốc gia<br />
như Thượng Hải (Trung Quốc), Singapore, Nhật<br />
Bản, Iran, Hàn Quốc, Đài Loan nhằm phát hiện<br />
bệnh thận ở giai đoạn sớm, đã cho thấy hiệu quả<br />
trong việc giảm gánh nặng điều trị của bệnh<br />
thận mạn ở những nước phát triển cũng như<br />
đang phát triển(4,5,10,12).<br />
Tại Nhật Bản, chương trình này đã trở thành<br />
thường quy, bắt đầu được thực hiện từ năm<br />
1974 và kéo dài cho đến nay. Năm 2004, theo<br />
nghiên cứu ở trẻ từ 6-14 tuổi tỷ lệ tiểu đạm đơn<br />
độc là 0,11%, tiểu máu đơn độc 0,83%, tiểu đạm<br />
kết hợp tiểu máu 0,05%(5).<br />
Tại Thượng Hải, một nghiên cứu từ tháng 310/2003 cho thấy tỷ lệ tiểu đạm đơn độc là<br />
0,51%, tiểu máu đơn độc 0,46%, tiểu đạm kết<br />
hợp tiểu máu là 0,07%(10).<br />
<br />
Tất cả những chương trình này đều dựa<br />
trên que thử nước tiểu nhanh, đây là một<br />
phương tiện chi phí thấp, đơn giản, dễ sử<br />
dụng, có độ nhạy cao rất thích hợp với các<br />
chương trình tầm soát, đặc biệt trong việc<br />
phát hiện nhiễm trùng tiểu(8).<br />
Tại Việt Nam chưa có một chương trình tầm<br />
soát những bất thường nước tiểu ở trẻ em để có<br />
thể xác định được tỷ lệ tiểu bạch cầu, tiểu nitrit,<br />
tiểu đạm, tiểu máu, qua đó phát hiện sớm<br />
những bệnh lý liên quan.<br />
Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này<br />
nhằm khảo sát tỷ lệ bất thường nước tiểu ở trẻ<br />
em khỏe mạnh từ 6 – 14 tuổi bằng que thứ nước<br />
tiểu 10 thông số. Qua đó, chúng tôi hi vọng sẽ<br />
đóng góp được thêm một số dữ liệu về tỷ lệ bất<br />
thường nước tiểu của trẻ em khỏe mạnh ở thành<br />
phố Hồ Chí Minh.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ<br />
tháng 09/2009 đến 12/2009 trên các trẻ tuổi từ 614 tuổi, không có triệu chứng và tiền sử bệnh lý<br />
thận niệu trước đó tại trường Tiểu học Nguyễn<br />
Thanh Tuyền, Quận 3 và trường THCS Trương<br />
Công Định, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí<br />
Minh. Cỡ mẫu được ước tính là 493 trẻ với độ<br />
tin cậy mong muốn là 95%.<br />
Mẫu nghiên cứu tại Trường Tiểu học<br />
Nguyễn Thanh Tuyền, Quận 3, TP. Hồ Chí<br />
Minh bao gồm khối lớp 1 (1A, 1D), khối lớp 2<br />
(2A, 2B), khối lớp 3 (3B, 3D), khối lớp 4 (4B, 4E)<br />
và khối lớp 5 (5C, 5D).<br />
Mẫu nghiên cứu tại Trường THCS Trương<br />
Công Định, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh<br />
bao gồm khối lớp 6 (6-2), khối lớp 7 (7-1), khối<br />
lớp 8 (8-5) và khối lớp 9 (9-3).<br />
Các trẻ được chọn vào lô nghiên cứu bao<br />
gồm các trẻ không có triệu chứng và tiền sử<br />
<br />
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012<br />
<br />
43<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
bệnh lý thận niệu, không mắc bệnh, không vận<br />
động thể lực mạnh, không gắng sức trước khi<br />
lấy mẫu một ngày và không uống vitamin C<br />
trước đó. Đối với trẻ nữ đang hành kinh thì<br />
không lấy mẫu, lấy lại sau khi sạch kinh.<br />
Về cách thu thập số liệu, bước 1, chúng tôi<br />
tiến hành lập hồ sơ những trẻ được đưa vào<br />
nghiên cứu, chọn ngẫu nhiên mỗi khối lớp từ 1<br />
đến 2 lớp (45 – 70 trẻ), gặp và phổ biến cho trẻ<br />
về mục tiêu của nghiên cứu, cách thức lấy nước<br />
tiểu, gửi thư ngỏ và giấy đồng thuận tham gia<br />
nghiên cứu, bảng câu hỏi, tờ hướng dẫn phương<br />
pháp lấy nước tiểu và lọ đựng nước tiểu cho trẻ.<br />
Sau đó, bước 2 là khảo sát mẫu nước tiểu lần<br />
thứ nhất. Cân nặng, chiều cao, nhiệt độ (đo bằng<br />
nhiệt kế điện tử), huyết áp (sử dụng máy đo<br />
huyết áp bằng tay) được ghi nhận trước ngày<br />
lấy mẫu nước tiểu. Sau đó tiến hành thu thập<br />
mẫu nước tiểu, bảng trả lời câu hỏi vào đầu buổi<br />
sáng. Mẫu nước tiểu là mẫu đầu tiên được lấy<br />
sau khi trẻ thức dậy theo bảng hướng dẫn đã<br />
gửi trước đó. Tiến hành thử mẫu nước tiểu ngay<br />
sau khi thu thập được, không để mẫu lưu quá 2<br />
giờ.<br />
Về dụng cụ, sử dụng que thử 10 thông số<br />
nhãn hiệu URS-10 (Urine Reagent Strips for<br />
Urinalysis), được sản xuất bởi TECO<br />
DIAGNOSTICS ANAHEIM, CA 92807 U.S.A.<br />
Về cách thức tiến hành thử nước tiểu, chúng<br />
tôi lắc đều lọ đựng nước tiểu, nhúng ngập que<br />
thử trong mẫu nước tiểu, lấy que thử ra khỏi lọ<br />
đựng nước tiểu và chờ đọc kết quả sau 1 phút.<br />
Mẫu thử được đọc tại chỗ lần lượt bởi hai bác sĩ<br />
một cách riêng biệt, đối chiếu và thống nhất kết<br />
quả. Sau đó ghi kết quả vào phiếu thu thập và<br />
lên danh sách những trẻ có kết quả bất thường<br />
trong mẫu thử nước tiểu lần nhất và thông báo<br />
cho trẻ và phụ huynh biết, đề nghị tiến hành lấy<br />
mẫu thử lần hai.<br />
Thực hiện bước 3 bao gồm khảo sát mẫu<br />
nước tiểu lần hai. Trẻ có mẫu thử nước tiểu lần<br />
nhất bất thường được tiến hành lấy mẫu thử<br />
nước tiểu lần hai sau 7 ngày. Sau đó, tiến hành<br />
lấy mẫu và thu thập kết quả theo các bước<br />
<br />
44<br />
<br />
tương tự lần thứ nhất và lên danh sách những<br />
trẻ có kết quả bất thường trong mẫu thử nước<br />
tiểu lần hai và gửi giấy bao kết quả cho trẻ và<br />
phụ huynh.<br />
Bước 4 bao gồm việc định hướng nguyên<br />
nhân gây bất thường nước tiểu trên những trẻ có<br />
bất thường nước tiểu lần hai, liên hệ qua điện<br />
thoại và đề nghị phụ huynh hợp tác đưa trẻ đến<br />
bệnh viện Nhi đồng 2 để khảo sát thêm và thực<br />
hiện các xét nghiệm: công thức máu, creatinin<br />
máu, tổng phân tích nước tiểu (TPTNT) bằng<br />
máy, đạm niệu/ creatinin niệu, siêu âm hệ niệu<br />
và cấy nước tiểu.<br />
Chúng tôi sử dụng phần mềm Stata/MP 10.0<br />
để xác định tần suất các biến số và lập bảng.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Trong thời gian từ tháng 09/2009 đến tháng<br />
12/2009, có 546 trẻ được khảo sát, trong đó 351<br />
(64%) trẻ thuộc nhóm cấp 1 (từ 6-10 tuổi) và 195<br />
(36%) trẻ thuộc nhóm cấp 2 (từ 11- 14 tuổi), tỷ lệ<br />
nam/nữ là 1,1/1. Độ tuổi trung bình của dân số<br />
nghiên cứu là 9,61 ± 0,11 tuổi.<br />
Có 35 trường hợp có bất thường nước tiểu<br />
trên tổng số 546 trẻ chiếm 6,41%. Hầu hết các bất<br />
thường nước tiểu ở mức độ vết và 1+. Riêng bất<br />
thường hồng cầu trong nước tiểu tập trung<br />
nhiều ở mức độ 3+ (bảng 1).<br />
Bảng 1: Phân bố mức độ dương tính của những bất<br />
thường nước tiểu<br />
Bất thường Bạch cầu<br />
<br />
Đạm Hồng cầu<br />
<br />
Mức độ<br />
Vết<br />
1+<br />
2+<br />
3+<br />
<br />
2<br />
0<br />
1<br />
1<br />
<br />
10<br />
5<br />
0<br />
0<br />
<br />
1<br />
5<br />
4<br />
6<br />
<br />
Trẻ tiểu bạch cầu không kèm nitrit chiếm tỷ<br />
lệ rất thấp (0,37%) (bảng 2).<br />
Bảng 2: Tỷ lệ trẻ tiểu bạch cầu không kèm tiểu nitrit<br />
Bạch cầu<br />
Âm tính<br />
Dương tính<br />
Tổng<br />
<br />
Số lượng<br />
544<br />
2<br />
546<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
99,63<br />
0,37<br />
100,00<br />
<br />
Trẻ tiểu nitrit không kèm bạch cầu cũng<br />
chiếm tỷ lệ rất thấp (0,37%) (bảng 3).<br />
<br />
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
Bảng 3: Tỷ lệ trẻ tiểu nitrit không kèm bạch cầu<br />
Bạch cầu + Nitrit<br />
Âm tính<br />
Dương tính<br />
Tổng<br />
<br />
Số lượng<br />
544<br />
2<br />
546<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
99,63<br />
0,37<br />
100,00<br />
<br />
Trẻ tiểu đạm đơn độc chiếm tỷ lệ 2,75%<br />
(bảng 4).<br />
Bảng 4: Tỷ lệ trẻ tiểu đạm đơn độc<br />
Đạm<br />
Âm tính<br />
Dương tính<br />
Tổng<br />
<br />
Số lượng<br />
531<br />
15<br />
546<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
97,25<br />
2,75<br />
100,00<br />
<br />
Trẻ tiểu máu đơn độc chiếm tỷ lệ tương là<br />
2,56% (bảng 5).<br />
Bảng 5: Tỷ lệ trẻ tiểu máu đơn độc<br />
Hồng cầu<br />
Âm tính<br />
Dương tính<br />
Tổng<br />
<br />
Số lượng<br />
532<br />
14<br />
546<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
97,44<br />
2,56<br />
100,00<br />
<br />
Không phát hiện trường hợp nào có tiểu<br />
đạm kết hợp với tiểu máu.<br />
Tất cả (100%) các bất thường nước tiểu lần<br />
hai đều là tiểu máu, chiếm tỷ lệ 8,57% trên 35<br />
trường hợp có bất thường nước tiểu lần nhất và<br />
chiếm 0,55% dân số nghiên cứu (n = 546). Tất cả<br />
những trường hợp tiểu máu đều ở mức độ 3+<br />
(bảng 6).<br />
Bảng 6: Phân bố trẻ bất thường nước tiểu ở TPTNT<br />
lần hai so với lần nhất<br />
Bất thường<br />
Bạch cầu đơn độc<br />
Nitrit đơn độc<br />
Bạch cầu + Nitrit<br />
Đạm<br />
Hồng cầu<br />
Đạm + Hồng cầu<br />
<br />
Âm tính<br />
35<br />
35<br />
35<br />
35<br />
32<br />
35<br />
<br />
Dương tính<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
3 (3+)<br />
0<br />
<br />
Trong 3 trường hợp có bất thường lần 2, các<br />
xét nghiệm tầm soát nguyên nhân cho thấy có 1<br />
trường hợp thiếu máu tán huyết do thiếu G6PD,<br />
1 trường hợp thận ứ nước độ 1 và 1 trường hợp<br />
hẹp da quy đầu.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Kết quả TPTNT lần nhất<br />
Kết quả TPTNT lần nhất của chúng tôi có tỷ<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
lệ bất thường nước tiểu là 6,41%, xấp xỉ với tác<br />
giả Shajari (4,7%)(12), Rao (7,2%)(10), Kaplan<br />
(9,00%)(2) và cao hơn so với kết quả của tác giả<br />
Murakami (0,75%)(5). Tuy nhiên thấp hơn nhiều<br />
so với các tác giả Plata (30,26%)(9) và Trần Thanh<br />
Phong (>47%)(14). Một trong những nguyên nhân<br />
là do chúng tôi, Plata và Trần Thanh Phong xác<br />
định tỷ lệ bất thường dựa trên 4 thông số: bạch<br />
cầu, nitrit, đạm và máu còn các tác giả có tỷ lệ<br />
thấp hơn chỉ dựa trên 2 thông số là đạm và máu.<br />
Xét riêng tỷ lệ bất thường tiểu đạm, máu của<br />
chúng tôi là 5,3% thì vẫn cao hơn so với các tác<br />
giả Murakami và Shajari.<br />
<br />
Tiểu đạm<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tiểu<br />
đạm là 2,75%, cao hơn Murakami (0,37%)(5) và<br />
Kaplan (1,60%)(2). Những trường hợp bất thường<br />
tiểu đạm lần nhất hoàn toàn biểu hiện ở mức độ<br />
vết và 1+.<br />
Tiểu máu<br />
Tỷ lệ tiểu máu của chúng tôi là 2,56% cao<br />
hơn Murakami (0,94%)(5) và Shajari (1,00%)(12),<br />
gần 50% tiểu máu là 3+.<br />
Tiểu đạm kết hợp tiểu máu<br />
Chúng tôi không ghi nhận được trường hợp<br />
tiểu máu kết hợp với đạm, trong khi theo tác giả<br />
Trần Thanh Phong tỷ lệ này là 2,2%. Tác giả<br />
Trần Thanh Phong nghiên cứu ở cả 2 đối tượng<br />
trường học và bệnh viện khác với dân số nghiên<br />
cứu của chúng tôi.<br />
Tiểu bạch cầu<br />
Tỷ lệ tiểu bạch cầu của chúng tôi là 0,37%<br />
thấp hơn với các tác giả Shajari (0,40%)(4), Kaplan<br />
(0,65%)(2), Plata (12,50%)(9) và Trần Thanh Phong<br />
(38,30%)(14).<br />
Tiểu nitrit<br />
Tỷ lệ tiểu nitrit của chúng tôi là 0,37% thấp<br />
hơn Shajari (0,60%)(12) và Trần Thanh Phong<br />
(4,60%)(14). Do độ nhạy của nitrit thấp, thường<br />
phối hợp với tiểu bạch cầu để chẩn đoán nhiễm<br />
trùng tiểu nên với dân số nghiên cứu của chúng<br />
tôi trong cộng đồng những trẻ em không triệu<br />
chứng thì khả năng dương tính sẽ thấp hơn so<br />
<br />
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012<br />
<br />
45<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
với mẫu lớn hơn của tác giả Shajari và mẫu<br />
trong bệnh viện của tác giả Trần Thanh Phong.<br />
<br />
Tiểu bạch cầu kết hợp nitrit<br />
Tỷ lệ trẻ tiểu bạch cầu kết hợp tiểu nitrit là<br />
0,37% thấp hơn tác giả Trần Thanh Phong<br />
(4,60%). Tương tự với tiểu bạch cầu, tiểu nitrit ở<br />
trên, dân số nghiên cứu của chúng tôi là trong<br />
cộng đồng khác với tác giả Trần Thanh Phong.<br />
Tỷ lệ bất thường bạch cầu và nitrit trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với<br />
các nghiên cứu của Shajari, Kaplan, Plata (4,6,7)<br />
có thể do trong quá trình chọn mẫu chúng tôi đã<br />
tiến hành chọn mẫu thuận tiện tại hai trường<br />
Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền và THCS<br />
Trương Công Định là hai trường tập trung hầu<br />
hết các em ở nội thành (cụ thể là quận 3 và quận<br />
Bình Thạnh). Bên cạnh đó, do hạn chế về nhiều<br />
mặt chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu với cỡ<br />
mẫu tương đối nhỏ so với các chương trình tầm<br />
soát của các tác giả khác được thực hiện trên<br />
diện rộng, quy mô lớn.<br />
<br />
Kết quả TPTNT lần hai<br />
Từ 35 trường hợp bất thường nước tiểu lần<br />
nhất, chúng tôi tiến hành TPTNT lần 2 và chỉ<br />
còn 3 trường hợp bất thường. Kết quả bất<br />
thường nước tiểu lần hai chỉ tập trung ở tiểu<br />
máu đơn độc với tỷ lệ là 0,55%. Tỷ lệ này khá<br />
tương đồng với tỷ lệ tiểu máu đơn độc trong bất<br />
thường lần hai ở nhóm của các tác giả<br />
Murakami (0,67%)(5) và Rao (0,46%)(10). Có thể<br />
thấy sự chênh lệch tỷ lệ bất thường nước tiểu ở<br />
hai lần TPTNT trong nghiên cứu của chúng tôi<br />
khá lớn. Hầu hết tập trung ở nhóm bất thường<br />
tiểu máu và tiểu đạm.<br />
Từ tỷ lệ tiểu máu 2,56% lần đầu, lần hai<br />
giảm còn 0,55%. Những trường hợp bất thường<br />
tiểu máu ở mức độ vết, 1+ lần nhất đều cho kết<br />
quả âm tính ở lần thử hai. Trong 6 trường hợp<br />
bất thường tiểu máu lần nhất ở mức độ 3+ thì<br />
kết quả lần hai có 3 trường hợp cho kết quả âm<br />
tính đều tập trung ở nữ, cấp 2 và qua tìm hiểu<br />
chúng tôi nhận thấy rằng kết quả bất thường lần<br />
nhất có thể đã bị sai lệch do các em lấy nước tiểu<br />
quanh chu kỳ kinh nguyệt (có nghĩa là các em<br />
<br />
46<br />
<br />
gần đến ngày hành kinh hoặc sau khi hết kinh<br />
vài ngày). Do đó, chúng tôi nhận thấy rằng tiêu<br />
chuẩn chọn mẫu trong nghiên cứu của chúng<br />
tôi chưa thật sự chặt chẽ, chưa loại hết trường<br />
hợp gây nhiễu. Còn lại 3 trường hợp dương tính<br />
ở mức độ 3+, trong đó có 2 trẻ nam và 1 trẻ nữ.<br />
Kết quả này cho thấy độ chính xác của que thử<br />
nước tiểu sẽ cao hơn khi dương tính ở mức độ<br />
cao hoặc có sự kết hợp của nhiều thông số bất<br />
thường (như tiểu đạm kết hợp tiểu máu). Điều<br />
này phù hợp với kết luận của một số tác giả<br />
Patel, Simerville, Rehmani(8,11,13).<br />
Từ tỷ lệ tiểu đạm 2,75% lần đầu, lần hai<br />
giảm còn 0%. Những trường hợp bất thường<br />
tiểu đạm lần nhất hoàn toàn biểu hiện ở mức độ<br />
vết và 1+, không ghi nhận trường hợp tiểu đạm<br />
2+, 3+, do đó có thể đây chỉ là những trường hợp<br />
dương giả hoặc tiểu đạm sinh lý, thoáng qua.<br />
Tiểu đạm là một bất thường phổ biến ở trẻ<br />
em, có thể thoáng qua hoặc kéo dài biểu hiện<br />
cho một tình trạng bệnh hoặc có thể là lành tính.<br />
Tỷ lệ tiểu đạm ở cả hai giới đều tăng theo tuổi(1).<br />
Nhận định này phù hợp với kết luận của tác giả<br />
Miltenyi và cho thấy tiểu đạm ở mức 29-238 mg<br />
ở độ tuổi 10-16 là cao hơn so với 15-68 mg ở<br />
những độ tuổi nhỏ hơn(3). Điều này giải thích<br />
cho việc tìm thấy “vết” và dương tính mức độ<br />
nhẹ thường thấy,trong xét nghiệm tiểu đạm trẻ<br />
em(3).<br />
Trong TPTNT lần hai, tỷ lệ tiểu bạch cầu,<br />
nitrit của chúng tôi là 0% so với tỷ lệ tiểu bạch<br />
cầu, nitrit lần lượt của các tác giả Trần Thanh<br />
Phong là 12,2%(14) và 1,0% và tiểu bạch cầu của<br />
Kaplan là 0,50%(2). Sự khác biệt này có thể là do<br />
chúng tôi chỉ thực hiện tầm soát trên những trẻ<br />
khỏe mạnh, trong khi đó tác giả Trần Thanh<br />
Phong thực hiện trên cả hai nhóm đối tượng là<br />
trẻ đang đi học và trẻ không có triệu chứng, tiền<br />
sử bệnh thận niệu đến khám tại bệnh viện. Bên<br />
cạnh đó sự khác biệt về độ tuổi của dân số<br />
nghiên cứu cũng có thể là một nguyên nhân.<br />
Dân số nghiên cứu của tác giả Trần Thanh<br />
Phong ở độ tuổi từ 0-10 tuổi (mầm non và tiểu<br />
học), của Kaplan trong độ tuổi 5-6 tuổi (bắt đầu<br />
<br />
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012<br />
<br />