TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN CỦA
A. P. CHEKHOV
DƯƠNG THỊ THANH THOẢNG
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN CỦA
A. P. CHEKHOV
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TRẦN THỊ NÂU DƯƠNG THỊ THANH THOẢNG
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
LỜI CẢM TẠ
Đầu tiên cho tôi gửi lời cám ơn đến quý thầy cô trong bộ môn Ngữ Văn, đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong suốt bốn năm đại học. Cùng với nổ lực
và sự phấn đấu của bản thân, cuối cùng tôi đã có đủ điều kiện tham gia khóa luận này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận tôi đã gặp không ít khó khăn, nhưng nhờ sự
giúp đỡ của cô và bạn bè đã giúp tôi vượt qua khó khăn đó. Qua đây tôi xin gởi lời
cám ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn cô Trần Thị Nâu, cô đã hướng dẫn rất
nhiệt tình và dành nhiều thời gian quý báu của mình truyền đạt kiến thức lẫn kinh
nghiệm, tận tình hướng dẫn giúp tôi tìm được hướng đi và phương pháp cụ thể trong
quá trình thực hiện khóa luận.
Đây là lần đầu tiên tôi nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp, trong quá trình thực
hiện có nhiều sai sót và khuyết điểm. Kính mong quý thầy cô và các bạn thông cảm và
đóng góp ý kiến để tôi có thể hoàn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
i
Dƣơng Thị Thanh Thoảng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các
công trình nghiên cứu, bài viết được thu thập, sưu tầm phục vụ cho việc nghiên cứu đề
tài này cũng như kết quả phân tích trong đề tài là trung thực. Đề tài không trùng với bất
cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào trước đây.
Sinh viên thực hiện
Dƣơng Thị Thanh Thoảng
ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Đề tài nghiên cứu này được triển khai trong ba phần: phần mở đầu, phần nội
dung và phần kết luận.
+ Phần mở đầu: chủ yếu nói về các yêu cầu cơ bản mà người nghiên cứu phải
tiến hành như lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu.
+ Phần nội dung: là phần quan trọng nhất mà đề tài hướng đến. Ở phần này,
được tiến hành trong ba chương:
- Chương 1: Người viết khái quát về những nội dung cơ bản liên quan đến thời
đại, cuộc đời và sự nghiệp, khái quát truyện ngắn của tác giả A. P. Chekhov, giúp
người nghiên cứu có cái nhìn bao quát về phạm vị nghiên cứu của đề tài.
- Chương 2: Đây là chương trọng tâm, xoáy sâu vào nội dung đề tài. Chương
này người viết tập trung các nội dung sau: Trọng tâm trong truyện ngắn của Chekhov
là cuộc sống của những con người nhỏ bé, tính hài kịch và bi kịch trong truyện ngắn,
hiện thực và hư cấu trong truyện ngắn, cách tân của truyện ngắn về phương diện nội
dung.
- Chương 3: Nghiên cứu về các đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn
Chekhov, cách tân truyện ngắn về phương diện nghệ thuật. Qua đó, tìm ra những giá
trị, đóng góp quan trọng về nghệ thuật của nhà thơ đối với truyện ngắn của Nga.
+ Phần kết luận: Là phần đúc kết, hệ thống lại những vấn đề chính trong đề tài
đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov, đúc kết lại những ý nghĩa xã hội, nhân văn
iii
mà đề tài đem lại.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………..1
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………..2
3. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………....5
4. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………..5
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………..5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIÊP
CỦA A. P. CHEKHOV VÀ THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN
1.1. Khái quát về thời đại………..............................................................................7
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của A. P. Chekhov……………………………………10
1.3. Khái quát về thể loại truyện ngắn……………………………………………..14
1.3.1. Truyện ngắn là gi? …………………………………………………….14
1.3.2. Khái quát về truyện ngắn ……………………………………………...15
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN A. P. CHEKHOV
2.1. Trọng tâm của truyện ngắn là cuộc sống những con người bé nhỏ…………..20
2.2. Tính hài kịch và bi kịch……………………………………………………....24
2.2.1. Tính hài kịch……………………………………………………………24
2.2.2. Tính bi kịch……………………………………………………………..26
2.3. Hiện thực và hư cấu trong truyện ngắn A. P. Chekhov…………………….....27
2.3.1. Tính hiện thực……………………………………………………………27
2.3.2. Tính hư cấu………………………………………………………………29
2.4. Cách tân của truyện ngắn A. P. Chekhov về phương diện nội dung…………..31
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN A. P.
CHEKHOV
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật…………………………………………………34
3.1.1. Nhân vật là những con người kì quái của xã hội…………………………34
iv
3.1.2. Nhân vật là những kẻ dung tục và nô lệ………………………………….38
3.1.3. Nhân vật là nạn nhân bi thảm của xã …………………………………….41
3.2. Kết cấu truyện và cốt truyện……………………………………………………47
3.3. Nghê thuật xây dựng tình huống truyện………………………………………..58
3.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ…………………………………………………..61
3.5. Giọng điệu…………………………………………………………………........63
3.5.1. Giọng điệu kể chuyện……………………………………………………..63
3.5.2. Giọng điệu trần thuật………………………………………………….......64
3.6. Cách tân truyện ngắn về phương diện nghệ thuật………………………………67
PHẦN KẾT LUẬN …………………………………………………………........70
v
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………..72
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Văn học Nga là một nền văn học lớn của thế giới, nó có sức ảnh hưởng sâu
sắc đến nhiều nền văn học của nhiều nước khác nhau. Đã rất lâu, văn học Nga đã ăn
sâu vào đời sống và tinh thần của con người Việt Nam, và trở thành cầu nối giúp
chúng ta ngày càng đi đến với tâm hồn Nga thân yêu. Không chỉ riêng tôi mà tất cả
con người Việt Nam đều yêu mến nước Nga qua những tác phẩm văn thơ Nga. Lịch
sử văn học Việt Nam cũng ảnh hưởng mạnh mẽ từ nền văn học Nga, với những tên
tuổi nổi bậc như: L. N.TônxTôi, A. X.PusKin, M. A.Sôlôkhôp…
Chekhov (1860-1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỉ
XIX, là một nhà văn, nhà cách tân nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn. Hơn
hai mươi năm cầm bút, ông đã để lại số lượng truyện ngắn rất lớn có ảnh hưởng sâu
đến nền văn học Nga và trên toàn thế giới. Tác phẩm của ông đều xoay quanh đến
những nhân vật rất đời thường, với những cảnh đời nô lệ nghiệt ngã. Đó là sự đột
phá mới mẽ, luôn lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu tìm đến với tác phẩm của ông.
Và có lần Chekhov nói: “Tất cả những gì tôi viết sẽ bị quên đi sau 5 năm đến
10 năm: những con đường do tôi khai phá sẽ còn nguyên vẹn và không bị xâm hại”,
Chekhov đã khẳng định những đóng góp của mình đối với văn học, như người đã
khai phá ra những con đường mới.
Trải qua cả một chặn đường thử thách, truyện ngắn của Chekhov ngày càng
được rất nhiều đọc giả quan tâm và chọn đọc nhiều nhất cả trong và ngoài nước vào
thế kỉ XX. Ông còn nằm trong top 10 tác gia văn học kinh điển của thế giới, còn có
nhiều tác phẩm được dựng phim nhiều nhất.
Ở Việt Nam, những tác phẩm của ông được độc giả làm quen từ hơn nữa thế
kỉ nay. Do những tác phẩm của ông rất gần gủi với trái tim của độc giả Việt Nam,
còn có một số truyện tiêu biểu được đưa vào chương trình phổ thông và bậc đại học
để giảng dạy.
Sáng tác nghệ thuật của Chekhov giữ một vị trí, vai trò đặc biệt trong sự phát
triển của văn học Nga và văn học thế giới. Văn chương của ông có tác động mạnh
mẽ đến sáng tác của nhiều thế hệ nhà văn. Nghiên cứu về sáng tác của Chekhov ở
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 1
Việt Nam đã có những công trình của những chuyên gia về văn học Nga đề cặp đến.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Tuy nhiên, nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn của Chekhov thì chưa có một
chuyên luận, bài viết chuyên sâu. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm truyện
ngắn của A. P. Chekhov” để nghiên cứu với mục đích tìm hiểu và phát hiện những
cái hay trong sáng tác của Chekhov.
2. Lịch sự vấn đề
Vào trước tháng Mười năm 1917, tất cả những sáng tác của Chekhov là điều
bí ẩn đối với giới nghiên cứu phê bình Nga trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu,
các nhà phê bình chỉ nhìn thấy những điểm mà tất cả họ cho là yếu kém trong sáng
tác của ông. Sự thiếu vắng lập trường, thái độ lạnh lùng với con người và sự kiện
được miêu tả, không có quan niệm chung. Nhân vật mà ông vẽ lên là những con
người chỉ quẩn quanh với cuộc sống sinh hoạt đời thường. Tuy nhiên về thái độ của
các nhà phê bình đã thay đổi, Mikhailôpxki là một nhà phê bình có uy tín nhất
những năm 70 – 90 của thế kỉ XIX, khi thừa nhận Chekhov là một tài năng thực sự,
tài năng lớn, rất khâm phục tài nghệ miêu tả phong cảnh và tâm lý của ông.
Trong bài viết Cái mới trong truyện ngắn của Chekhov do tác giả Nguyễn
Hải Hà viết nhân hội thảo khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất của Chekhov, có nêu
một số nhận định của một số tác giả nổi tiếng như sau:
Đại văn hào L. Tônxtôi được tôn là cây đại thụ của văn học Nga thế kỉ XIX,
một trong những đỉnh cao nổi bật trên nền trời văn học Châu Âu, đã không ngần
ngại khi thừa nhận Chekhov đã sáng tạo ra hình thái văn chương mới, đó là hình thái
hoàn toàn mới cho tất cả thế giới và cũng là hình thái văn chương mà tôi chưa thấy
ở đâu. Chekhov là một nghệ sĩ vô song, một nghệ sĩ của đời sống.
Bên cạnh đó, L. Tônxtôi còn ca ngợi tài năng nghệ thuật của Chekhov, vì ông
đã kế thừa đầy đủ những tinh hoa truyền thống văn hóa của dân tộc Nga. Điều chủ
yếu là lúc nào Chekhov cũng chân thành, đó cũng là phẩm chất cao quý của nhà
văn, nhờ vậy mà Chekhov đã sáng tạo ra được những hình thức viết mới, hoàn toàn
mới.
M. Gorki là người rất say mê Chekhov, trong thư gửi Chekhov năm 1898 có
nói tài năng của ông thật là vĩ đại, có rất nhiều người khen ông, nhưng chưa đánh
giá ông đúng mức và hiểu ông rất ít. Đặc biệt tinh thần nhân đạo trong mỗi tác phẩm
của Chekhov đưa ra là nhấn sâu thêm vào cái đặc điểm dũng cảm và yêu thương
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 2
cuộc đời, nó là một đặc điểm rất quý và rất cần cho chúng ta.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng như người tốt, đều sống trong câu
truyện của Chekhov đúng như họ sống trong hiện thực. Trong các truyện ngắn của
Chekhov, không hề có một cái gì mà lại không có thật trong cuộc sống. Cái sức
mạnh khủng khiếp của tài năng ông, chính là ông không bịa đặt ra một cái gì, không
có trên đời, tuy có thể là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Đây là những lời nhận
xét rất chân thành của M. Gorki về tính hiện thực trong sáng tác của Chekhov.
Bên cạnh đó, M. Gorki còn nhận xét về những tư tưởng nô lệ trong sáng tác
của Chekhov diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ của tình yêu,
của sự ngu dại và của thối lười biếng, của sự tham lam đối với những lạc thú trần
gian; đó là những kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi, tối tâm trước cuộc sống, họ quằn quại
trong nỗi lo âu mơ hồ và trúc ra những lời lẽ.
Về tính chất ban đầu, tính khởi điểm trong cách miêu tả nhân vật, được
Hoàng Xuân Nhị cho rằng đây là lần đầu tiên trong văn học Nga và thế giới chúng
ta thấy toàn bộ sáng tác của nhà văn tập trung vào biểu hiện những con người nhìn
bề ngoài mà nói rất tầm thường, biểu hiện cảnh sống buồn chán, nghẹt thở, đau
thương của họ.
Trong quyển Bàn về nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn năm 1999 của Nguyễn
Tuân có cho rằng Chekhov là một họa sĩ vẽ tạo vật cũng tài như vẽ mặt người, tim
óc người. Nếu sử dụng đúng theo ngôn ngữ y học thì Chekhov thường thiên về “bắt
mạch” chứ ít “nội sôi”, chỉ cần qua vài chi tiết ngoại hình, vài hành động cử chỉ, vài
biểu hiện tâm lý, vài câu đối thoại là ông có thể đọc được ngay chứng bệnh của nhân
vật.
Nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang viết quyển A. Sekhov, Nxb Hải Phòng, đã
đưa ra nhận định để khái quát số lượng nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov rất
đông đảo “đó là những cảnh tượng đông đúc huyên náo thật đáng kinh ngạc, hàng
nghìn con người, chải chuốt và bê tha…nói tóm lại chúng ta sẽ gặp được cả một
thời gian trên cái đường phố tưởng tượng kia một thời gian thu nhỏ dường như thật
hơn, cô đọng hơn, vừa xấu xa hơn mà cũng vừa cao cả hơn”[6; tr.45].
Theo các nhà nghiên cứu khẳng định, thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Chekhov phần lớn là những con người bình thường trong cuộc sống. Có thể nói
Chekhov là nhà văn của đời thường, là nhà văn của tầng lớp nhân dân, nhân vật của
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 3
ông xoay quanh cuộc sống sinh hoạt với những vụn vật hàng ngày. Con người chỉ lo
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
cho cuộc sống vật chất và những biến động tinh thần, luôn có trong mỗi nhật vật.
Đồng thời cũng phản ánh lên những vấn đề xã hội Nga hoàng lúc bấy giờ.
Nghiên cứu về Chekhov, các nhà Nga học Việt Nam chủ yếu tập trung vào
một số vấn đề chính sau:
Một là, tập trung vào tiểu sử và sự nghiệp văn học của Chekhov, vấn đề này
thể hiện trong các công trình sau:
1. Hà Thị Hòa (2007). văn học trong nhà trường (biên soạn và tuyển dịch).
Nxb Giáo Dục.
2. Phạm Vĩnh Cư (2006). Chekhov – nhà văn xuôi. Nxb Giáo Dục.
3. Trần Thị Nâu (2012). Bài giảng văn học Nga (biên soạn). Cần Thơ.
4. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Trường Lịch và Huy Liên (1997). Lịch sử văn học Nga. Nxb Giáo dục.
5. Lê Huy Bắc (2006). Truyện ngắn: Lí luận, Tác giả và tác phẩm (tập 2).
Nxb Giáo Dục.
Hai là, những nhân vật và nghệ thuật trong truyện ngắn của Chekhov, có các
công trình như sau:
1. Nguyễn Trường Lịch (2004). Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa. (Hội thảo
khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất của Chekhov).
2. Nguyễn Hải Hà (2004). Cái mới trong truyện ngắn của Sekhov. (Hội thảo
khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất của Chekhov).
3. Đỗ Hải Phong dịch (1971). Bài giảng thi pháp A. Sekhov của Truđacôp.
Nxb Giáo Dục.
4. Nguyễn Tuân (1999). Bàn về nghệ thuật. Nxb Hội Nhà văn.
5. Nguyễn Hiến Lê (2000). Tchekhov. Nxb văn nghệ TP. HCM.
6. Dương Thanh Bình dịch (2003). Tiểu thuyết hiện đại. Nxb Lao động, Hà
Nội.
Ba là, nghiên cứu dưới góc độ so sánh giữa tác giả nước ngoài và tác giả Việt
Nam, gồm những bài viết như sau:
1. Phạm Vĩnh Cư (2006), Chekhov – Nhà văn xuôi, Nxb Giáo Dục.
2. Bài viết so sánh “Hệ thống nhân vật của Chekhov và Nguyễn Công Hoan”,
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 4
(nguồn Đại học Thái Nguyên).
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
3. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài “Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov”, tôi xác
định được mục đích quan trọng là chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của truyện
ngắn ở phương diện nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Chekhov. Để từ đó, có
thể đánh giá cách tân của Chekhov ở thể loại truyện ngắn, và một lần nữa khẳng
định vị trí của ông trong nền văn học Nga và thế giới.
Thông qua việc thực hiện đề tài này, tôi đã rèn luyện được kĩ năng nghiên
cứu khoa học, và tìm hiểu sâu hơn về thể loại truyện ngắn của nền văn học Nga nói
chung cũng như tác giả Chekhov nói riêng, để giúp ích cho công việc giảng dạy sau
này.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài về “Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov”
ở phương diện nội dung và nghệ thuật.
Về phương diện nội dung, tôi nghiên cứu đề tài, kịch tính, hiện thực và hư
cấu để là cơ sở đánh giá cách tân của Chekhov ở thể loại truyện ngắn.
Về phương diện nghệ thuật, tôi chú ý đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt
truyện và giọng điệu trong truyện.
Tài liệu phục vụ chủ yếu cho việc nghiên cứu là, tuyển tập truyện ngắn của
A. P. Chekhov, Nxb Hội Nhà văn (2012), do Phan Hồng Giang và Cao Xuân Hạo
dịch.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp tổng
hợp như sau:
Phương pháp cơ bản được sử dụng là: phương pháp tiểu sử - lịch sử dùng để
tìm hiểu về cuộc đời, tác phẩm của A. P. Chekhov và thời đại mà nhà văn đang
sống.
Phương pháp quan sát và hệ thống hóa được sử dụng để tìm hiểu, khái quát
những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn A. P. Chekhov.
Đặc biệt phương pháp được sử dụng xuyên suốt là phương pháp phân tích
tổng hợp gồm các thao tác: liệt kê, mô tả, chứng minh, bình luận, đối chiếu, so sánh
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 5
nhân vật… trong truyện ngắn của A. P. Chekhov và các nhà văn Nga và Việt Nam.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Phương pháp so sánh hệ thống nhân vật và sự cách tân về nội dung và nghệ
thuật trong bài So sánh truyên ngắn Chekhov và Nguyễn Công Hoan (nguồn Đại học
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 6
Thái Nguyên), và bài Nhìn từ hai nền văn học (Phong Lê).
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ A. P. CHEKHOV
VÀ THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐẠI
Do kế thừa và phát huy những thành tựu xuất sắc của văn học Nga nửa đầu
thế kỉ nên nền văn học Nga nửa sau thế kỉ XIX đã đạt đến đỉnh cao, góp phần cống
hiến lớn lao vào kho tàng văn hóa nghệ thuật của toàn nhân loại.
Những biến cố lịch sử lớn đã ảnh hưởng đến xã hội và văn học của giai đoạn
này. Với những sự kiện trọng tâm là cuộc cải cách nông nô (19.2.1861) báo hiệu
chế độ phong kiến chuyên chế Nga hoàng bước vào thời kì khủng hoảng trầm trọng
không thể cứu vãn nổi. Về mặt hình thức, đó là một cuộc cải cách mang tính tư sản,
mà nguyên nhân sâu xa là do bộ máy chính quyền nhà nước ngày càng rệu rã, bất
lực trên mọi lĩnh vực kinh tế cũng như chính trị, mặt khác nông dân lao động bị áp
bức bóc lột biết bao đời, phải sống trong cực khổ đói rách. Do vậy, mà ngọn lửa
căm thù luôn cháy trong họ, cuối cùng họ đã vùng lên khởi nghĩa khắp nơi chống lại
ách thống trị tàn bạo của quan lại, địa chủ đòi giải phóng, đòi tự do.
Chính quyền nhà vua ra sức đàn áp đẫm máu các cuộc khởi nghĩa, đồng thời
lại rơi vào cuộc chiến tranh mới: chiến tranh Crưm (1854 – 1856). Một bán đảo ở
miền Nam nước Nga, thuộc vùng biển Đen, có hải cảng quân sự quan trọng:
Xêvaxtôpôn.
Sau 349 ngày chiến đấu anh dũng chống quân xâm lược Anh, Pháp, Thổ, thì
quân đội Nga phải rút lui, cuối cùng quân cảng bị chiếm đóng. Cuộc chiến tranh
Crưm là một thất bại lớn cho nước Nga. Vua Alêchxanđrơ II đành phải kí “Hòa ước
Pari 1856”.
Cuộc chiến thất bại, Lênin từng đánh giá rằng: “Cuộc chiến tranh Crưm đã
chứng tỏ cảnh thối nát và bất lực của nước Nga phong kiến”. Mac cũng rất quan
tâm đến tình hình này và người đã nhận định: “Đó là thử thách giữa hai chế độ”.
Trước tình hình xã hội suy sụp trầm trọng do thất bại về quân sự, do những
khó khăn ghê gớm về tài chính và những cuộc khởi nghĩa khủng khiếp của nông
dân, chính phủ nhất thiết bắt buộc phải giải phóng họ. Bản thân Nga hoàng cũng
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 7
thừa nhận là cần phải tiến hành giải phóng từ trên xuống, đừng đợi đến khi có cuộc
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
giải phóng từ dưới lên và chính quyền chuyên chế buộc lòng phải hủy bỏ chế độ
nông nô vào năm 1861.
Thực chất đây là một cuộc cải cách không triệt để do giai cấp phong kiến
thống trị cấu kết với giai cấp tư sản thực hiện, nhằm lẩn tránh búa rìu của cuộc bạo
động quần chúng. Chính bọn địa chủ quý tộc chủ trương bãi bỏ chế độ nông nô, là
để tiếp tục duy trì các đặc quyền đặc lợi của chúng. Số phận của hàng chục triệu
nông dân vẫn chẳng được cải thiện chút nào. Để đáp lại ân huệ “giải phóng” của vua
quan, quần chúng lao động đã vùng lên đấu tranh. Phong trào khởi nghĩa nông dân
lan rộng tới 90% các tỉnh.
Song, dù sao thì việc hủy bỏ chế độ nông nô vẫn là một bước ngoặt lớn trong
quá trình phát triển xã hội Nga, nó đã tạo cơ sở cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tiến
lên nhanh chóng và có tác động đưa nước Nga từ một nước quân chủ phong kiến
chuyển sang một nước quân chủ tư sản, xã hội Nga bước vào tình trạng “mọi thứ đã
bị đảo lộn và chỉ mới được sắp xếp lại”. Cái đã bị đảo lộn chính là chế độ nông nô
và toàn bộ trật tự cũ phù hợp với nó. Cái chỉ mới được sắp xếp lại, chính là chế độ
tư sản.
Về mặt khác, hai đặc điểm căn bản của chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa được
bộc lộ rỏ rệt: “Quyền lực đồng tiền” biểu hiện hết sức mạnh mẽ trong công nghiệp
và nông nghiệp, ở thành thị cũng như ở nông thôn và chế độ mua bán sức lao động
được phổ biến tràn lan khắp nơi. Trong thôn quê nông dân phân hóa một cách cực kì
mau chóng thành hai bộ phận: giai cấp tư sản có số lượng rất ít nhưng lại vững
mạnh do địa vị kinh tế của nó và giai cấp vô sản nông thôn.
Cũng như nửa đầu thế kỉ trước, đất nước Nga vào nửa sau thế kỉ vẫn là một
nước nông nghiệp lạc hậu ở Châu Âu, nông dân chiếm 90% dân số, họ phải sống
chìm đắm trong đêm dài nô lệ, số phận bị chao đảo trong vòng tay địa chủ tư sản,
quan lại và nhà thờ khắc nghiệt. Cuộc sống của họ ngày càng bị bế tắc. Bởi thế mà,
một nhân vật trong tiểu thuyết “Tội ác và hình phạt” của Đôxtôiepxki đã đau đớn
kêu lên bất cứ ai thì cũng cần có đường mà đi chứ… Nhưng giờ đây chẳng còn nơi
nào mà đi nữa.
Không còn lối thoát! Không còn lối thoát! Tiếng kêu ấy đã biến thành nỗi
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 8
căm thù chồng chất, nó biến thành ý chí phản kháng dữ dội của hàng triệu người nô
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
lệ tạo nên sức tố cáo quyết liệt không gì ngăn cản nổi trong thực tế cuộc sống cũng
như trên lĩnh vực tư tưởng và trên mọi nền văn học nghệ thuật.
Sự đối kháng quyết liệt giữa thế lực thống trị và quần chúng bị trị trải dài
xuyên suốt nửa sau thế kỉ. Mâu thuẩn này đã tạo nên cơn khủng hoảng gay gắt trầm
trọng trong xã hội mang tính bùng nổ chỉ đợi thời cơ là sẽ bốc cháy dữ dội. Từ đó
cho thấy được vấn đề nông dân gắn liền với vấn đề ruộng đất, nó có một ý nghĩa
trọng đại đối với quá trình phát triển lịch sử xã hội, tư tưởng cũng như văn học nghệ
thuật Nga suốt thế kỉ XIX. Giới trí thức tiên tiến là một lực lượng tiến bộ từng góp
phần cống hiến lớn lao của mình vào sự phát triển tư tưởng xã hội trên đất nước
Nga. Hoạt động cách mạng của họ không tách rời phong trào giải phóng của nhân
dân, đặc biệt nở rộ từ sau cuộc cải cách.
Thời đại mới này đã sản sinh ra hai trào lưu tư tưởng chủ yếu như: một bên là
phái tự do chủ nghĩa nổi bật vào những năm 1860 – 1870: một bên là phái dân chủ
cách mạng. Cả hai phái đều là những người đại biểu cho hai xu hướng lịch sử quyết
định trong cuộc đấu tranh đòi giải phóng nông dân Nga. Trước sau, phái tự do cũng
chỉ là những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản, là một giai cấp không thể chấp nhận
chế độ nông nô, nhưng lại sợ cách mạng và sợ phong trào của quần chúng có khả
năng lật đổ được chế độ quân chủ và tiêu diệt được chính quyền của bọn địa chủ. Vì
thế, phái tự do chỉ “đấu tranh cho những cuộc cải lương”, chỉ “đấu tranh cho
những quyền lợi”, nghĩa là chỉ phân chia cho chính quyền giữa bọn phong kiến và
giai cấp tư sản.
Song song với hai xu hướng trên, vào những năm 80, cùng với sự lớn mạnh
của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mac từ Tây Âu được truyền vào. Tiếp đến những
năm 90, Lênin bắt đầu hoạt động thực tiễn, tích cực rèn luyện một chính đảng theo
kiểu mới.
Hòa vào tư tưởng mới mẻ đó là sự xuất hiện hàng loạt những con người lao
động mới, họ hiên ngang bước vào văn học với vẽ đẹp hào hùng, sung sức hăm hở
tiến lên giành lấy bầu trời, mặt đất và quyền sống cho mình, quyền cải tạo và quyền
chiếm lĩnh một thế giới mới. Từ đó, sự nghiệp văn học cũng được ra đời, với những
tác phẩm hấp dẫn mãnh liệt. Văn học Nga đã tiếp thu nhanh chóng tính chất của thời
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 9
đại mới.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Về thể loại văn xuôi chiếm ưu thế, ngày càng xuất hiện những tác phẩm văn
xuôi đồ sộ và quy mô, cả về dung lượng lẫn tính sử thi, tính bao quát cuộc sống như
sáng tác của Gogol, Turgenive, Sernysrvski, Dostoievski, Lev Tostoi, Chekhov…
Nội dung chủ yếu của các tiểu thuyết Nga là mối xung đột giữa cá nhân và xã
hội. Các chuẩn mực đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân, thường không phù hợp với
nhau chỉ vì ngoài thực tế xã hội đầy mâu thuẩn. Tiểu thuyết thời kì này khá đã dạng,
hầu như đã vượt ra khỏi giới hạn về thể loại. Vừa là tiểu thuyết sử thi, vừa là tiểu
thuyết tâm lí và triết li, vừa có yếu tố gia đình mang một ý nghĩa xã hội. Các tác
phẩm đồ sộ của các nhà văn lớn như: Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina,
Phục sinh của Lev Tostoi; Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov của
Dostoievski.
Nếu Puskin là người mở đầu cho nền văn học Nga thì Lev Tostoi là người đã
đưa nền văn học này lên đến đỉnh cao vinh quang của nó. Trong nền văn học Nga
giai đoạn này xuất hiện khá phổ biến kiểu nhân vật “Con người thừa” với những
chuyên biến tâm lí phức tạp. Càng về sau, thì xuất hiện thêm kiểu nhân vật “Con
người mới” trong tác phẩm “Làm gì?” của Sernyisevski.
Bắt đầu từ thập niên 70 trở đi thì thơ, trường ca và kịch cũng có nhiều nét
mới trong sáng tác của Nekrasov và Ostrovski. Những trường ca tiêu biểu của
Nerkrasov như: “Ông nội” (1870), “Thần băng tuyết mũi đỏ” (1864), “Những người
phụ nữ Nga” (1872 – 1873). Cả hai thể loại thơ và trường ca của Nerkrasov luôn
mang một tâm trạng u buồn ảm đạm.
Bước vào những năm 80, ngày càng xuất hiện thêm nhiều cây bút trẻ có tài
năng, trong số đó không thể không kể đến nhà văn Chekhov với rất nhiều truyện
ngắn và những vở kịch châm biếm xã hội và phê phán đạo đức của những con người
thuộc tầng lớp tiểu tư sản.
1.2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA A. P. CHEKHOV
Antôn Paplôvich Chekhov sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 tại Taganrôc
thuộc miền Nam nước Nga. Ông là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học
Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung. Được sinh ra trong gia đình tiểu thị dân
ở thị trấn Taganrôc, là một thành phố cảng cổ, nơi thường tập trung buôn bán rất
nhộn nhịp và sầm uất. Dòng họ Chekhov làm nô lệ đã qua năm đời, nhưng đến đời
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 10
ông nội thì chuộc lại sự “tự do” nhờ số tiền mà ông dành dụm trong rất nhiều năm.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Không ngừng lại ở đó, mãi đến đời cha Chekhov cũng vất vã không kém gì. Từ một
người làm thuê được ngôi lên địa vị làm chủ một hiệu tạp hóa nhỏ, là người có năng
khiếu về nghệ thuật và hiểu rõ về giá trị của học vấn. Mặc dù buôn bán khó khăn,
phải nhặc nhạnh từng đồng từng cất, họ luôn phải sống trong sự gói rém, tằn tiện,
nhưng ông vẫn cố gắng cho anh em Chekhov đến trường.
Chekhov lớn lên trong một gia đình có bố người có tính gia trưởng hà khắc,
ông có một bài học giáo dục rất đáng sợ. Cả trong cuộc sống và gia đình cần phải
tuân theo một luật lệ chung, phải thật nghiêm khắc với các con. Mọi sinh hoạt trong
gia đình Chekhov là thời gian biểu bất di bất dịch. Mẹ của Chekhov, là bà Epghênia
Zaconlepna là người rất mực dịu dàng và rất tận tụy với chồng với con. Khi đã trở
thành nhà văn lớn, Chekhov từng tâm sự: “Tài năng của anh em chúng tôi là nhờ
cha, tâm hồn của anh em chúng tôi là nhờ mẹ”. Anh em Chekhov sau này đều
trưởng thành và thành đạt: hai họa sĩ, ba nhà văn và một giáo viên.
Tuổi thơ của anh em nhà Chekhov luôn phải trải qua sự buồn tẻ, sợ hãi. Luôn
sống trong cảnh đòn roi, hàng ngày phải cầu kinh, đi học rồi trông hàng…và đó là
cái vòng luẩn quẩn thật nhàm chán mà họ phải chịu đựng. Vì thế, đến khi trưởng
thành Chekhov xúc động nhắc lại: “Thuở nhỏ, tôi không có thời thơ ấu…”.
Cuộc sống tĩnh lẽ “không có thời thơ ấu” đã cho Chekhov một bài học thấm
thía, cần phải xóa sạch dòng máu nô lệ trong người. Trải qua những tháng năm vất
vả một mình bươn trải để kiếm sống ở Taganrôc đã tạo cho Chekhov có cái nhìn
tĩnh táo, lạnh lung và nghiêm khắc. Phải ngẩng đầu, phải thẳng lưng, phải cần cù,
dũng cảm để sống có tư cánh, có giáo dục và rèn luyện tài năng. Tốt nghiệp trung
học, Chekhov quyết định lên Maxcơva, Chekhov xúc động tạm biệt bà cô để lên
đường: “Đừng buồn cô ạ, cháu đi Maxcơva rồi sẽ thành bác sĩ, cháu sẽ sống đàng
hoàng, sống cho ra con người cô ạ”. Đó không đơn giản là một lời chào, mà là một
tâm nguyện, được xuất phát từ thực tế của cuộc sống, để rồi trở thành quan niệm về
cuộc đời và con người nhà văn sau này.
Năm 1880 Chekhov về Maxcơva học khoa y trường đại học Tổng hợp, đến
năm 1884 tốt nghiệp, và từ đó bắt đầu vừa học vừa viết văn. Chất hài hước xuất hiện
trong tác phẩm đầu tay của ông. Dù còn rất trẻ, nhưng Chekhov đã trở thành chỗ
dựa cho mẹ và các em ở Maxcơva, ông đặc biệt quan tâm hàng đầu về việc giáo dục
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 11
các em và uốn nắn họ. Vì Chekhov hiểu rõ và câm phẫn với cuộc sống nô lệ, nó đã
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
ăn sâu vào máu thịt của biết bao con người, trong số đó có cả ông nội và cha ông,
nên ông có ý nghĩ là cần phải tẩy rửa những chất dơ nô lệ ấy.
Do Chekhov đã nhìn thấy được cuộc sống hiện thực của nhân dân do mất
mùa xảy ra nhiều năm. Ông còn chứng kiến nhiều cảnh dã man vô cùng khắc nghiệt
của chế độ Nga hoàng và nhà nước phong kiến, cùng với sự trở lại của tầng lớp tư
sản. Không khí ngột ngạt vào oi bức bao trùm lên trên khắp đất nước. Về quần
chúng nhân dân thì bị phân tách về mặt tư tưởng. Phần lớn giới trí thức hoang mang,
dao động rơi vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Theo thuyết “không chống lại cái
ác bằng bạo lực” của L.Tônxtôi có điều kiện phát huy tác dụng. Và đây là giai đoạn
đất nước Nga rơi vào hoàn cảnh ảm đạm, xám xịt, tàn phá nhiều mặt, nhất là về tinh
thần của giới trí thức Nga.
Do sáng tác trong buổi giao thời, Chekhov được xem là một đại biểu xuất sắc
cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga, với tư cách là nhà cách tân thiên tài trong
lĩnh vực truyện ngắn. Ông được gắn với biệt hiệu là “nhà văn của thời đại” với năng
khiếu quan sát rất nhạy bén về xã hội, từ đó đã hình thành lên nhận thức khách quan
cho ông. Bằng sự trải nghiệm thật tinh tế, Chekhov đã tích lũy trong quá trình thu
gom chất liệu cho truyện ngắn trong đời sống hàng ngày với tất cả con người.
Chekhov thật đau xót khi chứng kiến sự thật khủng khiếp của xã hội bị đảo lộn và
ông luôn hi vọng vào sự thức tĩnh nhân cách của nhân dân. Từ đó, ông không chỉ
cho lời khuyên mà còn khích lệ cho sự hoàn thiện nhân cách đó.
Từ cuộc sống vất vã, chật vật đã tạo cho Chekhov có khả năng quan sát,
khám phá hiện thực cuộc sống. Cùng một lúc, Chekhov vừa làm thầy thuốc chữa
bệnh vừa làm nhà văn chân chính. Là một thầy thuốc nên lúc nào ông cũng tiếp xúc
với nhiều hạng người trong xã hội, nên hiểu rất cặn kẽ mỗi loại người. Nhờ vậy mà
trong những tác phẩm của ông, những cái xấu xa, đê tiện được ông lấy ra từ trong
xương, trong máu để xem xét và phê phán. Cho dù ông ở đâu ông cũng nhìn ra căn
bệnh xấu xa của con người.
Đến năm 1890, Chekhov làm cuộc hành trình đầy gian khổ đến đảo Xakhalin
ở Viễn Đông, nơi đó là trung tâm tù ngục của chính phủ Nga hoàng. Trong ba tháng
sống chung với đủ loại tù nhân trên đảo, là ba tháng làm việc cần mẫn, mắt thấy tai
nghe đủ mọi hình thức chà đạp, nhục mạ con người. Chekhov đi trên khắp mọi miền
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 12
đất nước, với một khát vọng tự do, mong muốn nhân dân Nga cần cù dũng cảm sống
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
hạnh phúc. Trở về Maxcơva ông cho ra đời cuốn Đảo Xakhalin (1893) đã gây lên
một tiếng vang lớn. Bên cạnh đó, trung tâm mà Chekhov cần chú ý nhất là: “mong
muốn khám phá và mô tả thân phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua
vô vàng nhận thức…. Thối nô lệ ngấm sâu vào đầu óc người lớn, trẻ em, đàn ông,
đàn bà, trí thức, viên chức, quân nhân, thương gia, sinh viên, nông dân, những con
người không biết kính trọng những phẩm giá làm người của mình, luôn phục tùng
bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”[4; tr.281]. Những tác phẩm của ông không chỉ
phanh phui, lên án công kích hiện tại, mà còn hướng đến tương lai qua nhận thức
của người đọc. Ông đã có vài lời nói với thanh niên, lúc anh ta khóc khi xem vỡ
kịch của ông:
“Đấy, anh kể với tôi rằng anh đã khóc khi xem kịch của tôi. Mà không chỉ
mình anh. Nhưng tôi đâu viết để thấy những giọt nước mắt? Tôi muốn cái khác kia.
Tôi chỉ muốn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng:
Hãy nhìn lại mình, hãy xem chúng ta đang sống tồi, sống tệ như thế nào? Cái
quan trọng nhất là để họ thấu hiểu điều đó, và khi thấu hiểu, thế nào họ cũng phải
tạo cho mình cuộc sống tốt hơn…
Và bây giờ, khi nó chưa tới, tôi sẽ còn mãi mãi nói với mọi người: Hãy nhận
ra đi, các người sống thật tội, thật tệ. Vậy thì có gì phải khóc? [4, tr.282].
Chekhov là người rất khiêm tốn và trung thực. Sự khiêm tốn và trung thực
của ông cũng rất giản dị như cuộc đời ông. Sống ở đâu cũng vậy, ông rất yêu thiên
nhiên, đặc biệt là thích gần gũi với thiên nhiên, hay trồng trọt, làm vườn. Còn là
người rất hiếu khách, trò truyện niềm nở, và ân cần với mọi người, luôn có ước mơ
tất cả mọi người sống thành thực, tốt đẹp, lành mạnh, mơ ước cho trái đất ta ngày có
công trình xây dựng hữu ích.
Chekhov luôn lao động sáng tạo, vẫn tiếp tục quan niệm sống, quan niệm
nghệ thuật vì con người, mặc dù căn bệnh phổi ngày càng hành hạ ông. Là một thầy
thuốc ông hiểu rất rõ sự tàn phá nguy hiểm của căn bệnh, nhưng ông vẫn hết sức vui
vẽ để làm yên lòng gia đình bạn bè. Ông luôn hòa bình vào cuộc sống, tìm tòi trong
đó với thái độ lạnh lung và khách quan, ông đã phản ánh hiện thực xã hội, nhằm lật
tẩy cái ác, cái xấu xa đang được che giấu. Những quan niệm về cuộc đời, nghệ thuật
và con người đã phần nào đem lại cho nhà văn nhiều giá trị khác nhau. Trong sáng
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 13
tác của ông phản ánh một cách đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc thời đại mà ông sống,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
cùng với hoạt động nghệ thuật. Tác phẩm của ông không chỉ nêu lên tiếng nói của
thời đại nước Nga những năm 80, 90 mà còn nói lên được sự gần gũi của nhiều dân
tộc cũng có hoàn cảnh tương tự như thế.
Đến tháng 7 năm 1904, Chekhov đã qua đời tại nơi điều dưỡng ở nước Đức.
Rồi đưa về Maxcơva an táng và chôn cất tại nghĩa trang Nôvôđevise.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN
1.3.1. Truyện ngắn là gì?
Từ rất lâu, khái niệm “Truyện ngắn” đã rất quen thuộc với chúng ta. Tuy
nhiên, để có được sự thống nhất chung về khái niệm này, thì đó là một vấn đề đang
nan giải. Cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu khi đề cập đến
khái niệm “Truyện ngắn”.
Trong quyển Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình
Sử - Nguyễn Khắc Phi đã thống nhất các ý kiến lại về khái niệm truyện ngắn như
sau: “Là tác phẩm tự sự cở nhỏ và nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu
hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của
nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không
nghỉ”. Ở một khía cạnh khác, các ông còn viết thêm: “Truyện ngắn thường hướng
tới việc khắc họa một hiện thượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân
sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít
nhân vật, ít sự kiện phức tạp… Truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa
những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh”
[9; tr. 371].
Trong quá trình hình thành và phát triển, thể loại truyện ngắn cũng đã tiếp
nhận thêm một số đặc điểm mới. Trước khi đưa ra nhận định của mình về truyện
ngắn, thì Bùi Việt Thắng đã có sự so sánh giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, để giúp
chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về thể loại này: “Nếu tiểu thuyết là một hình thức tự
sự cở lớn, miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển, với một cấu trúc phức tạp
(nhiều cốt truyện, chủ đề, nhân vật) với nhiều số phận, tính cách đang xen thì truyện
ngắn là một hình thức tự sự cở nhỏ, chỉ thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp
hay một tâm trạng nhân vật” [15, tr.73].
Ở trên, là những quan niệm của các nhà nghiên cứu, nhà văn về khái niệm
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 14
truyện ngắn. Nhưng vẫn có một khái niệm mà Bùi Viết Thắng đặc biệt tâm đắc, đó
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
là nhà văn Nga K. Pauxtôpxki: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó,
cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, cái gì bình thường hiện
ra như một cái gì không bình thường”[15, tr. 73].
Như vậy, thể loại truyện ngắn được rất nhiều nhà văn trên toàn thế giới quan
tâm, cũng không ít người thành công ở thể loại truyện này. Cũng có người cho rằng
truyện ngắn dễ sáng tác hơn truyện dài và tiểu thuyết vì: nó có dung lượng ngắn, cốt
truyện ít các tình tiết và sự kiện phức tạp. Vì thế, để sáng tác thành công truyện ngắn
có giá trị thì không đơn giản chút nào. Vì dung lượng ngắn mà truyện cần phải
chuyển tải được những vấn đề quan trọng, cho nên các nhà văn rất cân nhắc và chú
ý hơn cách dùng từ, đặt câu, lựa chọn tình huống, chi tiết và sự kiện. Hiểu được điều
đó, tất cả độc giả sẽ có cái nhìn khách quan hơn và càng trân trọng hơn những tài
năng đã thành công trên thể loại này.
1.3.2. Khái quát về thể loại truyện ngắn của A. P. Chekhov
Chekhov là nhà văn lớn là một nhà văn vĩ đại của nước Nga. Mở đầu sự
nghiệp sáng tác của ông bằng một vở kịch lớn “Cảnh con không cha”, kết thúc bằng
vở kịch lớn “Vườn anh đào”. Sau đó ông viết truyện ngắn, truyện vừa, những vở
kịch vui nho nhỏ và những vở kịch lớn. Có thể nói, cả truyện ngắn và kịch đều đạt
đến mức hoàn mĩ, không hơn không kém.
Sau này, số lượng truyện ngắn của Chekhov để lại cho đời khá đồ sộ, gần 600
truyện, trong số đó có nhiều truyện được xứng danh vào hàng kiệt tác của nền văn
học thế giới. Không riêng truyện ngắn, mà còn những tiểu phẩm hài hước ông viết
khi mới chập chững vào nghề, cũng như góp phần bộc lộ dấu ấn tài năng viết truyện
ngắn của ông. Nhà văn lão thành D. V. Grigôrơvich nhận ra điều đó trong lá thư gửi
Chekhov khi ông 26 tuổi đã chỉ ra: “khả năng phân tích nội tâm”, “tài tả cảnh điêu
luyện”, “năng lực tạo hình” và tin rằng Chekhov “sẽ thuộc số người viết được
những tác phẩm nghệ thuật chân chính tuyệt vời”. Grigôrơvich chân tình khuyên
Chekhov phải biết quý trọng tài năng của mình.
Với tài năng truyện ngắn bậc thầy, Chekhov đã có những đột phá trong lĩnh
vực thể loại truyện ngắn này. Nhân thế giới kỉ niêm 50 năm ngày mất của Chekhov,
nhà tiểu thuyết người Đức Tômat Man năm 1954 đã khẳng định nghệ thuật tự sự của
Chekhov không nghi ngờ gì nữa thuộc về những gì có sức mạnh nhất và tinh hoa
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 15
nhất trong toàn bộ văn học Châu Âu. Ông còn thừa nhận trong nhiều năm ông đã
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
không ý thức được rằng nhờ thiên tài, sự ngắn gọn có thể đạt được một sức chứa lớn
như thế nào với độ cô đúc có lẽ đáng khâm phục hơn cả một tác phẩm cở nhỏ như
thế lại có thể bao quát toàn bộ cuộc sống, vươn tới tầm kì vĩ của sử thi và thậm chí
có khả năng vượt trội những sáng tác quy mô đồ sộ, tràng giang đại hải, chúng nhiều
khi rất yếu đuối gây ra nơi người đọc nỗi buồn chán.
Truyện ngắn của Chekhov cũng có thể nói đó là những tấm phim hiện hình
của những thói đời phàm tục: chứng ích kỉ, háo danh, thói phù phiếm, thái độ xun
xoe, quy lụy trước địa vị, quyền lực, nỗi sợ hãi khiếp nhược trước những cái mới, sự
lãnh đạm vô tình… Qua ngòi bút chẩn bệnh tài tình của Chekhov, nó không chỉ là
những thứ bệnh đời thường và đã trở thành căn bệnh tinh thần mang tính xã hội phổ
biến, nó không chỉ làm nhợt đi màu sắc của cuộc sống, làm nghèo tâm hồn mà còn
ăn mòn những gì là của cá nhân, cá tính nhân văn, nhân tính, là những tinh hoa làm
nên giá trị con người.
Căn bệnh đầu tiên mà Chekhov chẩn đoán đó là bệnh sợ cấp trên, cũng là
chứng bệnh lạ lung nhất. Có thể nói vào thời đó tâm lí con người rất sợ cấp trên của
mình, làm việc gì có liên quan đến cấp trên, thậm chí cả những người thân quen của
cấp trên cũng khiến cho người ta phải nể, phải sợ hải. Hai tiếng cấp trên đã trở thành
nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với nhiều nhân vật trong truyện ngắn. Chúng luôn hiện
hữu trong nhiều nhân vật vô hình: viên tướng này, quan chánh nọ, ngài thanh tra,
ông hiệu trưởng, ông đốc, cùng viên chức bậc cao với những huân chương… Người
viên chức vì trót “hắt hơi” làm bẩn ông tướng của một nơi khác, thế rồi năm lần
bảy lược tìm đến thanh tra xin lỗi, những vẫn thấy chưa yên tâm, cuối cùng sợ quá
nên lăn ra mà chết “cái chết của một viên chức”. Hai người bạn học lâu ngày gặp lại
nhau, đang nói cười vui vẻ, khi biết bạn mình là một câp trên thì anh kia tái mặt,
nhăn nhúm, co ro “Anh béo và anh gầy”. Một viên cảnh sát Ôtsumelôp đang oai vệ
đòi đập chết con chó đang chạy rong, nhưng nghe nói con chó đó là con của một cấp
trên, rồi đột nhiên anh ta toát mồ hôi rồi kêu lên thật khủng khiếp “Con kì nhông”.
Nỗi sợ hãi đó còn có trong cả quan hệ vợ chồng như trong truyện “Huân chương
Anna nhị đẳng” cô vợ rất sợ chồng như sợ một cấp trên, sợ một quan lớn, sợ đến
mức khi ăn cơm chẳng dám ăn no.
Bên cạnh đó, còn có một thiên truyện rất xuất sắc là “Người trong bao”
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 16
(1898). Có thể nói đây là câu truyện cười ra nước mắt, kể về cuộc đời của một con
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
người mắc chứng bệnh sợ hãi, nhu nhược đến nỗi có cuộc sống và cái chết thật thảm
hại. Nhân vật chính là Bêlicôp, là con người sợ đủ mọi thứ trên đời, sợ bị dị nghị, sợ
làm trò cười, sợ bị cắt cổ, sợ bị kẻ trộm chui vào nhà, lúc nào cũng lo sợ “nhỡ lại
xảy ra chuyện gì”. Nhưng sợ nhất vẫn là sợ cấp trên, sợ đến mức chỉ cần nhắc đến
cấp trên là hắn tái mặt, và còn yêu cầu khi có mặt hắn thì “không được nhắc đến cấp
trên”. Chỉ trong vong mười mấy năm ở thành phô, do ảnh hưởng từ hắn nên dân
chúng cũng đâm ra sợ tất cả: sợ nói to, sợ gửi thư, sợ đọc sách, sợ làm quen, sợ giúp
người nghèo, sợ dạy học chữ… Truyện ngắn “Người trong bao” của Chekhov là
một điển hình tâm lí bất hủ, một biểu tượng nghệ thuật độc đáo.
Đến với một chứng bệnh khác của nỗi sợ cấp trên, mà Chekhov đã chẩn đoán
thật tài tình như trong truyện “Phòng số 6”, đó là chứng bệnh dững dưng vô trách
nhiệm, thờ ơ của con người trước vô số những cái ác diễn ra trong thực tại. Bác sĩ
Raghin, làm giám đốc bệnh viện ở một thị trấn hẻo lánh gần hai mươi năm qua, đã
chứng kiến biết bao thảm hại, tồi tệ xảy ra trong bệnh viện mà ông quản lí, nhưng
ông vẫn dững dưng ngồi nhìn. Thật tệ hại, khi ông có kho lí thuyết nhằm biện minh
cho thái độ vô trách nhiệm của mình. Nhưng cũng có đôi lúc lí thuyết đó bị chất vấn
bởi lương tâm và lòng trung thực vẫn còn đâu đó trong con người ông. Số phận của
Raghin cũng giống như số phận của Bêlicôp, và chính ông ta cũng trở thành nạn
nhân cùng chung số phận với những bệnh nhân tâm thần khác của “Phòng số 6”-
nhà thương điên, đó là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Nga đương thời.
Với ngòi bút chẩn bệnh tài tình của Chekhov, đã cho ra một phát hiện kỳ tài
xuất chúng. Đó là Kôvơrin trong truyện “Tu sĩ vận đồ đen”, là một thạc sĩ, một
giảng viên của trường đại học, anh ta rất say mê nghiên cứu khoa học tâm lí, luôn
ôm ấp những khát vọng cùng với những lí tưởng cao siêu. Đối với Kôvơrin được
làm một siêu nhân, phụng sự chân lí vĩnh cửu, được đứng trong số người có thể làm
nhân loại trở nên xứng đáng với Đấng tối cao sớm hơn hàng nghìn năm, tức là giải
thoát bớt cho con người hàng nghìn năm đấu tranh đầy tội lỗi và đau khổ, được cống
hiến cho lí tưởng được tất cả… thì số phận của anh thật là hạnh phúc và cao quý biết
bao.
Kôvơrin ngày đêm đối thoại với nhân vật này, ngày càng đắm chìm trong ảo
tưởng mình sẽ là một vĩ nhân cứu vớt thế gian. Chekhov đã phát hiện chứng bệnh
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 17
cuồng qua việc vận dụng nhân vật kì ảo như một thủ pháp nghệ thuật. Nó không chỉ
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
đẩy Kôvơrin xa rời với thực tại, xa rời người thân, mà còn gây nên nhiều nổi đau
khổ cho họ, những người đã hết lòng yêu thương anh ta: cô Tania, ông Êgô, là vợ và
bố vợ của anh, cùng một người trồng vườn nổi tiếng. Anh còn gián tiếp phá vỡ cả
khu vườn xinh đẹp mà ông Êgô gây dựng. Bản chất của chứng bệnh này đã được
Chekhov mô tả qua lời oán trách của Kôvơrin, khi anh ta được chữa khỏi bệnh:
“Lúc tôi bị mất trí, tôi bị bệnh vì cuồng… tôi cảm thấy vui vẻ, phấn chấn đầy
hạnh phúc, tôi là một con người đặc sắc, đầy hấp dẫn. Bây giờ tôi trở nên bệ vệ
hơn, biết đắn đo suy nghĩ hơn, nhưng vì thế mà tôi trở thành kẻ không khác gì mọi
người, tôi là kẻ tầm thường, tôi sống thật buồn tẻ. Ôi, các người đã đối xử quá ác
độc với tôi”. Ẩn nấp vào một cái lớp vỏ huyền tưởng của mình, thật ra đó cũng
chính là một cách phản ứng tiêu cực đối với thực tại, luôn tồn tại trong xã hội đương
thời.
Thực ra, những “cái chết của một viên chức”, những “con kì nhông”, những
“anh gầy và anh béo”, những “người trong bao”, những “bác sĩ Raghin”… chỉ là
những cách phản ứng khác nhau của con người một cách tiêu cực, trong xã hội đầy
thù địch. Qua đó , Chekhov tỉnh táo nhận ra bản thân mình và khắc phục “cái bản
tính đơn độc như con sên, con ốc, lúc nào cũng cố thu mình trong cái vỏ, cái bản
tính di truyền từ xa xưa khi con người còn trong tình trạng ăn lông ở lổ” để vươn
lên mà sống với đúng nghĩa là người.
Tuy nhiên, bên cạnh những nhân vật xấu xa, bệnh hoạn, thì trong số các nhân
vật của Chekhov ta vẫn bắt gặp những tâm hồn lành mạnh, day dứt, trăn trở về bản
thân và cuộc sống xung quang. Như Xôphia Lôvôpna trong “Vôlôđia lớn và Vôlôđia
bé” mặc dù gặp nhiều bi kịch trong hôn nhân, những vẫn khao khát muốn được làm
một người trung thực, trong trắng, không biết đến lừa dối, sống có mục đích. Trong
truyện “Ngôi nhà có căn gác nhỏ”, một nhân vật họa sĩ tâm sự rằng: “Con người
phải nhận thức được mình cao hơn những sư tử, hổ báo, ngôi sao, cao hơn hết thảy
mọi cái trong thiên nhiên, thậm chí phải thấy mình cao hơn cả những điều mình
không hiểu và cảm thấy kỳ lạ”[4, tr.135]. Trong “Khóm phúc bồn tử”, một nhân vật
nhận ra con người không phải chỉ cần ba thước đất, không phải chỉ cần một trang ấp
nhỏ, mà là tất cả Trái Đất, tất cả thiên nhiên, trên cả miền đất bao la ấy con người
mới có thể bộc lộ được hết phẩm chất, và đặc điểm tinh thần tự do của mình. Truyện
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 18
“Người đàn bà có con nhỏ” và “Người vợ chưa cưới” được xem là hai truyện có cái
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
nhìn lạc quan hơn cho cuộc sống. Họ tin rằng sẽ “tìm ra lối thoát” và lúc đó “một
cuộc sống hoàn toàn mới đẹp sẽ đến”. Dù đó chỉ là mơ hồ, chưa hiện hữu rõ những
họ vẫn “sẽ đi, đi mãi”. Thông qua những tác phẩm, những nhân vật, Sêkhôp muốn
cho chúng ta biết: con người không chỉ cần đấu tranh để vươn lên trên hoàn cảnh,
mà còn phải đấu tranh với chính bản thân để “vượt lên chính mình”, để xứng đáng
với danh hiệu là con người.
Tóm lại, trong suốt quá trình sáng tác của Chekhov, những tác phẩm của ông
đã cho thấy được cuộc sống muôn màu của nhân dân Nga, với những câu chuyện
vặt vãnh đời thường. Nhằm lên án tố cáo cuộc sống của những con người kì lạ,
thông qua tài chẩn bệnh tài tình của Chekhov. Bên cạnh đó, chúng ta còn bắt gặp
cuộc sống nô lệ của những con người nô lệ, và tâm hồn ngây thơ của những đứa trẻ
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 19
với day dứt, trăn trở, về bản thân và cuộc sống xung quanh.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
CHƢƠNG II
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN CỦA A. P. CHEKHOV
2.1. TRỌNG TÂM CỦA TRUYỆN NGẮN LÀ CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG
CON NGƢỜI NHỎ BÉ
Truyện ngắn của Chekhov thường tập trung vào mãng hiện thực đời thường,
đó là cuộc sống hàng ngày của những người dân trong xã hội Nga thế kỉ XIX, một
xã hội với những biểu hiện phong phú, đa dạng, phức tạp lúc bấy giờ.
Trong mỗi tác phẩm truyện ngắn của Chekhov đều nói lên rõ cuộc sống thật
ghê tởm, dung tục, nhơ nhớp, mòn mỏi đầy lo âu, sợ sệt, nó đã khiến cho con người
không còn giữ được bản chất nhân phẩm của mình. Cuộc sống quá đổi quen thuộc,
do vậy mà chẳng mấy ai nhận ra, chẳng ai cảm thấy băn khoăn cho cái không bình
thường ấy. Như trong truyện “anh gầy anh béo”; một ông viên chức sợ cấp trên và
lãnh cái chết chỉ vì một cái hắt hơi vô tình, vô tội; các nhà tri thức bị một kẻ không
ra gì nhưng lại lắm tiền nhiều của xúc phạm, đùa cợt… Tất cả những chuyện đời
nhố nhăng, trắng trợn, đểu cáng, hèn hạ như vậy thì chẳng có gì lạ trong cuộc sống
thường ngày của một tĩnh lẻ trong nước Nga với chế độ nông nô chuyên chế. Nhưng
Chekhov đã cho ta thấy những phát hiện của ông về cái không bình thường mà
tưởng chừng như rất bình thường, khi mà bạo lực luôn chà đạp lên quyền sống của
biết bao người dân lương thiện, một người phải sống chỉ biết xu nịnh người khác,
trong xã hội như một đống chỉ rối, con người chỉ sống quây quần bên danh vọng
tiền tài, địa vi chức tước trong xã hội. Họ đấu tranh giằng xé nhau thật nghiệt ngã,
có kẻ hống hách quát nạt như lão quản Prisibêep, có kẻ khom lưng đổi giọng như gã
cảnh sát – kì nhông, có kẻ lúc nào cũng sợ hãi chui vào bao, bắt mọi người phải
giống mình, như giáo sư trung học Bêlicôp, cũng có kẻ thì thỏa mãn cười hả hê với
mảnh vườn, khóm phúc bồn tử rồi lên mặt dạy đời con người mà quên đi cả gốc gác
của mình, lại có kẻ cứ tụt mãi xuống vũng lầy, như bác sĩ Iônưt, biến đổi một cách
kì lạ đến nổi khó nhận ra.
Chekhov còn nói đến một kiểu chết, vừa đáng giận lại vừa đáng thương, như
những niềm vui đê tiện của mấy ông viên chức nhà giàu, một kiểu kiêu hảnh rớm
của bác phó may, mất cả vải lẫn công cho ngài đại úy, đó là kinh nghiệm bất ngờ mà
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 20
thật chua xót cho ông giáo mượn mề đay. Có biết bao phát hiện vậy mà người đời
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
vô tình bỏ qua bấy lâu nay như: người kì nhông, người trong bao, phòng số 6,
những sự đời và cả tình đời đã phơi bày trong truyện. Một em bé Vanca không tìm
được địa chỉ trong cuộc đời, một nỗi buồn không biết chia sẻ cùng ai, đàng phải tâm
sự cùng chú ngựa gòm, cùng một nỗi khổ của một ông già chưa kịp sống, chưa kịp
yêu thương thì đã lỡ cuộc đời; một người trí thức chân chính, một người lao động vĩ
đại đậy mà chẳng ai biết đến. Vì thế mà Chekhov càng hiểu rõ lòng tự trọng của một
cô gia sư, một cô đào hát khi bị xúc phạm, lăng nhục.
Những tác phẩm của Chekhov muốn người đọc phải đối diện và đối thoại với
chính mình. Những tác phẩm là những bức tranh không lời, không cần bình luận hay
chú thích, nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận được. Với những tác phẩm như:
anh béo và anh gầy (1883), Cái chết của viên công chức (1883), Kì nhông (1884),
Mặt nạ (1884), Cái mề đay (1884), Bộ sắc phục của ngài đại úy (1885), Lão quản
Prisibêep (1885)… đã phần nào lay động, thức tỉnh lương tâm đang ngủ đông trong
lòng mỗi người đọc.
Chekhov đã dày công thu lượm nhiều chất liệu trong đời sống hàng ngày cho
những tác phẩm truyện ngắn của ông. Những câu chuyện ngoài đường phố, trong
làng, hay ngay tại gia đình luôn xuất hiện trong truyện, cùng tiếng cười chế giễu,
mĩa mai, làm cho người đọc nhận thức về chính mình để họ sống tốt hơn, trong sạch
hơn. Sự thật trong tác phẩm của ông là sự thật đầy sức thuyết phục, không thể bác
bỏ được, điều đó được nói theo Gorki. Nhà văn trình bày sự thật đúng như trong
thực tế, đã tháo gỡ và bỏ đi những gì còn che đậy, với sự khéo léo tinh vi, lối phân
tích rõ ràng dễ hiểu, không nhằm gây hiệu quả mà lại rất hiệu quả, bởi vì sự thật này
có sức mạnh của một thái độ vô tư, của sự hiểu biết về một hiện tượng và bản chất,
của sự chính xác đến từng chi tiết và cũng là sự thật được thốt ra từ lòng yêu
thương.
Vào những năm sau này, Chekhov bắt đầu viết truyện dài hơn, sâu sắc và đầy
thân trầm hơn. Không chỉ là những cảnh đời, những khoảnh khắc bất chợt, hay vài
câu đối thoại mà là tất cả những suy nghĩ về số phận con người, vận mệnh của đất
nước là những vấn đề có ý nghĩa xã hội, triết học lớn. Như tác phẩm: Thảo nguyên
(1888), Câu chuyện buồn tẻ (1889), Phòng số 6 (1892), Người đàn bà phù phiếm
(1892), Ngôi nhà có căn gác nhỏ (1896), Người trong bao (1898), Khóm phúc bồn
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 21
tử (1898), Một truyện tình yêu (1898)…
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Chekhov đã rất bền bỉ tác cạn đi dòng máu nô lệ có trong con người, còn
khuyến khích con người thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, trống rỗng như thế để đấu
tranh cho nhân phẩm, cho tình yêu và hạnh phúc chân chính. Không khoan nhượng,
mà là luôn phê phán rồi buồn xót, thương tiếc cho con người, Chekhov tha thiết
mong muốn con người sống phải có ước mơ, biết hi vọng và biết đấu tranh.
Khi đọc và nghiền ngẫm về truyện ngắn của Chekhov mới cho ta cảm thấy
một đất nước Nga ngột ngạt, quái dị không thể chịu đựng nổi. Có một nhân vật đã
nói, và có nhiều nhân vật đã bằng cách này, cách khác đồng tình nhắc lại cái cảm
giác chung nhức nhối là không thể sống mãi như thế này được, không thể tiếp tục
cuộc sống với chế độ cũ được nữa, tất cả phải thay đổi cuộc sống này càng sớm
càng tốt.
Cuộc sống trong thời xưa cũ ấy, những “con người bé nhỏ” đã gặp biết bao
nhiêu điều bất hạnh, thảm thương mà lúc nào cũng đến với cuộc đời của họ. Nhân
vật “con người bé nhỏ” đã từng xuất hiện trong tác phẩm của Puskin, Gôgôn,
Đôxtôiepxki, và giờ đây lại xuất hiện ngay trong tác phẩm của Chekhov. Rất yêu
quý con người, nhà văn luôn nghĩ về con người với tất cả niềm tin yêu tươi sáng,
con người chẳng những có thế mà cần lập nên những kì công, tạo cho trái đất ngày
một đẹp hơn. Con người không phải chỉ cần ba thước đất, không phải chỉ cần một
trang ấp mà là tất cả trái đất, tất cả thiên nhiên, trên cả miền đất bao la ấy, con người
mới có thể bộc lộ được hết phẩm chất và đặc điểm tinh thần tự do của mình – khóm
phúc bồn tử. Con từ khi được sinh ra đã vốn cao đẹp, nên càng không thể bé nhỏ,
không miêu tả những đời sống, tư tưởng, tình cảm của những con người bé nhỏ, mà
Chekhov lại “vạch lá tìm sâu”, chỉ ra được lí do làm cho con người trở nên bé nhỏ
đến thế, được ví như nỗi sợ, thói hám danh, sự thỏa mãn suy đồi… Hay nói cách
khác, thì ông miêu tả tất cả những nhược điểm do hoàn cảnh tạo nên. Chekhov đã
mạnh dạng phê phán cái mà làm cho con người trở nên nhỏ bé, có cả tinh thần và
lòng mong muốn trở thành con người như vậy. Tiếng cười của ông ở đây luôn hòa
lẫn với nước mắt, vừa giận lại vừa thương, càng muốn thức tỉnh con người phải
đứng lên chống lại sự sợ hãi, sự rụt rè ngần ngạy khi đứng trước kẻ giàu sang, luôn
có thái độ mặc cảm cho thân phận thấp hèn của mình. Tiếng cười ấy đã giúp cho con
người tự chiu ra khỏi cái bao của mình, từ bỏ tâm lí nô lệ, cho họ có cuộc sống tự
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 22
do, mà đến khi tất cả họ được tự do, được thức tỉnh thì mọi quyền uy chỉ là điều vô
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
nghĩa. Chekhov đã góp phần giúp cho hàng triệu con người có ý thức về hoàn cảnh
nô lệ của mình trong lúc đó, chính điều này đã giúp họ đấu tranh chống lại hoàn
cảnh đó.
Đến phần kết của truyện “Thảo nguyên” là một câu hỏi: “Cuộc sống ấy rồi sẽ
ra sao?”. Chú bé Yegoruska “buông mình ngồi phịch xuống chiếc ghế dài và khóc
nức nở để đón chào cuộc sống mới,chưa từng biết, vừa bắt đầu đối với nó…”[7, tr.
176]. Kết thúc truyện “Người đàn bà có con chó nhỏ” khi mà tình yêu của hai người
cũng không chiến thắng hoàn cảnh, nhưng cuộc đời tồi tệ lúc ấy cũng không thắng
nỗi tình yêu của họ. “Có cảm giác rằng chỉ ít lúc nữa thôi là lối thoát sẽ được tìm ra
và lúc ấy một cuộc đời mới, thật đẹp đẽ sẽ đến: nhưng cả hai người đều thấy rõ rệt
rằng còn xa lắm, xa lắm mới đến ngày kết cục và những gì rắc rối nhất, khó khăn
nhất chỉ vừa mới bắt đầu”[7, tr.132]. Trong mấy năm sau, trong thiên truyện “Người
vợ chưa cưới” khi Nađya ra đi thì “Trước mắt cô, một cuộc đời diễn ra thật mới mẻ,
mênh mông, rộng lớn… Tuy cuộc đời này vẫn còn mơ hồ, bí ẩn, những nó lại đang
vẫy gọi và lôi cuốn cô đi lên”[7, tr. 98].
Cuộc đời mới đối với riêng từng con người ngày càng được làm sáng tỏ, vì
cuộc đời riêng không bao giờ tách khỏi cuộc đời chung. Và rồi cuộc đời chung sẽ
thay đổi và khi ấy cuộc đời riêng cũng sẽ đổi thay.
Một nhân vật đã nói: “Buổi bình minh của cuộc sống mới sẽ rạng lên, chân lí
sẽ toàn thắng và trên phố, ta sẽ mở hội tưng bừng!” – Phòng số 6. Trong tác phẩm
“Người trong bao” năm 1898, lại có nhân vật đã nói đến tự do: “Ôi tự do! Tự do!
Chỉ mới hình dung đến nó, chỉ mới hi vọng mênh mông được tự do người ta cảm
thấy tâm hồn mọc cách, có phải thế không?”[7, tr. 479].
Tất cả những ước mơ, những khác vọng cứ lớn lên mỗi lúc một cụ thể hơn.
Nếu trong tác phẩm của Chekhov có những nhân vật đã thỏa mãn với cái gọi là
“hạnh phúc”, thì lại có những nhân vật khi đạt được ước muốn nhà cao của rộng, vợ
đẹp con khôn, một chỗ làm đáng mong ước, một địa vị mà nhiều người thèm muốn,
nhưng khi họ bất chợt nhận ra mình đã lầm lẫn và trốn chạy cái “hạnh phúc”, nếu
không rời bỏ ngay thì sẽ phát điên mà chết. Khi lương tri thức tỉnh, lại có nhân vật
đến lúc cuối đời bỗng nhận ra tất cả sự buồn tẻ của một đời người. Như vị giáo sư
già nổi tiếng vẫn không biết làm gì, vẫn không có “quan điểm chung” làm lẽ sống
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 23
cho đời mình, vẫn bất lực trước câu hỏi của cô cháu gái “làm gi?”, khi mà ông sống
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
đã lâu, đọc đã nhiều, viết đã lắm – Câu chuyện buồn tẻ. Như Aliôkhin đã nhiều năm
rồi vẫn cứ giẫm chân tại chỗ, một con người thông minh phúc hậu ấy lại không
nghiên cứu khoa học hay làm gì khác, không làm đúng như những điều mình muốn,
mình có thể làm, mình cần phải làm, để rồi cuối cùng phải hối tiếc khi mà không
dám mạnh dạng chống chọi lại hoàn cảnh – Câu chuyện tình yêu. Chekhov lúc nào
cũng muốn các nhân vật của mình phải chiến thắng cuộc sống, phải sống đúng với
tiềm năng của con người, với vẻ đẹp và sự hùng vĩ, với những khoảng rộng bao la
của thiên nhiên, của đất nước.
2.2. TÍNH HÀI KỊCH VÀ BI KỊCH
Như các nhà văn Nga đã nói, Chekhov là nhà văn lão luyện của những truyện
ngắn, suốt đời ông đi tìm kiếm những hình thức sáng tác có dung lượng lớn, có khả
năng diễn đạt trong chỉnh thể thật phức tạp về cảm thức cuộc sống hết sức đa diện,
đa sắc. Chekhov đã nhiều năm nổ lực sáng tác và cho ra đời một số lượng tác phẩm
rất đồ sộ, những sáng tác ông luôn có chất bi và hài luôn ẩn hiện trong đó.
2.2.1. Tính hài kịch
Chekhov bước vào làng văn như một cây bút hoạt kê, chỉ trong sáu năm mua
vui cho công chúng Nga bằng hàng trăm truyện cười sảng khoái, hóm hỉnh, ngộ
nghĩnh. Chất liệu của những chuyện cười nổi tiếng có nội dung châm biếm xã hội
của Chekhov, nó cũng rất gần với chất liệu của những tác phẩm tương ứng như:
Gogol và Saltykov-Tshedrin. Vẫn có những tính cách con người nhỏ nhen, tầm
thường, dung tục, vẫn lối hành xử ti tiện, bất nhân bất nghĩa, vụ lợi một cách mù
quáng, vẫn thói nịnh bợ, sợ sệt đối với những ai giàu sang quyền quý, luôn miệt thị
và hạ nhục những kẻ nghèo hèn. Trong thế giới trào phúng của Chekhov cả những
kẻ thượng lưu và hạ lưu đều đáng khinh ghét, đáng kinh tởm như: Anh béo và anh
gầy, Niềm hân hoan của người chiến thắng - thậm chí kẻ hạ lưu còn đáng kinh tởm
hơn kẻ thượng lưu.
Những truyện ngắn của Chekhov không là vị cay, chất đắng ghê gớm trong
tiếng cười, mà là điềm nhiên nhếch mép cười ở những khi thốt lên những lời phẩn
nộ, căm hờn. Đến với nhân vật trong Người đàn bà phù phiếm, đó là tâm hồn chìm
đắm trong óc ái kỉ, hợm hĩnh vì tài sắc có thật thì ít, mà tưởng tượng thì nhiều, vô
lương tâm bóc lột người yêu quý mình. Cái đáng cười ở một số nhân vật trong
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 24
truyện ngắn Chekhov là: được che chắn mối thiện cảm đặc biệt của tác giả đối với
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
chúng, niềm tin kín đáo vào nhưng năng lực tâm hồn tốt đẹp còn chưa khai triển nơi
chúng, hy vọng le lói vào sự thăng hoa nhân cách của chúng. Truyện ngắn Vanka
(1886), là cậu bé chín tuổi mồ côi cha mẹ, sống ở Moskva trong nhà người thợ đóng
giày để học việc, vào đêm Giáng Sinh, tranh thủ lúc ông bà chủ đi lễ nhà thờ, viết
thư gởi về nhà quê cho ông. Sau khi kêu ca, than vãn về sự ngược đãi của chủ, cậu
bé còn mô tả cho ông về kinh thành Moskva tráng lệ mà ông chưa bao giờ đặt chân
đến. Khi viết xong thư, cậu bé Vanka gởi bút thư chỉ với địa chỉ vu vơ, đáng nực
cười.
Cũng có những nhân vật không bao giờ cười, không bao giờ cho phép mình
một câu nói đùa mà luôn sống nghiêm nghị như: Lão quản Prishibeev, Người trong
bao, Con người phi thường (1886), là những con người có tâm hồn trống rỗng, chết
cứng, sợ hãi và điên cuồng nhất, để chống đối lại cái mới nhất. Thái độ của tác giả
đối với chúng không một người nào có thể hiểu sai được. Còn những tâm hồn khao
khát cái mới và nhạy bén với cái mới, là những con người cảm thấy mình gần gũi
với tương lai hơn hiện tại, tin thưởng tương lai sẽ quét sạch đi tất cả những gì tăm
tối, xấu xa, không xứng đáng với con người trong hiện tại. Chekhov vẽ nên với mối
thiện cảm không nghi ngờ, với không ít nét hài hước, lập dị, bất lực.
Truyện ngắn Người trong bao với sự điềm tĩnh, được thể hiện qua cách kể rải
đều sự kiện với kiểu câu nhiều mệnh đề. Nét đặc thù trong cách kể của Chekhov là
giọng hài hước, mỉa mai. Nó toát lên từ cái nhìn nhân đạo, lạc quan của ông về cuộc
đời. Tính chất mỉa mai trong lời văn của Chekhov không bao giờ nặng nề, mà thiên
về phần hài hước giễu cợt. Hành động thu mình trong cái bao của nhân vật Bêlicôp
thật là quái gở: Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao bằng
da hươu; và khi rút chiếc dao nhỏ để gọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng đặt trong bao.
Biện pháp mà Chekhov gây cười ở đây được đặt trên sự trùng điệp và tăng cấp. Từ
vật dụng nhỏ nhất cho tới mọi hàng vi, tư duy…, Bêlicôp lúc nào cũng ở trong bao.
Tiếng cười của Chekhov trong văn bản là dạng tiếng cười đa cực. Có lúc là tiếng
cười trào phúng, có lúc là tiếng cười mỉa mai, nhưng nhìn chung thì tiếng cười của
Chekhov ở góc độ nào cũng hàm chứa trong đó sự chua xót. Đó chính là yếu tố quan
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 25
trọng để tạo nên chất nhân văn trong sáng tạo nghệ thuật của ông.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
2.2.2. Tính bi kịch
Bên cạnh cái khôi hài là tấm bi kịch của những con người nhỏ bé, những con
người thuộc tầng lớp cuối cùng của xã hội. Đó là những truyện trang nghiêm từ đầu
đến cuối tác phẩm, nhưng lại ít được mọi người để ý đến. Theo dòng thời gian
những truyện trang nghiêm ấy có nội dung ngày càng trở nên buồn thảm hơn, màu
sắc u ám hơn.
Do hiện tượng bên ngoài, mà có thể bị ám ảnh bởi số phận nghệ sĩ của người
tiền bối vĩ đại của Chekhov là Gogol – nhà triết học Nga Lev Shestov (1866-1936)
trong chuyên luận về Chekhov mang tên đáng để ý: Sáng tạo từ hư vô (1908), cho ra
giả định rằng tác giả này đã điểm qua một kịch biến tinh thần nào đó vào khoảng
1887-1888, để từ một tài năng đa sắc đa điệu thoái hóa thành “một ca sĩ của nỗi
tuyệt vọng”. Tính thiên lệch, chủ quan của cái nhìn như thế bây giờ đã quá rõ ràng,
Chekhov đã khuyết tán chất bi quan ở một số tác phẩm như: Một câu chuyện tẻ
nhạt, Phòng số, Vanka, Hai kẻ thù, Người trong bao, Khóm phúc bồn tử, Thảo
nguyên…
Truyện ngắn Câu chuyện tẻ nhạt, một giáo sư Nikolai Stepanovich do mất
cảnh giác với bản thân mà đánh mất chất quý tộc, nên tự phán xử mình: Cái quyền
ưu việt và thiêng liêng nhất của các bậc vương giả là quyền ân xá,… Bây giờ tôi
chẳng còn là bậc vương giả nữa. Trong tôi diễn ra cái mà chỉ xứng với những người
nô lệ: trong đầu ngày đêm lởn vởn những ý nghĩ độc ác, còn trong lòng tôi thì đã
xây tổ những tình cảm mà trước đây tôi chưa hề biết đến. Tôi căm thù, tôi khinh bỉ,
tôi phẫn nộ, tôi bực tức, tôi sợ hải. Tôi trở nên quá mức nghiêm khắc, khó tinh, cáu
kỉnh, thiếu nhã nhặn, nghi kị. Ông giáo sư hoàn toàn dửng dưng với gia đình mình
và tự tạo ra sự cô đơn lạnh buốt xung quanh mình trong những ngày cuối cùng của
đời mình.
Những bất công xã hội, đang là vấn đề nóng bỏng trong thời đại Chekhov,
một số truyện ngắn của ông đề cặp đến góc độ quan hệ ứng xử của con người, thuộc
mọi tầng lớp khác nhau. Trong truyện Hai kẻ thù (1887), bác sĩ thuộc hội đồng tự
quản địa phương Kirilov vừa mới mất đứa con trai nhỏ duy nhất, chết vì bệnh bạch
hầu, thì có người gõ cửa nhà ông, cầu khẩn đến nhà cấp cứu cho vợ ông ta, vì ý thức
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 26
trách nhiệm mà người bác sĩ lên đường đến nhà Abogin. Nhưng đến nơi, hóa ra vợ
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Abogin đã giả vờ ốm để đánh lừa chồng và chạy trốn với nhân tình. Sự phẩn nộ của
bác sĩ Kirilov vô bờ bến, khi mang trong lòng nỗi đau nặng trĩu, ông cảm thấy mình
đang phải xem một hề kịch trong giới quý tộc thượng lưu nhàm chán. Sự đau khổ
của Abogin chẳng khiến Kirilov động lòng chút nào, mà ngược lại chỉ khiến cho
Kirilov một niềm ác cảm đối với những kẻ ngồi mát ăn bát vàng, tự làm nên nỗi bất
hạnh cho mình. Trước những lời lên án gay gắt của người thầy thuốc, nhà quý tộc
cũng phát khùng, cả hai nhân vật bước vào cuộc chiến, họ sỉ vả nhau không tiếc lời.
Tiếp theo là câu chuyện về một con người sống chỉ biết thu mình trong một
cái bao chặt hẹp, tù túng. Câu chuyện nói lên cuộc sống tẻ nhạt, ngưng đọng và bế
tắc của nhân vật Belicop trong Người trong bao đáng thương. Nhân vật Belicop sợ
đủ mọi thứ: sợ bị dị nghị, sợ bị làm trò cười, sợ bị cắt cổ, sợ kẻ trộm chiu vào nhà,
lúc nào cũng có tâm trạng “sợ lỡ có chuyện gì xảy ra”. Belicop sợ toàn bộ cuộc
sống, sợ cả yêu và sợ thay cho người khác, nhưng vẫn sợ nhất là “cấp trên”: những
ngày thanh tra, những ông hiệu trưởng. Sợ đến mức chỉ nhắc đến cấp trên là hắn ta
đã tái xanh mặt, còn có yêu cầu khi có mặt hắn là không được nói điều gì động đến
cấp trên, nỗi sợ đó còn lây cả sang những người xung quanh. Chỉ trong mười lăm
năm, mà cả thành phố bị ảnh hưởng bởi Belicop, dân chúng cũng đâm ra sợ tất cả:
sợ nói to, sợ giử thư, sợ đọc sách, sợ làm quen, sợ giúp người nghèo, sợ dạy học
chữ,… Hình ảnh Người trong bao của Belicop đã trở thành tâm lí điển hình bất hủ
và cũng là nỗi bi thảm nhất của xã hội Nga thời bấy giờ.
2.3. HIỆN THỰC VÀ HƢ CẤU TRONG TRUYỆN NGẮN A. P. CHEKHOV
2.3.1. Phƣơng diện hiện thực trong truyện ngắn
Truyện ngắn Chekhov phần lớn là truyện ngắn hiện thực, do vậy mà nhân
vật, sự việc được đề cập đến đều xuất phát từ những câu chuyện đời thường có thật.
Cũng như khi phân loại truyện ngắn, chúng tôi lấy đối tượng miêu tả và mục đích
phản ánh của tác giả làm tiêu chí để khảo sát thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Chekhov. Đối tượng miêu tả của Chekhov là tất cả tầng lớp người trong xã hội. Từ
bọn quan lại trí thức, những con người bình thường cho đến tầng lớp tận cùng của
xã hội, đều được xuất hiện trong tác phẩm của Chekhov với tư cách là nhân vật
chính. Mục đích phản ánh của Chekhov được ông viết trong thư gửi Pleseev, ông
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 27
căm thù sự dối trá và bạo lực trong mọi dạng thức của chúng, thối giả nhân, giả
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
nghĩa, sự đần độn và thói độc đoán ngự trị không chỉ trong các gia đình thương gia
và cả trong nhà tù.
Từ tuyển tập truyện ngắn của Chekhov, chúng tôi đưa ra nhận xét: tất cả nhân
vật trong truyện ngắn, cơ bản được chia ra làm hai tuyến nhân vật. Thứ nhất là
những nhân vật thuộc tầng lớp quan lại, công chức, trí thức. Đây cũng là loại nhân
vật chiếm số lượng lớn trong truyện ngắn của ông. Những loại nhân vật này không
chỉ là những người tai to mặt lớn như các quan tri huyện, tuần phủ của truyện Việt
Nam, mà họ chỉ là loại người thuộc tầng lớp trung bình trong xã hội. Về tất cả mọi
mặt như: thành phần giai cập, địa vị xã hội, tài sản và trình độ… Tất cả họ là những
người được sinh ra sau cuộc cải cách năm 1861, trong sự đảo lộn, rối ren của xã hội
Nga sau thế kỉ XIX. Con người loại này đang có rất nhiều ở xã hội Nga, cuộc sống
của họ có công việc ổn định, có chút ít của cải, chút ít địa vị và học thức, nhưng mãi
mãi họ cũng không được xếp vào xã hội thượng lưu. Và đây cũng chính là cái mới
của Chekhov trong khi lựa chọn đối tượng phán ánh. Cái được gọi là tinh thần trống
rỗng, vô liêm sỉ của ông chủ, của các quý bà, tất cả đều đó đã được các nhà văn của
thời đại trước đề cặp và giải quyết trọn vẹn. Đến nhận xét của Chekhov, ông chỉ chú
ý đến tầng lớp của tiểu tư sản, thị dân và đi sâu vào phê phán chúng, tạo ra sự phê
phán mang tính toàn diện trong văn học Nga nói chung.
Tầng lớp người này xuất hiện khác nhiều trong truyện ngắn của Chekhov, từ
đó cho thấy sự quan tâm đặc biệt và tập trung mổ xẻ cho lớp người này của tác giả.
Và họ cũng là thành viên của xã hội Nga sau 1861, đã là một lực lượng phổ biến,
chịu sự tác động hết sức mạnh mẽ của xã hội rối ren, trì trệ đầy tội lỗi. Chekhov đã
không nương tay khi phanh phui từng lớp tâm hồn của những con người này, lôi ra
từng chân tơ kẻ tóc của chúng để phê phán đã kích, rồi tập hợp lại làm thành những
toa thuốc trị bệnh cho riêng mình.
Tiếp theo là một tuyến nhân vật, cũng được Chekhov đặc biệt quan tâm, đó là
những con người thuộc tầng lớp tận cùng của xã hội. Truyện có những người thuộc
loại như: (cô đào hát, con ở, quân ăn hại…), xuất hiện không nhiều. Trước
Chekhov, loại nhân vật này đã được xuất hiện trong tác phẩm của Puskin, Gôgôn,
Turghenhev, đó là những con người thấp cổ bé họng trong xã hội. Dù họ bị chà đạp,
khinh bỉ, là bậc người thấp nhất trong xã hội, những họ cũng được cấp cho một loại
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 28
công việc, một chút lương để tạm duy trì cuộc sống. Để tiếp tục với đề tài này,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Chekhov đã đưa những con người nhỏ bé lên thành diện mạo mới. Để có kiến thức
và trải nghiệm, thì vào những năm 90 của thế kỉ XIX, Chekhov đã phải sống thực tế,
phải gần dân, như vậy Chekhov mới thấu hiểu hết về kiếp tôi đồi, nô lệ đó. Ông hết
sức tỉnh táo khám phá ra những biểu hiện rỏ nhât, từ đó nói lên kiếp người trong cõi
tối tâm cùng cực và khổ nhục. Về mặt này, Chekhov đã kế thừa rất xuất sắc truyền
thống văn học trước đó và cũng là người dọn đường tích cực cho M.Gorki sau này.
Bên cạnh những kiếp người bị đày đọa là những đứa trẻ với thân phận tôi đồi,
bị đày đọa một cách nhẫn tâm. Tuy những tuyến nhân vật này xuất hiện trong truyện
không nhiều, nhưng lại có sức tố cáo rất lớn. Trong truyện “Vanka”, “Buồn ngủ”,
“Lũ trẻ”; một đứa bé mới 9 tuổi viết thư, một đứa bé đi ở phải trong con cho chủ
nhà, làm nhiều việc quá nên buồn ngủ, những đứa bé chơi với nhau thật vô tư…,
tưởng như không có gì đáng nói, vậy mà khi qua ngòi bút của Chekhov nó đã mang
một ý nghĩa nhân sinh vô cùng to lớn. Đó là những câu chuyện đơn giản nhưng đã
làm xúc động đến người đọc. Mục đích mà Chekhov muốn đạt đến là tất cả mọi
người cùng nhìn về cuộc sống xung quanh mình, biết trăn trở và sửa đổi cuộc sống
thực, nhìn ra tương lai. Những câu hỏi về số phận những nhân vật này cứ treo lơ
lững không có kết thúc, như bức thư của Vanka, số phận của Vanka…
Miêu tả loại người này trong tác phẩm, với ngòi bút lạnh lùng khách quan,
Chekhov đã tái hiện lại những vết cắt hiện thực rất khắc nghiệt. Được ẩn sâu dưới
hình thức lạnh lùng là tấm lòng nhân đạo, sự cảm thông và thấu hiểu của Chekhov.
Cuộc đời khổ nhục, cùng quẩn của loại nhân vật này đã như bản cáo trạng, lên án
chế độ nông nô chuyên chế của Nga Hoàng đang kéo dài.
2.3.2. Phƣơng diện hƣ cấu trong truyện ngắn
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Chekhov còn có những nhân vật đặc
biệt, nhân vật là những đồ vật, là bức thư trong truyện ngắn của Vanka. Nhân vật là
những thứ vô tri nhưng lại mang tiếng nói rõ ràng, sâu sắc. Đây là phát hiện mới của
Chekhov trong lịch sử văn học Nga, thể hiện sự đồng cảm với những con người
nghèo khổ bị chà đạp. Nhân vật đồ vật của Chekhov cũng mang ý nghĩa phê phán xã
hội rất lớn.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Chekhov rất phong phú, đa dạng, đã
chuyển tải một dung lượng nghệ thuật rất lớn, góp phần làm nên tài năng của
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 29
Chekhov. Nếu có một phép màu làm nhân vật của Chekhov rời khỏi trang sách,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
bước xuống đường phố, thì chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng đông đúc, huyên náo,
thật là đáng kinh ngạc, hàng nghìn con người, mỗi người một vẻ, lớn bé già trẻ, nam
nử, nghèo hèn và giàu có, xinh đẹp và dị dạng, cao sang và bần tiện.
Chekhov là một nhà văn viết truyện ngắn tài ba. Ông chỉ sống trọn vẹn trong
44 năm của thế kỉ XIX. Nếu ở tính chất thời đại, mà chúng tôi chỉ ra thì lịch sử nước
Nga cuối thế kỉ XIX mang một đặc điểm cơ bản: là thời điểm giao thời giữa cái cũ
(nhà nước phong kiến lỗi thời, phản động), cái mới giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
được hình thành với những định hướng chính trị khác nhau, sự câu kết giữa phong
kiến và tư sản này đã chi phối đời sống chính trị, kinh tế, tinh thần của tất cả mọi
tầng lớp, tạo ra sự khủng hoảng, phá sản về tinh thần và sự đảo lộn về trật tự xã hội.
Một xã hội đã tạo ra những quái thai, dị tật, tạo ra lớp quần chúng bần hàn, mơ
muội. Thêm một cơ sở nữa, Chekhov là nhà văn biết tôn trọng đạo lý, giá trị tinh
thần đích thực. Là một con người thông minh, nhạy bén, có cảm quan xã hội chính
xác. Do ông đã trải qua cuộc sống gần gũi với mọi tầng lớp con người trong xã hội,
hiểu biết con người và xã hội một cánh sâu sắc. Hay hơn, là khi Chekhov đã nắm
bắt được đời sống bên trong con người, thông qua những biểu hiện vụn vặt, thậm
chí rất bình thường bên ngoài. Bởi vậy, Chekhov có quan niệm đúng đắn về cuộc
đời, về con người, về nghệ thuật, cách xây dựng truyện ngắn, lấy truyện làm công cụ
giải phẩu bệnh lí cho xã hội.
Chekhov khao khát muốn gạt bỏ chất nô lệ trong con người, đem đến và trả
lại giá trị đích thực cho con người. Vào cuối thế kỉ XIX, xã hội Nga đã mang đến
cho Chekhov những đề tài, chủ đề và sự méo mó, thô tục, bẩn thủi của nhân cách.
Chekhov đã phản ánh tất cả sự thực đó trong tác phẩm của mình, thông qua hệ thống
nhân vật hết sức phong phú và sinh động. Nó chẳng khác gì ở cách sử dụng biện
pháp nghệ thuật trào phúng, châm biếm, tạo tiếng cười… Nói chung, đối tượng và
mục đích sáng tác của Chekhov đã đóng góp vào nền văn học Nga và thế giới từ
thực tế sáng tác của mình.
Tính hư cấu còn thể hiện ở một số việc phóng đại hóa hiện thực như: nhân
vật Belicop trong tác phẩm Người trong bao, Hai kẻ thù… Thật ra, đó mới chỉ là
một phần nào tính cách của nhân vật, còn trong cuộc sống ngoài thực tại thì chưa
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 30
thấy có một con người như nhân vật Belicop trong Người trong bao, suốt ngày chỉ
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
biết thu mình trong cái bao mà không hề biết sống hòa đồng với mọi người, sợ xãy
ra chuyện gì: “Cái đó đã đành, hay thì hay thật, nhưng nhỡ lại xãy ra chuyện gì?”.
2.4. CÁCH TÂN CỦA TRUYỆN NGẮN A. P. CHEKHOV VỀ PHƢƠNG
DIỆN NỘI DUNG
Sự đột phá của ngòi bút truyện ngắn Chekhov trước hết là ở cái phạm vi hiện
thực mà ông hướng tới cùng những vấn đề của thời đại, xã hội, con người mà ông
phát hiện, đặt ra. Đó chính là yếu tố đầu tiên hình thành nên phong cách truyện ngắn
của Chekhov.
Khi đến với truyện ngắn của Chekhov, chúng ta sẽ ít thấy ông miêu tả những
biến cố lớn lao, những sự kiện tầm cỡ tạo nên những biến động trong đời sống lịch
sủ - xã hội. Ngòi bút của ông luôn hướng vào hiện thực mà các nhà văn Nga đương
thời chưa khai thác hết, đó là cuộc sống hàng ngày với muôn vàn những biểu hiện
phong phú, đa dạng, phức tạp của nó. Theo nhận xét của Phạm Vĩnh Cư “cái dòng
chảy đời thường trong thời hiện tại là đề tài duy nhất trong toàn bộ sáng tác của
Chekhov”.
Trong suốt hai mươi lăm năm sáng tác, thì thể loại truyện ngắn của Chekhov
đã thể hiện rất nhiều biến thái khác nhau. Trong thời kì đầu, ta rất dễ nhận ra có
nhiều truyện có cấu trúc quen thuộc của thể loại novella, một dạng thức tự sự nhỏ cổ
truyền, có nguồn lợi trong sáng tác dân gian (truyện cổ đời thường, truyện ngụ ngôn
và giai thoại), rất thịnh hàng trong văn học Châu Âu thời Phục Hưng. Như một nhà
nghiên cứu có uy tín tổng kết trong văn học Nga, thì Puskin là người đã để lại những
novella kiểu mẩu. Bên cạnh đó, Chekhov là người tái sinh thể loại này để cải biến
nó thành cái trái ngược, cái phản novella. Thể loại này được hình thành trong thời
Phục Hưng, cho nên nó phản ánh sự ra đời của kiểu người mới, đoạn tuyệt với luân
lí xã hội thần quyền đẳng cấp trung cổ, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết và dùng mọi
thủ đoạn để chiếm lấy cái lợi ích đó. Chủ yếu của thể loại novella là giàu tính xung
đột do những hành vi nhằm mục đích khác nhau của các nhân vật đối kháng tạo nên,
với kết thúc bất ngờ, nhiều nghịch lí, có lợi cho những cá nhân mưu trí. Chekhov đã
nắm vững những kĩ thuật điêu luyện của novella cổ điển và thể loại sáng tác thời trai
trẻ, mà ông càng bộc lộ khuynh hướng xa rời hình thức truyện ngắn truyền thống, để
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 31
cái cách truyện với cách cơ bản. Thời đại ưu thắng của những cá thể tự lực tự
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
cường, mưu mẹo, mánh khóe mà đoạt được lợi ích của mình, những nhân vật phạm
tội của thời đại novella của Châu Âu lẫn nước Nga đã vĩnh viễn lui vào qua khứ.
Trong sáng tác của Chekhov, ngay từ khi ta bắt gặp một loạt truyện ngắn có
kết cấu khác thì Chekhov đã sự lí thú thẩm mỹ của chúng không ở cốt truyện gay
cấn hay cái kết bất ngờ, mà ở chổ chúng vẽ nên những cảnh đời lố lăng hay trớ trêu,
ngang trái, những nhân cách bị méo mó, đáng chê cười hoặc đáng thương như: Anh
béo và anh gầy, Người con gái xứ Albion, Phẫu thuật, Con kì nhông, Lão quản
Prishibeev, Lũ trẻ, Con người phi thường… Những thiên truyện ấy giàu tính sân
khấu, bởi chúng được cấu tạo tuân thủ một cách tự nhiên theo ba nguyên tắc thống
nhất, vì thế rất dễ chuyển chúng thành những tiểu phẩm sân khấu điện ảnh. Lời của
tác giả thường không chiếm nhiều chổ mà chỉ đóng vai trò phụ trợ, là những lời chỉ
dẫn trong kịch bản. Không gian tự sự chính được giành cho đối thoại và phiếm
thoại, mà qua đó bộc lộ tính cách hay toàn cảnh của các nhân vật như: Con kì nhông,
Lão quản Prishibeev, Thân phụ…, cho thấy những nội dung hệ trọng, những khái
quát nghệ thuật rộng lớn như thế nào có thể được tóm gọn trong những truyện ngắn
kiểu này.
Sáng tác của Chekhov có những truyện ngắn xen kịch, được tái dựng những
cảnh đời ngang trái hay những tính cách con người dị thường, Chekhov cho dù có
đạt độ hoàn hảo nghệ thuật đến đâu đi nữa, chúng cũng không làm nên vinh quang
cho Chekhov là nhà tự sự, cũng không phải chúng có tác động mạnh mẽ đến những
đổi mới sâu sắc trong nghệ thuật truyện ngắn thế kỉ XX. Một số tác phẩm đặc sắc
của Chekhov thời trai trẻ, ta không khỏi ngạc nhiên tìm thấy một số truyện: Aniuta,
Mộng mơ, Hạnh phúc, Tiếng sáo, Bưu xa…, mà ở đây mọi quy tắc của văn xuôi hư
cấu nghệ thuật bị phá vở một cách có chủ ý. Những truyện ngắn này hoàn toàn thiếu
vắng đi cốt truyện, không xảy ra cái gì ở cả truyện không có đầu và kết. Các nhân
vật ở đây xuất hiện không phải để thực hiện những hành vi này nọ, hay bộc lộ tính
cách này tính cách kia, mà chỉ tồn tại trong khoảnh khắc rồi biến mất mãi mãi.
Nhiệm vụ nghệ thuật được giải quyết trong truyện này, là những ngôn từ vĩnh hằng
hóa một khoảnh khắc cuộc đời của ai đó, không phải vì đây là giây phúc phi thường
đặc biệt, không được rơi vào hư vô, mà chỉ là chứng cớ cho sự có mặt một con
người trên đời này. Đó là một linh hồn chỉ gặp gỡ con người ấy, linh hồn ấy một lần
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 32
trên vài trang sách, người đọc sẽ không quên nó, nó sẽ hiện hữu bất tận trong không
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
gian và thời gian của vũ trụ. Truyện ngắn Hạnh phúc (1887), gồm hai người chăn
cừu, một già một trẻ, thức khuya canh đàn cừu giữa thảo nguyên. Để không ngủ, thì
người già kể cho người trẻ nghe mấy câu chuyện bâng quơ về truyền thuyết dân
gian, về kho báu được chôn cất dưới thảo nguyên, đủ đem lại hạnh phúc cho biết
bao nhiêu người, nhưng số kho báu đó đã bị yếm bùa, cho nên chưa một ai lấy được.
Truyện Bưu xa (1887), vào đêm khuya, có một sinh viên cháu nhân viên bưu điện,
nhờ có chuyến bưu xa chở anh ta ra đường sắt. Dọc đường anh sinh viên tìm cách
bắt chuyện với người chở thư, nhưng chỉ được trả lời qua loa. Gần đến ga, hắn mới
cằn nhằn: lẽ ra anh sinh viên không nên ngồi trên xe bưu điện, đó là việc trái phép.
Khi đọc truyện này, thì độc giả sẽ nhớ mãi đêm thu lạnh lẽo ấy cùng với người chở
thư buồn bực, vì hoàn cảnh túng quẩn hay có người không phận sự ngồi trên xe, anh
sinh viên buồn vì không được giao lưu nên nhìn ra cây cối dọc đường mà thương
cho chúng chịu rét.
Virginia Woolf (1882-1941) là nữ văn sĩ Anh, bày tỏ niềm khâm phục lối
viết của Chekhov được thể hiện trong Bưu xa và một số truyện ngắn khác, lối viết
ban đầu tưởng chừng như cẩu thả, tùy tiện, quan tâm toàn những chuyện không đâu.
Nhưng thực ra đó là thành quả của khiếu thẩm mĩ hết sức độc đáo và tinh tế, lựa
chọn và tổ chức không sai lầm, được kiểm soát tính trung thực không ai sánh bằng.
Kết quả khi chúng ta đọc những truyện ngắn của Chekhov, chúng ta có một tầm
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 33
nhìn rộng mở, tâm hồn thu nhận được một cảm giác kỳ diệu về tự do.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
CHƢƠNG III
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA A. P. CHEKHOV
3.1. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
Là một trong những cơ sở quan trọng, tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc cho
truyện ngắn của Chekhov, thông qua hệ thống nhân vật rất phong phú và đa dạng.
Đã phản ánh chân thực mối quan hệ giữa thời đại và con người của nền văn học Nga
cuối thế kỉ XIX.
Chúng tôi đã đưa ra được những yếu tố lịch sử xã hội tương đồng, tác động
đến quá trình hình thành quan niệm về cuộc đời, về con người, về nghệ thuật của tác
giả Chekhov ở phần trên. Ông đã không ngần ngại khi tiến hành những cuộc giải
phẩu bằng ngôn từ, để làm rõ hơn mối quan hệ một chiều. Là mối quan hệ mà trong
đó, thời đại có vai trò quyết định, đã tác động đến tâm lí, tình cảm của con người,
làm thay đổi số phận của con người. Ở đó con ngườ phải chịu sự chi phối của thời
đại, không có khả năng cải tạo xã hội. Để giải quyết và làm rõ mối quan hệ này,
Chekhov đã thực hiện nhiệm vụ tố cáo, đã kích lên án những bất công phi lí, những
thói xấu xa, nô lệ, mà xã hội đưa ra nhằm mục đích thức tỉnh con người.
3.1.1. Nhân vật là những quái thai của xã hội
Đúng với câu: môi trường sống sẽ sinh ra bản tính con người. Ở vào một thời
đại hay một xã hội nào đó thì sẽ sinh ra loại người tương đồng với xã hội hay thời
đại đó. Tất cả những nhân vật đều là công cụ rất đắc lực và luôn xuất hiện trong
truyện ngắn của Chekhov, cùng với những cách thức khác nhau. Những sáng tác của
Chekhov luôn tập trung vào những tầng lớp công chức, có chức phận bình thường.
Trước thời của Chekhov, văn học Nga đã lên tiếng tố cáo, phê phán sự áp bức bóc
lột của lớp quan chức, giai cấp quý tộc nhà nước phong kiến lúc bấy giờ. Những cái
ác đã được mổ xẻ, phanh phui ra trong xã hội. Đến Chekhov, ông không chọn lại
những đối tượng như vậy nữa, mà chọn những lớp người là công cụ đắc lực cho nhà
nước phong kiến và tiến hành khai thác họ ở góc độ: là những quái thai, dị dạng do
chính xã hội và nhà nước phong kiến tư sản đã tạo ra. Những nhân vật được xuất
hiện trong truyện như: Con kỳ nhông, Lão quản Prisubeep, Đánh cược, Một phiên
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 34
tòa…
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Đến với truyện “Con kỳ nhông”, Chekhov đã cho thấy rõ chất nô lệ đặc thù
của nhân vật Otsumelov – là một thày quản trông coi và giữ trật tự ở một khu phố
chợ. Chekhov rất thành công trong nghệ thuật kết cấu truyện, câu chuyện được kết
cấu theo lôi “hướng tâm”, càng góp phần làm tăng giá trị kết cấu. Là sự tổ chức chi
tiết theo kiểu: chi tiết trung tâm và được hổ trợ bởi những chi tiết xung quanh, vận
động của các chi tiết theo chiều hướng đi lên, làm tăng thêm mức độ xoáy chặt, càng
làm nổi bật lên nội dung và tư tưởng tác phẩm.
Trong truyện, tình tiết duy nhất nổi lên là tình tiết con chó cắn người thợ, khi
anh ta trêu trọc nó. Vì cắn tay Khriukin, nên con chó bị anh ta chửi và bắt nó đi trình
với thày quản Otsumelov. Vì nó cắn người khi chạy rông ngoài phố, nên thày phải
có trách nhiệm xử lí khi nó vi phạm trật tự công cộng. Chó thả rông phải tìm ra chủ
của nó để bắt phạt. Quá khó khi phải xác định con chó là của người nào, lúc thì của
người này, lúc thì tưởng của người kia, cho nên thày quản phải thay đổi thái độ liên
tục. Với những chi tiết xung quanh như thế, đã có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho việc
thể hiện nội dung cốt truyện. Chekhov đã để cho Otsumelov tầng hắng hai lần, đi
liền với tầng hắng là một hành động nhờ Endurin cởi áo, mặc hộ áo. Với hai chi tiết
xuất hiện như:
Chi tiết thứ nhất: khi con chó được xác định là của tướng Giugalov. Nhưng
trước đó, Otsumelov đã ra lệnh đập chết con chó. Nhưng sau khi nghe ai đó nói:
“Hình như của tướng Giưgalôp!”. Nghe thấy vậy, Otsumelov liền: “Của tướng
Giưgalôp à? Hừm!... Enđưrin, cởi hộ ta cái bành tô với… Chà, thật là khủng khiếp,
nóng chi là nóng! Hình như trời sắp mưa rồi sao ấy…”[7, tr.25].
Chi tiết thứ hai: có người lại bảo con chó đó không phải của tướng Giưgalôp.
Otsumelov lại lây hoay đủ kiểu, đòi đánh đập con chó, rồi chê bai đủ kiểu: “Chính
ta cũng biết thế. Chó của ngài thiếu tướng là loại chó quý, chó nòi chứ đâu như con
này – có trời mà biết là loại chó gì! Lông không xù, trông mã chả ra làm sao… Nhìn
vào chỉ thấy bẩn mắt thôi… Ngài thiếu tướng mà lại nuôi chó này hả?”… “Này
Khơriukin, người bị nạn thế rồi thì đùng có mà làm ngơ nghe chưa! Phải cho chủ nó
biết tay! Thôi…”[7, tr. 26].
Nhưng khi người ta lại khẳng định con chó là của tướng Giưgalôp thật, thì
Otsumelov lại: “Hừm!... Này Enđưrin, mặc hộ ta cái áo bành tô một tí… Trời
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 35
chuyển gió rồi đấy… Ren rét là… Người dắt con chó đến chổ ngài thiếu tướng và
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
hỏi ở đấy xem. Bẩm rằng ta đã tìm được và xin gửi lại ngài… Người cũng nói rằng
về sau đừng thả nó ra ngoài phố nữa… Có thể là nó thuộc loài chó quý đấy, biết
đâu chả có một đứa nào đấy ngu như lợn lại gí thuốc vào mũi nó, thì làm xấu cả con
chó đi. Chó là một giống vật ưa nhẹ tay… Còn thằng ba hoa kia, bỏ tay xuống đi!
Hay hớm gì mà cứ trưng cái ngón tay ngu xuẩn kia lên mãi thế! Chính nhà ngươi có
lỗi chứ còn ai!...” [7, tr. 27].
Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, khi con chó không có chủ, lúc đó
Otsumelov, tỏ vẻ hóng hách đòi đánh nó, xúc phạm nó, mà không cần làm những
hành động cởi áo hay mặc áo, và không còn bình luận về thời tiết nữa. Qua những
chi tiết được xác định khi con chó là của tướng Giưgalôp, thì Chekhov đã chỉ ra
được Otsumelov hành động không theo bản năng của ông ấy, mà chính bản thân ông
ấy thừa biết sự bối rối đó, luôn thay đổi một trăm tám mươi độ chỉ vì một con chó là
rất vô lí, thật đáng khinh bỉ, dù vẫn biết thế nhưng ông vẫn làm. Nhờ thế mà ông đã
đánh lạc hướng sự chú ý của tất cả mọi người bằng hành động cởi và mặc áo liên
tục, nhận xét về thời tiết nóng rét.
Câu chuyện được xét hay nhất là ở chổ: Otsumelov thay đổi thái độ chỉ vì
một con chó, còn người bị chó cắn là người dưới mình chỉ có thái độ hóng hách đe
dọa. Chekhov đã làm nổi bật lên sự xu nịnh tồi tệ qua nhân cách của Otsumelov,
Chekhov rất thành công khi lựa chọn những chi tiết, đặt chúng trong những tình
huống cụ thể, đẩy chúng lên cao và cho chúng phát huy hết khả năng diển tả. Sự
thay đổi hình dáng liên tục của một con người trước con chó cứ hiện lên, tưởng như
không có gì nhưng lại tạo được ấn tượng rất sâu sắc, khó quên. Người đọc dễ dàng
tiếp nhận, nhờ vậy mà đọc nhanh hơn và động lại trong họ lâu hơn, sự xót xa và ray
rứt của người đọc cũng có nhiều hơn.
Dưới ngòi bút của Chekhov, thì những con người là những công cụ đắc lực
cho bộ máy nhà nước phong kiến, đã được ông thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau.
Là những con người đần độn, lại vừa hống hách một cách thảm hại đang dần dần
hiện ra. Đó là những thủ quỷ, những thầy quản, những cảnh binh… vừa hung hăng,
ngang tàn, đầy lộ liễu. Khi đứng trước “mặt nạ” của chính mình, thì lại vội vã “mềm
nhũm lại như chi chi”, hiện ra nguyên hình khi cái mặt nạ đó được cởi bỏ ra, còn lại
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 36
những khuôn mặt trơ tráo, đầy thịt, nhẵn bóng, đỏ roi vì rượu.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Nhân vật còn là những quái thai, dị tật của xã hội, tất cả được xuất hiện trong
truyện ngắn của Chekhov, làm ảnh hưởng đến suy nghĩ và tâm hồn của người đọc.
Truyện “Lão quan Prisubeev”, tác giả đã đảo lộn lại trình tự kết cấu của truyện, và
câu chuyện được bắt đầu ở đoạn giữa của cốt truyện, tức là cảnh phiên tòa xét xử
Prisubeev, vì tội đã nghĩ hưu rồi những lại thực hiện nhiệm vụ giữ trật tự như lúc
còn đi làm. Từ đó cho thấy cách đảo lộn tình huống truyện như vậy và đưa ra lí do
buộc tội lão quản là rất đúng. Về hưu rồi mà vẫn còn làm chẳng khác nào đang làm
nhục cấp trên, những người đang thi hành công vụ, nên xử như vậy là rất thích đáng.
Tưởng chừng như đó là sự việc rất tức cười, nhưng lại là một nổi đau đối với ông,
khi mà công việc đã in sâu vào tim óc của lão, tuy không còn lệnh sai khiến nữa mà
lão cứ lo âu cho luật pháp nhà nước. Đến nổi nhà nước cũng cảm thấy bị lão làm
phiền. Kết thúc sự việc, tác giả đã đặt rất đúng với vị trí, đã làm nổi bật lên cái quái
dị từ một lão quản Prisubeev, khi tòa tuyên án thì ông lãnh một tháng tù.
“Khi bước ra khỏi phòng xử án, nhìn thấy đám nông phu tụ tập nói với nhau
cái gì đấy, thì lão ta, theo một thói quen không thể nào tẩy rửa được, bèn duổi thẳng
tay theo đường nẹp quần và quát to bằng cái giọng rè rè giận dữ:
- Ê, dân chúng, giải tán ngay! Không được xúm đông thế này! Ai về nhà
nấy!” [7, tr. 44].
Cùng với sự góp mặt của chi tiết cuối cùng là khi lão quát nạt dân chúng, như
vậy cho thấy lão không phải là một con người bình thường nữa mà trở thành một cổ
máy, đã được lập trình sẳn, nhờ vậy mà chi tiết này được đưa lên thành sự khôi hài
cao độ. Đằng sau sự khôi hài đó là một nỗi ám ảnh, một thực tế nghệt ngã đầy nhẫn
tâm mà lão không nhận ra được. Nếu ở vào thời chế độ Nga hoàng thì họ cũng
không chấp nhận một nhân viên như một cổ máy như thế, không phải họ không
muốn có những công cụ có cái tâm, mà ở đây họ bênh vực cho những kẻ lười biếng,
nhúc nhác, vô trách nhiệm, vô lương tâm khác.
Về phương diện người đọc, thì mỗi người có cách tiếp nhận và phản ánh khác
nhau. Nhưng ở Chekhov muốn đưa ra cho người đọc trở lại với thời gian tù túng,
ngột ngạt, con người bóc lột con người một cách thậm tệ. Được ví như những con
côn trùng đang ăn sâu vào dân lành do những công cụ thực hiện hành pháp trơ tráo
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 37
và rất máy móc đã hiện ra vô cùng sinh động trong tác phẩm. Ở mỗi thế hệ người
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
đọc đều nhận thấy câu hỏi của nhà văn và họ đi tìm câu trả lời từ những câu chuyện
khôi hài đó.
3.1.2. Nhân vật là những kẻ dung tục và nô lệ
Trong sáng tác của Chekhov, ông không chỉ phê phán bọn quan lại, những
công cụ đắc lực của nhà nước phong kiến, mà còn tập trung lôi ra những thói nô lệ
còn ẩn sâu dưới cái vẻ bền ngoài được chải chuốt đẹp đẻ. Chekhov tìm và đưa ra
chân tướng của lũ người này chỉ với mục đích muốn thức tỉnh con người trước hiện
thực xấu xa.
Chekhov dành rất nhiều trang viết bất hủ qua các nhân vật như: Nicôlai,
Iônưts, Acxinhia… khi viết về tình trạng con người bị tha hóa về nhân tính trong xã
hội đang đi xuống. Chekhov đã phơi bày cái thói dã tâm, độc ác trong chế độ phong
kiến quý tộc Nga đang tiến rất nhanh đến thời kì bị diệt vong, nhường cho chế độ tư
bản đi lên bằng một số tác phẩm như: Iônưts, Trong thung lũng, khóm phúc bồn tử…
Điển hình như nhân vật Acxinhia trong “Trong thung lũng” đại diện cho sự
tung hoành tác oai tác quái trong đầu ốc của lớp người trong xã hội tư hữu. Tất cả
mọi điều xấu xa điều hội tụ trong con người dơ bẩn này. Vì chồng của ả là một
người đàn ông đần độn, nên ả có rất nhiều chồng ngoài hôn thú. Acxinhia trở thành
một con người vô cùng sâu độc. Khi biết được tin bố chồng để lại cho cháu trai
mình ruộng đất, thì ả đã lộ rõ bộ mặt xấu xa, nổi cơn hung tàn, xỉa xói bố mẹ chồng,
còn âm mưu dội nước sôi để giết chết cháu trai. Tàn nhẫn hơn, ả còn cấm chị dâu
mình khóc khi đứa con đã chết. Trong ngày đưa tang cháu trai, Acxinhia đã diện bộ
váy mới, trang điểm son phấn, vui sướng tươi cười như ngày tết. Dần về sau, ả trở
thành nhà tư sản, lại còn đuổi cổ bố chồng ra đường. Acxinhia đã mất hết lí trí và
tình cảm đối với con người, trở thành con thú dữ khi bị đồng tiền của cái chế ngự.
Đến với nhân vật Iônưts, trong truyện ngắn cùng tên của Chekhov, nhân vật
này là một bác sĩ trẻ hăng hái yêu đời, nhưng mong muốn đem hết tâm huyết sức lực
của mình để cống hiến cho nơi mà anh ta đang sống và làm việc. Do cuộc sống quá
tù túng ngột ngạc ở một nơi tỉnh lẻ, đã nhấn chìm ý chí của Iônưts. Từ đó Iônưts trở
thành một con người rất mê tiền, anh ta có thể làm rất nhiều việc để kiếm ra tiền.
Trong những sáng tác của Chekhov, chất nô lệ đã được phơi bày thật khủng
khiếp. Khác với nhân vật Iônưts từ một con người háo hức sống, muốn cống hiến tài
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 38
năng sức lực cho xã hội đã bị hoàn cảnh và đồng tiền chi phối, dần dần trở thành nô
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
lệ của đồng tiền. Nhân vật Nhikôlai Ivanuts ngay từ ngày đầu lập nghiệp thì đã có
suy nghĩ sẽ thay đổi cuộc sống của mình. Bằng mọi cách hắn đã sắm cho mình một
trang trại để tự canh tác, với mong muốn sẽ thưởng thức được những quả chin từ
vườn nhà mình. Để đạt được mục đích tiền tài và danh vọng, hắn đã không ngần
ngại đi lấy một phụ nữ già góa chồng về làm vợ, chỉ với mục đích đào mỏ. Hằng
ngày hắn cho vợ ăn uống rất cực khổ và thiếu thốn để tích lũy tiền bạc. Nếu như một
con người làm giàu từ bàn tay của mình và hưởng lợi từ những sản phẩm do chính
tay mình làm ra thì quá chính đáng. Nhưng ở nhân vật Nhikôlai Ivanưts trong
“Khóm phúc bồn tử” được khắc họa tính cách từ một cảm nhận của nhân vật khác.
Hình ảnh của Nhikôlai chỉ được hiện lên qua lời kể của một nhân vật khác cũng rất
chi tiết và sinh động, thói quen dung tục, nô lệ đã trở thành bản chất của Nhikôlai.
Từ hình ảnh Nhikôlai thưởng thức những thành quả lao động của mình được nhân
vật khác mô tả: Nhicôlai Ivanưts cười thích chí rồi im lặng nhìn phúc bồn tử một
lúc, ứa nước mắt anh ta không thể nói được câu gì vì xúc động, lác sau anh ta đưa
lên miệng một quả, nhìn tôi với vẻ đắc thắng của đứa trẻ cuối cùng đã được thứ đồ
chơi nó mơ ước và nói “Chà! Ngon quá”. Anh ta ăn ngấu nghiến, luôn mồn nhắc lại:
“Chà! Ngon thật! Anh cứ thử mà xem!.
Từ chi tiết đó, đã đọng lại trong người đọc là những hình ảnh một Nhicôlai
xúc động ứa nước mắt, nhai ngấu nghiến, cố vươn cổ lên mà nuốt những trái phúc
bồn tử vừa chua, vừa chác mà vẫn cố khen ngon, khen ngọt. Thật đáng thương cho
một kiếp người, đã tự đưa mình vào vị trí nô lệ, mà làm nô lệ cho chính của cải của
mình thì thật đáng sợ. Càng rùng rợn hơn, khi Nhicôlai tự quỳ xuống xu nịnh những
trái cây chua chác của vườn nhà anh trồng. Và đây cũng là thứ nô lệ chưa từng xuất
hiện trong thế giới loài người.
Từ hình ảnh đó, nhà văn đã hình dung tầm vóc lớn lao của con người: Con
người không phải chỉ cần ba thước đất, tất cả thiên nhiên, trên cả miền đất bao la ấy
con người mới có thể bộc lộ được hết phẩm chất và đặc điểm tinh thần tự do của
mình.
Tiếp theo một kiếp nô lệ có một không hai trên đời, thì Chekhov lại đề cập
đến một thói dung tục khác, đang tồn tại trong xã hội Nga lúc bấy giờ. Trong truyện
“Chuyện đời vặt vãnh”, Bêliaep chỉ là một con người bình thường như bao người
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 39
khác. Thật đắng cai, đằng sau vẻ ngoài hào hoa, phong nhã của Bêliaep, đã được
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Chekhov thu nhặc và chất lọc ra rất nhiều thói xấu xa, dung tục. Đó là một con
người với đầy sự giả dối, tráo trở, lắc léo, từ sâu trong tâm hồn. Thái độ và lời nói
của Bêliaep được miêu tả bắt đầu từ thái độ không cần biết đến ai khi đến nhà người
tình, với thái độ thờ ơ như vậy nhưng vẫn cố đáp lại sự quan tâm và lòng nhiệt tình
của Aliôsa, rồi quay sang như quan tâm: “Cháu lại đây cháu”, “Sao cháu biết?
Cháu vẫn gặp ba đấy ư?”, “Cháu với ba cháu làm gì ở đấy?”, “Cháu hãy nói với
bác như người bạn thân của cháu!”, “Cháu coi bác là ai mà lại thế” [5, tr. 62-63].
Anh ta vồ vập như đang bị sượng, khi nghe mọi chuyện của Aliôsa, thì những hành
động của anh trở nên đột ngột và rất bất ngờ trong suy nghĩ của người đọc. Anh ta
đã không giữ được lời hứa vừa nói với Aliôsa, anh ta đã làm mất lòng tin đối với sự
ngây thơ và tâm hồn trong trắng của Aliôsa bằng thái độ: “Đấy, cô hãy xem ông nhỏ
này, ông ấy kể cho mà nghe, cứ hỏi mà xem!”. Nhân vật đã vô tình để lộ tính cách
của mình bằng chính câu nói và thái độ lời nói được diễn tả rất bình thường, nhưng
đó lại là một quá trình tích tụ lại từ sâu thẳm trong tâm hồn anh ta. Điều đó tưởng
chừng nhu hết sức bình thường nhưng đã lột tả chân dung bộ mặt thật con người, là
kẻ đạo đức giả.
Nhìn chung, truyện ngắn của Chekhov đều tập trung vào tình trạng bị “tha
hóa” của con người trong xã hội Nga vào cuối thế kỉ XIX. Dưới cái nhìn tinh vi sắc
sảo của một nhà văn-bác sĩ Chekhov đã phơi bày sự nhẫn tâm độc ác, mọi sự xấu xa
của con người trong xã hội đó.
Dưới ngòi bút của Chekhov, ông đã vẽ ra những con người, mà nhờ đó đã
phơi bày tất cả cái xấu xa đồi bại của xã hội, biến con người đi đến tận cùng của sự
xa đọa trước đồng tiền và quyền lực.
Để viết về thói nô lệ của con người trong xã hội, Chekhov đã đưa vào tác
phẩm của mình biết bao cảnh diển ra thường ngày trong xã hội đầy rẫy những bất
công, tàn bạo. Từ cuộc sống hiện thực đời thường, Chekhov đã phát hiện ra những
cái xấu để phanh phui và mổ xẻ. Mỗi sự và mỗi con người đều xuất hiện trong tác
phẩm rất tự nhiên và bình thường vì nó vốn có thật. Vì thế mà cách xây dựng nhân
vật trong truyện ngắn rất đa dạng, phong phú. Những cái cao sang, sung sướng,bần
tiện, đau khổ, lạnh lùng, nhỏ nhen…, tất cả đều xen kẻ trong dòng đời bất hạnh, vô
tận không yên bình của nhiều đối tượng được đề cập trong truyện ngắn. Là nhà văn
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 40
của vô số tầng lớp, Chekhov đã dùng ngòi bút của mình xoáy xâu vào trong tâm hồn
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
của con người, để tìm và vứt bỏ những thói nô lệ, đem lại sự trong sáng, tươi đẹp
cho con người.
3.1.3. Nhân vật là những nạn nhân bi kịch của xã hội
Một trong những cái mới của Chekhov mang lại cho văn học Nga một thế
giới nhân vật đa dạng và độc đáo. Bên cạnh những nhân vật là công cụ đắc lực của
nhà nước, giai cấp thống trị, nhân vật dung tục nô lệ, Chekhov còn tập trung ngòi
bút của mình vào tầng lớp khốn khổ đến tột cùng trong xã hội. Đời sống của tầng
lớp này trong xã hội là người dân nghèo đói rách, cùng quẫn, xuất hiện rất nhiều
trong tác phẩm.
Bên cạnh đó Chekhov con dùng ngòi bút của mình vẽ nên những nhân vật là
những con người bị đầy đọa, hủy diệt về tâm hồn. Trong truyện ngắn “Hai kẻ thù”
của Chekhov, đó là cuộc sống của một bác sĩ Kirilop và bệnh nhân Aboghin khốn
khổ. Họ đều là những con người bị mất mát, đau khổ, khốn nạn, vì thế mà họ tự làm
khổ nhau.
Bác sĩ Kirilop rất đau đớn khi đứa con trai vừa chết, nhưng chưa đầy năm
phút thì Kirilop vì nhân từ, có lương tâm nghề nghiệp nên phải bỏ vợ mình ở nhà
với xác con để đi cấp cứu cho vợ của Aboghin. Trong khi đó Aboghin không biết bị
vợ lừa đi mời bác sĩ, để cô ta mặc nhiên đi với người tình. Hàng động của bác sĩ là
vì trách nhiệm nghề nghiệp, nhân đạo, còn hàng động đi mời bác sĩ đến cứu vợ mình
của Aboghin cũng vì trách nhiệm và lòng yêu thương. Khi sự thật nghiệt ngã đã
được phơi bày: vợ của Aboghin không bị bệnh, chỉ giả vờ để trốn đi với người tình,
thì nổi đau và sự xúc phạm của Kirilop và Aboghin là quá lớn và họ thổi bùng lên
cơn giận dữ đến không thể kìm chế.
“Bất hạnh bác sĩ khinh bỉ cười khẩy – xin ông đừng động đến chữ ấy, nó
không dính dáng gì đến ông. Những kẻ ăn không ngồi rồi, không vay đâu được tiền
cũng tự cho mình là bất hạnh, thằng hoạn quan béo ra vì thừa mở cũng bất hạnh.
Thật là những kẻ thảm hại, nhỏ nhoi!” [7, tr.65].
Nổi uất giận mà không thể làm gì được của vị bác sĩ và Aboghin. Sự căm
ghét và khinh bỉ làm trái tim các nhân vật bị thắt lại thật đau đớn. Thời gian rồi sẽ
qua, nổi khổ nào rồi cũng sẽ qua, nhưng những hành vi không đúng, không tương
xứng với trái tim con người sẽ không mất đi, mà trái lại nó tồn tại mãi mãi trong tâm
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 41
trí nhân vật và cả người đọc.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Chekhov miêu tả và phản ánh cuộc sống của lớp người cơ cực, không nơi
nương tựa là cái mới trong sáng tác của ông. Chekhov đã nhìn thấy và chỉ ra sự
dững dưng, ghẻ lạnh của con người với con người trong xã hội đảo lộn và rối ren.
Chekhov đã dùng ngòi bút của mình để cho người đọc nhận thấy và phản ánh cuộc
sống cơ cực, thê thảm của những người nghèo khổ, qua đó Chekhov nhằm tố cáo sự
bất công, vô nhân đạo của chế độ Nga Hoàng ở góc nhìn khác. Thành quả nghệ
thuật của cách sắp xếp này rất cao. Như truyện “Quân ăn hại” kể về cuộc sống cùng
quẩn của Zotop là một cụ già trên bảy mươi tuổi. Phải sống trong cảnh sống nghèo
nàn, cô đơn quạnh vắng cùng với con chó già chột mắt và con ngựa già yếu còm cõi.
Zotop và hai con vật có mối quan hệ ngang hàng nhau, vì vốn rất thân thiết và gắn
bó với nhau. Mối quan hệ này chi phối suy nghĩ và hành động của nhân vật, vì cả ba
nhân vật này đều già yếu, cằn cỏi, tiều tụy, xơ xác vì nghèo đói. Cũng có đôi lúc họ
dằn vặt nhau, thậm chí Zotop còn hắt hủi cả hai con vật. Vì quá khổ, không có thức
ăn cho mình và hai con vật, Zotop đã mắng chửi số phận mình một cách điên rồ:
“Kiếp của lão là kiếp đọa đầy, kiếp chó má”.
Kiếp của lão luôn gắn chặt với kiếp của hai con vật cũng già nua và khốn khổ
như lão. Tự chửi mình lão lại quay sang chửi hai con vật, thế nhưng chúng cũng
không rời xa lão. Chekhov đã để nhân vật Zotop chửi những câu chửi đối với con
chó già Lyxka trụi lông, chột mắt và con ngựa xiêu vẹo. Đồng thời đó cũng là những
lời tự chửi mình. Thực ra, lão cũng rất thương và gắn bó với chúng, nhưng khi lão
chửi chúng và đuổi chúng đi chỉ vì không còn gì cho chúng ăn: “Chúng mày chẳng
cho ông lấy một chút vui vẻ, lợi lộc gì, chỉ vặt buồn khổ, túng thiếu! Sao mãi chúng
mày chẳng chết rấp đi cho rảnh hả?... Xéo ngay! Xéo ngay ra khỏi nhà tao! Cho
khuất hẳn mắt tao đi! Tao không có bổn phận phải chứa những thứ của khỉ ấy trong
sân nhà tao! Cút!”[5, tr.59].
Sau khi bị mắng chủi, hai con vật cúi đầu nhẫn nhụi bước ra cổng và đứng
đó. Tuy mắng chửi dữ thế, nhưng chỉ ít chóc sau, lão lại ra cổng, làm như hung ác:
“Kìa, sao cứ đứng đực ra đấy? Đợi ai? Cứ nghênh ngang giữa đường, không cho
người ta đi phỏng? Vào sân ngay!” [5, tr.60].
Sự hiểu biết và rất nghe lời của hai con vật là sự gắn bó, đồng cảm với con
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 42
người trong hoàn cảnh nghèo khó, túng quẩn. Hai con vật càng lầm lũi bao nhiêu,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
thì Zotop càng quát mắng bao nhiêu, vì thế mà cái tội lỗi của lão cũng tăng lên bấy
nhiêu, thì lòng yêu thương chúng càng sâu sắc bấy nhiêu.
Tiếp theo, Chekhov còn nói về thân phận con người nghèo khổ thông qua
việc lấy đồ vật làm nhân vật, tạo nên được tính chất đặc biệt trong hệ thống nhân
vật. Trong truyện ngắn “Vanka”, kể về cuộc sống khổ cực bị đầy đọa của một cậu bé
nông thôn, đi ở mới chín tuổi. Tất cả nội dung nhằm thông báo về cuộc đời khốn
khổ của cậu bé vừa chín tuổi, với những khát khao được giải thoát và vô vọng…
nằm trọn vẹn trong bức thư nó đã viết, rồi gửi cho ông người quen, ở quê nhà trong
đêm giáng sinh. Trong bức thư, với hình thức biểu đạt như vậy, đó là bức thư do đứa
trẻ mới chín tuổi viết. Bức thư đã bộc lộ đầy đủ những tư duy ngây thơ, hồn nhiên
của một đứa trẻ và đóng vai trò thông báo chính.
Vanka không còn ai thân thích, chỉ còn duy nhất ông người quen ở quê nhà.
Do nó đi ở ngoài thành phố nên chịu nhiều khổ ải, đối khác và thiếu ngủ. Bức thư
của Vanka thấm đượm nước mắt, rất buồn rầu và tuyệt vọng. Trong bức thư đã chứa
đựng tất cả những gì Vanka trải qua, đó là sự hành hạ thật dã man, đánh đập, chửi
mắng, bị bỏ đói bỏ khát, rét mướt, cùng với những ước mơ nhỏ nhoi của nó. Khao
khát được giải thoát nhưng vô vọng: “Ông thương lấy cháu mồ côi cút khổ sở,
không người ta đánh cháu mà cháu thèm được ăn no lắm, cháu buồn lắm, không nói
được gì, chỉ khóc thôi… đời cháu khổ lắm, khổ hơn một con chó ông ạ… Ông thân
yêu, ông lên đây đón cháu nhé”[7, tr. 52-53].
Với bao nổi niềm hi vọng, mà Vanka tâm sự trong bức thư và gửi đến một
địa chỉ vu vơ. Trong cuộc sống với bao nhiêu cái ác, giữa muôn trùng sự giả dối, sự
thờ ơ, vô trách nhiệm thì bức thư của Vanka chỉ với địa chỉ:
“Gửi ông nhà quê,
Ông Konxtantin Makaruts”.
Như vậy thì làm sao đến tay người nhận, với mong muốn để ông biết đến nổi
đau của nó. Rồi không biết bức thư đó sẽ đi về đâu, cũng như Vanka bức thư sẽ bị
lưu lạc, bị lãng quên hay bị vứt vào nơi nào đó của xã hội. Trải qua biết bao thời
gian, giữa dòng đời xuôi ngược và mãi cũng không có câu trả lời.
Chekhov không chỉ khám phá nổi khổ bị đầy đọa của những kiếp người bị
lầm than, mà còn ở cả gốc độ tinh thần. Sự đói khát về vật chất đã khủng khiếp, vậy
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 43
mà sự đầy đọa về tinh thần càng khủng khiếp hơn. Sự đầy đọa về tinh thần sẽ tìm
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
thấy trong “Hai kẻ thù”, Ion trong “Nổi nhớ”, Lipa trong “Trong thung lũng” của
Sekhov, đã làm thành một mảng màu sinh động trong bức tranh hiện thực của xã hội
bất công, vô nhân đạo, quyền sống của con người không được đảm bảo. Tất cả họ
đều là nạn nhân bi thảm của xã hội thời bấy giờ.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Chekhov là những con người cùng
khổ, hiện lên thật sinh động phản ánh rõ nét sự túng quẫn, khổ nhục trong xã hội bất
công, vô trách nhiệm. Xã hội đó không chỉ khủng khiếp, mà còn nhẫn tâm hiu hắt
đến lạnh lùng khi có sự xuất hiện của nhân vật trẻ con là những mần sống bị đứt
đoạn.
Nhân vật Varka trong “Buồn ngủ” là một bé gái đi ở khi mới 13 tuổi, chủ nhà
chỉ thuộc tầng lớp thị dân nhưng rất đua đòi, đối xử độc ác đối với con người: “Đêm
đã khuya, Varka, con sen 13 tuổi, luôn tay lắc lắc cái nôi có đặt thằng bé nằm,
miệng lẫm bẩm hát ru rất khẽ… Ru hời ru hỡi là ru”[5, tr.109].
Đây là cách giới thiệu gây ấn tượng cho người đọc liên tưởng ngay đến nhân
vật. Đêm khuya như vậy mà chỉ có bé gái mới 13 tuổi phải ngồi đưa ru em cho chủ.
Câu chuyện chỉ rõ ra một loạt những chi tiết chỉ hành động liên tục. Em bé cứ khóc
và Varka đã rất kiệt sức và buồn ngủ: “Varka buồn ngủ lắm rồi. Mắt nó cứ ríu lại,
đầu cứ gục xuống, cổ mỏi rã rời… Nó có cảm giác như mắt nó đã khô đét và trơ ra
như gổ, đầu nó teo quắt lại, chỉ còn bé bằng cái đầu đanh ghim”[5, tr. 110].
Tiếp đó, là một giấc mơ mù mụt, tối ôm của con bé. Giấc mơ nằm ngủ trên
bùn lầy cùng những đám người rủ rượi, vật vờ. Từ đó cho thấy, sự buồn ngủ thật
ghê gớm của con bé. Chekhov kể câu chuyện rất nhịp nhàng, dàn trải chậm chạp. Vì
thế, giấc mơ của Varka, với toàn bộ gia cảnh hiện lên thật rời rạc, nhưng rất rõ ràng.
Xen kẻ giấc mơ đó là âm thanh tiếng ru à ơi và sự buồn ngủ thật khủng khiếp của
Varka. Trong giấc ngủ, Varka mơ thấy bố nó chết, nó chạy vào rừng và va chạm vào
cây bạch dương, vì thế nó tỉnh giấc. Mở to mắt ra thì nhìn thấy ông chủ đứng trước
mặt và nhéo tai nó rất đau, nhưng thằng bé nằm trên nôi vẫn khóc.
Cứ như thế, thằng bé cứ khóc, Varka đưa nôi, Varka buồn ngủ những không
được ngủ. Đến khi trời sắp sáng, Varka phải nhóm và một ngày nữa lại bắt đầu.
- “Varka, đốt lò sưởi lên nào!
- Varka, đặt ấm lò đi!
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 44
- Varka, đánh giầy cho chủ
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
- Varka, rửa phía ngoài cầu thang!
- Varka, chạy đi mua chay bia về đây!
- Varka, chạy xuống hầm lấy Vodka! Varka cái ỏm nút chai đâu? Varka, đi
làm cái tý…
- Varka, ru em nhé! Lệnh sai cuối cùng vang lên”
Varka chạy đôn chạy đáo, quay cuồng trong sự sai bảo, với cái đầu không
được tỉnh táo vì thiếu ngủ:
“Nó ngồi xuống sàn đánh giầy, bụng nghĩ, giá chiu đầu vào chiếc giầy to
tướng, sâu hoắc mà ngủ một giấc thì sướng quá… Rồi, bỗng chiếc giầy to lên,
choán hết cả căn phòng…”
Kết thúc câu chuyện là cảnh:
“Miệng cười khanh khách, Varka vừa nháy mắt với cái vệt sáng xanh, giơ
ngón tay lên dọa nó, vừa rón rén đến cạnh cái nôi và cuối xuống sát người thằng bé.
Bóp cổ nó xong, Varka nhanh nhẹn nằm ra sàn nhà, cười khoái trá vì bây giờ không
còn cái gì cản trở giấc ngủ của nó nữa, và chỉ phút sau, nó đã ngủ say như
chết…”[5, tr. 117].
Cũng là giọng lạnh lùng, khách quan, cũng kết thúc mà không lời bình luận.
Hiệu quả nghệ thuật của việc đoạn kết cũng được gia tăng rất nhiều, có thể nói đây
là câu chuyện rất hấp dẫn. Đây là cuộc sống bị đọa đầy, tủi phận của đứa trẻ hiện ra
thật sinh động, với nụ cười hồn nhiên sau một ngày làm việc vất vả:
“Nhìn mấy khung cửa sổ tối dần, Varka đưa tay lên bóp hai thái dương cứng
đờ, và mỉm cười bâng quơ, chẳng biết mình cười chuyện gì. Bóng hoàng hôn mơn
trớn đôi mắt nặng trĩu của nó và hứa hẹn với nó một giấc ngủ ngon lành”[5, tr.115]
Trong câu chuyện “Buồn ngủ”, cho người đọc thấy cuộc đời của Varka luôn
trải mình trong sự đầy đọa. Những niềm vui ngây thơ, mong ước giản dị và hồn
nhiên của Varka, khiến cho người đọc xót thương và đau đớn. Bên cạnh đó, câu
chuyện còn đem lại cho người đọc sự căng thẳng về thần kinh: cảm giác thường trực
mệt mỏi kéo dài, lệnh tiếp lệnh, công việc nối tiếp công việc…, chẳng thấy một
khoảng trống nào cho bé Varka. Cứ mỗi lần bị la mắn, sai khiến thì Varka chỉ đứng
im lặng, vì trong đầu nó chỉ muốn được ngủ, đó được coi là nhu cầu cấp bách. Cuối
cùng, Chekhov đã tìm thấy cho Varka một lối thoát, đó là hành động bóp cổ thằng
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 45
bé con chủ cho đến chết, rồi Varka lăn ra mà ngủ.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Bên cạnh thân phận đi ở, bị đầy đọa, thì vẫn còn đỡ hơn là kiếp sống lang
thang, phải đi ăn xin, ăn cướp. Như thằng bé trong truyện “Thằng ăn cắp”, không có
được lối thoát như bé Varka. Nó đã phạm tội trong sự tính toán ngây thơ, dại dột, vì
quá đói nên nó chỉ biết liều vậy thôi, chứ nó không hề nghĩ đến chuyện chạy thoát,
nó quyết ăn quỵt bát bún.
Trở lại với cuộc đời khốn khổ của Vanka, với toàn bộ cuộc đời của nó được
tái hiện qua bức thư nó viết. Ngoài hình thức là bức thư, Chekhov còn sử dụng kết
cấu chuyện lồng vào chuyện. Một chuyện là Vanka viết thư, nhân vật kể ở ngôi thứ
ba. Một chuyện là chuyện về cuộc đời Vanka được kể trong thư. Sự đang xen của
thời gian nghệ thuật là sự hổ trợ rất đắc lực cho hai câu chuyện. Thời gian nghệ
thuật được tổ chức tại điểm nhìn của Vanka về câu chuyện đời của chính mình. Bao
gồm thời gian trong quá khứ, thời gian ở hiện tại và thời gian trong tương lai, chúng
đan xen và hiện hữu với nhau.
Cuộc sống khốn khổ của Vanka hiện ra rõ nét qua từng lời lẽ trong thư, được
Vanka nhớ lại bằng những cụm từ: “Ngày hôm qua…”, “Tuần vừa rồi…”, “Hôm
vừa rồi…”, và những sự việc như: bà chủ đập cả con cá vào mặt nó, ông chủ cầm
khuôn khâu giầy đập vào mặt nó đến bất tỉnh…, từ đó cho thấy Vanka đã bị hành hạ
đến thế. Vanka chợt nhớ ra khi đang viết những dòng hồi tưởng đầy hãi hùng:
“Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang cháu về nhà ông, về làng…”. Đến
đoạn sau đã hàm chứa trong đó cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
“Cháu quỳ lạy bên chân ông, cháu cầu thượng đế suốt ngày đêm để ông
mang cháu đi khỏi nơi này… cháu sẽ thái thuốc lá cho ông. Ông thân yêu, cháu
chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ còn nước là chết nữa thôi, cháu đã định chạy trốn
về làng nhưng mà không có giầy… Còn khi nào cháu lớn lên, cháu sẽ trả ơn ông và
nuôi ông”[7, tr.54].
Trong suốt chiều dài của bức thư, thời gian hiện tại ít thấy xuất hiện, điều đó
cho thấy rất đúng với tâm lí trẻ con. Chú bé Vanka không quan tâm đến hiện tại, đó
là nổi sợ hãi khủng khiếp, đau đớn mà cậu bé khao khát được giải thoát. Thời gian
được sắp xếp trong thư cũng rất lộn xộn, vì ở độ tuổi của Vanka rất cần đến sự quan
tâm chăm sóc của người lớn, nên tư duy của Vanka cũng hồn nhiên và lung tung
như vậy. Chính sự hồn nhiên đó đã làm tăng lên giá trị hiện thực và tác động rất
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 46
mạnh đến người đọc. Trong câu chuyện này, thời gian hiện tại xuất hiện rất ít qua
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
các cụm từ: “Vanka đưa mắt nhìn ra của sổ tối tăm”, “bây giờ”, “Vanka thở dài,…
viết tiếp…”, “câu đưa nắm tay đem bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc…”, “Vanka gấp
lá thư làm tư rồi bỏ vào phong bì”. Đó là những khoảnh khắc hiện tại làm nhiệm vụ
rất quan trọng là kết nối quảng đời đã qua trong hạnh phúc nhỏ nhoi mà lại ấm áp
đối với quảng đời hiện tại đau khổ và cơ cực của Vanka. Cậu bé này có nhiều hồi ức
về quê nhà, những hồi tưởng là giấc mơ ngắn ngủi của mình. Thời gian tồn tại của
giấc mơ ngắn ngủi cho thấy cái tương lai mà Vanka mong đợi vốn rất mong manh.
Những yếu tố nghệ thuật được tác giả sử dụng và phát huy tối đa hiệu quả
của chúng. Sự lòng ghép và đang xen của mạch thời gian, đã tạo nên sự hấp dẫn đặc
biệt cho tác phẩm. Cùng với hình thức của bức thư, được Vanka viết gởi đến một
địa chỉ vu vơ, không biết đến khi nào mới tới người nhận của một đứa trẻ hồn nhiên
như vậy. Sự hồn nhiên càng lớn, thì việc tìm lối thoát cho đứa trẻ tội nghiệp này
càng bấp bênh và bế tắc.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của Chekhov ở những con người bị
chà đạp, nghèo khổ đang hiện rõ và sinh động trong sáng tác. Chekhov ngày càng
bộc lộ tài năng của mình khi xử lí đề tài, bằng thái độ tiếp cận hiện thực, bằng thủ
pháp nghệ thuật hiện hữu. Chekhov xây dựng nhân vật là những con người lam lũ,
nghèo khổ, bất hạnh trong tác phẩm và trao cho ông nhiệm vụ lớn khi phản ánh hiện
thực ngang trái, bất công. Thông qua đó, Chekhov muốn gởi vào đó là sự thông
cảm, thương xót cho số phận bấp bênh bị khinh bỉ, con người bị coi rẻ. Với những
nhân vật nghèo hèn, khốn khổ ở đủ mọi lứa tuổi, Chekhov đã giải quyết tận gốc mối
quan hệ giàu – nghèo trong xã hội. Góp phần tích cực trong việc vạch trần tội ác ở
mọi hình thức của những lũ người ăn không ngồi rồi, ăn trên ngồi trước với dã tâm
độc ác, đồng thời thức tỉnh sự thờ ở của con người trước hiện thực xã hội nghiệt
ngã.
3.2. KẾT CẤU TRUYỆN VÀ CỐT TRUYỆN
Chekhov là một nhà soạn kịch, người viết truyện ngắn nổi tiếng của nước
Nga và được xem là một trong những cây bút truyện ngắn bậc thầy của thế giới.
Những sáng tác của ông luôn gắng chặt với cuộc đời, cuộc sống hằng ngày cùng với
những con người gắn với những mảnh đời bất hạnh, kiết nô lệ không có lối thoát.
Chekhov đã bộc lộ hết tài năng của mình qua tất cả những câu chuyện được
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 47
sáng tác rất thành công. Hầu như các câu chuyện của ông có kết cấu thật giản dị, bố
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
cục câu chuyện thường được đề ngỏ, với mục đích để người đọc tự tìm cho nhân vật
trong tác phẩm có những lối đi riêng theo sự cảm nhận của từng đọc giả. Những tác
phẩm của Chekhov biểu hiện sâu kính dưới bề mặt cuội đời thường của những con
người bình thường. Về nghệ thuật ngắn của Chekhov mang một chiều sâu tâm lí rất
lớn, lột tả một cách xác thực các tinh tế nội tâm, thuộc đặc trưng của các tầng lớp
người Nga thế kỉ XIX. Đồng thời Chekhov là nhà văn đã để lại nhiều tác phẩm có
ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn học Nga cũng như trong nền văn học thế giới.
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều ý kiến nhận xét về tài năng của Chekhov. Cái
chung làm nên sự bất tử của truyện ngắn Chekhov đã được Puskin khẳng định trong
bức thư, thiên tài chỉ liếc mắt là phát hiện ra sự thật, mà sự thật mạnh hơn nhà vua,
kinh thánh nói vậy.
Đôxtôiepxki lại quả quyết: Sự thật cao hơn Nêcraxôp, cao hơn Puskin, cao
hơn nhân dân, cao hơn nước Nga, cao hơn tất cả bởi vậy mong ước độc có sự thật và
đi tìm nó, bất chấp tất cả những lợi lộc mà chúng ta có thể bị mất vì nó và thậm chí
bất chấp tất cả mọi truy nã và săn lùng mà chúng ta có thể phải chịu đựng vì nó.
L.Tônxtôi từng tâm sự: nhân vật chính trong truyện của ông, nhân vật mà ông yêu
mến với tất cả sức mạnh, tâm hồn cố gắng dựng lên trong tất cả vẻ đẹp của nó, nhân
vật luôn luôn đã đẹp, đang đẹp và sẽ đẹp, nhân vật đó là sự thật.
Ngay từ khi còn rất trẻ, Chekhov đã ý thức rất rõ về trách nhiệm ngồi bút của
mình: văn học được coi là có tính nghệ thuật vì nó vẽ tả cuộc sống vốn có trong thực
tế. Mục tiêu của văn học là một sự thật tuyệt đối và trung thực…. Đối với các nhà
khoa học thì trên trái đất chúng ta đang ở thì không có gì bẩn. Cho nên nhà văn cũng
phải khách quan như nhà hóa học, phải biết từ bỏ cái tính chủ quan trong đời sống
và biết rằng cả những đống phân trong phong cảnh cũng đóng vai trò rất đáng nể,
còn các dục vọng xấu xa cũng gần gũi cuộc sống như các dục vọng tốt lành.
Như vậy có thể nói, Chekhov là nhà văn lớn chân chính, tiếp bước theo con
đường khám phá sự thật, vươn đến cái cao đẹp nhưng đầy chông gai. Tính trung
thực luôn gắn với tác phẩm của Chekhov, như lời của Tônxtôi: Chekhov và các nhà
văn đương thời nói chung phát triển kĩ thuật phi thường của chủ nghĩa hiện thực. Ở
Chekhov tất cả đều chân thực đến độ ảo giác, các tác phẩm của ông ấy gây một ấn
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 48
tượng như một kính vạn hoa.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Vào năm 1886, N.X. Lexcôp xem Chekhov là một nhà văn trẻ đi theo khuynh
hướng hiện thực lành mạnh. L.Tônxtôi ca ngợi Chekhov là tài năng văn học đương
thời vĩ đại nhất trên toàn thế giới. V.G. Kôrôlencô có viết trong một bức thư: ông đã
nghĩ rằng phẩm chất của Chekhov chủ yếu là ở chổ ông ấy biết mô tả một cách chân
thực, chứ không phải phụ thuộc vào việc lựa chọn đề tài. M.Gorki lại nhận ra tất cả
những con người ấy, kẻ xấu cũng như người tốt, họ đều sống trong câu chuyện của
Chekhov, đúng như họ sống trong hiện thực. Trong các truyện ngắn của Chekhov
không hề có cái gì mà không có thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp
của tài năng của Chekhov chính là ở chổ, không bao giờ tự bịa đặt ra cái gì, cũng
không bao giờ miêu tả cái gì không có trên đời này, dù làm như vậy là tốt đẹp cho
con người, đúng với mong ước, nhưng ông không bao giờ tô vẽ cho con người.
Hơn nữa, chính bản thân của Chekhov tự xem mình có tính chủ quan là vật
kinh khủng, và khẳng định rằng: càng khách quan ấn tượng thì càng mãnh liệt hơn.
Ông rất đề cao cộng đồng sáng tạo, khi viết ông hoàn toàn tin cậy vào bạn đọc, vì
ông cho rằng những yếu tố chủ quan còn thiếu thì lúc ấy bạn độc sẽ tự thêm vào.
Như vây, Chekhov đã có sự khám phá cái gì đó ở nước Nga cuối thế kỉ XIX,
mà ông cho là thời kì đau ốm. Đôxtôiepki thì đi tìm con đường trong con người,
phơi bày những u nhọt của thời đại đô thị trong các tiểu thuyết phức tạp. L.Tônxtôi
nắm bắt con người bên trong qua con người hữu tình và mô tả sâu sắc việc chiếm
hữu ruộng đất cùng quan hệ địa chủ, nông dân qua các tiểu thuyết tâm lí xã hội.
Chekhov có nói đến ách áp bức tư bản trong (Một chuyến đi khám bệnh), cảnh nông
thôn cùng khốn trong (Nông dân, trong khe núi), tìm đường giải phóng quần chúng
bị áp bức (Ngôi nhà có căn gác nhỏ), những ở đây trung tâm chú ý của ông không
phải là quan hệ sản xuất và các vấn đề về kinh tế, mà là mong muốn khám phá và
mô tả thân phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua muôn ngàn nhận
thức. Những thói quỵ lụy trước uy quyền, chức tước như trong (Anh béo và anh gầy,
Lão quản Prisbêep, Con kì nhông, Các bà vở kịch vui, Người trong bao). Thối nô lệ,
đồng tiền, của cải trong (Mặt nạ Inônứt, Vé trúng số, Xalômôn ném tiền vào lò sưởi
và Varlamôp thích tiền trong thảo nguyên), sự tác oai tác quái đối với con người
trong hoàn cảnh nhân đạo như trong (Vanca, nỗi nhớ, buồn ngủ), sự khuất phục
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 49
hoàn cảnh, tâm lí bạc nhược, ngôn biện (Phòng số 6, Người tu sĩ vận đồ đen,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Iônứts). Chekhov miêu tả tình yêu, hôn nhân và số phận của người nô lệ, thân của
người phụ nữ trong rất nhiều truyện (Người đàn bà phù phiếm, Huân chương Anna
nhị đẳng, Vôlôđia lớn và Vôlôđia bé, Một chuyện tình yêu, Đêm noel, câu chuyện
phu nhân N.N, Một chuyện đùa nho nhỏ, Que diêm Thụy Điển, Varơsca, vận xấu,
chị bếp đi lấy chồng, người vợ chưa cưới). Lại càng nhức nhối câu chuyện gái điếm
trong cơn bệnh thần kinh, có nhiều cô gái trẻ bị ép duyện, hay vì đồng tiền mà phải
lấy chồng già. Và rồi chẳng ai được hưởng hạnh phúc, có tất cả mọi thứ nhưng chỉ
tình yêu là chưa có, con người vẫn chưa được tự do trong tình yêu và hôn nhân
(Người đàn bà có con chó nhỏ).
Nếu ở giai đoạn một, kết cấu cốt truyện là kết cấu hoạt cảnh sự kiện tâm lý
con người nhỏ bé thì đến giai đoạn hai và ba lại là cốt truyện ý thức- ý thức : Sự đột
biến và kiểu nhân vật bừng tỉnh. Soi chiếu vào truyện ngắn “Người đàn bà có con
chó nhỏ” ta thấy đây là cốt truyện ý thức, phản ánh quá trình nhận thức của nhân vật
về hành trình đi tìm hạnh phúc, khát vọng thay đổi cuộc sống của các nhân vật Anna
và Gurốp. Anna và Gurốp tình cờ gặp nhau trên bãi biển Ianta, sau đó họ yêu nhau,
nhưng Gurốp ban đầu chỉ coi Anna cũng giống như bao mối tình bãi biển khác của
anh. Thế rồi Anna nghe tin người chồng nàng bị ốm, nàng phải vội trở về nhà và
chia tay với Gurốp mặc dù trong lòng nàng rất đỗi yêu và cần Gurốp. Nhưng một
thời gian sau khi chia tay với Anna, Gurốp trở về với cuộc sống thường nhật của
anh, hình ảnh và những kỷ niệm về Anna đã không thể xoá mờ trong anh. Gurốp
nhận thấy những việc vô tích sự , những cuộc nói chuyện lặp đi lặp lại ấy cướp đi
cái thời gian tốt nhất, cái phần sinh lực quý nhất và cuối cùng để lại một cuộc sống
tẻ ngắt anh có cảm giác mình đang sống trong nhà thương điên hay một trại tù nào
đấy. Anh đã quyết định đi Matxcơva tìm gặp Anna . Tình yêu của Anna đã thay đổi
cuộc sống của anh.
Bên cạnh đó, cái thối nô lệ đã ngấm sâu vào đầu người lớn và trẻ em, nó bao
gồm tất cả mọi người, không phân biệt đàn ông, đàn bà, trí thức hay viên chức, quân
nhân, thương gia, sinh viên, nông dân, là những con người không biết kính trọng cái
phẩm giá làm người của mình, mà đành tâm phục tùng bạo lực một cách ngoan
ngoãn như kẻ nô lệ. Chỉ vì Chekhov muốn giúp con người “chắc lọc và loại bỏ khỏi
con người mình từng giọt nô lệ”. Chekhov đã có nhận xét rất đúng về đầu óc nô lệ
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 50
trong thế giới nhân vật, trước mắt ta diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
và nô tỳ của tình yêu, của sự ngu dại và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với
những lạc thú ở trần gian. Đó là những kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi tối tăm trước
cuộc sống, họ quằn quại trong nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời lẽ đầu Ngô mình
Sở về tương lai, vì cảm thấy trong hiện tại không có chổ nào cho mình đứng.
Chekhov đã hiểu được cuộc sống con người thật phức tạp, đó là thế giới đầy
rẫy những bọn nam nữ vô lại, bản thân con người không được hoàn thiện. Chekhov
được xem là ca sĩ của những người cau có, đó là những người u ám, người rầu rĩ.
Trong số những tác phẩm của ông được ra đời, có sự đối lập giữa các vĩ nhân, con
người phi thường, siêu nhân với con người bình thường, như trong truyện (Người
đàn bà phù phiếm, Tu sĩ vận đồ đen, câu chuyện tẻ nhạt), Xalômôn không ham tiền
mà cho rằng mình giống con người hơn (Thảo nguyên). Một ông chủ bảo cô gia sư:
khi cô đi rồi thì cả cái nhà này không có mặt nào ra một người nữa (Rối ren). Ông
bác sĩ phê phán bà quý tộc: bà không bao giờ coi những kẻ nghèo hèn là con người
cả (nữ hầu tước). Người vợ nhận ra người chồng bình thường mà vĩ đại của mình
quá muộn (Người đàn bà phù phiếm). Vị giáo sư nổi tiếng lại muốn rằng mọi người
yêu quý ông như “một con người bình thường”, chứ chẳng phải vì danh tiếng, chức
vị bề ngoài (Câu chuyện tẻ nhạt).
Bên cạnh đó, còn viết lên những bài để dành riêng ca ngợi nhà đại Nga N.M.
Prơgiêvanxki, ông ấy đã bỏ mình tại vùng núi Trung Á nghiên cứu khoa học, ông
cho rằng trong thời buổi đau ốm của chúng ta, khi cái xã hội Châu Âu sinh ra sự
lười biếng, sầu đời và mất lòng tin, khi mà ở khắp nơi ngừ trị sự kết hợp kì quặc
giữa thói chán đời và nổi sợ chết. Thậm chí những người ưu tú lại khoanh tay, tự
bào chữa cho cái thói lười biếng của mình bằng sự thiếu vắng mục đích sống rõ
ràng, thì các chiến sĩ đấu tranh quên mình cần thiết như mặt trời. Chekhov đã ca
ngợi những con người của chiến công vì niềm tin và mục đích được nhận thức rõ
rang, Chekhov còn cho rằng: nếu những điển hình tích cực do văn học sáng tạo ra là
tài liệu giáo dục quý giá, thì những điển hình do cuộc sống tạo ra sẽ trở thành vô
giá.
Do Chekhov, là người rất yêu nghệ thuật nên những con người trong sáng tác
của ông là những con người lao động giản dị, trung thực, với đủ mọi ngành nghề,
nhưng vận mệnh và cuộc sống của họ thật phức tạp. Ông lão đánh xe Panchêlây
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 51
trong (Thảo nguyên) nói: “những bậc thánh nhân và những người trung hậu tôi đã
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
gặp nhiều, nhưng những người tội lỗi thì điếm không xuể nữa. Nhân vật đầy thăng
trầm gắng với cuộc đời vô cùng phức tạp nhưng vẫn trân trọng con người. Số phận
tôi thật mai mắn biết bao nhiêu, tôi gặp toàn những con người tuyệt diệu, trên đời
này người tốt nhiều hơn cả người xấu”[7, tr. 201]. Anh sinh viên Vaxiliep nghĩ về
các cô gái điếm và nhạc công, đầy tớ trong các nhà chứa: “Tất cả họ đều giống loài
vật hơn là loài người, nhưng họ vẫn là con người, ở họ vẫn có tâm hồn. Cần phải
hiểu, sau đó sẽ đánh giá họ”[7, tr. 340] (Cơn bệnh thần kinh). Xôphia Lơvôpna, 23
tuổi, buộc phải lấy ông chồng hơn tuổi bố mình chua xót thừa nhận: “Tôi là một đứa
con gái ngu muội, hèn hạ, thiển cận đáng bỏ đi…” nhưng vẫn ước ao làm lại cuộc
đời để trở thành con người chân chính, tôi muốn được làm một người trung thực,
trong trắng, không biết đến lừa dối, sống có mục đích (Vôlôđia lớn và Vôlôđia
bé). Được gặp nhiều người tốt, anh viên chức trẻ nghĩ: “Trong cuộc đời, không có gì
quý hơn con người” (Vêrơsca). Anh hoạ sĩ tâm sự với người yêu của mình rằng:
“Con người phải nhận thức được mình cao hơn những sư tử, hổ báo, ngôi sao, cao
hơn hết thẩy mọi cái trong thiên nhiên, thậm chí phải thấy mình cao hơn cả những
điều mình không hiểu và cảm thấy kỳ lạ” (Ngôi nhà có căn gác nhỏ). Nhân vật của
Sekhov dường như luôn bị co giản giữa không gian hẹp tù túng (Phòng số 6) và
không gian bát ngát (Thảo nguyên). Nhà văn hình dung tầm vóc lớn lao của con
người: Con người không phải chỉ cần ba thước đất, không phải chỉ cần một trang ấp
nhỏ mà là tất cả trái đất, tất cả thiên nhiên, trên cả miền đất bao la ấy con người mới
có thể bộc lộ được hết phẩm chất và đặc điểm tinh thần tự do của mình (Khóm phúc
bồn tử).
Hàng loạt nhân vật của Chekhov từ anh sinh viên, thầy giáo trẻ đến vị giáo sư
già, ông bác sỹ bừng tỉnh, đốn ngộ, nhận ra cuộc sống tồi tệ, tẻ nhạt của mình và
muối rời bỏ nó (Sinh viên, Ba năm, Câu chuyện tẻ nhạt, Thày giáo dậy văn,
Iônứts). Giáo sư Nicôlai Xtêpanôvich “thấy thiếu cái mà các ông bạn hiền triết gọi
là tư tưởng chủ đạo trong người…” Chekhov nói về kết thúc truyện này trong một
bức thư viết năm 1888: “nghiền ngẫm cuộc sống mà thiếu thế giới quan thì đó không phải là cuộc sống mà là gánh nặng, nỗi khủng khiếp”.
Người kể chuyện trong Thảo nguyên cảm thấy cảnh vật đều thể hiện rõ “sự
toàn thắng của cái đẹp, của sự trẻ trung, của sức mạnh tràn trề và sự khát khao tha
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 52
thiết đối với cuộc sống”. Các nhân vật trong Sinh viên, trong khe núi đều tin rằng sự
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
thật và cái đẹp tồn tại và sẽ ngự trị cuộc sống. Chekhov đã vẽ chân dung những cô
gái trẻ đẹp, đầy sức xuân (Hai vẻ đẹp, Vêrơsca, Iônưtsơ). Trong truyện ngắn
Chekhov không chỉ có thời gian hiện tại xám xịt, ngưng đọng trong đó cuộc đời các
nhân vật han rỉ, mòn mỏi, tàn lôi. Càng về cuối đời ông, thời gian tương lai càng rõ
nét trong tác phẩm. Tuy phải chống chọi với bệnh tật, Chekhov vẫn lạc quan. Trước
cảnh đời đen tối, Chekhov vẫn vững tin: Cho dù cái ác lớn đến đâu thì đêm vẫn cứ
lặng lẽ, đẹp đẽ và trên thế gian rộng lớn này sự thật vẫn tồn tại và sẽ tồn tại cũng
lặng lẽ và đẹp đẽ như thế và tất cả trên trái đất chỉ chờ đợi hoà hợp với sự thật như
ánh trăng hoà với bóng đêm (Trong khe núi).
Tiếng cười và những tấn bi kịch trong truyện ngắn Chekhov nẩy sinh từ mâu
thuẫn giữa đầu óc nô lệ và ước mơ về con người đẹp, cuộc sống tự do. Chekhov đã
giành được vị trí xứng đáng cho truyện ngắn trong thời buổi toả sáng tên tuổi
Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi, Turghênhep với số lượng tiểu thuyết thật đồ sộ. Một vài
truyện khá dài của ông như Thảo nguyên, Câu chuyện tẻ nhạt, Phòng số 6, Người tu
sĩ vận đồ đen… được đánh giá cao. Tuy vậy Chekhov vẫn tỉnh táo và khiêm tốn cho
rằng trong Thảo nguyên của ông, mỗi chương sẽ tạo ra một truyện ngắn đặc biệt
riêng, toàn truyện là bản liệt kê chi tiết các ấn tượng, cuốn bách khoa thư về thảo
nguyên. Bởi vì, ông còn chưa biết cách viết các tác phẩm lớn.
Sức mạnh của Chekhov là do tài viết ngắn. Chekhov cho rằng: “Ngắn gọn là
chị em của tài năng”, “tôi biết nói ngắn về những cái phải nói dài”, “điều kỳ quặc
là giờ đây tôi mê tất cả những gì ngắn gọn”. Dù đọc gì, của mình hay của người, tôi
thấy tất cả đều chưa đủ ngắn gọn”, “Chỉ một mình tôi nổi dậy, chống những sự dài
dòng”. Muốn ngắn gọn phải chọn lọc chi tiết. Chekhov góp ý nhận xét truyện của
các nữ văn sĩ: “chị chồng chất cả núi chi tiết và quả núi đó đã che lấp mặt trời”,
“phải hi sinh các chi tiết vì cái toàn thể”. Từ năm còn rất trẻ tuổi, Chekhov đã tin
rằng “trong các truyện ngắn thì nói lửng hay hơn là nói đi nói lại…”(Thư 1888).
Khi viết “Câu chuyện tẻ nhạt” Chekhov phải luyện cách truyền đạt thoải mái
tư tưởng trong hình thức tự sự. Ông nhắc nhở ta chớ đồng nhất nhà văn và nhân vật:
Nếu người ta đưa cà phê ra thì đừng cố tìm bia trong đó. Nếu tôi đưa tới cho các bạn
các tư tưởng của vị giáo sư thì hãy tin tôi và đừng tìm trong đó các tư tưởng của
Chekhov. Muốn tăng hiệu quả nghệ thuật của “hình thức tự sự” ngắn, thì Chekhov
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 53
phải cải tiến từng yếu tố tự sự và cách kết hợp giữa chúng. Ranh giới giữa ba yếu tố
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
tự sự là kể lại, mô tả và phán đoán gần như khá nhạt nhoà trong truyện ngắn
Chekhov. Kể xen với tả, phán đoán nhiều khi được tiềm ẩn dưới bức tranh phong
cảnh hoặc chân dung. Tất cả phải ngắn gọn. Mô tả giữ vai trò quan trọng trong nghệ
thuật tự sự, tạo hiệu quả sự có mặt, tăng ảo giác như thật, nâng tính biểu cảm.
Chekhov bộc bạch cách viết của ông: vì ông biết cách viết chỉ dựa theo hồi ức và
không bao giờ viết từ mẫu tự nhiên trực tiếp. Chekhov còn nói phải làm thế nào để
ký ức của ông lọc cốt truyện, cũng như trong máy lọc, trong ký ức của ông chỉ còn
đọng lại cái quan trọng hoặc điển hình. Nhưng nhà nghiên cứu Xô viết Truđacôp
nhận xét ngược hẳn với điều nhà văn vừa nói. Theo Truđacôp, thì Chekhov đã tiếp
nối truyền thống không xây dựng các điển hình của Puskin và L.Tônxtôi, nên nhân
vật của Chekhov về nguyên tắc không có tính điển hình, Chekhov chú trọng cái cá
nhân, ngẫu nhiên. Truđacôp coi truyện ngắn “Người trong bao” có xây dựng tính
điển hình là không tiêu biểu cho thi pháp Chekhov. Theo chúng tôi Chekhov đã
sáng tạo nhiều điển hình bất hủ trong những truyện ngắn bao quát cả một đời người
(Vận xấu, Người đàn bà phù phiếm, Iônưts, Câu chuyện tẻ nhạt, Người trong bao,
Khóm phúc bồn tử, Tu sĩ vận đồ đen, Phòng số 6). Có nhiều truyện chỉ tả một
khoảnh khắc, một quãng đời nhưng đã phát hiện ra tính cách điển hình của nhân vật:
sự vô cảm trước sắc đẹp và tình yêu của anh viên chức trẻ (Vêrơsca) sự xa lầy quá
sớm vào lối sống tầm thường và sự bừng ngộ của chàng trai 26 tuổi (Thầy giáo dậy
văn).
Truđacôp cũng đối lập hoàn toàn với Chekhov khi nói về cái ngẫu nhiên.
Theo Truđacôp, trong truyện Chekhov cái ngẫu nhiên tồn tại bên cạnh cái chủ yếu,
đi cùng với nó như một cái độc lập, ngang hàng nhau. Cái ngẫu nhiên là bộ phận
không tách rời trong bức tranh thế giới của Chekhov, cái ngẫu nhiên là cơ sở của
nguyên tắc kết cấu, xây dựng cốt truyện, đó là nguyên tắc ngẫu nhiên của miêu tả.
Truđacôp coi ngẫu nhiên là dấu hiệu đặc trưng của thi pháp Chekhov, những đặc
điểm cơ bản trong tác phẩm tự sự của Chekhov là sự mô tả thế giới xung quanh
thông qua ý thức tiếp nhận cụ thể. Đặc điểm này trực tiếp gắn với nguyên tắc ngẫu
nhiên của hệ thống nghệ thuật Chekhov.
Nhưng nhân vật của Chekhov nghĩ khác. Viên dự thẩm trẻ tuổi về làng quê
điều tra một vụ tự tử và suy nghĩ: “trong cuộc đời này, ngay ở nơi xa xôi, hiu quạnh
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 54
này, không có gì là tình cờ cả, tất cả đều có chung một ý nghĩa, tất cả đều có chung
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
một mục tiêu thế giới bên trong và để hiểu được điều đó, chỉ suy nghĩ, luận bàn thôi
không đủ, mà chắc là cần phải có biệt tài đi sâu vào nhận biết cuộc sống mà không
phải ai cũng có” (Một chuyến công vụ 1898). Và cả “con bệnh thần kinh” bất hạnh
tự hại mình như Xtarsencô đã gọi, cả ông mõ già suốt đời, đi khắp mọi nơi đều sẽ là
những sự tình cờ, những mảnh xé rời của cuộc sống đối với ai coi sự tồn tại của
mình là tình cờ, nhưng lại sẽ là những bộ phận hợp thành của một cơ cấu diệu kỳ,
hợp lý đối với những ai coi cuộc đời mình là một bộ phận của cái toàn thể và hiểu rõ
điều đó. Như vậy, suy nghĩ của nhân vật trong truyện ngắn này rất gần với quan
điểm của chính Chekhov: “Nói chung hành vi của các nhân vật của Anh thường
thiếu lô gích, ấy vậy mà trong nghệ thuật cũng như trong cuộc sống chẳng có gì tình
cờ cả” (Thư gửi B.A.Xađôpxki, 1904).
Chekhov hiểu rất rõ sự gần gũi và ảnh hưởng qua lại thật tốt đẹp giữa văn
học và khoa học: ông không nghi ngờ gì, vì công việc của y học đã có ảnh hưởng
đáng kể tới hoạt động văn học của ông; và các công việc đó đã mở rộng đáng kể lĩnh
vực quan sát của ông, làm cho vốn kiến thức của ông phong phú, giá trị của các kiến
thức đó đối với ông ra sao, điều đó chỉ có chính bác sĩ mới có thể hiểu hết được; các
công việc đó cũng có ảnh hưởng định hướng của ông, và có lẽ nhờ gần gũi y học mà
ông đã tránh được nhiều sai lầm. Sự tiếp cận và làm quen với các khoa học tự nhiên,
với phương pháp khoa học luôn luôn giúp cho Chekhov cảnh giác và cố gắng ở chỗ
nào có thể, lưu tâm tới các dữ liệu khoa học, còn ở chỗ nào không thể thì thà hoàn
toàn không viết gì cả còn hơn. Có một điều cần lưu ý rằng: điều kiện của sáng tạo
nghệ thuật không phải bao giờ cũng phù hợp hoàn toàn với những dữ liệu khoa học.
Không thể miêu tả trên sân khấu cái chết vì thuốc độc như nó xẩy ra trên thực tế.
Nhưng ta vẫn phải cảm thấy sự phù hợp với các dữ liệu khoa học ngay trong tính
ước lệ đó, nghĩa là cần phải làm thế nào để bạn đọc hoặc khán giả hiểu rõ rằng đây
chỉ là ước lệ và họ đang tiếp xúc với một nhà văn hiểu biết. Chekhov còn cho rằng
mình không thuộc vào số các nhà văn phủ nhận khoa học, nhưng ông cũng không
muốn thuộc vào số người dùng lý trí của mình để thâm nhập tất cả. Như vậy, nhà
văn phải thật khéo vận dụng, kết hợp cả phương pháp khoa học và cách sử dụng ước
lệ, cả lý trí và linh cảm vào trong sáng tác của mình.
Giới y học, thầy thuốc, bệnh viện, bệnh tật là đối tượng quan trọng trong thế
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 55
giới nghệ thuật của Chekhov. Ông miêu tả một cách tài tình diễn biến nhiều căn
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
bệnh phức tạp như: tâm thần phân liệt (Phòng số 6, Người tu sĩ vận đồ đen). Có
nhiều bác sĩ là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn (Người đàn bà phù phiếm, Hai
kẻ thù, Phòng số 6, Iônưts…). Chekhov luôn xác định rất chính xác tuổi của các
nhân vật, đó còn là cơ sở giúp bạn đọc hình dung ra tâm sinh lý nhân vật. Cách viết
ngắn gọn của Chekhov chắc hẳn cũng gắn với phương pháp khoa học của ông.
Trong truyện ngắn của Chekhov không có cuộc sống cô đọng, căng thẳng,
gấp gáp, mà tất cả đều bàng bạc, rời rạc, chậm rãi, có cả những chi tiết thừa và tình
cờ. M.Gorki nhận thấy: không ai có thể hiểu được một cách rõ ràng và tinh tế bằng
Chekhov, cái chất bi kịch của những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống đời thường,
trước Chekhov chưa có ai vẽ ra được bức tranh một cách chính xác đến tàn nhẫn
như vậy, cái cảnh sống nhục nhã đáng buồn của đời họ trong cõi tối tăm của cuộc
sống trưởng giả hàng ngày.
Chekhov chủ trương “cốt truyện càng đơn giản càng tốt”. Chekhov không
nhấn mạnh các biến cố ngay ở những truyện có biến cố lớn, gay cấn, cũng không
dùng giọng điệu gay gắt và đậm màu sắc để gây ấn tượng (Hai kẻ thù, Phòng số 6,
Trong khe núi). Chekhov không chú trọng vào xung đột bên ngoài của câu chuyện
mà ông dầy công xây dựng xung đột ngầm bên trong bằng cách tăng ý nghĩa tượng
trưng của từng chi tiết, tạo dòng chảy ngầm, mạch ngầm văn bản, chất trữ tình của
văn tự sự.
Hầu như phần mở đầu câu chuyện của Chekhov thường đi thẳng vào công
việc, nêu thời gian, địa điểm. Chekhov sử dụng những câu cực ngắn: “Đêm đã
khuya” (Buồn ngủ), “Bữa tiệc kết thúc” (Vở kịch vui), “Lúc ấy đã nhọ mặt người”
(Nỗi nhớ). Chekhov muốn tập trung tạo cho bạn đọc ấn tượng về toàn truyện, ông đã
làm được điều đó nên rất hay nhắc lại dù là thoáng qua. Cũng có những kết thúc nói
lên sự bế tắc, thúc đẩy nhân vật tìm một cuộc sống khác: “Bỏ nhà mà đi rồi treo cổ
lên cành dương nào cho xong!” (Vé trúng số), “Không, không thể sống như thế mãi
được” (Người trong bao), “Phải trốn khỏi nơi đây, trốn ngay hôm nay nếu không tôi
sẽ phát điên lên mất” (Thầy giáo dạy văn). Bên cạnh đó, còn có những kết thúc gợi
lên niềm hy vọng về một cuộc sống mới: “Cuộc sống ấy rồi sẽ ra sao?” (Thảo
nguyên), “Có cảm giác rằng chỉ một lát nữa thôi, không cần nhiều lắm, là lối thoát
sẽ được tìm ra và lúc ấy, một cuộc đời hoàn toàn mới, thật đẹp đẽ sẽ đến, nhưng cả
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 56
hai người đều thấy rõ rằng, còn xa lắm xa lắm mới đến ngày kết cục và những gì
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
rắc rối nhất, khó khăn nhất chỉ vừa mới bắt đầu” (Người đàn bà có con chó nhỏ).
Đây còn là một kết thúc mở, rất tiêu biểu cho truyện ngắn của Chekhov. Cuộc đời
còn dài và đòi hỏi rất nhiều nghị lực và ý chí vươn lên của con người, cho nên ông
rất chú ý đến nhạc điệu của phần kết.
Miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Chekhov chiếm vị trí quan trọng và
nghệ thuật tả người của ông cũng rất độc đáo. Trong tâm lý cũng có những tiểu tiết.
Chekhov muốn tránh khỏi cái lối nói chung chung. Hơn hết là tránh không miêu tả
tâm trạng các nhân vật, mà cần phải làm sao để tâm trạng đó được hiểu qua hành
động của các nhân vật. Chekhov không trực tiếp miêu tả tâm lý nhân vật như
Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi. Nhưng ông rất quan tâm đến việc thể hiện tâm lý nhân vật
theo cách riêng của mình, qua những hành động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và
qua cả chân dung của nhân vật. Ông rất chú trọng xây dựng chân dung nhân vật và
thường không vẽ cùng một lúc. Vì chân dung giúp người đọc hình dung rõ nhân vật,
nắm bắt tâm lý sắc sảo của nhân vật.
Chekhov được mệnh danh là họa sĩ vẽ phong cảnh rất giỏi và độc đáo thông
qua tác phẩm của ông. Nó không rộng lớn như phong cảnh của Turghênhep,
L.Tônxtôi, mà phong cảnh của Chekhov được vẽ ra bằng vài chi tiết rất sắc sảo và
đậm nét. Ông không theo một khuôn sáo và mong muốn rằng sau khi đọc, bạn đọc
nhắm mắt lại vẫn hình dung được phong cảnh đó. Phương châm của ông là: Tả thiên
nhiên phải sinh động, đúng chỗ, ngắn”, “Vẻ đẹp và tính biểu cảm trong tả thiên
nhiên đạt được nhờ sự giản dị.
Phong cảnh trong truyện Chekhov thường được cảm nhận qua tâm trạng nhân
vật và thể hiện cái nhìn của người kể chuyện. Đó là một phong cảnh rất có hồn. Tuy
nhiên, cũng có phong cảnh chỉ dùng để tạo dựng không khí chân thực và cả phong
cảnh thư giãn. Đôi khi phải cho bạn đọc nghỉ có cái gì đó vui nhộn, như một khởi
đầu mới, cho những nhân vật mới.
Ngòi bút Chekhov luôn hưóng về tương lai và có sức thức tỉnh, dự báo rất
lớn. Trong những tác phẩm của ông đã đạt đến tiêu chuẩn thật lí tưởng của truyện
ngắn, với hình thức kết cấu truyện thật ngắn gọn và giản dị, những ẩn chứa nội dung
rất phong phú và đa dạng. Phần lớn những câu chuyện của Chekhov luôn có nội
dung u buồn và ảm đạm, rất giống với vẻ bên ngoài của ông, nhưng thực chất bên
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 57
trong tâm hồn của ông là một con người thẳn thắng, chính trực.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
3.3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRUYỆN
Với 24 năm lao động cần mẫn, Chekhov đã để lại một kho tàng văn học rất
phong phú, độc đáo, lột tả sâu sắc chân thực cuộc sống, tư tưởng tình cảm nhân dân
Nga. Với bút pháp chủ nghĩ hiện thực phê phán, đã phơi bày hết tất cả cho mọi
người thấy được sự khủng khiếp của cuộc sống đầy bất hạnh, nhỏ nhen đến trì trệ.
Chekhov muốn thức tỉnh lòng người đọc, phải có khát vọng về sự thay đổi lớn lao
cần phải có.
Có thể nói Chekhov là bậc thầy của thể loại truyện ngắn, đây là thể loại
tưởng chừng như đơn giản những nó đã làm nản lòng không ít nhà văn. Nhưng ở
đây, Chekhov lại sở hữu một khối lượng truyện ngắn đồ sộ và đặc sắc. Dưới ngòi
bút của mình, Chekhov đã nâng thể loại truyện ngắn lến đến mức hoàn thiện nhất,
mở ra một lối đi với cách viết độc đáo và sáng tạo. Những tác phẩm truyện ngắn của
ông, là những mảnh vỡ được góp lại thành một bức tranh nghệ thuật lớn, dựng lên
toàn xã hội Nga ở nhưng năm cuối thế kỉ XIX.
Trong truyện ngắn của ông luôn luôn chứa đựng tình yêu và sự thấu hiểu thế
giới thực tại. Từ Olga Ivanovna và Dưmov trong "Người đàn bà phù phiếm" đến bác
sĩ Kirilốp và Abôghin trong "Hai kẻ thù" đều được Chekhov nhìn bằng con mắt
nhân hậu, thương cảm. Ông không cho mình cái quyền được phán xét và lên án một
ai, mỗi một nhân vật mà ông dựng lên là một tính cách, một hoàn cảnh, một số
phận. Ông nhìn con người như bậc trên nhìn kẻ dưới, đầy độ lượng, bao dung. Ông
không xét về tình yêu ở khía cạnh của sự chung thủy mà phải yêu như thế nào cho
xứng đáng, do đó ông không lên án Olgo Ivanovna "Người đàn bà phù phiếm" như
lẽ thường. Điềm đạm, ít nói và hiểu cặn kẽ tâm lý con người là những tính cách dễ
nhận thấy nhất ở ông được thể hiện rõ trong truyện "Những kẻ thù", ông nói rộng ra
thì lời nói dù có hoa mỹ và đầy ý nghĩa đến đâu cũng chỉ tác động đến những người
dửng dưng ngoài cuộc mà không bao giờ tác động đến được những người có hạnh
phúc hoặc không có hạnh phúc. Vì thế mà biểu hiện cao nhất của niềm hạnh phúc
hay nỗi đau thường là sự im lặng, và điếu văn thống thiết, lâm lý đọc bên một người
chết chỉ làm xúc động những người không thân thích, còn đối với bà quả phụ và
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 58
những đứa con của người chết thì lời điếu ấy thật lạnh lùng và vô nghĩa.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Cái đặc biệt và cũng là sự độc đáo riêng ở hầu hết các truyện ngắn của ông
chính là không có cốt truyện, nhưng tinh thần mà ông đem lại cho người đọc lại rất
lớn. Các truyện ngắn của ông được ví như những "lát cắt tươi rói" trong cuộc sống,
hay nói cách khác, ông đã mang những mảnh sống ngoài xã hội đem vào trong
truyện của mình. Như truyện "Anh béo anh gầy", "Mặt nạ", "Con kỳ nhông", "Cây
phúc bồn tử". Ở những mảng này, ông đã khiến cho người đọc cảm thấy tất cả sự
khủng khiếp của cuộc sống trì trệ, tù túng, nhỏ nhoi của những con người bị chằng
buộc, níu kéo, đến là thảm thương.
Đặc biệt ở Chekhov là sự chân thật, ông sống thế nào thì viết thế đấy, không
cầu kỳ, không hoa mỹ, không ồn ào và giả dối. Trong cuộc đời cầm bút của mình,
Chekhov đã tìm thấy những điều mà ông cho rằng quý giá hơn, đó là giữa cái chết,
tình yêu và sự sống trong tâm hồn mỗi con người. Từ đó Chekhov làm thức dậy
trong tâm trí người đọc khát vọng về sự đổi thay, khát vọng về thế giới đẹp đẽ. Và
đó cũng chính là niềm tin tưởng của ông trên con đường tìm kiếm, niềm tin đã biến
những truyện ngắn của ông trở nên bất tử.
Sáng tác của Chekhov đã vươn tới những giá trị nhân đạo cao cả và trở thành
di sản quý báu trong nền văn hóa nhân loại. Các tác phẩm của ông gợi lên lòng phản
kháng đầy căm hờn đối với xã hội Nga đương thời, thức tỉnh tư tưởng xã hội, nêu
lên khát vọng của một bộ phận tiên tiến trong xã hội Nga trước cách mạng, niềm dự
báo về tương lai sẽ xóa bỏ cuộc sống cũ, mở đường cho cuộc sống mới đi lên. Cảm
hứng lạc quan cách mạng trong tác phẩm Chekhov đã chuẩn bị cho bước chuyển
hướng mạnh mẽ qua nền văn học vô sản tràn ngập sức sống mãnh liệt.
Các sáng tác của Chekhov có một sức hấp dẫn kỳ lạ và không thể đọc chúng
một cách vội vàng, mà phải đọc chậm, ngâm nghê, chúng sẽ thấm dần vào trái tim,
khối óc người đọc bằng một sự thấm thía tự nhiên. Và đằng sau lối diễn tả từ tốn,
đằng sau những câu chuyện tưởng như “không có chuyện” mà Chekhov kể cho
chúng ta nghe biết bao những vấn đề lớn lao, sâu sắc.
Chekhov thấu hiểu được chất bi kịch của những câu chuyện vụn vặt trong
cuộc sống đời thường và từ đó dựng lên bức tranh xã hội mang tính quy luật đầy sức
thuyết phục. Vì thế, truyện ngắn của Chekhov mang tính ấn tượng và tượng trưng
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 59
xuất phát từ hiện thục cuộc sống.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Chi tiêt “lạ hoá” trong “Người đàn bà có con chó nhỏ”, khi con chó bỗng
nhiên gầm gừ trước mặt, Gurốp doạ nó, Anna nói: “Nó không cắn đâu” . Thế là
cuộc làm quen thật tự nhiên được bắt đầu, từ đó họ yêu nhau và tình yêu đã thức
tỉnh họ.
Tính tượng trưng trong truyện ngắn Chekhov thể hiện trong mối quan hệ giữa
tinh thần và vật chất. Tính tượng trưng là tính tinh thần trong vật chất nâng lên
thành biểu tượng và nó như một cái gì thần bí rất thiêng liêng mang tính bản thể.
Chekhov chọn những hình ảnh bình dị vốn không có ý nghĩa biểu trưng mà lại cố
cho nó có ý nghĩa tinh thần. Trong truyện “Người đàn bà có con chó nhỏ”, hình ảnh
bức rào sắc nhọn màu xám ở trước cổng nhà Anna là cái vật chất, còn hình ảnh
Gurốp điềm nhiên ăn dưa hấu là cái tinh thần thể hiện sự cản trở ngăn cách Gurốp
đến với Anna.
Hình ảnh chiếc cầu thang, hình ảnh con tàu, sân ga…, đều là những chi tiết
mang tính biểu tưởng phản ánh sự bức bối của cuộc sống, sự cản trở, ngăn cách tình
yêu và hạnh phúc của Anna và Gurốp. Màu xám của hàng rào, phía cửa sổ tối sẫm
của căn phòng Gurốp thuê, tấm chăn xám…, gợi không khí ảm đạm, tẻ nhạt của
cuộc sống.
Để miêu tả một cách chính xác và sinh động tính chất nhiều màu sắc của đời
sống hằng ngày, Chekhov đã sử dụng rất nhiều tình huống và các chi tiết nhỏ, vụn
vật. Từ đó cho thấy Chekhov là người rất nguyên tắc trong việc lựa chọn các chi
tiết. Xuất phát từ quan niệm cuộc sống để đi vào trong các sáng tác của ông, dù một
chi tiết rất nhỏ cũng mang ý nghĩa nhất định nào đó phục vụ cho sự phát triển của
chủ đề và tư tưởng tác phẩm.
Hiện thực mà Sekhov tái hiện trong tác phẩm “Người đàn bà có con chó nhỏ”
chính là thể hiện tính tự sự. Người kể chuyện kể bằng giọng điềm tĩnh dẫn dắt người
đọc thấu hiểu những sự tẻ nhạt bức bối của cuộc sống mà các nhân vật trải qua,
đồng thời bằng giọng trữ tình, những câu văn giàu nhạc tính nhà văn cho người đọc
thấy khát vọng thay đổi cuộc sống điệu của các nhân vật : “Họ ngồi yên lặng trên
ghế đá (…) Lùm cây yên lặng không xào xạc, chỉ còn tiếng ve kêu ra rả, và tiếng
sóng biển rì rào đơn điệu (….) Âm thanh ấy có từ khi chưa có Ianta, chưa có
Ôrêanđa, giờ đây vẫn tiếp tụcvọng lên rì rào một cách khô khan lãnh đạm như
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 60
thế..”.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Sự vận dụng tối đa trường liên tưởng của người đọc để câu chuyện có cảm
giác chưa kết thúc. Điều đó liên quan đến kết thúc mở của câu chuyện. Kết cấu mở
là một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo tính đa nghĩa cho tác phẩm, khiến nó
vừa là chỉnh thể nghệ thuật, một cơ thể sống toàn vẹn, vừa là một phần của dòng đời
luôn tiếp diễn, không có bắt đầu và không kết thúc. Chính vì vậy sự mở thật đa dạng
trong truyện ngắn Chekhov. Truyện ngắn “Người dàn bà có con chó nhỏ” kết thúc
khi Gurốp và Anna ở bên nhau nhưng họ đều có cảm nhận rằng “xa lắm mới đến
ngày kết cục, và những gì rắc rối nhất, khó khăn nhất mới chỉ vừa mới bắt đầu.”
Thực tế cuộc sống không bao giờ rõ ràng, rành mạch, triệt để trong tất cả mọi
chuyện, nhất là trong tình yêu. Một kết thúc mở, kết mà không hết chuyện luôn là sự
khôn ngoan của nhà văn, muốn người đọc tự có kết thúc theo cảm nhận của họ. Như
thế sẽ đưa độc giả vào quá trình đồng sáng tạo, độc giả sẽ tự viết tiếp cho mình
những trang cuối cùng theo sự trải nghiệm tình cảm của họ. Người lãng mạn sẽ để
tình yêu ấy sống mãi, vượt qua mọi rào cản, định kiến, ràng buộc; người thực tế và
nguyên tắc sẽ không thể chấp nhận tình yêu ngoài vợ ngoài chồng; còn người thông
minh thì sẽ kết thúc như cách tác giả đã làm, một lối kết thúc vừa gợi trí tò mò, vừa
gợi trí tưởng tượng mang trong mình khả năng mở ra trăm ngàn kết thúc khác nhau.
3.4. NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
Theo M. Gorki, có thể xem Chekhov là bậc thầy về ngôn ngữ, về phong cách.
Chekhov là một nhà văn mà không ai vượt nổi, và những nhà văn học lịch sử đời
sau khi nhắc đến sự phát triển của tiếng Nga, thì họ sẽ nói rằng ngôn ngữ này do
Puskin, Turghenhen và Chekhov sáng tạo và xây dựng nên. Có lần Chekhov nói:
văn học càng cao thì ngôn ngữ càng phong phú, ngôn ngữ phải giản dị và đẹp, có
tính họ hàng bền chặt giữa các câu thơ Nga đậm đà và văn xuôi đẹp. Chekhov đã
dành nhiều thời gian và công sức để trao đổi ngôn ngữ của mình phải làm sao trước
khi nằm trên giấy, thì mỗi câu đã nằm trong óc mình hai ngày, phải lo cho câu văn,
vì đó là nghệ thuật.
Cũng như trong truyện ngắn “Quân ăn hại”, Chekhov đã sử dụng những chi
tiết hội tụ và giọng điệu lạnh lùng, mắng chửi của ông lão đối với hai con vật. Từ
đầu đến cuối tác phẩm, người đọc chỉ chứng kiến những tiếng gắt gỏng, chửi mắng,
đuổi đi, nhưng xen lẫn với sự đồng cảm của lão Zotop đối với hai con vật tiều tụy.
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 61
Những băn khoăn, lo lắng cho chúng chưa đủ sức thuyết phục để nói lên sự gắn bó,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
không thể thiếu của cả ba thân thể già nua, cần cổi. Thế những chỉ với chi tiết ở cuối
tác phẩm: “Đang khi choáng váng vì quẩn trí và say rượu, lão trông thấy xác hai
con vật nằm sóng soài ra đấy, liền đến bên cái khung giết thịt, giơ đầu cho Ignat
đạp nốt” [5, tr.65], điều đó đã nói lên được rằng, cả ba cái mạng ấy già sắp chết đến
nơi rồi nhưng hóa ra, không thể sống thiếu nhau, gắn bó với nhau biết dường nào,
sống trong cuộc sống chẳng bao giờ đủ no, vui vẻ mà đầy những buồn tủi giận hờn.
Trong sự lạnh lẽo buồn thảm của cuộc sống, thì điều đó vẫn là cái đẹp, ấm áp tình,
nâng đỡ và sưởi ấm nhau nhất. Từ chi tiết kết thúc câu chuyện, đã gieo vào lòng
người đọc cảm giác buồn sâu lắng, cùng sự cảm thông, xót thương cho những kiếp
người sống vất vả lụi tàn.
Trong thư gởi M. Gorki, Chekhov đã nói: Khi đọc bản in thử, hãy gạch bỏ đi
những từ ngữ bổ nghĩa cho danh từ và động từ. Nếu có nhiều từ ngữ như thế, đến
nỗi đầu óc của người đọc thấy có nhiệm vụ phải tập trung vào chúng, rồi ta chẳng
mấy chốc sẽ trở nên mệt mỏi. M. Gorki có thể hiểu ngay, khi Chekhov nói “người
đàn ông ngồi trên cỏ”, vì điều đó rõ ràng và không đòi hỏi phải tập trung chú ý. Trái
lại, sẽ không dễ hiểu và thách đố đầu óc nếu như Chekhov viết, “Một người đàn ông
tầm vóc trung bình, ngực lép cao, có bộ râu đỏ, ngồi trên cỏ xanh, nhưng bị người
đi bộ ngang khinh bỉ, ngồi lặng im, rụt rè và nhút nhát nhìn về phía hắn”, viết như
thế thì tư duy chẳng thế nào nắm bắt được ngay lập tức trong khi đó, cách viết giỏi
sẽ được nắm bắt ngay trong khoảng khắc.
Chekhov đã nâng thể loại truyện ngắn lên tới tầm cao mới trong nền văn học
Nga và văn học thế giới. Với cái nhìn trầm tỉnh, trung thực về nhân vật, Chekhov
thể hiện nội tâm và cảm nghĩ của họ một cách gián tiếp qua ẩn dụ. Ngôn ngữ trong
truyện cũng rất tinh tế, nâng tiếng Nga lên tầm hiện đại và làm giàu rất nhiều cho
loại ngôn ngữ này. Ngôn ngữ trau chuốt, lạng lùng xen lẫn sự đồng cảm, chia sẻ,
giọng trữ tình đầy chất thơ xen lẫn hài hước. Xuất hiện trong khắp truyện là một tâm
sự âm thầm, ước mơ trong khắc khoải, một khát vọng lai chuyển cuộc sống. Thái độ
tình cảm của Chekhov bộc lộ một cách kín đáo, đôi khi không bộc lộ lên bằng âm
thanh, từ ngữ, mà chỉ thấy toàn bộ những gì làm nên tác phẩm. Khi đọc truyện ngắn
Chekhov, chúng ta thấy phảng phất đâu đây nụ cười buồn buồn của một tâm hồn
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 62
biết yêu thương, tiếng thở dài khẽ mà sâu của một trái tim trong sạch.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
3.5. GIỌNG ĐIỆU
3.5.1. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu trần thuật là một nội dung trong lý thuyết về tự sự nói
chung. Giọng điệu trần thuật liên quan tới vấn đề kết cấu văn bản ngôn từ. Kết cấu
văn bản cùng với kết cấu hình tượng làm cho việc kể chuyện phải đạt được yêu cầu
tạo hình và biểu hiện, để có khả năng tái hiện bức tranh đời sống và thể hiện tư
tưởng, tình cảm của tác giả một cách tối đa. Trong tác phẩm tự sự, các sự kiện (các
cuộc gặp gỡ, hành động, biến cố có khả năng làm cho nhân vật hành động và biến
đổi về suy nghĩ, cảm xúc, nhận thức, thậm chí cả số phận) như những thành phần cơ
bản của cốt truyện, thay thế lẫn nhau một cách năng động, thể hiện dòng chảy của
đời sống hiện thực, góp phần làm cho cốt truyện phát triển. Có thể gọi, các sự kiện
là thành phần mang tính chất động trong cốt truyện. Sự kế tiếp của chúng làm cho
câu chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Trần thuật cốt truyện không chỉ dừng lại ở những sự kiện, mà còn chú ý tới
các thành phần khác, mang tính chất tĩnh tại như các đoạn giới thiệu tiểu sử nhân
vật, miêu tả chân dung, ngoại cảnh (đồ vật, môi trường, thiên nhiên), tái hiện tâm
trạng, các đoạn đối thoại, độc thoại, bình luận trực tiếp của tác giả, các đoạn trữ tình
ngoại đề, các câu chuyện được kể xen vào nhau.
Dù là những thành phần tĩnh tại, nhưng như R. Barthes đã khẳng định, trong
cấu trúc truyện kể, không có yếu tố thừa, cho dù sợi chỉ xâu chuỗi đơn vị cốt truyện
với các đơn vị khác có thể rất dài và mong manh. Mỗi yếu tố trong tác phẩm đều
mang tính chức năng khác nhau và đều có ý nghĩa. G. N. Pôxpêlốp cho rằng: các
mối liên hệ bên trong của câu chuyện với các thành phần tĩnh tại như vậy, có ý
nghĩa quan trọng hơn so với mối liên hệ thời gian hoặc nhân quả của cốt truyện.
Với sự mở rộng các thành phần tĩnh tại, tác phẩm tự sự có điều kiện trình bày
một cách trọn vẹn, đầy đặn về bức tranh đời sống cũng như sự cảm nhận của con
người về nó, bởi vì các đơn vị thông tin ấy đã góp phần tạo ra ảo giác về tính chân
thực của những điều đang diễn ra, làm tăng chất hiện thực cho câu chuyện. Các
thành phần tĩnh tại giúp tạo nên không khí, màu sắc, nhịp điệu, ấn tượng, cách đánh
giá và cảm thụ về thế giới, làm nên nét độc đáo về giá trị thẩm mỹ của nội dung đời
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 63
sống được thể hiện trong tác phẩm. Về cơ bản, giọng điệu trần thuật trong tiểu
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
thuyết là nhịp điệu chậm, nó thể hiện một kiểu soi ngắm cuộc sống một cách trầm
tĩnh, trang trọng, khoan thai trước tính nhiều mặt rộng lớn đối với thế giới. Giọng
điệu trần thuật trong truyện ngắn thường có tốc độ nhanh, đột ngột đẩy đến cao trào
và kết thúc. Truyện ngắn “Thảo nguyên” là một thiên truyện ngắn đặc sắc của
Chekhov. Tuy nó được vào loại truyện ngắn, nhưng dung lượng của nó khá dài: có
trên 110 trang trong tuyển tập (Truyện ngắn Chekhov, Phan Hồng Giang và Cao
Xuân Hạo dịch, Nxb văn học, Hà Nội, 1978). Truyện kể về một thằng bé lên chín
tuổi, đi theo một đoàn xe ngựa chở lông cừu, từ một thị trấn nhỏ lên tỉnh học trường
trung học. Con đường ra tỉnh xuyên qua một thảo nguyên rộng lớn. Hình ảnh thảo
nguyên cằn cỗi, chán chường chính là hình ảnh của một nước Nga lạc hậu, cũ kỹ,
buồn tẻ và ngột ngạt không thể sống nổi. Cuộc sống ấy rồi sẽ ra sao? Đó chính là
câu hỏi băn khoăn, day dứt đặt ra cuối câu chuyện không chỉ cho cậu bé mà còn cho
cả nước Nga lúc bấy giờ. Giọng điệu trần thuật của câu chuyện cũng góp phần vào
làm sáng rõ hình tượng và tư tưởng ấy. Giọng điệu trần thuật chậm tối đa do sự gia
tăng của các thành phần tĩnh tại. Thời gian diễn biến chính của câu chuyện là bốn
ngày. Sáng ngày thứ năm, thằng bé đã chia tay với người thân để ở lại tỉnh học. Câu
chuyện được chia thành tám phần, mỗi phần tương ứng với một vài điểm dừng (khe
núi, quán trọ, đống lửa trên thảo nguyên…) và một vài sự kiện nhỏ: chuyển xe, cơn
giông, gặp bá tước phu nhân, sự thoắt ẩn thoắt hiện của người lái buôn Varlamốp.
Tám phần đó có thể được coi như tám trường đoạn nhịp thời gian trần thuật cơ bản,
mỗi phần đều thể hiện những yếu tố của giọng điệu trần thuật như xen kẽ các thành
phần động tĩnh, tốc độ trần thuật, những trọng âm, điểm nhấn, điểm dừng và sự lặp
lại như những chủ âm cảm xúc.
Mục đích cuối cùng của giọng điệu trần thuật là để nhằm biểu hiện giọng
điệu cuộc sống. Giong điệu đều đều, chậm rãi như vậy tương ứng với cảm giác của
con người về một không gian – thời gian thực tế: cuộc sống mòn mỏi, chậm chạp, trì
trệ, lạc hậu, nghèo nàn, xơ xác, phù hợp với một không gian – thời gian ngưng đọng
như hoá đá của nước Nga xưa cũ cuối thế kỷ 19.
3.5.2. Giọng điệu kể chuyện
Đến với chuyện Thảo nguyên thì giọng điệu kể chuyện được kể rất chậm so
với thời gian thực tế. Các sự kiện, như những thành phần động của tác phẩm được
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 64
coi như những trọng âm, hoặc điểm nhấn của một trường đoạn, xảy ra kế tiếp với
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
những khoảng cách khá xa trong tương quan với thời gian trần thuật. Truyện chỉ có
một sự kiện lớn duy nhất, bao trùm tác phẩm là sự kiện thằng bé đi từ quê lên tỉnh,
tương ứng với một sự kiện chính duy nhất trong cấu trúc truyện ngắn. Sau nhiều gặp
gỡ, chứng kiến và cảm xúc, thằng bé đã thay đổi ở đoạn kết truyện: lòng buồn rười
rượi, buồn lắm, Iegoruska có cảm giác… tất cả những gì nó từng sống qua, đều đã
vĩnh viễn tan biến đi như hơi khói. Như vậy, các thành phần động trong truyện chỉ
còn những sự kiện nhỏ như sau:
Sự kiện đầu tiên: trên đường đi, xe ngựa gặp những người thợ gặt, đàn chó
khổng lồ bao vây đoàn xe, một gợi mở về ngài Varlamốp: đàn cừu của ngài.
Sự kiện thứ hai: dường như không có sự kiện gì, mọi người ngủ trưa và lên
đường dưới ánh nắng nóng nực và cháy sém.
Sự kiện thứ ba: xe đến quán trọ, chuyện nhà chủ quán, mọi người lại nhắc
đến Varlamốp bí ẩn, gặp một thiếu phụ rất đẹp: bá tước phu nhân.
Các sự kiện này không đáng kể, tuy nhiên chúng cũng gây được ấn tượng và
cảm xúc cho thằng bé trong hành trình trên thảo nguyên. Sự kế tiếp của chúng theo
đúng thời gian tuyến tính như đúng dòng chảy tự nhiên của cuộc di chuyển.
Điểm làm cho mạch sự kiện cũng như giọng điệu của truyện bị chậm lại là do
người kể chuyện dừng lại rất lâu ở những thành phần tĩnh tại, mang tính giải thích,
suy luận, như những điểm dừng, điểm lặng của trường đoạn thời gian.
Trước hết là những thành phần miêu tả. Người kể chuyện tập trung vào miêu
tả cảnh thảo nguyên với các thời điểm và từng chặng đường: bình nguyên rộng
mênh mông, dãy đồi rám nắng, những cánh đồng tiểu mạch, con đường xa tít, bầu
trời chói nắng, cỏ cây sém nắng… Cảnh thảo nguyên được miêu tả chiếm đến
15/110 trang, tức khoảng hơn 14% dung lượng số trang tác phẩm. Những bức chân
dung nhân vật cũng được chú ý, từ gương mặt ông cậu, ông cha xứ, phu nhân xinh
đẹp đến vẻ mặt, dáng người những người làm thuê, chủ quán trọ… đều được khắc
hoạ khá tỉ mỉ.
Tiếp đến là những đoạn miêu tả cảm giác của thằng bé và những đoạn bình
luận trữ tình ngoại đề về nỗi cô đơn, buồn chán. Rồi đến những câu chuyện xen:
chuyện về những người lái buôn bị cắt cổ trên những chặng đường và các quán trọ,
chuyện về tình yêu và niềm hạnh phúc của anh chàng lang thang trên thảo nguyên.
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 65
Tất cả những thành phần này như những điểm dừng, làm kéo dài thời gian trần
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
thuật. Bên cạnh đó, ta còn gặp những sự kiện, chi tiết, hình ảnh, cảm xúc mang tính
lặp lại, quay vòng như những tiết tấu của giọng điệu trần thuật: Chi tiết về hành tung
bí mật của Varmalốp luôn được gợi mở, gia tăng, tạo tâm trạng chờ đợi, háo hức.
Hình ảnh thảo nguyên cằn cỗi, buồn chán lặp đi lặp lại tạo nỗi buồn thê thiết. Những
câu chuyện hoang đường, nửa hư nửa thực làm thêm màu thêm vẻ cho chuyến đi
dằng dặc vốn rất đơn điệu, nhàm chán.Chính những thành phần tĩnh tại này đã làm
cho nhịp điệu của thiên truyện đậm chất trữ tình. Tốc độ chậm của việc kể còn
tương ứng với tốc độ di chuyển trên thực tế. Đó là nhịp di chuyển của một chiếc xe
ngựa cũ nát, luôn kêu lọc xọc và rít lên ken két… Phương tiện thì cổ lỗ mà thảo
nguyên thì rộng mênh mông, sâu thẳm, vô cùng, vô tận, không biết bao giờ mới tới
nơi kết thúc. Thằng bé còn ít tuổi quá, nên nó thực sự không biết mình đi đâu và đi
để làm gì. Thêm vào đó là tiết trời nóng nực, khó chịu. Vì vậy, cảm xúc bao trùm
như một chủ âm của giọng điệu trần thuật là cảm xúc buồn bã, chán chường. Dưới
con mắt thằng bé, thảo nguyên thật buồn tẻ, đơn điệu và ngột ngạt với những cảm
giác: sự sống lịm đi, sao ngột ngạt và buồn tẻ thế, nhìn mãi cũng chỉ có thế, không
khí ngưng đọng, uể oải, bải hoải, thẫn thờ… Và đỉnh điểm của sự buồn chán ấy là
cảm giác về một thời gian và không gian đã ngưng đọng và hoá đá: thời gian kéo
dài vô tận, tựa hồ nó cũng đã đọng lại, ngừng trôi, tưởng chừng từ sáng tới giờ đã
qua một thế kỷ.
Còn những con người sống trên thảo nguyên cũng chịu một số phận tối tăm,
buồn bã. Một cuộc sống mà hiện tại luôn rất đáng buồn. Mọi tốt đẹp đều thuộc về
quá khứ. Thậm chí, mọi người còn có thái độ khinh bỉ thời hiện tại, bởi nó toàn
những điều không như ý, bởi họ đã cảm thấy cuộc đời thật buồn bã, đáng chán, do
quá nghèo khổ, nhọc nhằn, bởi không ai hiểu ai… Tiếng hát cất lên cũng ai oán như
số phận họ vậy. Anh Dothái Xôlômôn đốt hết tiền vì không biết để làm gì, Đưmốp
cãi lộn vì buồn chán, ông già Pantêlây suốt ngày rên rỉ và kể toàn các chuyện không
có thật, ông cậu luôn mồm kêu ca…
Nhưng ẩn dấu dưới nỗi buồn bao phủ toàn thiên truyện lại là một tình yêu
đắm say cuộc sống, dù là một cuộc sống, vất vả nhọc nhằn, là một tình yêu của
những trái tim nhậy cảm dù vướng bao mệt mỏi vì mưu sinh. Tình yêu đó bộc lộ qua
những tâm hồn Nga nhậy cảm, yêu thiên nhiên, yêu sự sống, khát khao hạnh phúc,
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 66
vẫn đó đây xuất hiện như những cơn gió mát lành thổi qua thảo nguyên nóng nực,
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
cằn cỗi: Anh chàng làm thuê Vaxia có cặp mắt tinh tường, có khả năng nhìn thấu và
tận hưởng vẻ đẹp của thảo nguyên dưới những dạng vẻ nhỏ nhoi nhất. Trái tim anh
ta đã bị tổn thương khiến phải ứa lệ vì một con rắn lành vô cớ bị đánh chết.
Iegoruska căm ghét những kẻ tục tằn thô lỗ. Anh chàng lang thang trên thảo nguyên
hạnh phúc vì tình yêu giản dị của mình. Người kể chuyện cảm nhận được niềm hạnh
phúc khoáng đạt khi nhìn ngắm bầu trời, chiêm ngưõng sức sống và vẻ đẹp của thảo
nguyên vào lúc sớm mai và đêm xuống… Đây chính là những nghịch âm, như
những khúc hát vui, lạc quan, tươi sáng, đệm vào bài ca thảo nguyên buồn bã, làm
điểm tựa cho mọi tâm hồn, khiến con người có thể đứng vững được trong cuộc đời
một cách cứng cỏi, dù số phận thật là bất hạnh, nhiều đớn đau. Tương tự như lời
Biêlinxki đã từng nói về nỗi buồn trong ca khúc dân ca Nga, nhưng đó là những
“nỗi buồn trong sáng”, không gì có thể bẻ gãy được.
Nhưng làm sao thoát ra khỏi cảnh sống vất vả, lầm than và đói nghèo ấy, làm
bớt đi những nỗi buồn thăm thẳm mà cả thảo nguyên rộng lớn cũng không thể lấp
đầy, đem lại hạnh phúc cho những tâm hồn Nga, những tâm hồn thật nhậy cảm,
mong manh như tâm hồn trẻ thơ, luôn mở rộng trước tạo vật và đất trời, những tâm
hồn và những con người xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Lời kết thiên truyện là
một câu hỏi để ngỏ, vút lên, tha thiết và đau đớn. Người ta vẫn nói rằng, đằng sau
các câu chuyện về đời sống thường ngày của Chekhov, bao giờ cũng chứa đựng
những suy tư lớn lao, khát vọng cháy bỏng về số phận nhân dân và tương lai đất
nước. Điều đó đã được minh chứng qua chính câu chuyện Thảo nguyên này.
3.6. CÁCH TÂN CỦA TRUYỆN NGẮN VỀ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
A. P. Chekhov bước vào làng văn học Nga, khi mà văn xuôi nghệ thuật Nga
đang trong thời kì phát triển và đạt những thành tựu kì diệu. Viết được những tiểu
thuyết mới sánh ngang và vượt trội những sáng tác của các nhà văn Nga, đó đã trở
thành kì vọng của tất cả các nhà văn đang khởi nghiệp những năm 80 thế kỉ XIX,
trong đó có Chekhov. Trong cuộc đời cầm bút của mình, ông bị hối thúc bởi hoài
bảo của bản thân, có lúc bởi bạn bè đồng nghiệp, sau một thời gian thử nghiệm
Sekhov càng nhận ra rõ sở trường của mình là những loại hình tự sự cở nhỏ và trung
bình. Về sau Chekhov rất tự hào rằng mình đã mở đường cho hình thức truyện đoản
thiên rất ngắn trong văn học Nga, loại truyện này trước Chekhov do chất lượng nghệ
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 67
thuật xoàng xĩnh còn tồn tại bên ngoài văn chương nghiêm chỉnh, trong khu vực báo
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
chí chỉ dành cho công chúng độc giả bình dân. Chekhov viết rất nhanh và nhiều, kết
hợp với y học và hành nghề thuốc nên mỗi năm in ra hàng trăm truyện cười và
truyện ngắn như: Cái chết của một viên chức, Anh béo và anh gầy, Que diêm Thụy
Điển, Phẫu thuật, Con kì nhông, Lão quản Prishibeev… Trong các thể loại ấy, văn
của Chekhov được lưu ý đặc biệt. Khi chưa có ý định trở thành nhà văn chuyên
nghiệp, với những văn phẩm chế nhạo những loại hình văn chương ăn khách, giễu
nhại phong cách tìm kiếm ấn tượng bề ngoài của nhiều cây bút cùng thời như: Hugo
và Dostoievski. Chekhov mãi mê mài dũa khiếu thẩm mĩ tinh tế của mình, luyện cho
mình một thứ miễn chống lại mọi thói thượng, mọi sự vay mượn thiếu suy nghĩ của
người khác và sự sáo mòn trong sáng tác.
Điển hình như trong truyện ngắn Hạnh phúc và Bưu xa cho thấy một hướng
quan trọng trong những tìm tòi cách tân của Chekhov được nhiều nhà văn xuôi thế
kỉ XX tiếp tục, từng bước thu giảm yếu tố cốt truyện và thấy cần thì bỏ nó hoàn
toàn. Dù giảm hay giải thể cốt truyện, thì mỗi tác giả hiện đại cũng nhằm vào mục
đích của riêng mình. Chẳng hạn như Hemingway học tập Chekhov một cách có ý
thức, sáng tác một loạt truyện ngắn không đầu không đuôi, mà trong đó các nhân vật
hoàn toàn không hành động, họ chỉ có mặt bên nhau, trao đổi những câu nó bâng
quơ, rời rạc, không tập trung vào đề tài nào. Nhưng chính lối đối thoại lệch lạc
thường xuyên ấy lại hé mở cho độc giả chiêm nghiệm với những gì đang diễn ra
trong nội tâm của họ. Truyện ngắn của Chekhov ít mô tả sự kiện, càng tạo dụng ý để
mất đi sự hấp dẫn bề ngoài, lại càng làm lại gần hơn với các đối tượng chính.
Ngòi bút của Chekhov mẩn cảm với cuộc sống, nhưng biết phân biệt rạch ròi
những biến động trên mặt nổi cuộc đời với những biến đổi thật sự. Trong thế giới
nghệ thuật của Chekhov giữa sự kiện và sự đời, thường xuyên xuất hiện những
chênh lệch giàu ý tứ. Những chênh lệch ấy được thấy bằng những phương tiện nghệ
thuật khác nhau, lúc thì trang nghiêm, lúc thì hài hước, lúc kín đáo, lúc nhấn mạnh.
Truyện ngắn Volodia (1887), một thanh niên nghèo yếm thế, có người mẹ quen lối
sống phù phiếm phô trương, bằng mọi cách cố duy trì mối quan hệ thân thiết với
người này người kia trong xã hội thượng lưu, bề ngoài họ rất mực xã giao nhưng
bên trong khinh miệt cảnh nghèo túng. Không thuyết phục được người mẹ thay đổi
cuộc sống, người thanh niên quyết định tự vẩn để cảnh tỉnh bà, những không làm
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 68
thay đổi lối sống của bà mẹ.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
Nghệ thuật trong truyện ngắn Châu Âu truyền thống, quy tụ cuộc sống con
người về những khoảnh khắc hi hữu, bằng cách lấy sự kiện che khuất cuộc đời, vắt
kiệt dòng đời bằng những sự kiện, nếu mất đi sự kiện, thì dòng chảy cuộc đời trong
nghệ thuật trở nên là cái gì đó phi phẩm chất, phi giá trị.
Ở Chekhov, cái quy mô thời gian thường hằng trong tư duy nghệ thuật của
ông. Mọi hiện tượng, mọi sự kiện trong thế giới ấy được kể lại, được mô tả trên nền
cảm thức nhạy bén về sự sống tồn với muôn vàn bình diện sáng tối, đẹp xấu, thiện
ác, sướng khổ giao thoa với nhau, vận động theo những quy luật còn bất khả thi đối
với lí trí con người. Chekhov là nhà văn đầu tiên nghĩ ra thể loại truyện ngắn mới,
căn cứ vào nhận xét con người thật tỉ mỉ như bác sĩ khám nghiệm bệnh nhân. Ông
lựa chọn trong quá trình chuyển biến của lương tri và những thời khắc có ý nghĩa
nhất của đời người, ông tiến hành nghiên cứu những thời khắc rất thận trọng.
Chekhov đã đem những thời khắc nối lại thành câu chuyện. Cũng có độc giả bất
mãn với kỉ thuật viết truyện đó của ông, họ cho rằng truyện thiếu đầu – đuôi mà chỉ
có quãng giữa.
Nhìn chung những sáng tác của Chekhov đã đạt được thành tựu kì diệu, với
cái nhìn vào cuộc sống, cũng như những biến đổi cuộc đời của nhân vật, đã giúp cho
Chekhov thành công sáng tác. Bên cạnh đó, Chekhov còn là một bác sĩ giải phẩu,
nên ông có thể nhìn thấy sâu bên trong nội tâm của nhân vật, để miêu tả nhân vật
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 69
chính xác hơn.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
PHẦN KẾT LUẬN
Chekhov là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỉ XIX, ông đã
mở ra khuynh hướng mới cho văn học hiện thực phê phán Nga. Thông qua các tác
phẩm, ông đã liệt kê và lên án những thói hư tật xấu đang tồn tại trong xã hội. Với
mục đích nhằm tố cáo chính quyền Nga hoàng và có sự đồng cảm sâu sắc với số
phận của nhân Nga. Hơn 20 năm cầm bút, Chekhov đã để lại một khối lượng truyện
ngắn thật đồ sộ, có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới.
Bằng nghệ thuật độc đáo và đặc sắc, Chekhov đã phơi bày toàn bộ hiện thực
nước Nga dưới ách chuyên chế của chế độ Nga hoàng. Qua những tác phẩm bất hủ
của ông đã cho thấy được giai cấp quý tộc độc ác, bọn thị dân phàm tục, với ngòi
bút của ông đã tái hiện lên bức tranh rộng lớn về xã hội Nga, phê phán gay gắt về
những thói sấu xa, độc ác trong thời đó.
Chekhov rất thành công trong sáng tác, ông đã xây dựng nên những nhân vật
đa dạng, phong phú và sinh động. Nhân vật vừa mang quan điểm thẩm mĩ của ông,
vừa thể hiện những vấn đề của xã hội của thời đại. Đồng thời, qua những nhân vật
của mình, Chekhov đã phần nào giải bày khát vọng vào sự thay đổi số phận con
người, trở về đúng với bản chất là con người.
Chekhov đã sử dụng nghệ thuật kết cấu, sử dụng chi tiết lời thoại và hình ảnh
của các nhân vật trong tác phẩm rất cụ thể. Đó là những bọn quan lại, giai cấp tư sản
có nhiều tiền của, nhưng lại là những con người bất lương, vô nhân đạo. Chekhov
không ngần ngại, mà là thẳng tay phanh phui mổ xẻ hết thói hư tật xấu của những kẻ
sống phàm tục, thối nô lệ luôn quỵ lụy trước uy quyền. Với cái nhìn thông cảm và
xót thương cho số phận con người, Chekhov đã viết về những cuộc đời tầm thường
cơ cực, để cùng đồng cảm sâu xa với nổi khốn khổ của con người.
Chekhov được coi là người có vai trò kết thúc và đưa lên đỉnh cao trào lưu
hiện thực vào giai đoạn cuối của nó, còn được coi là nhà hiện kiểu mới với những
cách tân trong thể loại truyện ngắn, đặc biệt là ở mảng tâm lý bên trong của nhân vật
và kiểu truyện không cốt truyện.
Bên cạnh đó, Chekhov còn tập trung vào nhiều tầng lớp công chức bình
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 70
thường, từ những con người bình thường ấy mà Chekhov chỉ ra được những con
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
người cổ máy, người quái thai…, nó chính là sản phẩm được tạo ra ở xã hội Nga
trong buổi giao thời. Bằng cái nhìn cảm thông và xót thương cho những con người
có đời sống cơ cực, những con người đáy cùng của xã hội, đồng cảm sâu sắc với số
phận của những người dân nghèo. Bằng giọng điệu bình thản của Chekhov về
những cuộc đời cơ cực, nghe rõ được tiếng đập bồi hồi và đau đớn, chứa đựng một
niềm cảm thông sâu xa với nổi khốn khổ của những kiếp nghèo. Chekhov đã dựng
lên thế giới nhân vật trong truyện ngắn một cách âm thầm, nhẹ nhàng lôi cuốn người
đọc xâm nhập vào thế giới bên trong con người, để đi tìm nguyên nhân mà các nhân
vật đã bị tha hóa.
Khi nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn của Chekhov, cũng đồng nghĩa là
tôi tiến hành khám phá ra những cái hay trong sáng tác của Chekhov, đó cũng là một
công việc rất thú vị và hấp dẫn. Hy vọng rằng, luận văn này sẽ đưa ra được một số
đặc điểm hình thành nên truyện ngắn của Chekhov. Tuy còn giới hạn, nhưng tôi cố
gắng đưa ra được cái nhìn mang tính khái quát về một vài đặc điểm có trong truyện
ngắn. Tất nhiên những vấn đề được đặt ra thì tôi chưa khai thác hết, những tôi vẫn
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 71
có mong muốn có một đóng góp nhỏ trong đề tài này.
Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bắc (2006). Truyện ngắn: Lí luận, Tác giả và tác phẩm (tập 2). Nxb
Giáo Dục.
2. Dương Thanh Bình dịch (2003). Tiểu thuyết hiện đại. Nxb Lao động. Hà Nội.
3. Phạm Vĩnh Cư (2006). Chekhov – nhà văn xuôi. Nxb Giáo Dục.
4. Phan Hồng Giang (1997). A. Chekhov chuyên luận. Nxb văn học. Hà Nội.
5. Phan Hồng Giang và Cao Xuân Hạo dịch (1978). Truyện ngắn A. Sêkhôp (tập
hai). Nxb văn học. Hà Nội.
6. Phan Hồng Giang (2001). A. P. Chekov. Nxb Hải Phòng.
7. Phan Hồng Giang và Cao Xuân Hạo dịch (2011). Truyện ngắn Chekhov. Nxb
Hội Nhà văn.
8. Nguyễn Hải Hà (2004), Cái mới trong truyện ngắn của Chekhov. Hội thảo
khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất của Chekhov.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007). Từ điển thuật ngữ văn
học. Nxb Giáo Dục.
10. Hà Thị Hòa (2007). Văn học trong nhà trường (biên soạn và tuyển dịch).
Nxb Giáo Dục.
11. Nguyễn Hiếu Lê (2001). Tchekhov. Nxb Văn nghệ TP. HCM.
12. Nguyễn Trường Lịch (2004). Người trần thuật điềm tỉnh tài hoa. Hội thảo
khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất của Chekhov.
13. Trần Thị Nâu (2012). Bài giảng văn học Nga (Biên soạn). Cần Thơ.
14. Đỗ Hải Phong dịch (1971). Bài giảng thi pháp A. Sêkhôp của Truđacôp. Nxb
Giáo dục.
15. Bùi Việt Thắng (2000). Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể
loại. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội.
16. Nguyễn Tuân (1999). Bàn về nghệ thuật. Nxb Hội Nhà văn.
17. Lịch sử văn học Nga (1997). Nhiều tác giả biên soạn. Nxb Giáo dục..
18. (Nguồn Đại học Thái Nguyên) bài viết so sánh “Hệ thống nhân vật trong
GVHD: Trần Thị Nâu SVTH: Dương Thị Thanh Thoảng 72
Sekhov và Nguyễn Công Hoan”.