
quát được những kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân lao động trong hoạt
động xã hội mà còn phản ánh truyền thống xã hội, truyền thống văn hóa dân
tộc, là kết quả nhận thức của nhân dân dân tộc Hán. Cũng như thành ngữ ở
các ngôn ngữ khác, thành ngữ trong tiếng Hán có nét đặc trưng khác với các
đơn vị ngôn ngữ là nó có thể biểu đạt ý nghĩa một cách ngắn gọn, lời ít ý
nhiều. Sử dụng đúng thành ngữ trong lời nói hoặc trong tác phẩm có thể làm
cho văn chương hoặc lời nói của mình càng sinh động và hình tượng hơn,
càng thêm sức thuyết phục và sức hấp dẫn hơn. Chính vì vậy, thành ngữ là
một hình thức ngôn ngữ được người dân Trung Quốc ưa thích nhất và được sử
dụng rộng rãi trong lời văn và tiếng nói hàng ngày.
Trong thành ngữ tiếng Hán, có một bộ phận khá đặc biệt, đó là những
thành ngữ sử dụng các con số (ví dụ: một, hai, ba…trăm, nghìn, vạn) như một
thành tố cấu trúc, thường được gọi là thành ngữ con số, ví dụ:
朝三暮四
(Triêu tam mộ tứ - lòng chim dạ cá),
五颜六色
(Ngũ nhan lục sắc – màu sắc
sặc sỡ),
百战百胜
(Bách chiến bách thắng—trăm trận trăm thắng) …
Có những lí do nhất định để nghiên cứu về các thành ngữ con số này của
tiếng Hán.
Chúng ta biết rằng con số vốn là những ký hiệu toán học có chức năng
biểu thị số lượng (ít hay nhiều) và người ta gọi đó là con số tự nhiên. Tuy
nhiên, ngoài ý nghĩa toán học, các con số còn được sử dụng trong văn hóa, tín
ngưỡng, tôn giáo với những ý nghĩa biểu trưng tiềm ẩn tiêu biểu. Được sử
dụng ở chức năng ngữ nghĩa này, các con số trong thành ngữ tiếng Hán không
chỉ phản ánh các cách dùng phổ quát của con số ở các ngôn ngữ nói chung (để
biểu thị số lượng) mà còn thể hiện những sự khác biệt trong cách tư duy của
người Hán về con số và sử dụng con số với tư cách là những biểu trưng tinh
thần và văn hóa Hán. Vì vậy, chúng tôi tin rằng việc đi sâu nghiên cứu về
thành ngữ con số tiếng Hán và khảo sát cách thức chuyển dịch sang tiếng Việt,
sẽ làm sáng tỏ thêm sự phong phú và đặc sắc của tiếng Hán, đồng thời cung
cấp được chút ít giá trị tham khảo trong việc chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán