BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG Đại HỌC VÕ TRƯỜNG TOẩN
œs EI gò
SƠN THỊ NHÀN
THỊ PHÁP 7HƠ ĐIỀÊN CỦA HÀN MẶC TỬ
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG Đại HỌC VÕ TRƯỜNG TOẩN
œs EI gò
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
THỊ PHÁP 7HƠ ĐIỀN CỦA HÀN MẶC TỬ
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. NGUYÉN HOA BẰNG SƠN THỊ NHÀN
MSSYV: 1056010075
Lớp: ĐH Ngữ văn K3
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
LỚI CẢM ƠN
&»> X8
Đề hoàn thành tốt khóa luận, cùng với những nỗ lực của bản thân, người viết
nhận được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều người.
Người viết xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến T.s Nguyễn Hoa
Bằng. Thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn người viết trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn giảng viên trong Khoa khoa học cơ bản, Th.s Vũ Thúy
Kiều, đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để người viết hoàn thành tốt luận văn
tốt nghiệp.
Xmm gửi lời cảm ơn đến Cha Mẹ, anh chị và bạn bè đã động viên, khích lệ
người viết trong suốt quá trình làm luận văn.
Người viết xin chân thành cảm ơn!
Hậu Giang, ngày tháng năm 2014
Người việt
Sơn Thị Nhàn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 1 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
LỚI CAM ĐOAN
&»> X8
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong luận văn là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ
đề tài nghiên cứu khoa học.
Sinh viên thực hiện
Sơn Thị Nhàn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng ii SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thi pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
PHIẾU ĐÁNH GIÁ LUẬN VÁN TÓT NGHỆP
(Giảng viên hướng dẫn)
1. GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYÊN HOA BẰNG
2. SINH VIÊN THỰC HIỆN: SƠN THỊ NHÀN
MSSV: 1056010075 KHÓA: 3
3. TÊN ĐÈ TÀI: THỊ PHÁP THƠ ĐIỀN CỦA HÀN MẶC TỨ
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
I. Đánh giá chung quá trình làm luận văn tốt nghiệp:
1.1. Chuyên cần:
1.2. Thái độ:...........................-2s-- 22s 2215222111227112211122T1112.1121E..0.Eeree
2. Đánh giá luận văn:
2.1 Đặt vấn đề (theo 5 bước):
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng ii SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
2.4 Hình thức trình bày: ........................ -- .- - c 1 2111221111211 111011110 1111011 19v vn re
2.4.1 Dung lượng (trang): ............................--.. SG c 11v SH ve,
2.4.5 Chính tả, ngữ pháp:
3 _ Đánh giá XẾp loại:...................................---:- 5: SE2EESEE2E12E121121121217171111111111. 21.21
9711105200027 .....................aA.ă....
Hậu Giang, ngày tháng năm 2014
Giảng viên hướng dẫn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 1V SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................... 222-2222 222222221122711122211221112201112201120122.11221122 2022 cee l
1. Lí đo chọn để tài.............................-- - 2-52 Ss SE 121221211 21112112111 1111121111111 tre. l
2. Lịch sử vấn đỀ............................. ¿5+ cà Tx 21E11215 211112111 01111211211 1111101111111 1g g 2
3. Mục đích nghiền €ỨUu............................ -- - G2 332118211 13211 19111 813191118 11 111111 ng ng rưy 4
4. Phạm vỉ nghiên CỨU...........................-- ---- c2 331831183518 351 139115 8131111 11 1111 ng ng ng rưy 4
5. Phương pháp nghiên CỨu...........................-- -- c2 221 3321332115351 11 111115 11111111 vn rưy 4
CHƯƠNG I1: THỊ PHÁP, THỊ PHÁP HỌC VÀ VÀI NÉT VẺ NHÀ THƠ
HÀN MẶC TỬ..........................--22-©22222+2EEE2222221122272112227111227112 22711... e. 6
1.1. Lí luận chung về thi pháp và thi pháp học............................--- 2-5 2 z+scz++serxerecsee 6
1.1.1. Lí luận chung về thi pháp ....................----- 2-2 2 2S +E£EE£EEEEEEEEEEESEEEEErEerkerkerkerxee 6
1.1.2. Lí luận chung về thi pháp học.....................----- ¿+ 2 +s+EE+E£EE+E£E£EE+EeEEeEErrerxerered 9
1.2. Vài nét về nhà thơ Hàn Mặc 'Tử...........................--- 2 2 %+EeSEeEEeEEEEEEEESEEEEkrrrrrrrrred 13
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Hàn Mặc TỦ.............................-- --- 555 S + +sseeeressee 13
1.2.2. Những đặc điểm chính của thi pháp trong thơ Hàn Mặc Tử...................... 14
CHƯƠNG 2: THỊ PHÁP NHÂN VẬT, THỜI GIAN,
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐIỀN................. 21
2.1. Thi pháp nhân vật trong 7Ø đïÊP:...............................- SQ St *S nhi nriiriirerree 21
2.1.1. Lí luận chung về thi pháp nhân vật......................-- 2 ¿2 s+SE+EE+EE+EE+E+zEezEerxees 21
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Thơ điên..................... -.--------5- 22
2.2. Thi pháp thời gian nghệ thuật trong 7ø ẩiÊn ...................................---55525<<<<<<++ 33
2.2.1. Lí luận chung về thời gian nghệ thuật .......................--- - 2 2 s+E+£++E++Ezzxecxees 33
2.2.2. Thời gian nghệ thuật trong 7Ø đjÊñ! ..........................--- 55 5+5 + **++k+sseexseeesssese 36
2.3. Thi pháp không gian nghệ thuật trong Tơ điên...................................5525<<<<<<<5 40
2.3.1. Lí luận chung vẻ thi pháp không gian nghệ thuật.........................-- 2-2 25: 40
2.3.2. Thi pháp không gian nghệ thuật trong 7 ơ điÊn................................. --«<+5s<<<<+++ 42
CHƯƠNG 3: THỊ PHÁP KẾT CÁU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU
TRONG THƠ ĐIỂN.........................-225s 222 221122111.221112...Eee 57
3.1. Thi pháp kết cầu trong 7Ø điên.......................- - 2-5252 EEEEEEEEEEerkrkerkerrred 57
3.1.1. Lí luận chung về thi pháp kết cấu......................--- 2 - 2 2 +E+EE+EeEE+E£EeExzEerxerszed 57
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng V SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
3.1.2. Thi pháp kết cầu trong Thơ điên...........................-------ccccccccccesccccccceeeccccc-.... 5
3.2. Thi pháp ngôn ngữ trong ở ổïÊP:............................... -. 2c 2< * S2 SEsiiseerrsseesseree 66
3.2.1. Lí luận chung về thi pháp ngôn ngữ......................---- 2 2s s+EeEE+E£EeExzEerxerxred 66
3.2.2. Thi pháp ngôn ngữ trong 7hở đïÊN.................................. S55 5+ *++kEEsseexseeereeeeee 69
3.3. Thi pháp giọng điệu trong T t2 điÊï: ..............................- c5 25 5S * +2 +svEsseeresereserss 74
3.3.1. Lí luận chung về thi pháp giọng điệu ..........................--- 2-2-2 + x+££+E+£zEerxerzed 74
3.3.2. Thi pháp giọng điệu trong 72 điÊW.............................-- --- 5+5 *++skksseersseeereeeeee 75
4500079000277... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................--:-----tttttt++ttttrtrtttttttrtrrrrrtrtrrtrrrrrrrrrrrrid §I
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng vì SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế giới tự nhiên và xã hội là đối tượng của nghệ thuật. Trước hiện thực khách
quan muôn hình vạn trạng nên mỗi văn nghệ sĩ đều có cách phản ánh riêng. Qua
hiện thực được phản ánh trong thơ văn, nhà thơ thể hiện tư tưởng, quan niệm, thái
độ của mình. Và đó cũng là một trong những yếu tố làm nên sự khác biệt giữa các
nhà thơ, nhà văn — sự khác biệt về “cách nhìn” về đời sống xã hội và con người.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thiên tài, suốt cuộc đời sống và cống hiến hết
mình cho nghệ thuật. Ông sống vì nghệ thuật và luôn luôn có trách nhiệm với ngòi
bút của mình. Có thể nói rằng, Hàn Mặc Tử là một trong những viên ngọc sáng của
nên văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Thơ Hàn Mặc Tử để lại dấu ấn sâu sắc
trong lòng người đọc như: “Đây thôn Vĩ Dạ, Trường tương tư, Lưu luyễn, Trăng
vàng trăng ngọc, Đà Lạt trăng mờ, Mùa xuân chín... ”. Đó là những bài nằm trong
tập thơ Đau hương cũng tức là Thơ điên.
Sau khi biết mình mắc bệnh phong, Hàn Mặc Tử không ngừng cho ra đời
những tập thơ mới như: “Đau thương, Thượng thanh khí, Duyên kì ngộ, Quân tiên
hội...”. Hàn Mặc Tử làm thơ, viết thơ khi nằm trên giường bệnh. Có thể nói, ông
coi thơ là người bạn tri kỉ của mình, khi sống trong những chuỗi ngày đau đớn quằn
quại vì bệnh tật và cách l¡ với bạn bè vả người thân nên ông gởi mọi cảm xúc vào
thơ ca. Điều đó cho thấy thơ đã trở thành một người bạn thân thiết nhất của ông
trong những năm tháng mắc bệnh. Vì vậy, qua những trang viết của Hàn Mặc Tử ta
thấy thắm đượm tình người, tình đời, một triết lí nhân sinh sâu sắc.
Khi biết quỹ thời gian của mình sắp hết, ông càng có sống cho thật có ý nghĩa,
ông trân trọng từng giây từng phút được sống và làm thơ. Hàn Mặc Tử dồn hết mọi
cảm xúc, tỉnh thần của mình vào thơ để sáng tạo ra những bài thơ hay nhất và Thơ
điên là một minh chứng cụ thê cho tài năng viết thơ của ông. Những gì đẹp nhất
tinh túy nhất cũng như SỐ phận nghiệt ngã, đớn đau được Hàn Mặc Tử gởi vào Thơ
điên. Thơ điên đã thê hiện được sự đột phá độc đáo, mới lạ của ông trong cách viết
thơ. Đồng thời, đó cũng là sự khác biệt giữa Hàn Mặc Tử với các nhà thơ cùng thời.
Và đó, cũng chính là những vần thơ bất hủ mang đậm phong cách rất riêng của Hàn
Mặc Tử.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng l SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Chính vì lí do ây, tôi muốn đi sâu hơn đề tìm hiệu kĩ hơn về thi pháp thơ Hàn
Mặc Tử qua tập thơ tiêu biểu của ông: Thơ điên.
Do đó, tôi quyết định chọn đề tài “7i pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử ” để
làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có những đóng góp đáng kế vào công
cuộc đổi mới thơ văn Việt Nam ở thế kỉ XX. Một trong những đóng ấy đó là sự đôi
mới về cái nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu và đặc biệt là đôi mới về tư duy nghệ thuật
đặc sắc trong thơ ca của Hàn Mặc Tử. và nghệ thuật thơ ông, được nhà phê bình
Trần Tái Phùng nhận xét “Nghệ thuật chàng tựa vào một con sông dài đi xuyên qua
thế kỉ chúng ta và hai bờ sông dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau,
đẹp đến say ngợp, đến tê liệt lòng người ”. [3: tr.22-23]. Và đó là một trong những
đóng góp sáng giá nhất của ông cho nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Vũ Ngọc Phan, tác giả bộ phê bình văn học Nhà văn hiện đại 1942 tất nỗi
tiếng, nhận xét về Hàn Mặc Tử như sau: “... 7ói đám chắc rồi đây còn nhiễu thi sĩ
Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong Đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học,
con đường rất mới xa xăm, mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới. Hàn Mặc
Tử có những thi hứng rất dôi dào, nhưng thơ ông phân nhiều khúc mắc, nhạc điệu
trong thơ hình như không phải là phân quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thơ, bệnh
ông lại làm cho ông có những tư tưởng nên nhiễu bài thơ của ông chỉ là những
bằng chứng rất lạ cho những người muốn khảo sát tâm trạng, một linh hôn đau khổ.
Về sự thành thật có kẻ Hàn Mặc Tử hơn hết các nhà thơ hiện đại. Cũng vì ông rất
thành thật nên thơ ông theo sát hắn tính tình cùng tư tưởng của ông, bên những bài
tâm thường, người ta thấy dưới ngòi bút ông những bài tuyệt tác. Nhân loại chả tạo
,
nên bởi những cái hay cái dở là gì...?” và “Từ ngày Hàn Mặc Tử từ trần đến nay,
mới trong khoảng 2 năm trời, mà ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều về Hàn Mặc
Tử”. [16; tr.71].
Chế Lan Viên: “7zước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử nhự một
ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.
[4; tr.565].
Bùi Xuân Bào: “Những gì tươi đẹp nhất trong vũ trụ, quý hóa nhất trong tâm
linh, huyền bí nhất trong tôn giáo, Hàn Mặc Tử đều đồng hóa với thơ. Trăng sao
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 2 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
văng vạc, mùa xuân mát dịu và tươi sáng, lòng yêu thương của Chúa Trời và Mẹ
Đông Trinh đều là biến thể của chất thơ man mác ”. [3: tr.31].
Về Thơ điên thì rất ít các nhà nghiên cứu, nhà phê bình nói đến, nhưng với
những ý kiến dưới đây của các nhà nghiên cứu đánh giá, nhận xét về Thơ điên đủ để
thấy Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng nhất của thơ ca Việt Nam.
Và riêng đối với Hoài Thanh cũng cảm nhận thấy ở Hàn Mặc Tử một điều gì
đó đặc biệt không dễ đánh giá: “Ngó/ một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mặc Tử.
Tôi đã theo Hàn Mặc Tử từ lỗi thơ Đường đến vở kịch bằng Quân tiên hội. Và tôi
đã mệt lả chính như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài tựa Thơ Điên vườn thơ của
người rộng rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh”. [6: tr.180].
Đề giải thích đầy đủ hiện tượng việc vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng
mạn và ảnh hưởng của thơ văn Hàn Mặc Tử đối với Kinh Thánh thật nan giải. Với
một lối viết thơ độc đáo và sáng tạo của Hàn Mặc Tử đã để lại ấn tượng sâu sắc cho
biết bao độc giả gần xa. Đặc biệt, ông là nhà thơ xuất sắc nhất trong việc đưa thơ ca
Việt Nam từ chủ nghĩa lãng mạn sang tượng trưng siêu thực. Để giải thích điều đó
nhả phê bình Phan Cự Đệ đã có nhận xét thơ của Hàn Mặc Tử: “Sẽ không thể giải
thích được đây đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa
lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của
chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của
Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và
xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách
thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình
thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ.
Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc
đáo đây kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc”. [5]
Tố Hữu có lần nhận xét về Hàn Mặc Tử: “Có nhà nghiên cứu xem Hàn Mặc
Tử cao hơn Xuân Diệu như kiểu chủ nghĩa tượng trưng cao hơn chủ nghĩa lãng
mạn. Không đúng. Hàn Mặc Tử là người có tài nhưng tâm tưởng không ổn định,
bệnh lý. Hàn Mặc Tử chán cuộc đời thật và đi vào ảo mộng, ảo giác. Những bài thơ
viết về quê hương, về tình đời tình người như Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Gia, tình
quê rất hay nhưng không nhiêu”. [6; tr.180-181].
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 3 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Qua những lời nhận xét trên đủ đê thây Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thiên tài
của Việt Nam. Tuy các bài còn chưa bao quát hết sự nghiệp thơ văn Hàn Mặc Tử,
nhưng ý kiến của người đi trước đã là gợi ý quý báu cho tôi trong khi thực hiện
khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “7i pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử” với đề tài này tôi
muốn tìm hiểu sâu hơn về nhà văn thiên tài Hàn Mặc Tử trong các bài thơ của ông.
Qua đây, tôi có cơ hội tìm hiểu sâu các vấn đề trong thi pháp như: “Ti pháp nhân
vật, thi pháp không gian nghệ thuật, thi pháp thời gian nghệ thuật, thi pháp kết cấu,
thi pháp ngôn ngữ và thi pháp giọng điệu ” được Hàn Mặc Tử thê hiện rõ trong tập
thơ này.
Ngoài ra, tôi muốn khám phá, tìm hiểu những giá trị nghệ thuật đặc sắc của
ông qua Thơ điên.
Qua việc nghiên cứu vấn đề trên người nghiên cứu muốn đóng góp công sức
của mình trong lĩnh vực thơ và nhìn nhận lại những đóng hết sức to lớn của Hàn
Mặc Tử cho nền văn học Việt Nam.
Việc nghiên cứu này góp phần khắng định tầm quan trọng của 7ø điên. Bên
cạnh đó, người nghiên cứu còn muốn tìm hiểu sâu hơn về nhà thơ thiên tài thi ca
Hàn Mặc Tử.
4. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu là “7i pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử”, nên khi nghiên
cứu đề tài này người nghiên cứu dựa trên nguồn tư liệu cũng là tập 7ø điên của
ông.
Vấn đề nghiên cứu không chỉ giới hạn trong Thơ điên mà còn mở rộng ở một
số bài thơ của các nhà văn khác để so sánh, đối chiếu. Qua đó, nhằm làm nổi bật
những giá trị nghệ thuật đặc sắc của 7hơ điên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt khóa luận của mình, người viết đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu khác nhau như:
Phương pháp so sánh: Người viết sử dụng phương pháp này để so sánh những
đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử với những thơ cùng thời để thấy rõ những nét đặc sắc
trong 7ø điên của Hàn Mặc Tử.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 4 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Phương pháp hệ thông: Người viết sử dụng phương pháp này nhăm tuân thủ
nguyên tắc xem tác phẩm là những chỉnh thể nghệ thuật đề xác định vai trò, vị trí
của các yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật của Hàn Mặc Tử. Từ đó, phân tích giá
trị thầm mĩ của những sáng tạo nghệ thuật của Hàn Mặc Tử.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 5 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thi pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
CHƯƠNG 1
THỊ PHÁP, THỊ PHÁP HỌC VÀ VÀI NÉT VÈ NHÀ THƠ
HÀN MẶC TỬ
1.1. LÍ LUẬN CHUNG VÈ THỊ PHÁP VÀ THỊ PHÁP HỌC
1.1.1. Lí luận chung về thi pháp
1.1.1.1. Các ý kiến khác nhau về thi pháp
Nhà nghiên cứu Roman Giacốpxơn trong công trình “Ngôn ngữ học và thi
pháp học” (1960) định nghĩa thị pháp là một bộ môn của ngôn ngữ học, chuyên
nghiên cứu những cách thức làm cho phát ngôn trở thành lời thơ. Nhà nghiên cứu
Pháp Ts. Tôdôrốp trong công trình 7i pháp học (1975) định nghĩa thi pháp là các
quy tắc chung mà người ta sử dụng để sáng tác ra các tác phẩm văn học cụ thể.
[17; tr.7].
Viện sĩ M.B. Khrapchencô đưa ra: “Nếu như không đòi hỏi một định nghĩa
trọn vẹn, bao trùm được tất cả, thì theo tôi, có thể xác định thi pháp học như là một
bộ môn khoa học nghiên cứu các phương thức và phương tiện thể hiện một cách
nghệ thuật, cũng như khám phá đời sống một cách hình tượng”. [ 19; tr.10].
Đỗ Đức Hiểu trong Đổi mới phê bình văn học quan niệm: “Thi pháp là
phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình
thức biểu hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc
chìm ẩn của tác phẩm: ÿ nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học...
Cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp
câu, đối thoại, thời gian, không gian, cú pháp,...) yêu cẩu đọc tác phẩm như một
chỉnh thể, ở đó các yếu tố ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ
thống để biểu đạt ý tưởng, tình cảm, tư duy, nhân sinh quan,... tức là cái đẹp của
thể giới, con người. Điểm xuất phát của thi pháp học là coi tác phẩm văn học là văn
bản ngôn từ. Nếu mỹ học là lý luận các nghệ thuật, thi pháp là mỹ học của văn học,
là lý luận văn học; vậy thi pháp gắn chặt với ngôn ngữ học và mỹ học. Thi pháp hay
lý luận văn học (Theo định nghĩa của Vacga — Varga) trước hết nghiên cứu các
phương thức nghệ thuật, miêu tả các đặc trưng thể loại văn học, từ đó mới tìm tòi
các tâng lớp ý nghĩa ấn giấu của tác phẩm ”. [8; tr.10 — 11].
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 6 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Trong Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thỉ pháp, Nguyễn Thị Dư
Khánh khẳng định: Theo chúng tôi, có thê xác lập nội dung của khái niệm /h¡ pháp
từ chính nội dung ngữ nghĩa của nó:
Chữ ¿Ji ở đây dùng đề chỉ toàn bộ văn học nói chung chứ không phải nói riêng
về thơ. 7# là cách nói đã quen, mang nội dung lịch sử, ghi dấu ấn của cả một thời
kì lịch sử khá dài, khi mà mọi loại hình văn học từ anh hùng ca, truyện, kịch, tiểu
thuyết...đều được diễn đạt bằng thơ. Còn pháp là phương pháp, là phép tắc. Vậy /hï
pháp là phương pháp, là phép tắc làm văn, làm thơ... Có thể nói ngay ở đây, phép
fắc căn bản nhất của nó là phép sáng tạo, hư cấu nghệ thuật. Tất nhiên không phải
xuyên tạc, làm méo mó đời sống mà là để thê hiện đời sống một cách nghệ thuật,
lung linh, hấp dẫn... Dù các quan điểm lí luận có khác nhau, có lệ thuộc vào những
thiên kiến xã hội, giai cấp, chính trị như thế nào thì vẫn không thể thừa nhận một
thực tế là, ngay từ buôi sơ khai, các nhà nghệ thuật vô danh cũng đã không chịu
băng lòng với việc mô phỏng, sao chép tự nhiên mà luôn luôn khát vọng khám phá,
chiếm lĩnh và chinh phục tự nhiên bằng những sáng tạo bay bổng của mình...
Và từ buổi bình minh của lịch sử cho đến nay, văn học nhân loại đã sáng tạo ra
bao nhiêu hình thức đa dạng phong phú khác nhau, nhưng dù có biến đổi phát triển
như thế nào thì bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng là quá trình chủ
quan hóa trong sự cảm nhận và lí giải đời sống, gắn liền với quá trình sáng tạo ra
những hệ thống hình tượng nghệ thuật, với những phong cách cá nhân hay thời đại
khác biệt. Nghệ thuật — thật sự là nghệ thuật đích thực — bao giờ cũng là khát vọng
giãi bày những xúc động mãnh liệt, những suy tư sâu sắc — mang đậm nét tính chủ
quan của chủ thê sáng tạo trong nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện để tạo nên
một thế giới thứ hai, thế giới có thể có, thế giới khao khát, thế giới có thật... Chứ
không phải chỉ là phép phản ánh giản đơn. Ở đây, có mối tương quan giữa nội dung
phản ánh và sự phản ánh, tư tưởng và nghệ thuật, cá nhân và thời đại... diễn ra
trong một tiến trình nghệ thuật mang tính đặc thù: nó vừa là hoạt động của ý thức vả
vô thức, vừa là kết quả của quan sát thực tế và tưởng tượng bay bồng: vừa sản phẩm
của trạng thái hưng phấn xuất thần, đột ngột vừa có thể là kết quả của một quá trình
nung nấu thai nghén dai dăng, mang nặng đẻ đau; nó cũng có thể là kết quả của
những năng lực thiên bâm nhưng cũng vừa là sản phẩm của những lao động miệt
mài, vừa kêt quả của những đam mê say đăm, hạnh phúc, khô đau...và cuôi cùng là
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 7 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
đề tạo thành tác phâm: một văn bản ngôn từ... Tóm lại thi pháp là toàn bộ quá trình
sáng tạo ra tác phẩm bằng nghệ thuật ngôn từ, bắt đầu bằng việc thai nghén nuôi
dưỡng cảm hứng cho đến việc lựa chọn giọng điệu, thể văn, thê thơ...
Đi tìm thi pháp của một tác gia, tác phâm...chủ yếu không phải xem tác phẩm,
tác giả... nói cái gì, mà chủ yếu là xem tác giả nói như thế nào, bằng một hình thức
nghệ thuật ra sao. Lẽ đương nhiên, nghệ thuật của tác phẩm bao giờ cũng găn liền
với nội dung trong sự thống nhất vốn có. Tuy nhiên, sự thống nhất này, không làm
cản trở việc nghiên cứu những hiện tượng thuộc về hình thức và quy luật mang tính
hình thức của nó.
Tóm lại, nói đến /¿ pháp chủ yếu là nói đến “quá trình sáng tạo những hình
thức nghệ thuật của tác phẩm. là nói đến những phương thức, phương tiện, những
thao tác nghệ thuật của nhà nghệ sĩ ngôn từ ”. [9: tr. 7 - 8 - 9 -10].
1.1.1.2. Ý kiến của Trân Đình Sử
Trần Đình Sử, trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. “thi pháp là hệ
thống các nguyên tắc nghệ thuật chỉ phối sự tạo thành của một hệ thống nghệ thuật
với các đặc sắc của nó”.
Trong Thỉ pháp Truyện Kiểu, Trần Đình Sử nhẫn mạnh: “Thi pháp là hệ
thống các nguyên tắc nghệ thuật thấm nhuân ÿ thức chủ thể của tác giả. Thi pháp
học hiện đại bao gôm phong cách nghệ thuật như một bộ phận của nó. Phong cách
nghệ thuật ở đây không chỉ là sự lựa chọn những yếu tố tư tưởng, tình cảm, phương
diện để dệt nên một tác phẩm nghệ thuật nhất định, mà còn là sự thống nhất những
cái đã được chọn lựa vào một thể thống nhất hữu cơ, hoàn chỉnh. Không có sự
thống nhất trên mọi cấp độ và giữa các cấp độ với nhau thì không có được phong
cách. Yếu tổ tạo nên sự thống nhất ấy không gì quan trọng hơn là quan niệm nghệ
thuật ”.
Tính sáng tạo của bất kỳ tác phẩm nào đều bắt đầu từ sáng tác trong quan
niệm, bất kê tác giả có ý thức được điều đó hay không. Thiếu một quan niệm mới
thì không thể có được một sáng tạo thật sự mới trong nghệ thuật. Tính hệ thống của
nghệ thuật thể hiện ở chỗ mọi quan niệm mới về thế giới và con người đòi hỏi
những biện pháp nghệ thuật tương ứng trên các cấp độ. Đi tìm quan niệm nghệ thuật
và hệ thống biện pháp nghệ thuật tương ứng vốn có của một tác phẩm là thực chất
của việc nghiên cứu thi pháp tác phẩm. Nghiên cứu thi pháp văn học khác hắn với
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 8 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
việc phê bình thiên về bình luận, bình giảng theo lỗi cảm thụ chủ quan thịnh hành.
Nó phải tận dụng nhiều thao tác kĩ thuật đề phân tích, chứng giải. Do vậy, các thao
tác ngữ học, tự sự học cũng được chú thích đáng. Những khái niệm, thuật ngữ mới
cũng được vận dụng.
1.1.1.3. Xác định khái niệm
Từ rất nhiều ý kiến khác nhau, ta có thê thấy rõ hiện nay khó có thể tìm thấy
một định nghĩa mà được mọi nhà nghiên cứu chấp nhận. Riêng đối với bản thân tôi,
tôi đồng ý với quan niệm tông quát nhất do Trần Đình Sử đưa ra: “7i pháp là hệ
thống các nguyên tắc nghệ thuật chỉ phối sự tạo thành của một hệ thống nghệ thuật
với các đặc sắc của nó. Thì pháp không phải là nguyên tắc có trước, nằm bên
ngoài, mà là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật, hình thành cùng
với nghệ thuật. Nó là mỹ học nội tại của sảng tạo nghệ thuật nhất định, mang một
quan điểm nhất định đối với cuộc đời, con người và bản thân nghệ thuật. Thi pháp
biểu hiện trên các cấp độ: tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả và bao trùm là cả
nên văn học. Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp ”.
1.1.2. Lí luận chung về thi pháp học
1.1.2.1. Khái niệm về thi pháp học
Trong các bộ môn của ngảnh nghiên cứu văn học hiện nay như lịch sử văn
học, lý luận văn học, phê bình văn học thì thi pháp là một bộ môn nghiên cứu có
nhiệm vụ đặc thù. Cũng như nhiều bộ môn nghiên cứu văn học khác đang được
triển khai theo nhiều hướng khác nhau, về thi pháp học, hiện nay cũng khó tìm thấy
một định nghĩa được mọi nhà nghiên cứu chấp nhận.
Tuy nhiên, nhìn chung có thê đồng ý với quan niệm tổng quát nhất do Viện sĩ
M.B Khrapchencô đưa ra: “Nếu như không đòi hỏi một định nghĩa trọn vẹn, bao
trùm được tất cả, thì theo tôi, có thể xác định thi pháp học như một bộ môn khoa
học nghiên cứu các phương thức và phương tiện thể hiện một cách nghệ thuật, cũng
nhưự khám phá đời sống một cách hình tượng ”. [19; tr. 9 - 10].
Viện sĩ Nga V.V Vinôgrađốp xác định: “7 pháp học là một khoa học nghiên
cứu các hình thức, các dạng thức, các phương tiện, các phương thức tổ chức tác
phẩm sáng tác ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt...
không chỉ là các hiện tượng của ngôn từ văn học, còn bản thân các phương diện
hình tượng khác nhau nhát của cơ câu tác phâm văn học và sáng tác văn học dân
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 9 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
gian” (Phong cách học, Lý luận ngôn từ văn học, Thi pháp học M., 1963). [17;
tr.7].
Thi pháp học là khoa học về thi pháp. Nhà lý luận V.V. Vinôgrapđốp định
nghĩa: “Thi pháp học là khoa học về các hình thức, các phương tiện tổ chức tác
phẩm nghệ thuật ngôn từ và các kiểu cầu trúc và các loại thể tác phẩm văn học ”.
[9; tr. 10].
Thi pháp học theo quan điểm của N. Bactơ cũng chỉ là một biến tướng của chủ
nghĩa hình thức. Ông nói: “Khoa học về văn học, sẽ miêu tả tính tiếp nhận của tác
phẩm văn học chứ không phải ý nghĩa của nó cũng như nhà ngôn ngữ chỉ nghiên
cứu ngữ pháp của câu chứ không nghiên cứu ý nghĩa của câu”. [18; tr.7 - 8].
Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp. Khoa học này gồm mấy bộ
phận sau:
Lý luận về thi pháp của một giai đoạn văn học lịch sử cụ thể. Ở đây sẽ bao
gồm lý luận về thi pháp vốn có của giai đoạn văn học trung đại, được tác giả của
chúng thừa nhận.
Hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật thể hiện trong bản thân sáng tác của giai
đoạn văn học được xét. Hệ thống này do tồn tại tiềm tàng trong sáng tác nên cần
được miêu tả ra, đồng thời nó cũng không trùng khít với thi pháp học lý thuyết của
giai đoạn văn học ấy.
Lý luận thi pháp của người nghiên cứu dùng để miêu tả một cách hệ thống thi
pháp tiềm tàng trong thực tế văn học và lý giải mới đối với lý luận thi pháp đã có
trong lịch sử.
Ba bộ phận của thi pháp học này liên quan với nhau trong một mối quan hệ hết
sức khăng khít. Lý luận thi pháp lịch sử là siêu ngôn ngữ thành văn của thi pháp văn
học hiện đại dùng để miêu tả lý luận thi pháp lẫn thi pháp văn học của một giai
đoạn. Chính vì như vậy, thi pháp học hiện đại có một ý nghĩa quan trọng, bao trùm.
Thiếu một quan niệm thi pháp học hiện đại sáng tỏ không thể tiễn hành phân tích,
miêu tả hệ thống thi pháp văn học được.
Từ rất nhiều ý kiến trên, ta có thê kết luận, thi pháp học là bộ môn nghiên cứu
tất cả mọi phương diện của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương tiện tạo
thành nghệ thuật cũng như sự vận động, phát triển của lịch sử chúng ta.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 10 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
1.1.2.2. Đối tượng nghiên cứu của thi pháp học
Đối tượng nghiên cứu của thi pháp học là hình thức của tác phẩm văn chương.
Nội dung và hình thức là hai phương diện cơ bản thống nhất không thể tách rời các
tác phẩm văn chương. Nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh
trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là hệ thống bao gồm
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau. Các yếu tố thuộc về nội
dung của tác phâm như: đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, lí giải chủ đề, cảm hứng
tư tưởng. Còn hình thức nghệ thuật của tác phẩm là kênh duy nhất truyền đạt nội
dung của tác phẩm, là phương tiện cấu tạo và làm cho tác phẩm có sự độc đáo. Hình
thức nếu xét nghệ thuật là phương diện đời sống thì nghệ thuật là hình thức riêng
của văn chương. Nó có nội dung và hình thức riêng. Hình thức gồm hai yếu tổ là
hình thức văn bản và hệ thống hình tượng trong tác phẩm. Hai yếu tổ này hòa lại
với nhau tạo thành văn bản nghệ thuật.
Nội dung và hình thức là hai mặt thống nhất nhau trong bất kỳ tác phẩm nào.
Tác phẩm văn chương cũng tương tự như vậy nhưng giữa nội dung và hình thức
trong tác phâm nghệ thuật khắng khít, xuyên thấm vào nhau. Nội dung biểu hiện ra
hình thức, hình thức tải trợ nội dung, không thể có nội dung mà không có hình thức,
hoặc không thê có hình thức mà không có nội dung.
Hình thức mang tính nội dung là đối tượng của thi pháp học. Hình thức nghệ
thuật gồm hai mặt cơ bản là mặt cụ thể mặt cảm tính và mặt quan niệm. Xét về mặt
cụ thể cảm tính thì bất kỳ tác phâm nào cũng đem lại cho chúng ta những đường nét
màu sắc, âm thanh, chỉ tiết cụ thể sinh động gắn liền với nội dung nhất định. Nếu
thiếu phương diện này nghệ thuật không tồn tại. Mặt quan niệm: đồng thời đăng sau
hình thức cảm tính ngoài nội dung cuộc sống, tư tưởng tác giả muốn nói đến còn có
quan điểm làm cơ sở tiếng nói đó tạo thành cái lý, cái logic bên trong hình thức
nghệ thuật. Phương diện này, người ta còn gọi là hình thức bên trong.
Đối tượng nghiên cứu của thi pháp học là hình thức nghệ thuật. Nhiệm vụ của
thi pháp học là khám phá cái lý của hình thức, tính quan niệm của hình thức. Cái lý
của hình thức nghệ thuật chỉ bộc lộ rõ trong hệ thống của nó. Trước hết là thể hiện
lặp đi lặp lại của các yếu tố trong tác phẩm.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng II SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
1.1.2.3. Phương pháp của thỉ pháp học
Cùng với đối tượng phương pháp sẽ là điều kiện xác định sự tồn tại của thi
pháp học. Xét ở góc độ là một bộ phận khoa học nghiên cứu văn học, thi pháp học
cũng phải sử dụng các phương pháp của khoa học nói chung, nó phải vận dụng các
loại phương pháp nghiên cứu văn học ở tất cả các cấp độ: cấp độ, triết họ, cấp độ
các phương pháp chung, cấp độ phương pháp chuyên ngành.
Phương pháp đặc thù của thi pháp học bao gồm:
Phương pháp hệ thống: Phương pháp này đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu
thi pháp. Nói đến hệ thống là nói đến những mối quan hệ có tính quy luật. Trong
mỗi quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, giữa cái riêng và cái chung là quan trọng
nhất.
Tính hệ thống và mối liên hệ đó bộc lộ ở các yếu tố lặp lại, chính tính lặp lại
này là phạm vi bộc lộ tính quy luật. Văn học là hiện tượng lặp lại trên tất cả các cấp
độ. Văn học là sự phản ánh cuộc sống một cách độc đáo, nhưng không thấy tính lặp
lại thì cũng không thấy gì cả. Một tác phâm văn học là một sự thống nhất giữa tính
độc đáo và tính lặp lại. Chính sự lặp lại đó bộc lộ tính quy luật, tính hệ thống.
Phương pháp lịch sử: Khi ta quan niệm thi pháp nghiên cứu hệ thống hình thức
thì phải hiểu rằng các hình thức đó có tính lịch sử. Quan niệm nghệ thuật một cách
trừu tượng, đời nào cũng như đời nào là hoàn toàn sai lầm.
Khi nghiên cứu ta có quyền trừu tượng hóa, miêu tả, nghiên cứu cấu trúc tác
phẩm, nhưng mặt khác lại phải đặt trong hoàn cảnh của nó, chứng minh được rằng
hình thức đó là duy nhất đúng.
Trong Giáo trình thi pháp học, Trần Đình Sử đã đề cập đến việc nghiên cứu
của ta lâu nay nhiều khi phi lịch sử. Ví dụ như khi so sánh hình tượng Bác Hồ trong
hai bài thơ /!ô Chí Minh và Sáng tháng Năm nhiều người cho rằng trong bài thơ Hô
Chí Minh vì lúc bấy giờ Tố Hữu ở xa, chưa gặp gỡ và chưa hiểu Bác, nên Bác hiện
lên một cách khái niệm và không phù hợp với con người thật của Bác. Đặc biệt
trong câu thơ: “Tiếng Người thét...” là không chân thực. Đến Sáng fháng Năm tác
giả gần hiểu Bác hơn mới thấy được rằng “Giọng của người không phải sắm trên
cao; thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước ”.
Cách phân tích đó tưởng là đúng, nhưng thật ra là phi lịch sử. Vào thời điểm
1961, cả dân tộc mới thoát khỏi vòng nô lệ, chúng ta đương đầu với những muôn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 12 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
trùng khó khăn, thù trong giặc ngoài điên cuông chồng lại chính quyền cách mạng,
còn non trẻ. Hình ảnh một người lính già dẫn đầu đoàn quân cách mạng là hoàn
toàn phù hợp. Lúc ấy nhân cũng cần có người kêu gọi mình tiến lên như thế. Vả
chăng đâu phải Bác Hồ lúc nào cũng như lúc nào. Trước tổng khởi nghĩa chính Bác
Hồ đã khẳng định một cách kiên quyết: “Dù phải đốt cháy cả Trường Sơn cũng
phải dành cho được độc lập”. Và khi bọn phản động trong chính phủ lâm thời đổi
cờ chính Bác đã nắm tay thành một quả đấm.
Đến năm 1951, khi cả dân tộc đi theo một hướng, cùng “/rông về Việt Bắc mà
nuôi chí bên” thì không cần phải “thét?” nữa, không khí lúc ấy là một không khí thân
mật chan hòa. Đây là lúc củng có lòng tin. Bác ở Sáng tháng Năm là niềm tin tất
thắng. [17; tr. 16].
1.2. VÀI NÉT VẺ NHÀ THƠ HÀN MẶC TỬ
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Hàn Mặc Tử
1.2.1.1. Vài nét về cuộc đời Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 tại làng Lệ
Mĩ, tổng Võ Xã, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay thuộc tỉnh Quảng Bình).
Bút danh Lệ Thanh của Hàn Mặc Tử là do ghép hai chữ đầu của địa danh Lệ Mĩ và
Thanh Tâm (nơi nội tổ của nhà thơ an cư).
Hàn Mặc Tử học tiểu học ở Quảng Ngãi. Năm 1928, nhà thơ ra Huế học tại
trường Pellerin.
Ngay từ những năm 1926-1927, nhà thơ đã bắt đầu xướng họa thơ với anh
mình và lấy bút hiệu là Minh Duệ Thị.
Năm 1931, Hàn Mặc Tử đã có thơ (Đường luật) đăng trên các báo với bút
danh là Phong Trần hay P.T (Quy Nhơn). Do có quan hệ với Phan Bội Châu nên
nhà thơ đã bị mật thám Pháp gạch tên khỏi danh sách du học do Hội Như Tây bảo
trợ. Từ 1932, Hàn Mặc Tử làm việc ở Sở Đạc điền Qui Nhơn. Năm 1932, lúc mới
21 tuổi, nhà thơ đã được mời làm ban giám khảo cuộc thi ở Qui Nhơn.
Từ tháng 7-1934, Hàn Mặc Tử vào Sải Gòn làm báo, với những bút danh Lệ
Thanh, Hàn Mạc Tử rồi Hàn Mặc Tử (ngoài ra còn một số bút danh khác như Mộng
Cầm, Trật Sên...).
Từ giữa năm 1936, sau khi biết mình mắc bệnh phong, Hàn Mặc Tử về Qui
Nhơn chữa trị. Thời gian này, nhà thơ kết thân với nhiều bạn thơ và sáng lập ra
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 13 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
“Trường Thơ Loạn” với các thành viên nổi tiếng như: Chế Lan Viên, Yến Lan...
Đây cũng là thời kì mà thơ của Hàn Mặc Tử chuyển sang một phong cách mới.
Cuối tháng 9-1940, Hàn Mặc Tử phải vào điều trị tại bệnh viện phong Qui
Nhơn do bệnh đã phát nặng.
Ngày 11-11-1940, Hàn Mặc Tử mất tại Qui Hòa.
1.2.1.2. Sự nghiệp văn học
Tác phẩm của Hàn Mặc Tử để lại gồm có: Lệ Thanh thi tập (tập thơ Đường
luật) từ 1930-1935; Gái quê (tập thơ), 1936; Đau thương (tức tập thơ điên), 1938:
Xuân như ý (tập thơ), 1939; Thượng thanh khí (tập thơ), 1939; Cẩm châu duyên (tập
thơ), 1939; Duyên kì ngộ (kịch thơ), 1939; Quần tiên hội (kịch thơ — chưa viết
xong), 1940; Chơi giữa mùa trăng (tập thơ văn xuôi) từ năm 1935-1940.
Trong sỐ các tác phẩm của Hàn Mặc Tử, chỉ có tập Gái quê được xuất bản lúc
nhà thơ còn sống. Sau khi ông mất, tập thơ Hàn Mặc Tử được xuất bản năm 1944.
Các tác phẩm của Hàn Mặc Tử được xuất bản và tái bản nhiều lần từ trước đến
nay. Thơ của ông còn được đưa vào chương trình học phố thông.
Hàn Mặc Tử đã đem đến cho thơ mới một phong cách thơ độc đáo, sáng tạo.
Tư duy thơ của Hàn Mặc Tử đã vượt khỏi giới hạn của thơ lãng mạn và mang nhiều
yếu tố tượng trưng, siêu thực. Trong thơ ông có những bài đầy cảm hứng lạ, rất tài
năng, nằm trong số những bài thơ hay của phong trào Thơ Mới. (Theo tổng tập văn
học Việt Nam, tập 25).
1.2.2. Những đặc điểm chính của thi pháp trong thơ Hàn Mặc Tử
1.2.2.1. Thi pháp nhân vật trữ tình
Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta sẽ bắt gặp quan niệm nghệ thuật về con người một
cách rõ nét và đặc sắc. Điều thể hiện rõ nhất đó là một con người cô đơn đau đớn,
thèm khát ái tình nhưng lại bị tình phụ rẫy, không đáp trả, điều đó càng khiến Hàn
Mặc Tử rơi vào trạng thái cô đơn tuyệt vọng đến khôn cùng.
Nhưng điều đáng chú ý lại còn là nỗi đau khổ của riêng thi sĩ, Hàn Mặc Tử đã
mắc phải một trong “# chứng nan y”, mà lại là thứ “nan y” nhất. Ác liệt hơn là
bệnh của nhà thơ là làm cho người bệnh không sống được trong cuộc sống bình
thường. Là một thanh niên đang độ đắm say trong cuộc sống xã hội mà bị cách ly
với xã hội, yêu quý gia đình vô vàn mà phải cách ly với gia đình, tha thiết yêu
đương mà phải cách ly với người yêu, người yêu chung thủy, dù ông bệnh tật...
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 14 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Đau xót hơn nữa là đang tuôi xuân xanh, tràn đây sức sông mà phải sông trong cái
cảnh không biết sống chết ngày nào, thậm chí giờ phút nào, trong thân hình tan rữa
vì bệnh tật. Chung cuộc, một người tải hoa, son trẻ đang độ xuân thì mà phải lìa
khỏi đời khi tuổi đời còn quá trẻ.
Nhưng trong cái đau khổ riêng ấy, vượt qua tất cả cái mức đau khổ của con
người, nhà thơ vẫn ra sức phấn đấu để sống, sống mãnh liệt. Càng cảm thấy mình
chết đến nơi, lại càng ra sức sống, sống một cái sống nồng cháy, nóng bỏng hơn,
với hồn thơ của mình, với thơ của mình. Có thê nói Hàn Mặc Tử sống gấp bội lên
trong tâm hỗn trên cái thể xác đang chết dần chết mòn của nhà thơ. Trong cái đó
cảnh một con người biết mình sắp chết, sắp trút linh hồn, Hàn Mặc Tử cố sống băng
thơ.
“Một mai kia ở bên khe suối Ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng”
Thơ đối với thi nhân trong những khoảnh khắc ấy đã trở thành một nhu cầu
sống, một liều thuốc cứu tử, cho riêng thi nhân và có thể nói là cho mọi người. Đề
mọi người hiểu thấu nỗi đau dẫn vặt của con người bị chứng nan y.
Trong tình cảnh ấy, những lời thơ, ý thơ của Hàn Mặc Tử, những bài thơ mà
tác giả thích gọi là “7ø điên, Thơ loạn”, thực ra không điên loạn chút nào. Những
bài thơ nghe kinh dị thực ra không “k/nh đƒ” chút nào. Trái lại đó là những bải thơ,
văn, thể hiện sức sống phi thường, thể hiện một lòng ham sống vô biên, thể hiện
một ước mơ rất chi là con người, ước mơ được sống khi ý thức được răng mình sắp
chết, đang chết. Hơn nữa vì ý thức được mình sắp chết cho nên phải sống gấp, sống
bằng thơ.
1.2.2.2. TIải pháp không gian nghệ thuật
Trong thơ Hàn Mặc Tử, thiên nhiên như hòa lẫn vào những trạng thái cảm xúc
khác nhau của tâm hồn thi sĩ. Cảm xúc đó bàng bạc trong mỗi câu thơ và người đọc
như lạc vào một thế giới mơ hồ, huyền ảo của cảm xúc, hương thơm, màu sắc và
ánh sáng, khi chìm vào cảm xúc ấy, người ta như quên đi những phiền muộn hàng
ngày của cõi đời, quên cả chính bản thân mình, chỉ còn lại một cảm giác lâng lâng,
bay bổng ở một khoảng trời trong sáng, con người như muốn nhập vào cảnh sắc
thiên nhiên.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 15 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Cảnh sắc thiên nhiên như buông xuôi theo dòng cảm xúc của thi sĩ. Không
gian tĩnh lặng nhưng dưới bề sâu là những chuyển động thầm kín, những âm thanh
mơ hồ thầm kín của tạo vật mà chỉ riêng thi sĩ mới cảm nhận được. Một âm điệu
buồn man mác, một nỗi buồn vấn vương khắp không gian.
Điều đáng nói là nếu lối tưởng tượng đứt đoạn, bất định của “Thơ điên” tạo ra
sự chuyền làn các cảnh sắc không gian đột ngột, gấp khúc đến phi lí, thì âm điệu tự
nhiên, nhuần nhuyễn của một nỗi u hoài, trong cùng một lối thơ chia thành các khổ
vuông vức, tròn trịa lại lấp đầy, san bằng nếp gấp, vết ghép, khiến cho người đọc cứ
mặc nhiên bải thơ chỉ có nới rộng cùng một không gian chứ không phải là sự ghép
nối giữa các vùng không gian rất xa.
Đau thương, hay còn gọi là Thơ điên gồm ba phần: Hương thơm, mật đắng,
máu cuông và hôn điên.
Hương thơm: Ta bắt đầu một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu
đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đây. Tuy có
đôi vần đẹp, cảm giác chung tẻ nhạt như thế nào.
Mật đắng: Ta đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luỗng sáng lạ chói cả
mắt. Luồng sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn
hoi hóp của một tình yêu vừa chết yêu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong
thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn rầu có thấm thía vẫn dịu dịu.
Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ
như dính máu.
Máu cuồng và hôn điên: Đến đây ta đã hoàn toàn thoát ra khỏi cái thế giới thực
và cả thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi ta thấy những gì chung quanh ta? Trăng, toàn
trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm linh động như một người hay đúng hơn là
một tình yêu. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng trơ tráo và cũng nao nức dục
tình. Hàn Mặc Tử ởi trong trăng, há miệng cho mắu tung ra làm biển cả, cho hồn
văng ra, và rú lên những tiếng ghê người... Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi
khắp trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất
thực của riêng Hàn Mặc Tử ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu
được. Nghĩ ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc
đên muôn kiệp.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng l6 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Tập thơ chứa đựng những niêm đau khô, rồi loạn, nó phát ra những khúc nhạc
buôn thương day dứt và tỏa ra một bầu không khí ảm đạm. Lời thơ dính máu mang
một nỗi đau thương mãnh liệt, một linh hồn cô độc, khổ não. Tập thơ đi từ lãng mạn
đến tượng trưng.
1.2.2.3. Thị pháp thời gian nghệ thuật
Hàn Mặc Tử tập trung hình tượng thời gian truy đuôi và gấp khúc trong thơ
ông. Trong các nhà thơ hiếm có ai nói về nỗi cô đơn đau đớn và bi kịch số phận như
Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử đã thể hiện bằng cách tái hiện cuộc sống đau thương đời
thực của bản thân được gởi gắm qua thơ, khi đứng trước vực thăm của cái chết cần
kể. Đó là một áp lực đầy nghiệt ngã của định mệnh, ông phải sống như đang chạy
đua với thời gian.
Thời gian trong thơ Hàn Mặc Tử cũng gắn liền với thời gian đời tư, thời gian
của những chuỗi ngày đau đớn sống trong bệnh tật. Nhà thơ như luôn bị ám ảnh bởi
thời gian truy đuổi, lúc nào ông cũng ám ảnh về một nỗi lo sợ, sợ thời gian của ông
sắp đứt đoạn, cạn kiệt. Chỉ có những ám ảnh thời gian với trăm ngàn sụp đô đón
đợi, con người thất bại vì nhất thiết nó đã hay sẽ bị tước đoạt tất cả, tuôi trẻ, tình
yêu, khoái lạc.... Tất cả gãy đồ, băng hoại ngay trong dự phóng con người.
Vì thế, Hàn Mặc Tử đã cố tận dụng những thời gian còn lại của mình khi còn
sống trong dương thế và ông không ngừng hối hả cho ra những tác phẩm thơ mới
“Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ
ngô, Quân tiên hội”. Đặc biệt là “Quần tiên hội” viết chưa xong nhưng đây cũng
có thê nói đây là tác phẩm thơ thành công nhất để lại dấu ấn trong lòng người đọc.
Mặc dù ông biết thời gian còn lại của bản thân chẳng được bao nhiêu nữa,
nhưng ông vẫn không lùi bước buông xuôi tất cả, ông chiến đấu với thời gian đến
giây phút cuối cùng của cuộc đời.
1.2.2.4. Tli pháp ngôn ngữ
Ngôn ngữ thơ do Hàn Mặc Tử đào luyện có vẻ đặc sắc vì sự lựa chọn tải tình
các từ ngữ hòa điệu và thú vị, vì ma thuật gợi tả những hình ảnh tượng dẫn khởi, vì
tính đa dạng của những hình thức vận -luật -học thích ứng với đà điệu tình cảm
hứng, vì tài chế ngự thể thơ tám chữ vốn là sự đóng góp thiết yếu của phong trào
“Thơ mới”, nói tắt lại, vì những phương thế vận dụng cách thiên tài của một nghệ
thuật phong phú. Sức mạnh của tiêng nói của nội tâm đã phá vỡ những rào cản ngôn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 17 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
ngữ đề đưa ra những nhịp điệu mới làm biến đôi cả ngôn từ, thể thơ và các phương,
tiện thể hiện khác.
Dù bị níu kéo bởi những yếu lãng mạn, đã kịp tìm cho mình một ngôn ngữ phù
hợp với những hình ảnh lộng lẫy, mê sảng, kỳ dị, những từ ngữ mà trong đời sống
thường nhật không có liên hệ gì với nhau bỗng ngỡ ngàng khi được đặt cạnh nhau.
Nói về “quyền hành của nhà thơ trên ngôn ngữ, Valéry nhấn mạnh nhận xét
này: “Muốn tác động bằng ngôn ngữ, nhà thơ tác động trên ngôn ngữ”. Ứng dụng
công thức của Valéry, chúng ta có thể nói Hàn Mặc Tử đã thành công trong việc
thích nghi với khả năng của tiếng việt với những yêu cầu của cảm hứng Công giáo
và việc sáng chế một ngôn ngữ thơ mang dấu ấn bất hủ của một nhà thơ thiên tài.
Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhạy bén của thi nhân: Ngôn ngữ chứa
đầy hôn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta
còn thấy một cụm hình ảnh. Thầm thì với ai ngồi dưới trúc, tiếng “trúc” ở đây, với
hình ảnh “lá trúc” trong bài Đây thôn Vĩ Dạ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Đều thuộc loại ngôn từ mĩ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân
tích đoạn thơ cuối.
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bảng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang ?
(Mùa xuân chín)
«
Sắc điệu “...văng nắng chang chang ?” vẻ ra cảnh trắng toát bên con sông
mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đã mô tả những hình ảnh đó
bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa tình cảm bài thơ lên tới tột
cùng không chỉ thuần túy bức tranh tả cảnh mùa xuân chín.
Hay là những câu thơ nói lên nỗi niềm của thi sĩ:
Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mễn chưa
Người đi một nửa hôn tôi mắt,
Một nửa hôn tôi bỗng dại khờ.
(Những giọt lệ)
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 18 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Lòng chợt thấy đau đớn nghẹn ngào khi nhớ vê một nửa của thi sĩ, đau đớn
đến quặn thắt tim gan, như chết đi sống lại “Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa
hồn tôi bỗng dại khờ”. Câu thơ như lột tả hết tâm trạng nhớ nhung đau xót đến tột
cùng của niềm yêu thương. Hình ảnh thi sĩ gợi lên rất thực, giàu cảm xúc, kết hợp
với giọng điệu và ngôn ngữ nhẹ nhàng mà sâu lắng lòng người, khiến người đọc
cảm nhận được nỗi đau của thi nhân như đang giằng xé trong tâm hôn.
Hình ảnh thơ mộc mạc, ngôn ngữ trau chuốt nên đề lại ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc.
1.2.2.5. Thị pháp giọng điệu
Giọng điệu đóng vai trò rất quan trọng trong các tác phâm văn học. Nó góp
phần làm nên một dấu ấn, cá tính và phong cách riêng của nhà thơ hoặc nhà văn.
Chứa đựng cảm xúc tâm tư tình cảm cũng như tâm trạng của nhà thơ đều thể hiện rõ
nét qua bài thơ. Qua đó, cũng giúp độc giả hiểu sâu hơn về đời sống thường nhật và
đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhà thơ lúc bấy giờ đang đau đớn vì bệnh tật.
Nên giọng điệu thơ ông luôn mang một nét đau đớn cay cú, tuyệt vọng, như không
lối thoát cho cuộc đời bất hạnh.
Cũng vì thế giọng điệu luôn mang một nét độc đáo, đặc trưng riêng làm nên
cái hay trong thơ văn Hàn Mặc Tử.
Ở đây không phải một giọng nói lạ, một giọng điệu lạ xen lẫn vào giọng điệu
của cái tôi trữ tình của nhà thơ, đó là một giọng điệu trữ tình như kết tụ như nghẹn
ngào xót xa, nuối tiếc. Nhưng giọng điệu chủ đạo tiếng nói ấy vẫn là giọng điệu
bâng khuâng, đầy mơ mộng. Và là tiếng nói của một cái tôi bơ vơ, cô đơn, lạc lõng
ngoài thế giới vũ trụ, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng
điệu, mà tình yêu và hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện cao nhất.
Thể hiện khát vọng về sự đồng điệu, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một công trình
nghệ thuật đạt tới sự hài hòa lý tưởng. Nhưng nhạc thơ chưa vượt trước lời thơ, phá
vỡ logic ngữ nghĩa thông thường, khiến tiếng nói trữ tình thành chuỗi phát ngôn
thác loạn. Vì thế giọng điệu và lời thơ trong sáng, tao nhã mà vẫn giản dị.
1.2.2.6. Thi pháp kết cấu
Hàn Mặc Tử đã thể hiện rất xuất sắc những đặc trưng sáng tạo độc đáo qua
việc sử dụng thi pháp kêt câu kì dị và mới lạ. Điêu đó, thê hiện rât đậm dâu ân
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 19 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
phong cách riêng của Hàn Mặc Tử và được nhiêu người biết đến cũng nhờ sự sáng,
tạo nghệ thuật mới lạ và độc đáo.
Ở đây, Hàn Mặc Tử sử dụng chủ yếu là thi pháp kết cấu so sánh, trùng điệp,
liên tưởng và tưởng tượng. Đã làm nổi bật những vần thơ mang đậm chất trữ tình và
tượng trưng siêu thực. Thể hiện rõ nhất trong cách dùng từ mới lạ để chuyên ý
nhanh và xa, tức là thơ có sự chuyên kênh mau lẹ, phản ứng nội tỉnh thần, khả năng
liên tưởng, tưởng tượng mạnh mẽ. Và đó cũng là một trong những tiêu chuẩn đánh
giá tài năng nghệ sĩ là cái mới lạ, cái độc đáo.
Thơ Hàn Mặc Tử lạ trong cách suy nghĩ lập ý, so sánh, trong cách dùng từ ngữ
giàu hình ảnh. Và cái lạ nhất là một con người phải trải qua những nỗi đau thể xác
và tỉnh thần ghê gớm như vậy nhưng giọng thơ nói chung vẫn không bi quan mà
luôn mơ ước, hướng tới thế giới vĩnh hằng và cũng là con người đã viết ra một
trong những vẫn thơ trong sáng nhất của thơ Việt Nam.
Qua đây, chúng ta đã thấy rõ được những đặc điểm cơ bản nhất của thi pháp
thơ Hàn Mặc Tử. Từ đó giúp người đọc hiểu sâu hơn về thi pháp và thi pháp học,
đặc biệt khi khảo sát hay nghiên cứu thơ của ông sẽ giúp người đọc nắm vững được
những đặc điểm chính của thi pháp thơ Hàn Mặc Tử.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 20 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thi pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
CHƯƠNG 2
THỊ PHÁP NHÂN VẬT, THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ ĐIÊỀN
2.1. THỊ PHÁP NHÂN VẬT TRONG THƠ ĐIỀN
2.1.1. Lí luận chung về thi pháp nhân vật
2.1.1.1. Nhân vật và sự miêu tả nhân vật
Con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học. Dù là tác phẩm trữ tình,
tự sự, kịch, dù trực tiếp hay gián tiếp thì văn học đều miêu tả con người. Nhân vật là
hình thức miêu tả con người một cách tập trung. Nhân vật văn học là những con
người có tên hoặc không có tên có những tính chất, địa vị nhất định, biểu hiện
những tình cảm, ý nghĩ, thái độ nhất định, nhằm thê hiện những tư tưởng nhất định
của tác giả đối với nhân sinh. Nhân vật văn học được sáng tạo ra, hư cấu ra là để
khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống, ca ngợi nhân vật là ca
ngợi đời, lên án nhân vật là lên án đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa cho đời. Vậy
tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu cách hiểu về cuộc đời con người, tìm hiểu tư tưởng,
tình cảm của tác giả đối với con người.
Nhân vật văn học được biểu hiện trong văn học bằng phương tiện văn học.
Trong thơ trữ tình, ta có nhân vật trữ tình, tức con người xuất hiện để bộc lộ nỗi
niềm trước cuộc sống. Đó là con người mang hình thức vô danh, tự bộc lộ mình
bằng cảm xúc, ý nghĩ, cái nhìn băng chính thế giới nội cảm. Trong tác phẩm kịch
nhân vật là con người tự bộc lộ qua hành động và lời nói của chính mình, tự vạch
mặt mình hoặc biểu hiện mình. Trong tác phẩm tự sự nhân vật là con người được
tác giả kế ra, tả ra, băng lời kể. Chính tác giả dùng lời gọi tên nhân vật, gọi tên các
hành động và trạng thái tâm hồn của nhân vật. Nhưng dù là loại hình tượng nào thì
nói một cách khái quát, nhân vật văn học là con người được miêu tả bằng các
phương tiện văn học.
2.1.1.2. Cấu trúc và biểu hiện của thi pháp nhân vật
Quan niệm nghệ thuật về con người: Sự miêu tả con người trong văn học
không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh, và tâm hồn nhà văn cũng không như một
tâm gương trong cho sự vật phản chiêu vào. Vả lại làm gì có nhân vật có săn cho
nhà văn sao chép. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật, kể ra, miêu tả ra nhân vật, và nhân
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 21 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
vật bao giờ cũng hiện ra theo cách hình dung, cảm nhận của tác giả. Ở đây cân phân
biệt quan niệm con người như một phạm trù tư tưởng, đạo đức xã hội với quan niệm
nghệ thuật về con người như một phạm trù nghệ thuật thâm mĩ.
Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện ở điểm nhìn nghệ thuật, ở chủ đề
cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số tâm lý của chủ thể, ở kiểu nhân
vật và các tình huống mà tác phẩm cung cấp, cách xử lý các tình huống và quan hệ
nhân vật trong tác phẩm. Khác với tư tưởng, tác phẩm văn học tập trung thể hiện
một thái độ đối với với cuộc sống trong bình diện quan hệ giữa hiện thực và lý
tưởng, khẳng định cuộc sống nào, phê phán cuộc sống nào, quan niệm nghệ thuật
chỉ cung cấp một mô hình nghệ thuật về thế giới có tính chất công cụ để thể hiện
những cuộc sống cần phải mang những khuynh hướng khác nhau trong những thời
đại khác nhau.Vì thể quan niệm nghệ thuật về con người không những cung cấp
điểm xuất phát để tìm hiểu về nội dung cụ thê trong tác phẩm, mà còn cung cấp một
cơ sở đề nghiên cứu sự phát triển của văn học. Khi quan niệm nghệ thuật có sự đôi
mới, nhà văn sẽ phản ánh được chiều sâu của nhân vật, chiếm lĩnh sâu hơn, rộng
hơn, với những phạm vị, giới hạn của nhân vật. Góp phần tạo nên một diện mạo
mới cho văn học. Quan niệm nghệ thuật có quan hệ mật thiết với con người về mặt
đạo đức, tôn giáo, khoa học, chính trị vốn có của thời đại mình.
Phân biệt nhiệm vụ phân tích nhân vật và nhiệm vụ nghiên cứu thi pháp nhân
vật: Nhiệm vụ phân tích nhân vật là chỉ rõ, cụ thể các nội dung được thể hiện trong
nhân vật, như tính cách, ngoại hình, cử chỉ... qua đó, ta hiểu được vấn đề tác giả
muốn gởi vào nhân vật, như tác giả ca ngợi vấn đề gì, lên án cái gì... Còn nhiệm vụ
nghiên cứu thi pháp nhân vật là khám phá, tìm hiểu và cảm nhận con người qua việc
miêu tả nhân vật. Trong mỗi giai đoạn văn học, mỗi thể loại văn học thi pháp nhân
vật đều có sự thê hiện khác nhau.
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong 7hơ điên
2.1.2.1. Con người cô đơn, dau đứn
Con người cô đơn là một mô típ của thơ lãng mạn. Xuân Diệu, Nguyễn Bính
cô đơn vì không tìm thấy sự chia sẻ, cảm thông của ngoại giới “Thôn đoàn ngôi nhớ
thôn Đông, cau thôn đoài nhớ giẫu không thôn nào”. Hàn Mặc Tử cô đơn vì bị cách
ly khỏi thế giới: “4nh nằm ngoài sự thực, em nằm trong chiêm bao” (Anh điên).
Khoảng cách chia ly trong thơ ông không phải là sự chia cắt trong một không gian
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 22 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
giới hạn như bên ấy, bên này, thôn Đoài, thôn Đông mà là sự chia cắt trong hai
không gian hoàn toàn cách biệt ngoài sự thực, trong chiêm bao, ngoài mây nước,
bên kia trời... Chính vì khoảng cách không gian vô cùng như vậy mà nỗi cô liêu của
con người càng trở nên khủng khiếp “một vững cô liêu cũ vạn đời” (Cô liêu).
Những đau thương thê xác và tinh thần của ông bộc lộ thành tiếng nắc, tiếng khóc,
tiếng CƯỜI, tiếng rú. Đó là nỗi đau sâu sắc, trần trụi, mang một tầm vóc vũ trụ:
Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sâu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi !
Thân tàn ma dại đi rồi
Râu rầu nước mắt bời bời ruột gan
(Muôn năm sẵu thảm)
Lòng ta sâu thảm hơn mùa lạnh,
Hơn hết u buôn của nước mây,
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên siết gió heo may.
(Sâu vạn cổ)
Cả bài thơ là tiếng rên “xuất phát từ bê sâu của một linh hôn tuyệt vọng”
(Hoàng Diệp). Vì thế, nó hết sức chân thực. Nỗi đau trước mối tình tuyệt vọng với
Mộng Cầm đã khiến cho thi sĩ như điên như đại:
Họ đã xa rồi không níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hôn tôi bỗng dại khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ?
(Những giọt lệ)
Buôn xa không đến lệ không rơi
Buôn không thắt ruột, tình không lại
(Gửi anh)
Hàn Mặc Tử hết sức trân trọng thơ của Mai Đình, chủ yếu cũng vì cảm xúc
chân thực của nàng:
Thơ em cũng giống lòng em vậy
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 23 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Bởi thế mà thi sĩ:
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thâm trong áng gió băn khoăn
Anh đã ngâm và đã thuộc làu
Cả người run động bởi thương đau
Bởi vì mê mẫn vì khoan khoái
Anh cắn lời thơ để máu trào
(Lưu luyễn)
Từ điêm nhìn của con người bị quan các nhà thơ mới hay nói đên cái chêt. Cái
chết ngang trái của những người trinh nữ “hồng nhan bạc mệnh”, cái chết lạnh lẽo
không giọt nước mắt của người đời xót thương. Trong thơ Hàn Mặc Tử còn có
những cái chết kì dị, lạ thường: mây chết đuối, trăng tự tử. Phải chăng đó là nỗi ám
ảnh về cái chêt đang đên gân với tác giả, và phải chăng cũng từ thực tê của thân xác
đau thương mà trong thơ ông có nhiều hình ảnh máu đến thế:
Và ai gánh máu đi trên tuyết
(Cuối thu)
Sao bông phượng nở trong màu huyết
(Những giọt lệ)
Máu tìm ta tuôn ra làm biển cả
(Biển hôn ta)
Bao giờ mặt nhật tan thành mắu
(Những giọt lệ)
Bao nét chữ quay cuông như máắu vọt
(Rướm máu)
Hóa thành vũng máắu đào trong ác lặn
(Trường tương tư)
Máu đã khô rồi thơ cũng khô
(Trút linh hôn)
Cuộc đời quan niệm của các nhà thơ lãng mạn là sự dở dang, không trọn vẹn.
Thơ Hàn Mặc Tử cũng năm trong cảm hứng ấy. Cũng như Xuân Diệu, ngay khi sự
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
24 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
sông đương hôi mơn mớn trong mùa xuân tươi thăm là thê Hàn Mặc Tử đã nhìn
thấy cái kết cục ảo não của nó:
Sóng có xanh tươi gọn tới trời
Bao cô thôn nữ hát bên đôi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kể theo chồng bỏ cuộc chơi
(Mùa xuân chín)
2.1.2.2. Con người thèm khát ái tình mà đây mặc cảm
Ngay từ thơ cổ điển “Lệ Thanh thi tập” và thơ lãng mạn đầu tiên “Gái quê”,
đã xuất hiện con người này trong tư thế một chàng trai mới lớn tràn đầy sức sống,
sung mãn khí huyết, Tạo rực ước mơ tình tự ái ân, nhưng lại đắp một con đê ngăn
giữa những con thủy triều khát vọng của lòng mình. Phía bên này bờ đê dồn dập
dâng trào những cơn sóng khát thèm, muốn, rạo rực, đắm đuối, bâng khuâng, bồi
hồi, tự tình... Động thái phổ biến của con người thèm khát này trong Hàn Mặc Tử là
đuôi theo, chạy theo, rẽ lối, rượt theo... những bóng giai nhân nương tử:
Đấy là tắt cả người anh tiêu tán
Cừng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng tình em tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thể
(Trường tương tr)
A ha ! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng bay lá tả ngả trên cành vàng
Tới đáy là tôi được gặp nàng
(Rượt trăng)
Hồn là ai ? Là ai ? tôi chẳng biết,
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
(Hồn là ai)
Cái tâm trạng thèm khát yêu đương bộc lộ rất xô bồ, dạn dĩ và mãnh liệt:
Tôi khát võ cùng
Tôi giết thời gian trong nắm tay
Tôi vo tiếc mên như vo lụa
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 25 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Cát tiếng cười giòn xao động vùng mây
Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Đề nhờ không khí đây lên trăng
Đề nghe tiếng nhạc Nghê Thường trồi
Để hớp tỉnh anh của Nguyệt Câu
Và đề thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trửng, để yêu nhau
(Chơi trên trăng)
Có tôi đây hôn phách tôi đâu
Tôi nhập vào trong xác thịt này
Cốt để dò xem tình ý lạ
Trong lòng bí mát ả thơ ngây.
(Cô gái động trinh)
Rồi chợt nghĩ hưởng thụ hạnh phúc, ái ân.
Ái tình bắt đầu căng
Hoa thơm thì nín lặng
Hương thơm thì bay lan
Em tôi thì hồn hến
Áo xiêm lắm tắm vàng.
(Sảng trăng)
Khi hương thơm kê lỗ miệng
Khi tình mới chạm vào nhau
Em ơi ! Thế nghĩa là sao ?
(Bắt chước)
Những câu thơ khao khát ái tình của Hàn Mặc Tử dồn đập như sóng triều cứ
sục sôi mãi theo chiều dài thi ca không kể xiết.
Thơ Hàn Mặc Tử là “sự kết hợp của chất nhục cảm dân dã, trần tục với chất
thánh thiện siêu thoát tạo ra sự nghịch lý, chướng, dẫu hiện đại” (Kinh nghiệm thơ
và hành trình tỉnh thân của Hàn Mặc Tử - Vð Long Tê). Thèm khát ái tình đến
mãnh liệt, dạn dĩ mới chỉ là một nửa trong con người của Hàn Mặc Tử. Còn nửa kia
là sự dăn lòng chê khắc những dục vọng ham muôn của bản thân.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 26 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Ở trên ta mới đê cập đến những cơn thủy triêu khát vọng tình ái đữ đội, có lúc
lăm le qua con đê vô hình trong Hàn Mặc Tử. Giờ đây, phía còn lại của con đê là
một hồ nước bao la, thanh sạch vô ngần, mặt hồ tâm hồn trong vắt của chàng thi sĩ
như buổi sơ khai. Bên cạnh những khát khao mãnh liệt là sự chế khắc của một con
người nhút nhát, vụng về, xấu hồ, ngần ngại trong tình yêu. Nhìn thấy người yêu,
con người ấy không dám đối diện, gặp mặt:
Bóng người thục nữ ẩn trong mơ
Trong lá, trong hoa khói bụi mờ
Xin chớ làm thỉnh mà biểu lộ
Những tình ý lạ những lời thơ
(Mơ hoa)
Đồng trong im lặng như tờ
Hương gì ngan ngát giả đò say sưa
Gió ơi lại đấy mà ngừa
Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi
Hồn tôi mắc cỡ là vì
Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây
(Say nắng)
Đó cũng là tâm trạng không dám sờ tay lắm hương đối lại khát khao đám ôm
hồn cúc ở trong sương. Bên cạnh con người thèm khát tình ái như bốc lửa, yêu
đương bằng cảm giác hương thơm kề lỗ miệng và ngon như tình mới cắn, lại là một
con người hiền lành, luôn tự chừa cho mình khoảng vọng mỹ nhân, đứng xa thật xa
để chiêm ngưỡng những dung nhan khả ái của người thương, dù rằng có khi đứng
xa quá sẽ nhìn không rõ lắm nhưng vẫn đẹp và mơ hồ.
Và như vậy, từ cái khoảng vọng mỹ nhân trinh bạch ấy, con người thi sĩ tự kỉ
ám thị đã rơi vào một khoảng vọng ái tình. Nghĩa là luôn đứng xa mà hoài vọng tình
yêu âm thầm, nồng sỉ say đắm ngắm nhìn người thương và hết sức nhút nhát. Con
người ấy tự cho mình luôn luôn có một khoảng cách xa vời trước người mình yêu:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
(Mùa xuân chín)
Mơ khách đường xa khách đường xa
(Đáy thôn Vĩ Dạ)
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 27 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Tôi đứng xa lăm xin chừa tôi đi
(Say nắng)
Khoảng vọng ái tình ngày càng xa vời và trở thành vực thắm ghê gớm trong
tâm hồn. Đó là mặc cảm chia lìa, tự khắc chế, ngăn lòng mình trước tình yêu cháy
bỏng. Nỗi ám ảnh về cái xa ấy ngày càng sâu đậm trong không gian cõi thực, mà
còn khủng khiếp hơn đó là khoảng cách siêu thực giữa cõi mơ và cõi thực:
Anh đứng cách xa hàng thể giới
Lặng nhìn trong mộng miệng en cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hôn em đã tới nơi
(Lưu luyến)
Con thuyền tình “Jững lờ trong hiu quạnh” không thê tới “bến lòng em” bởi vì
“va xôi quá biết làm sao” và “anh đứng cách xa hàng thể giới” có thể là mãi mãi.
Người thi sĩ lắm lúc yêu đến cuồng dại tâm trí, nhớ đến như điên, như đại... vậy mà
trước hưởng thụ ái ân lại tự trao cho mình một khoảng vọng ái tình kì lạ. Động thái
kiềm chế khắc kỉ này bật lời thơ van vỉ, có cảm giác như là van xin chính mình. Đã
khao khát ái tình, người ta thường mong đến hôn nhân, nhưng Hàn Mặc Tử lại
muốn cái giây phút hưởng thụ hạnh phúc ân ái xin đừng vội đến:
Những cái gì thơm đã tới kê
Tôi e tình tứ bớt say mê
Không còn ý nhị ban đầu nữa
Sẽ chán trường và sẽ chán chê
(Tối tân hôn)
Nói cách khác, tình yêu chỉ đẹp trong mộng tưởng hơn là khoái cảm nhục dục
tầm thường. Điều này hợp lí với quan niệm tình cảm Hàn Mặc Tử trong quan niệm
thơ. Với thi sĩ điều quan trọng là được sống bằng mơ mộng, chứ không phải là
hưởng thụ nhục dục thân xác tầm thường:
Cho nên tôi tưởng tôi tân hôn
Chưa tới còn xa đề được buôn
Đề sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến giai nhân
(Tối tân hôn)
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 28 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Với Hàn Mặc Tử, tình yêu là chiêm ngưỡng mê say chớ không phải là chiếm
đoạt sở hữu trần tục, yêu là giữ gìn cái đẹp vĩnh cửu như một nguồn tươi, sự trắng
trong nguyên vẹn, một vẻ yêu là một vẻ tân.
2.1.2.3. Con người phân thân, con người trong tiềm thức
Thời đại đã cho con người cái nhìn mới về thế giới xung quanh, về bản thân. Ở
đây, con người trong 7ø mới khao khát khám phá bản thân, họ hay tự đặt ra câu
hỏi “Ta là ai ?”, “Tôi là ai ??. Họ nhìn sâu vào bản thân mình, tâm hồn mình và có
những khám phá lí giải rất tinh tế. Con người trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận là con
người thống nhất về linh hồn, thể xác, con người trong thơ Hàn Mặc Tử bị phân đôi:
Tôi dìm hôn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực
(Hôn là ai)
Sự phân cách thê xuất phát từ cuộc đời tác giả, thân xác bệnh tật bị cách li với
mọi người và cao hơn thế phản ánh ước mong của tác giả. Giải thoát thân xác hữu
hình để tồn tại vĩnh viễn “cho tan ra hòa hợp với tình anh”. Con người bị lạ hóa với
bản thân, không hiểu bản thân nên hay tự hỏi:
Hôn là ai ? Là ai ? Tôi không hay
(Hồn là ai)
Nhà thơ Vũ Quần Phương có một nhận xét khá chính xác về thơ Hàn Mặc Tử:
“từ thơ điên ông hoàn toàn quay vào nội tâm để viết, một nội tâm hoản toàn bị cắt
đứt với các sự kiện xã hội, các giao tiếp xã hội, hoàn toàn cô đơn và luôn luôn phải
đối mặt với cái chết, luôn luôn bị hành hạ vì nỗi đau thể xác”. Có thể thêm răng Hàn
Mặc Tử là một trong những người đầu tiên trong lịch sử thơ ca Việt Nam khám phá
trạng thái vô thức của con người. Nói cách khác trạng thái vô thức là một trong
những đối tượng thơ ca của Hàn Mặc Tử. Đó là một trong những lí do làm cho thơ
ông khó hiểu. Điểm qua tựa đề các tập thơ, bài thơ của Hàn Mặc Tử ta thấy rõ điều:
Say nắng, Cao hứng, Say trăng, Máu cuồng, Hôn điên...
Ông diễn tả trạng thái tinh thần của mình khi nghe nhạc. Miêu tả “phú¿ thôi
miên”, miêu tả cuộc phiêu lưu của hồn “øuôn bóng ÿ thun dân lên chót vót”, trạng
thái cuồng sĩ của thi sĩ “2í ứa cuông lên khoái trá”. Rất nhiều lần ông nói đến giây
phút thăng hoa của tỉnh thần “/hân trí người đã mê man”. Trạng thái khi say thơ “cả
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 29 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
lòng say tót khí linh thiêng” và trạng thái tỉnh thân khi làm thơ cũng như trở thành
đối tượng miêu tả:
Ta muốn hôn trào ra đầu ngọn bút
Môi lời thơ đêu dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuÔng trong máu vọt
Như mê man chết điểng cả làn da
(Rướm máu)
Con người và sự vật trong thơ Hàn Mặc Tử thường ở trạng thái say. GIó “say
lướt mướt trong màu sáng”, trăng xuân “tràn trẻ say chới với”, con người “say kinh
câu nguyện, say trời tương tw”, cả vũ trụ đều ở trong trạng thái quay cuồng “say,
say, say lảo đảo cả trời thơ”. Với trạng thái tỉnh thần như vậy ta hiểu vì sao thời
gian nghệ thuật trong thơ ông chủ yếu là thời gian ban đêm. Đêm là thời điểm thuận
lợi nhất cho trí tưởng tượng mãnh liệt trong thơ ông được phát huy cao độ. Có lạ
lùng chăng khi một con người bị cách li với thế giới bên ngoài, một tín đồ Thiên
Chúa ngoan đạo lại hay nhắc tới khoái lạc, cũng có khi Hàn Mặc Tử nói tới khoái
lạc của đời sống xác thịt, nhưng chủ yếu là khoái lạc tinh thần. Ông tìm thấy những
khoái lạc trong những giây phút thăng hoa của tỉnh thần, khi thì thơ, khi “ngoại cảm
hay thâm tâm đồng xáo động”. Ông có một định nghĩa lạ lùng về thơ: “Thơ là sự
ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt”
(Quan niệm thơ).
2.1.2.4. Con Hgười mơ ước
Thơ Hàn Mặc Tử cũng như thơ của các nhà thơ lãng mạn khác, tràn đầy mộng
ước. Họ coi đó là một trong những cách phủ nhận thực tại. Xuân Diệu tự coi mình
là “con chim đến từ núi lạ”. Huy Cận tự khắc họa hình ảnh của mình là “chàng trai
gối mộng trên trang sách”, Hàn Mặc Tử coi mình là “øgười trong mộng”. Thân xác
càng đau đớn cái chết càng đến gần, mộng ước càng cháy bỏng. Hàn Mặc Tử không
chỉ mơ mộng, ông thật sự sống trong mộng không phân biệt được cái thực và cái ảo
“Tôi ngôi dưới bến đợi nường Mơ” (Cô liêu). Vì sao Hàn Mặc Tử hay mơ ước như
vậy ?. Thực tế đời ông không cho phép ông sống trong cuộc sống bình thường như
mọi người, ông chỉ có thể yêu trong mộng, sống trong mộng. Nhưng dù cho số phận
của ông có khắc nghiệt đến như vậy thì ông cũng không thể thỏa mãn với thực tế.
Ông luôn mang cảm giác khát, thèm, nhưng không phải là đói cơm, khát nước như
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 30 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
có người lầm tưởng. Ông khát miễn chung tình, khát khao thèm thuồng “những vật
lạ muôn đời” nghĩa là khát khao cái tuyệt đối, vô biên, cái không có trong cuộc sống
trần thế “7ôi fìn ánh nắng vạn đời vương” (Ước ao). Vì thế con người ấy phải đi
tìm nó ở Đức Chúa Trời, tức ở một cõi trời cách biệt, ở thế giới ước mơ hay còn gọi
là Thiên Đàng trong niềm tin của một tín đồ Thiên Chúa Giáo để có thê hưởng thụ
cái khác nữa. Thế giới thơ của ông là “bến xa mơ”, “nẻo mơ”, “xứ mộng”. Trong
khi các nhà thơ khác mơ về quá khứ thì thế giới mộng của Hàn Mặc Tử nằm ở niềm
tin, ở ảo giác của ông, ở ngay trong hiện tại:
Hẹn tôi tảng sáng đi tìm mộng
Mộng còn lưởng vưởng bến xa mơ
Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ
Tôi hoảng hôn lên, giận sững sờ
(Một miệng trăng)
Từ đầu canh một tới canh tư
Tôi thấy trăng mơ biến hóa như
Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng
Cứ là môi phút mỗi nên thơ
(Huyễn ảo)
Từ nay trong gió, trong máy gió
Lời thảm thương rên khắp nẻo mơ
(Trút linh hôn)
Thơ Hàn Mặc Tử ít có kết cấu tương phản xưa - nay, gặp gỡ - chia ly... như
thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thế Lữ. Các nhà thơ này dùng kết cầu tương
phản để bộc lộ sự thất vọng với thực tế trong khi thơ Hàn Mặc Tử tràn đầy niềm
mong đợi về một mùa xuân như ý. Chính vì như vậy nên dù thơ của ông là thơ của
một con người ý thức rõ cái chết đang đến gần nhưng thơ không gợi lên cảm giác bi
quan tối tăm như thơ Vũ Hoàng Chương. Những từ ngữ tiêu tán, biến hóa, tan...
Trong thơ ông không mang cái nghĩa thông thường của nó: Cái chết, sự tàn lụi mà
là sự biến hóa từ vật chất từ dạng này sang dạng khác:
Nước hóa thành trăng, trăng hóa nước
Lụa là ước đẫm cả trăng thâu
(Say trăng))
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 31 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
CS S7 S7 Đầndầnhoacỏbiểnratliod o
(Rượt trăng)
Hoặc là sự hòa hợp nhất thể của vật chất, của thân xác đau thương trong một
thế giới khác:
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hôn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
Một lời ru hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hóa thành vũng áo đào trong ác lặn
(Trường tương trr)
Hay:
Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Đề nhờ không khí đây lên trăng
Đề nghe tiếng nhạc Nghê Thường Trồi
Để hớp tỉnh anh của Nguyệt Cầu
Và để thoát ly ngoài thể giới
Đề CHƯỜI, để trừng, để yêu nhau
(Chơi trên trăng)
Hòa tan thành một thể mới chiến thắng thế giới vật chất hữu hình, để trường
tồn mãi mãi cùng vạn vật...
Chúng ta biến, em ơi, thành thanh khí
Cho tan ra hòa hợp với tình anh
Của trời đất của muôn vàn ý nhị
Và tình ta sáng láng như trăng thanh
(Sáng láng)
Qua đây, cho thấy thi nhân muốn thoát ly cuộc sống hiện tại, cuộc sống đầy
dãy những khổ đau và sự trông chờ đến tuyệt vọng. Thi nhân luôn khao khát hòa
CC ^~
quyện với “vữ ír„”, “frăng”, “gió ” đê sông một cuộc sông của riêng thi nhân và
nơi đó không có sự đau đớn tuyệt vọng, chỉ có “ø7ó”, “frăng ” làm bạn với thi nhân.
Thơ Hàn Mặc Tử luôn găn liên với những xúc cảm đau thương. Vì thê, quan
niệm nghệ thuật về con người trong thơ ông trở thành những đặc trưng tiêu biểu. Đó
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 32 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
là một con người cô đơn, đau đớn, con người thèm khát ái tình mà đầy mặc cảm,
con người phân thân con người trong tiềm thức và con người mơ ước. Chính vì lẽ
đó, Hàn Mặc Tử góp phần làm cho thơ ca Việt Nam trở nên phong phú và đa dạng
hơn.
2.2. THỊ PHÁP THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐIỀN
2.2.1. Lí luận chung về thời gian nghệ thuật
2.2.1.1. Khái niệm về thời gian nghệ thuật
Trong Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử quan niệm: “7bời gian nghệ thuật
là thời gian mà ta có thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó,
với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiêu dài thời gian là hiện tại, quá khứ hay tương
lai. Thời gian là hình tượng nghệ thuật nhằm làm cho con người thưởng thức cảm
nhận được: hoặc hồi hợp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tự hoặc chìm đắm vào quá
khứ ”.
Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương
thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Trong triết học người ta xem thời
gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của vật chất, không có dạng thức vật chất nào
tồn tại ngoài thời gian và không gian, mọi dạng tổn tại của vật chất đều có thời gian.
Nghệ thuật là một dạng tồn tại đặc thù, nó cũng có không gian riêng. Tác phẩm
nghệ thuật tỒn tại trong thời gian vật chất. Xem một bài thơ hay một cuốn tiểu
thuyết đều phải mắt thời gian tùy theo dung lượng của tác phẩm, không có thời gian
vật chất tác phâm nghệ thuật không tồn tại. Tuy nhiên vật chất khách quan đó chưa
phải là thời gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể cảm nhận được trong tác phâm
nghệ thuật. Qua một tác phẩm ta có thể trải qua một cuộc đời, trải qua nhiều thế hệ,
quay lại quá khứ hoặc vượt lên trước tương lai hoặc sống với thời gian cõi tiên. Như
vậy thời gian nghệ thuật là thời gian ta có thể cảm nhận được độ dài của nó, nhanh
hay chậm, hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật là một hình tượng
nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhăm làm cho người đọc cảm nhận
được sự hôi hợp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư hoặc đắm chìm quá khứ. Thiếu sự
cảm nhận, cảm thụ, tưởng tượng của người đọc thì thời gian nghệ thuật không xuất
hiện. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù đặc trưng của văn chương. Thời gian là
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 33 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
đôi tượng, chủ thê là công cụ miêu tả, là sự tự ý thức, cảm nhận về sự thay đôi vận
động của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian xuyên suốt tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật là cái thời gian được cảm nhận băng tâm lý, qua chuỗi
liên tục các biến cố đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới nghệ
thuật. Là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý và mang ý nghĩa thâm mỹ, nên thời
gian nghệ thuật khác với thời gian khách quan. Tầm quan trọng của thời gian nghệ
thuật đối với sáng tác. Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học. Bởi
văn học là nghệ thuật thời gian. “7hời gian nghệ thuật là đối tượng, là chủ thể, là
công cụ miêu tả, là sự tự ý thức và cảm giác về sự vận động và thay đổi của thế
giới,... của văn học ”. Thời gian trong văn học không còn giản đơn là cái dung chứa
các quá trình đời sống mà một nhân tố độc lập tham gia vào hành động nghệ thuật,
là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất đề tổ chức nội dung của nghệ thuật.
2.2.1.2. Cầu trúc và biểu hiện của thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong văn chương yếu
tố nào cũng có thời gian của nó nhưng chúng ta cần chú ý đến hai yếu tố chính và
cơ bản nhất:
Thời gian trần thuật là thời gian vận động theo dòng vận động tuyến tính, một
chiều của văn bản ngôn từ. Người ta nói văn chương là nghệ thuật thời gian bởi vì
văn chương diễn đạt các sự vật, hiện tượng theo trật tự thời gian của lời nói liên tục
từ câu đầu cho đến câu cuối cùng không thể nào đảo ngược. Thời gian trần thuật là
thời gian của người kể, sự kế hay còn gọi là thời gian phát ngôn. Thời gian trần
thuật có các đặc điểm sau: có mở đầu, có kết thúc sau đó là thời gian hữu hạn; có
tốc độ và nhịp độ riêng do người kể nhanh hay kế chậm; nó có thể đem cái xảy ra
sau kế trước và ngược lại nó luôn luôn mang thời hiện tại.
Nếu mỗi lời nói ta phân biệt hai sự kiện là sự kiện nói và sự kiện được nói tới
thì trong văn học cũng vậy ta phân biệt thời gian trần thuật và thời gian được trần
thuật. Thời gian trần thuật là thời gian của sự kiện được nói tới, thời gian được trần
thuật bao gồm thời gian sự kiện đó là chuỗi liên tục các sự kiện trong quan hệ nhân
quả; thời gian nhân vật bao gồm thời gian tiểu sử và thời gian được nếm trải qua
tâm hôn nhân vật.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 34 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Mỗi quan hệ giữa thời gian trân thuật và thời gian được trân thuật. Đó là sự sắp
xếp, phối trí của thời gian được trần thuật vào thời trần thuật mới được tạo ra thời
nghệ thuật thật sự. Mối quan hệ này được biểu hiện qua các tương quan sau đây:
Tương quan giữa điểm mở đầu và điểm kết thúc của thời gian trần thuật với
điểm mở đầu và điểm kết thúc của thời gian sự kiện. Hai điểm này có thể trùng hoặc
không trùng nhau.
Tương quan sự kiện trong thời gian trần thuật: Các sự kiện trong thời gian trần
thuật có thê liên tục nhau sự kiện này kề theo sự kiện khác. Có thê giữa các sự kiện
có khoảng cách thời gian ngắn hoặc dài. Người ta dùng để miêu tả phong cảnh, tâm
trạng có thể đối đầu nhau sự kiện này chưa xong sự kiện khác tới, có thể ngắt nửa
chừng, có thể đảo ngược thời gian, có thể trần thuật dồn nén, tỉnh lược dồn nén.
Tương quan giữa thời gian trần thuật và thời gian nhân vật. Đó là việc xây
dựng thời gian trần thuật dựa vào quá trình, sự ý thức của nhân vật, ví dụ vận dụng
kí ức của nhân vật đề trần thuật.
Các bình diện thời gian (các đoạn thời gian), thời gian có ba bình diện: Thời
gian hiện tại và thời gian đóng vai trò chủ đạo, đó là thời gian cảm nhận, hồi tưởng
quay về quá khứ nhưng đồng thời cũng sống lại thời gian hiện tại của quá khứ, mơ
ước về tương lai là sống với hiện tại của tương lai; thời gian quá khứ: Trong văn
học thời gian quá khứ xuất hiện muộn, trong truyện trung đại, truyện dân gian thời
gian quá khứ không phát triển chỉ có trong văn học hiện đại mới chú trọng quá khứ,
mới có hiện tượng nhân vật ý thức về đời sống nội tâm của mình. Quá khứ trong
truyện thường thể hiện qua hình tượng ông già, bà già, huyền thoại, truyền thuyết,
các dấu tích, vết tích, giác mơ, hồi ức, thời gian tương lai được thể hiện trong hình
ảnh trẻ con, giác mơ, dự kiến, tương lai.
Trong văn học ngoài ba bình diện trên còn có thời gian vĩnh viễn, trường tồn,
thời gian ngoài thời gian. Ví dụ thiên nhiên tuần hoàn. Thời gian vĩnh viễn là thời
gian không có quá khứ, tương lai mà chỉ có một sự kiện kéo dài bất biến của thời
hiện tại.
Độ đo thời gian thê hiện mức độ ý thức về thời gian. Con người ta có thể nhận
biết về thời gian theo ngày, theo mùa, theo năm, theo tháng, theo giờ, theo tuần. Và
có thể đo bằng thời đại, kỉ nguyên, thời đại. Có thể đo băng tuổi ấu thơ, nhi đồng,
thiêu niên, thanh niên.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 35 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Thời gian khép kín và thời gian mở: Thời gian khép kín là thời gian vận động
theo các dự kiện đã cho đến kết thúc. Còn thời gian mở là thời gian của tiến trình sự
xuất hiện những khả năng mới, bước ngoặc mới mà không định trước.
2.2.2. Thời gian nghệ thuật trong Thơ điên
2.2.2.1. Thời gian truy đuổi
Hiếm có ai nói về nỗi cô đơn và bi kịch số phận như Hàn Mặc Tử bằng cái tái
hiện thời gian nghệ thuật có một không hai như thế này. Dưới áp lực nghiệt ngã của
định mệnh, Hàn Mặc Tử phải sống như cái chết của mình. Hằng ngày thi sĩ nhìn
chiếc đồng hỗ cát số phận vơi nhanh dần những hạt thời gian còn lại. Bị số phận
truy kích, Hàn Mặc Tử sáng tạo dồn dập để chạy đua với tử thần. Thế là ám ảnh
thời gian truy đuổi hình thành, lúc nào thi sĩ cũng ám ảnh nỗi lo chuyến tình ái lỡ
làng:
Thuyên ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
(Đáy thôn Vĩ Dạ)
Nhạy cảm với nỗi bất hạnh của cuộc đời mình, nhà thơ ý thức được cái hữu
hạn của thời gian. Những thời xanh tráng lệ, những ngày xưa đâu còn nữa. Thời
gian hiện tại chỉ là những nỗi đau. Hàn Mặc Tử ít nói đến tương lai và ngày mai.
Cảm hứng thời gian trong nhà thơ là níu giữ:
Tôi giết thời gian trong nắm tay
Nhà thơ muốn thời gian trôi chậm lại để lưu giữ vẻ đẹp của con người:
Tôi lạy muôn vì tỉnh tú nhé
Xin đừng luân chuyển để thời gian
Chậm đi cho kẻ tôi yêu dấu
Vẫn giữ màu tươi một mỹ nhân
(Thời gian)
Nhịp điệu thời gian tâm tưởng là truy đuôi gấp gáp. Trong thơ Hàn Mặc Tử
xuất hiện ra nhiều từ ngữ diễn tả các động thái, các cung bậc tâm trạng ẫy: đuôi, bắt,
kịp, mau lên, cho mau, tiếc, kìm, níu, nuốt... Nhà thơ hoảng hốt trước thời gian trôi
đi:
Miệng giếng hả ra
Nuốt ực bao la
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 36 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Nuốt vì sao rồi
Loạn rồi ! Loạn rồi ! ôi giếng loạn
(Trăng tự tử)
Sự truy đuổi cảng ngày càng quyết liệt:
Tôi gò trăng lại
Tôi kừm sao bay
(Chơi trên trăng)
Đo từ ngọn có tới cung trăng
Những sợi hào quang vạn thước vàng
Bắt ! Bắt ! Thơ bay trong gió loạn
Đề xem tình tứ nặng bao cân
(Uớóc ao)
Hay:
A ha ! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng bay lá tả ngả lên cành vàng
Tới đáy là tôi được gặp nàng
(Rượt trăng)
Thậm chí là:
Khát khao trăng gió mà không hay !
Ta đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy
(Ngủ với trăng)
Tôi vo tiếc mến như vo lựa
Tôi giết thời gian trong nắm tay
(Chơi trên trăng)
Đến khi nỗi, tuyệt vọng cùng cực thức dậy, nhà thơ tự nhủ lòng:
Hãy tưới lên hoa giọt lệ nông
Đểm từng cánh một mây lần thương
Hãy chôn những mảnh xuân tàn tạ
Và hãy chôn sáu tận đáy lòng
(Mơ hoa)
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 37 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Thời gian nghệ thuật luôn mang dấu ân chủ quan của nhà nghệ sĩ. Với Hàn
Mặc Tử nhịp điệu thời gian cứ truy đuổi cứ ấn hiện theo tâm trạng của nhà thơ. Từ
“Thơ Điên” trở về sau, ấn tượng vội vã, truy đuổi ngày càng xuất hiện nhiều hơn
với tần số ngày càng dày hơn.
2.2.2.2. Thời gian gấp khúc
Số phận thời gian của Hàn Mặc Tử là một chuỗi thời gian đở dang, nhất là về
tình yêu và sự sống. Tài hoa và bạc mệnh là một nghịch lí của biết bao tài tử giai
nhân như J.Leiba từng viết:
Thi nhân bạc đầu sớm hơn ai
(Hoa bạc mệnh)
Nhưng ở Hàn Mặc Tử điều này quá nghiệt ngã, đau khổ. Ám ảnh về sự gấp
khúc, quanh co và đứt gãy trở thành mô típ thời gian nghệ thuật trong thơ của thi sĩ.
Đó là những thay đổi bất ngờ, đột ngột:
Hẹn tôi tản sáng đi tìm mộng
Mộng còn lưởng vưởng bến xa mơ
Tiếng gà gáy rụng trăng đâu hạ
Tôi hoảng hồn lên, giận sững sờ
(Một miệng trăng)
“Trăng rụng” nghĩa là đêm hết, mà thi sĩ lại sống nhiều với trăng đêm, nên cơn
giận nồi sôi lên “sững sở”. Có lúc vằng trăng “ngã ngửa”, “sắp mặt, “vỡ tan”:
Tối nay trăng ở khắp phương
Thảy đều náo nức khóc mừng vụ quy
Say ! Say láo đảo cả trời thơ
Gió rít tằng cao trăng ngã ngửa
Vðỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuỗng mửa mắu ra
(Say trăng)
Dòng mạch thời gian biến đổi theo tâm tưởng khiến mạch thơ thi nhân liên tục
rẽ ngoặt:
Không rên siết là thơ vô lÿ
Em có chẳng mà đành đoạn chia phôi
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 38 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Xưa thứ gì dinh dáng ở đầu môi
Nay trả lại để tôi làm dấu tích
(Dấu tích)
Một trường hợp khác cũng tương tự như vậy, giữa khung cảnh mùa xuân chín
rạng rỡ niềm vui, các cô thôn nữ đang say sưa trong tiếng hát thì đột nhiên nhà thơ
liên tưởng mặc cảm chia lìa:
Sóng có xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát bên đôi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
(Mùa xuán chín)
Trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, tâm trạng thi nhân đang vui với “nắng mới”. “nắng
hàng cau”, VỚI “Vườn ai mướt quả xanh như ngọc” và “lá trúc che ngang mặt chữ
điển” thì nỗi buôn chia ly lại ập đến cùng trăng đêm. Từ sớm mai vụt biến đến trăng
khuya là một sự đứt gãy của tâm trạng đầy bất ngờ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buôn thiu hoa bắp lay
Thuyên ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Đến đoạn cuối thì hoàn toàn là thời gian ám ảnh dày đặc một màu sương khói
nhạt nhòa trong tâm tưởng, không phân biệt được đêm ngày:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
(Đáy thôn Vĩ Dạ)
Phải đây là thời gian đồng hiện, xen lẫn hiện tại, quá khứ và tương lai theo các
trạng thái tâm trạng và mặc cảm chia lìa, một thứ thời gian gấp khúc nội tâm của thì
nhân.
Ngay đến giấc mộng tình đẹp như mơ vậy mà nhuốm màu ly biệt:
Ta còn trìu mến biết bao người
Vẻ đẹp xa hoa của một thời
Đây lệ, đây thương, đây tuyệt vọng
Ôi ! Giờ hấp hồi sắp chia phôi !
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 39 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Ta trút linh hôn giữa lúc đây
Gió sâu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả
Xin để tan anh đến vạn ngày
(Trút linh hôn)
Tình yêu nở hoa thơm ngát rồi chợt tàn phai bởi biệt ly bất ngờ xuất hiện. Ám
ảnh chia phôi, lỡ làng ¡n dấu trong nhiều hình ảnh, ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Nó
gợi cái gì đột ngột, gấp khúc, đứt gãy trong cảm giác về thời gian ngắn ngủi của
cuộc đời thi sĩ tài hoa đoản mệnh.
Hàn Mặc Tử phải sống thật gấp, rượt đuôi với thời gian. Vì thi nhân cảm nhận
được thời gian của cuộc đời mình ngày càng vơi dần đi. Mặc dù thời gian của ông là
những chuỗi ngày đau đớn quần quại vì bệnh tật, nhưng ông vẫn rất quý thời gian
vô cùng. Hàn Mặc Tử luôn bị ám ảnh bởi thời gian của mình. Đó là thời gian truy
đuổi, thời gian gấp khúc. Chính vì lẽ đó, góp phần tạo điều kiện cho Hàn Mặc Tử
sáng tác nhiều bài thơ hay trở thành tuyệt tác của thơ ca Việt Nam.
2.3. THỊ PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ TRONG THƠ ĐIỀN
2.3.1. Lí luận chung về thi pháp không gian nghệ thuật
2.3.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
Trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Trần Đình Sử quan niệm “ không
gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tôn tại và
triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thể giới của cái nhìn
và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn,
cách nhìn ”.
Không gian trong văn chương nghệ thuật là một hiện tượng nghệ thuật, là một
sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ nhăm biểu hiện con người
và thê hiện quan niệm nhất định của đời sống do đó không thể quy nó về không
gian địa lý, vật lý, vật chất. Bản thân không gian địa lý, vật lý, vật chất không phải
là không gian nghệ thuật, chúng được xem là không gian nghệ thuật khi được biểu
hiện mô hình thế giới và thể hiện một qua niệm về con người.
2.3.1.2. Cấu trúc và biểu hiện của không gian nghệ thuật
Không gian trần thuật: trần thuật là người trần thuật nhập vào thế giới đang
được trần thuật, là sống trong không gian của truyện khi kể chuyện giữa người kể
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 40 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
và thê giới được kê hình thành không gian ảo với nhiều mối tương quan tác động
lẫn nhau. Tương quan giữa người kê với thế giới các nhân vật, các sự kiện, các quan
hệ, giữa người kế với ngôn ngữ của nhân vật, giữa người kể với ngôn ngữ của chính
mình.
Không gian được trần thuật là không gian được kể, tả trong truyện. Không
gian trần thuật bao gồm không gian bối cảnh, không gian sự kiện, không gian tâm
lý. Không gian bối cảnh là môi trường sống, hoạt động của nhân vật, là một địa
điểm nào đó có tên hay không có tên, trong đó có đủ thiên nhiên, xã hội, con người.
Không gian sự kiện là những sự kiện xảy ra có tác động đến nhân vật gây ra những
sự kiện khác tiếp theo quan hệ nhân quả tạo thành chuỗi sự kiện được sắp xếp liền
mạch sẽ tạo nên cảnh ngộ nhân vật, tạo nên tình huống bộc lộ tính cách, tâm trạng
nhân vật. Không gian tâm lý là những trạng thái tâm lý của nhân vật mà chủ yếu là
những trạng thái như niềm vui, nỗi buôn, hồi ức, mơ ước, mộng mỊị, ám ảnh.
Không gian nghệ thuật có một số đặc điểm sau: Không gian nghệ thuật thống
nhất chứ không đồng nhất với không gian khách thể; không gian vật chất bên ngoài
vô tư không lệ thuộc vào ý muốn của con người nhưng khi không gian đó được tái
hiện, tái tạo trong tác phẩm thì nó trở thành hình tượng không gian hay là không
gian nghệ thuật. Qua không gian nghệ thuật tác giả thể hiện cách cảm, cách nghĩ về
thế giới, trật tự thế giới thê hiện một quan điểm nhân sinh, thể hiện một thái độ sống
trước cuộc đời; không gian nghệ thuật là một hình tượng nghệ thuật sinh động được
cảm nhận bằng ý thức chủ quan, băng cảm xúc tâm trạng của nhà văn; không gian
nghệ thuật mang tính ước lệ là sự quy ước, trở thành thói quen trong sáng tác.
Không gian thường biểu thị qua các từ chỉ không gian vốn đã được mã hóa sẵn như
trên cao, dưới thấp, rộng, hẹp, dải, ngắn. Đặc biệt không gian nghệ thuật mang tính
quan niệm thể hiện tư tưởng của nhà văn; không gian nghệ thuật tập trung vào cái
nhìn, điểm nhìn quan sát. Điểm nhìn và vị trí đứng của chủ thể trong không gian thể
hiện phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn và đặc điểm khách thê được nhìn.
Các hình thức không gian nghệ thuật trong văn chương:
Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian: Đặc điểm chung của không
gian nghệ thuật trong văn học dân gian là mô hình ba giới, ba tầng, ba cõi. Thượng
giới, trần gian và địa ngục với thần linh, người và ma quỷ. Không gian trong văn
học dân gian là ít gặp sự cản trở. Trong thần thoại không gian mang tính chất đặc
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 4I SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
thù, mang tính nguyên sơ, hoang dã là nơi xuât phát đâu tiên của các sự kiện, vì
thần thoại là một thể loại sớm nhất, nó ra đời vào thời thơ ấu của loài người, lúc đó
vũ trụ chỉ là cõi hồng hoang, âm u, lạnh lẽo.
Không gian cô tích là không gian ít chống đối, cản trở với môi trường. Ở đó
con người tự đo hoạt động tự do duy chuyền không ngần ngại. Con người luôn luôn
có sự giúp đỡ của lực lượng thần kì siêu nhiên, chính vì thế cô tích luôn có những
phương tiện đi lại diệu kì như chiếc thảm biết bay, đôi giày vạn dặm, viên ngọc
quý...
Không gian trong ca dao không còn yếu tố hư ảo như không gian trước đó mà
thay vào đó là không gian sinh hoạt, lao động của con người.
Không gian trong văn học hiện đại đa dạng và phong phú nhưng đặc trưng là
không gian về đời sống xã hội của con người, nơi mà con người trần tục tồn tại.
Trong văn học hiên đại không gian mang tính cá nhân, phản ánh cuộc sống của từng
cá nhân. Không gian mang đậm dấu ấn cá nhân. Những con người trong văn học
hiện đại có thê là những cá nhân sống trong không gian nhỏ hẹp, quanh quần bề tắc
hoặc không gian gắn liền với nỗi buồn, thất vọng trong tình yêu.
2.3.2. Thỉ pháp không gian nghệ thuật trong Thơ điên
2.3.2.1. Không gian điểm hẹn ái tình
Từ địa hạt Đường thi cổ điển, sẵn có những rung động lãng mạn của một cái
tôi trữ tình khao khát yêu đương, Hàn Mặc Tử bước tới chân trời Thơ mới, hòa nhập
với cảm xúc mới của cả thế hệ thi sĩ đang đắm say với “trời tình”, “bể ái” như Thế
Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư...Những khát vọng tình yêu đã làm nên
biết bao rung động xao xuyến, những nhịp đập hỗồi hộp giăng mắc suốt hành trình
thi ca Hàn Mặc Tử. Với Xuân Diệu, điểm hẹn ái tình là mảnh vườn tình ái. Nguyễn
Bính lại hay nói đến “vườn quê” và “đất khách”. Trong con mắt yêu đương của Hàn
Mặc Tử thì lúc nào cũng thế, ở đâu cũng thế, không gian luôn luôn thấm đẫm cái
nhìn về điểm hẹn tình yêu trai gái. Trong tập “Gái quế”, ta thấy xuất hiện không
gian vườn tình, vẻ đẹp của những miệt vườn xanh tốt xứ Huế đã đi vào thơ Hàn
Mặc Tử và hiện ra bằng bức tranh thiên nhiên đây trinh tiết và thanh sắc. Đối với
Hàn Mặc Tử, vườn là điểm hẹn ái tình của chàng thi sĩ luôn rạo rực yêu đương.
Trong cái vườn thơ rộng rung rinh không bờ bến của Hàn Mặc Tử có biết bao mảnh
vườn tình ái với vẻ đẹp tuyệt mĩ:
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 42 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Sao em không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quả xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Thơ Hàn Mặc Tử có nhiều hình ảnh hoa trái như gợi những vườn cam, vườn
me, vườn dâu, vườn dừa. Tiếp đó là các điểm hẹn với sự có mặt của thiên nhiên thơ
mộng, thanh vắng, đầy thanh sắc, gợi tình, dễ liên tưởng đến nơi trai gái hẹn hò tình
tự như bến nước, hồ nước, dòng nước, khóm cây... Không phải ngẫu nhiên mà Hàn
Mặc Tử hay nhắc đến bến sông trăng, dòng nước buôn thiu, bến Hàn Giang, bến
lòng em, bến Mê Hà, sông Ngân, sông Ngân Biếc...
Gió theo lỗi gió mây đường mây
Dòng nước buôn thiu hoa bắp lay
Thuyên ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
(Đáy thôn Vĩ Dạ)
Anh đã gặp hôn em đương chới với
Bến Mê Hà trốn trải nước mênh mông
Anh đã đón tình em bay phất phới
Như hương trăng đẳm thắm cõi không gian
(Sáng láng)
Thực hư làm sao phán biệt được !
Sông Ngân Hà nồi giữa màng đêm
(Đà Lạt trăng mò)
Mộng yêu đương đang khi tim dào đạt
Thuyên anh neo đậu bến Hàn Giang
(Khói hương tan)
Không gian điểm hẹn tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử hay gắn với khóm cây,
sóng cỏ, giàn thiên lý, hàng thông, hòn cù lao... như là dấu tích kỉ niệm lứa đôi:
Ai hãy làm thỉnh chớ nói nhiêu
Để nghe dưới đáy nước hỗ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 43 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Hay:
Và đề xem trời giải nghĩa yêu
Hàng thông lấp loáng đứng im trong gió
Cành lá in như đã lặng chìm
(Đà Lạt trăng mò)
Mặt trời mai ấy đỏ ong
Nàng tiên hỏng mát trên hòn cù lao
Mùi xiêm thơm tựa sen ngào
Áo xiêm nhuộm nắng hông đào chưa khô
(Say nắng)
Trong làng nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lắm tắm vàng
SỐf soạt gió trêu tàn áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang
Sóng có xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát bên đồi
(Mùa xuân chín)
Hình ảnh những cây lá thanh nhã hữu tình trong khuôn viên đầy vẻ lãng mạn,
có cỏ cây, có gió, có mây, ao nước... một phong cảnh tuyệt đẹp và toàn bích ở trân
gian:
Đề cho hoa gió thì thào
Đề cho mây nước nôn nao
Quên câu thương nhớ rồi sao
Em ơi thế nghĩa là sao ?
Trăng đang nằm trên sóng cỏ
Cỏ đưa trăng đến bên ao
Trăng lại đẫm mình xuống nước
Trăng nước đêu lặng nhìn nhau
(Bắt chước)
Cuôi cùng, không gian điêm hẹn ái tình của Hàn Mặc Tử là chôn non nước
thanh tú thanh sạch, gió mát trăng thanh:
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
44 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Tôi yêu trời nguyệt bạch
Tôi say màu thanh thiên
Tôi ưng ả thuyễn quyên
Ở trong pho tình sử
(Cao hứng)
Như vậy, từ mảnh vườn tình ái nơi trần thế, Hàn Mặc Tử đi qua những điểm
hẹn ái tình giăng mắc suốt vườn thơ rộng rung rinh không bờ bến đề đến với mảnh
vườn ái tình tâm tưởng vườn trăng, vườn tiên, vườn mơ. Từ bến sông trăng ở thôn
Vĩ Dạ, thi sĩ đã đi đến bến mộng, bến tình và chủ đích cuối cùng là bến lòng em.
Nhưng tiếc thay, con thuyền trăng, con thuyễn tình ái trên dòng sông trăng, dòng
sông thi ca mộng tưởng cứ mải miết mãi mà không sao tới được bến lòng em.
2.3.2.2. Không gian vây búa, rướ1n máu
Định mệnh số phận nghiệt ngã đã xô đây Hàn Mặc Tử đến vực thắm cô đơn,
dường như phải cách ly hoàn toàn với cuộc đời. Nhà thơ luôn luôn sống trong cảm
giác bị vây hảm, trong cái không gian trời sâu, giếng thắm. Ám ảnh đó cứ đeo bám
lấy thi sĩ và hiện ra bằng tâm trạng cô độc khủng khiếp:
Tôi còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu 2
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ?
(Những giọt lệ)
Chao ôi ! Ghê quá trong tự tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời
(Cô liêu)
Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử luôn ám ảnh về mặc cảm về thân phận
bị bỏ rơi. Thi sĩ chới với tuyệt vọng giữa không gian hãi hùng của trời sâu, chốn lưu
đày của những thân phận bắt hạnh.
Ngoài ám ảnh không gian trời sâu, Hàn Mặc Tử còn bị ám ảnh bởi không gian
của đáy giếng tối om vây bủa mịt mù. Thi sĩ đã:
Ta đã ngậm hương trăng đây lỗ miệng
Cho ngây người mê dại đến tâm can
Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 45 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Mà muôn năm rướmn máu trong không gian
(Rướm máu)
Đó là một không gian vây bủa, không gian thù nghịch, một thời gian đau khô
mà thi sĩ muốn quên, muốn xóa đi:
Anh điên anh nói như người dại
Van lại không gian xóa những ngày
Những ngày đau khổ nhuộm buôn thiu...
(Lưu luyến)
Một cái không gian thời gian đáng nguyễn rủa:
Gió nào tràn ngập xứ này
Và tràn ngập cả những ngày xa xôi
Không trào nước mắt không thê thảm
Tôi dọa không gian, rủa tới cùng
Tôi khát võ cùng
Tôi giết thời gian trong nắm tay
Tôi vo tiếc mễn như vo lụa
Cát tiếng cười giòn xao động vùng mây
(Chơi trên trăng)
Nguyễn rủa cái không - thời gian “rướm máu” đó để bay lên một không gian
vũ trụ, ở đây ánh bình minh “chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới”. Thi sĩ muốn
“thoát ly ngoài thể giới ” đễ bay lên với Trăng “để hớp tỉnh anh của nguyệt câu ”, đề
“lên chơi Cung Quể”, ở đây có “tiếng nhạc Nghê Thường”, có tình yêu ngọt ngào,
“Vườn tiên sáng láng như lòng người thương”. Trăng là mô típ chủ đạo thể hiện thế
giới ước mơ, thế giới lí tưởng trong thơ Hàn Mặc Tử. “Có /ẽ răng đóng vai trò chủ
thể trong hơi thơ và tứ thơ của Tử” (Yên Lan).
Thị sĩ lại rùng rợn khi cảm nhận:
Người lắng nghe, lắng nghe trong đáy giếng
Tiếng vàng rơi lửn chỉm xuống hư vô
(Thi sĩ Chàm)
Và hoảng sợ tột cùng:
Miệng giếng hả ra
Nuốt ực bao la
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 46 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Nuốt vì sao rồi
Loạn rồi ! Loạn rồi, ôi giếng loạn
Ta hoảng hôn, hoảng vía, ta hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên
(Trăng tự tử)
Tâm trạng phô biên của Hàn Mặc Tử lúc nào cũng cảm thây bị sô phận vây
bủa, như đang rơi tụt xuống một vực thăm hư vô không đáy với tốc độ khủng khiếp.
Cảm giác ấy kêu lên một tiếng vọng dài thảm thiết trong không gian:
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ sỉ
(Những giọt lệ)
Mặt trời đồ máu lên láng tràn ngập khắp vũ trụ mênh mông còn con người thì
thu nhỏ cô độc nhỏ bé trong một khối lòng cứng tợ si. Con người giờ đây chỉ còn và
một mà thôi:
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hôn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ tan cháy trong nắng rọi
Một lời ru hoi hóp giữa không trung
(Trường tương tư)
v1?
Và tất cả “hóa thành vũng máu đào trong ác lặn” (Trường tương tr). Có thê
xem đây là ám ảnh siêu thực khủng khiếp trong Hàn Mặc Tử: Mặt nhật tan chảy
thành máu, vũ trụ tính không nhuộm đỏ một máu rùng rợn. Nỗi thương đau quằn
quại đã hiện ra băng một không gian và cả thời gian rướm máu vô tận “mà muôn
năm rướm máu trong không gian” (Rướmn máu). Những hình ảnh vũng mắu, vũng
trăng, vũng cô liêu, vũng hồn... ngày càng dày đặc ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
(Rướm máu)
Ta cắm thuyên chính giữa vũng hôn ta
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
47 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
(Biển hôn ta)
Tôi dìm hôn xuống một vũng trăng đêm
Cho trăng ngập trăng dôn lên tới ngực
(Hôn là ai)
Chao ôi ! Ghê quá trong ft tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời
(Cô liêu)
Mọi sự vật thiên nhiên điều nhuốm một màu mặc cảm thân phận bị đát của thì
nhân. Con người giống như trăng sao đang chết chìm trong lòng giếng lạnh, con
quái vật hư vô há miệng nuốt ực bao la, nuốt vì sao... để biễn thành giếng loạn.
Cảnh tượng trăng vỡ chìm trong lòng giếng lạnh là một ma lực ám gợi ghê người.
Lòng người cô đơn, u hoài hóa thành giếng lạnh để chính mình nhảy xuống cái
giếng lạnh ấy vớt lấy vần trăng tâm hồn đang chìm vỡ, buốt giá kinh hoàng.
2.3.2.3. Không gian vượt thoát
Hàn Mặc Tử viết nhiều thơ về trăng, sao và bóng đêm, bởi nó là những ám ảnh
thời gian tăm tối, cô đơn, u huyền của người thi sĩ. BỊ cầm tù bởi xác bệnh tật đau
đớn dày vò, Hàn Mặc Tử liên tiếp có những cuộc “vượt ngục” tình thần. Thi sĩ
muốn quên đi tất cả cái không gian bị vây bủa khổ đau:
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chấp tôi lạy cả miễn không gian
(Một miệng trăng)
Anh điên anh nói như người dại
Van lạy không gian xóa những ngày
(Lưu luyễn)
Có lúc nhà thơ ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian, nghĩa là như
muốn xóa đi tất cả những dấu tích bất hạnh thảm kịch đời người, để chỉ còn lại một
không gian màu trắng hư vô. Có khi cơn giận sôi sục làm cho thi nhân buông lời
nguyễn rủa “tôi dọa không gian rủa tới cùng” (Chơi trên trăng), nguyễn rủa cái
không gian vây bủa, cô đơn của trời sâu, giếng thắm và không gian rướm máu để
bay lên một không gian vũ trụ cao vút trên thinh không Thượng thanh khí. Chính vì
thế mà trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện ám ảnh về một không gian vượt thoát. Nơi
đó là cung Quế, xứ say mơ, động Huyền không, vượt ra ngoài cõi hư linh, có tiếng
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 48 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
nhạc Nghê Thường thiêng liêng, tràn ngập trăng thanh, gió mát đây trinh tiết và đây
thanh sắc:
Lên chơi cung Quế lần đâu
Ôi phép lạ, ôi nhiệm mầu
Vườn tiên sáng láng như lòng người thương
(Chơi trên trăng)
Sông Ngân đã im lìm không tiếng sóng
Mà lòng anh dạt dào mãi không thôi !
Ở tâng cao khúc Nghê Thường đông vọng
Nghe gì đâu, em hỡi ! Ráng máy trôi
(Sáng láng)
Đấy là tất cả người anh tiêu tán
Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng tình em tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thể
(Trường tương tr)
Không phải ngẫu nhiên Hàn Mặc Tử viết nhiều về động thái bay, diễn tả
không gian vượt thoát. Lúc nào nhà thơ cũng tự kỷ ám thị về sự vượt thoát cái ngục
tù của thê xác, bay lên trong tâm tưởng. Hàng loạt từ ngữ diễn tả không gian vượt
thoát đã xuất hiện dày đặc trong thơ Hàn Mặc Tử:
Ta ném mình đi theo gió trăng
Lòng ta tản khắp bốn phương trời
Cửu trùng là chốn xa xôi lạ
Chim én làm sao bay đến nơi
(Ghen)
Ta không nhấp rượu
Mà lòng ta say
Vì náo nức muốn
Ghì lấy mây bay
(Ngủ với trăng)
Ta bay lên ! Ta bay lên
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thêm
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
49 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Ta ở trên cao nhìn trở xuống
Làng láng máy khói quyện trăng đêm
(Chơi trên trăng)
Đó có thể nói là sự vượt thoát bằng mộng tưởng, mô típ chim Phượng Hoàng
gắn với không gian vượt thoát “Phượng Hoàng bay trong một tối trăng sao ”, “Nhớ
khi xưa ta là chim Phượng Hoàng” đã thể hiện khát vọng vươn tới sự cao cả, phi
thường, đồng thời bộc lộ ý thức kêu hãnh về thiên chức thi nhân Hàn Mặc Tử. Nếu
như trước đây cánh chim hải âu kêu dũng của Baudelaire từng bay vút lên trời xanh,
thoát ly hắn cuộc sống bụi lầm khổ đau nhân thế, thì nay trên đôi cánh hùng vĩ của
Phượng Hoàng, Hàn Mặc Tử như siêu thăng vượt thoát khỏi mọi đau đớn của thể
xác “sượng sân tê điểng”, “rướm máu” da thịt khủng khiếp. Cả Baudelaire và Hàn
Mặc Tử đều mong muốn trở thành ông Hoàng của mây trời của vũ trụ bao la, của
thinh không vời vợi, tầng tầng, lớp lớp Thượng thanh khí cao sang... Tuy nhiên
không phải lúc nào Hàn Mặc Tử cũng vượt thoát bằng mộng tưởng. Con người
không thê sống mãi bằng chiêm bao. Đó chưa kể là lúc tỉnh mộng, nhà thơ xót xa vì
SỐ phận bơ vơ, phiêu bạc, lạc lối của mình:
Gió lùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đây sông, chảy láng lai
Buôm trắng phát phơ như cuống lá
Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai
(Cô liêu)
Máu tìm ta tuôn ra làm biển cả
Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi
Sóng lòng 1a tràn lan ngoài xứ lạ
Dáng cao lên, cao tột tới chân trời
(Biển hỗn ta)
Và đau đớn khi nhận ra sự phân ly đang diễn ra ngay cả trong không gian:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buôn thiu, hoa bắp lay
(Đáy thôn Vĩ Dạ)
Bàng hoàng khi nhận thấy sự phân ly cũng đang diễn ra trong con người mình:
Hôn là ai ? Là ai ? Tôi chẳng biết
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 50 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Hôn theo tôi như muốn cọt tôi chơi
Hồn là ai ? Là ai ? Tôi không hay
(Hồn là ai)
Có khi phải chấp nhận rơi vào phiêu lãng, phiêu lãng giữa cõi trần đau khổ và
cô đơn:
Mây về hằng hà sa số lệ
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn
Sao không tô điểm nên sương khói
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn ?
Hay:
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ
Với buôn phơn phớt, vắng trơ vơ
Cây gì mảnh khảnh run cầm cập
Điểm báo thu vàng gây xác xơ
(Cuối thu)
Và cuối cùng là không gian phiêu diêu trên thinh không ảo ác của linh hồn lưu lạc.
Rồi sảng sốt bay tìm muôn tử khí
Mà muôn sao xa cách cõi hoang sơ
Hôn cảm thấy bùi ngùi như rớm lệ
Thôi hôn ơi phiêu lạc đến bao giờ
(Hôn lìa khỏi xác)
Qua đây cho thấy sự cô đơn lạc lõng trong tâm hỗn của thi nhân, như rơi vào
khung cảnh hoang sơ không bóng dáng của con người chỉ có thi nhân trơ trọi một
mình trong cõi hoang sơ vắng vẻ.
2.3.2.4. Không gian kỳ dị và lạ thường
Đọc thơ Hàn Mặc Tử, nhà phê bình Hoài Thanh có cảm nhận như lạc vào “cái
thế giới kì đị”. “đi trong mờ mờ”, thấy nguồn thơ của thi sĩ nảy nở thật lạ lùng.
Xuân như ý có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, cảnh vật trong Ä⁄áu cuông và
hồn điên “không thấy có tí gì giống với cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng
Hàn Mặc Tử... trong văn thơ kim cổ không có gì kinh đị hơn”.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 51 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Trong cái nhìn nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, cái sự lạ kia biêu hiện ở một cảnh
thực, thứ hiện thực ảo. Cái sự lạ trong vũ trụ thơ Ấy xuất hiện cùng với tâm trạng
ngạc nhiên, ngỡ ngàng của chủ thê trữ tình:
Bông đêm nay trước cửa bóng trăng qu}
Sắp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời nguyện gâm xanh như màu huyền diệu
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ
(Hãy nhập hôn em)
Nhà thơ đi tìm cái lạ chưa đủ, thi sĩ cần phải chiếm lĩnh cho được cái kì dị. Hai
thứ đó đan xen với nhau tạo ra hứng thơ mạnh mẽ và vô tận:
Lời thơ ngậm cứng, không rên rỉ
Mà máu tìm anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội khắp nơi
(Lưu luyễn)
Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy bởi lời thơ cũng đầy ánh sáng. Thi cảm, thi ảnh
được “nuôi mãi trong nguôn ánh sáng thiêng liêng”. Thi nhân “say sưa đi trong mơ
«
ước”, “đi đến cõi ước mơ hoàn toàn “, “ọc ra từng búng thơ sáng láng”. Thế giới
thơ Hàn Mặc Tử có vẻ đẹp của một giác mộng.
Hàn Mặc Tử nói nhiều đến giấc mơ, cảnh chiêm bao, tới thế giới không nhìn
thấy. Theo Hàn Mặc Tử, ý thơ nảy sinh từ trời mộng, thơ diễn tả “những tiếng ca
của tình cảm, của tưởng tượng, của mơ màng” thi sĩ bị ánh sáng của chiêm bao vây
riết. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khá tiêu biểu cho khuynh hướng tìm tòi sáng tạo này.
Vì rằng, để có được thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã phải đối thoại âm thầm với tắm
bưu ảnh, đối thoại với tượng lặng câm, với tình yêu đơn phương vô vọng. Hình thức
đối thoại ảo truyền tả được khát vọng được yêu, được sống mãnh liệt của nhà thơ.
Nhà thơ phá vỡ thế giới độc thoại bên trong để tạo vẻ đối thoại ảo. Vẻ huyền ảo xa
vời của thôn Vĩ hiện về trong tâm thức đau thương của một hồn thơ cô đơn. Thi sĩ
tưởng tượng ra một cố nhân đang mong chờ mình, mời mình về thôn Vĩ. Thi sĩ mơ
tiếng gọi tha thiết trìu mến của người thương, ao ước nghe thấy lời chảo mời giục
giã của cô gái ấy. Thế giới Đây thôn Vĩ Dạ tràn đầy ánh sáng, thực ảo chập chờn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 52 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
chuyên hóa lẫn nhau. Con thuyên thơ cứ chảy trôi trong thế giới mộng ảo, trong cõi
mơ, con người Huế cũng chìm trong mộng ảo.
Nếu Xuân Diệu đề cập đến sắc và hương thì Hàn Mặc Tử nói nhiều về âm
thanh và ánh sáng. Chỗ mạnh của Hàn Mặc Tử là cảm nhận được ánh sáng và âm
điệu của sự vật. Hàn Mặc Tử quan niệm đời sống bí mật riêng tư nằm ở ánh sáng và
âm điệu của nó.
Hàn Mặc Tử lạc vào thế giới của cái kì dị và lạ thường, thế giới của âm thanh
và ánh sáng lạ. Thế giới ấy có cấu trúc riêng, ý nghĩa riêng, quy luật vận động riêng.
Chăng phải vô cớ Hàn Mặc Tử luôn chú ý tới nắng. Nắng trong thơ của thi sĩ trở
thành dấu hiệu báo mùa:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
(Mùa xuân chín)
Nắng ứửng có vẻ riêng trong cái nhìn rất tình của tác giả. Nẵng ửng không chỉ
báo hiệu bóng xuân sang mà còn đánh dấu khoảnh khắc: Mùa xuân bắt đầu chín.
Nắng ửng gắn liền với tâm trạng rạo rực xôn xao ở hồn người. Bài thơ Ä⁄ùa xuân
chín động lại cái nắng hắt từ cõi nhớ. Nắng trong hoài niệm, thứ nắng hoải vọng
chín theo sự chín của mùa xuân, tình xuân. Nắng chín đĩ nhiên đẹp, nhưng phản
phất buồn. Đẹp bởi cảnh xuân, tình xuân nồng nàn. Buôn bởi có kẻ theo chồng bỏ
cuộc chơi. Trong bài ngủ với trăng, nhân vật trữ tình khao khát trăng gió và “đi bắt
nắng ngừng, nắng reo, năng cháy”. Năng chang chang đốt lòng người thực ra là
hình ảnh phát sinh của kiểu nắng cháy. Nhưng nếu nắng chang chang loang ra dọc
bờ sông trắng, thì nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy ở đây lại xuất hiện trong một
không gian khá đặc biệt “7rên sóng cành, sóng áo, cô gì má đỏ hây hây”. Ngừng,
reo, cháy ứng với ba cung bậc tình cảm khác nhau của con người: lặng 1m, xao
xuyến và cuồng si. Ba trạng thái tình cảm ấy đồng nhất với ba cảm xúc sáng tạo.
Hóa ra, năng biểu hiện thi ứng, thi cảm của nhà thơ.
Bên cạnh ánh sáng của nắng, Hàn Mặc Tử còn thường tả ánh sáng của trăng.
Hàn Mặc Tử thường tả ánh sáng trong trẻo của trăng rằm. Trăng tưởng trưng cho
một mùa ao ước và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán. Trong
trắng có hương thơm, có nhạc, có hơi thở và có tình. Tình thoát ra ở điệu nhạc mênh
mang trong bờ bên của chiêm bao.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 33 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Trong chiêm bao, trong vùng mộng siêu của thời gian, đến cũng phản phất
những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa. Thế giới ánh sáng thu hẹp ở hình tượng
“trăng”. Thế giới trăng, thế giới của những ao ước nhớ thương hợp thành một thể
thống nhất:
Anh nhìn trăng lỏn lén đậu ngành cao
Phải giờ này đang lúc em chiêm bao ?
Vì chính giờ anh đang yêu em thiệt
Hãy nhập hỗn em trong bóng nguyệt
(Hãy nhập hôn em)
Con người trong thơ Hàn Mặc Tử được bao bọc băng ánh sáng, bằng huyền
diệu, say sưa và ngây ngất vì ánh sáng, bầu trời càng cao con người càng hứng trí.
Thậm chí đi trong ánh sáng đê mê, không biết là có mình và nhận ra mình là ai nữa.
Ánh sáng tạo ra ở chủ thê sáng tạo cảm giác siêu thoát hay hư vô. Ánh sáng với vẻ
trăng trong, đồng trinh, thanh thoát của nó, trong cảm quan của Hàn Mặc Tử là hiện
thân của đẳng tối linh, của Đức Mẹ. Ánh sáng được ví như ma lực vô song.
Bên cạnh hình ảnh ánh sáng, thơ Hàn Mặc Tử cũng tràn đầy âm thanh. Hơn
một lần thi sĩ nghe thấy âm thanh kì dị ở chốn âm u:
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hỗn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
Một lời ru hoi hóp giữa không trung
(Trường tương tt)
Trường tương tư tái hiện tiếng nói siêu thực, tiếng nói dị thường. Cảm quan về
sự tôn tại của cái lạ thường đã xui khiến Hàn Mặc Tử tìm đến thế giới hư vô, tới cõi
Vô cùng:
Cũng hình như, em hỡi, động Huyền không
Mà đêm nghe, tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phối, trong tim, trong hỗn nữa
(Trường tương tư)
Thị nhân nhạy cảm với mọi âm thanh, đặc biệt là âm thanh vang lên từ tư
tưởng, âm thanh từ cõi mờ, cõi huyền của cuộc sống. Xuân Diệu bồng bột, đôi mắt
xanh non biêc nên nhìn mọi thứ đêu tươi mới:
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 54 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ đề hút mùa dưới đất.
(Thanh niên)
Còn Hàn Mặc Tử cứ đi mãi vào sâu thế giới tâm linh, thế giới huyền hoặc của
hồn và máu . Hàn Mặc Tử thấy mọi vật đang ở chặng cuối cùng hoặc đương lao
nhanh về ngày tận thế, nên ông thấy trước cả thế giới âm u. Hàn Mặc Tử thường tạo
ra một thế giới mênh mông, không giới hạn, không gian dày đặc toàn trăng cả “Tôi
cũng trăng và nàng cũng trăng”. Nhà thơ của những hương thơm và mật đắng
thường nắm lấy tính chất và tượng trưng của mọi hiện tượng. Thi nhân đồng hóa thể
với hư vô:
Đây là tất cả người anh tiêu tán
Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng tình em tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế
(Trường tương tr)
Theo cách diễn đạt của thi sĩ, thì hư vô là một thực tại đặc biệt, có thanh sắc,
hình hải:
Ảnh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hô
Những nét buôn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô
(Huyễn ảo)
Hàn Mặc Tử viết bằng tưởng tượng và giấc mơ trọn vẹn của chính mình. Mọi
thứ trong thế giới thơ của Hàn Mặc Tử đều huyền ảo, cái huyền ảo luôn đẹp, bất kỳ
cái huyền ảo nào cũng đẹp, đọc thơ Hàn Mặc Tử, người đọc phải tư duy và nhìn
theo nhà thơ.
2.3.2.5. Không gian vĩnh hằng
Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta thấy ông muốn vươn tới một không gian vĩnh hằng tồn
tại cùng vũ trụ, cho dù là siêu hình mộng ảo. Đây là khát khao mãnh liệt nhất của
Hàn Mặc Tử. Nhà thơ trải qua tất cả đau thương và rướm máu cả về thể xác lẫn tỉnh
thần đề được hồi sinh trong cõi trời vô thủy vô chung.
Đó là xứ Say Mơ, là Cung Quế, Cung Quảng Hàn:
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 5S SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Tôi nhập hôn tôi trong khúc hát
Đề nhờ không khí đây lên trăng
Đề nghe tiếng nhạc Nghê Thường trồi
Để hớp tỉnh anh của Nguyệt Câu
Và đề thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trửng, để yêu nhau
Lên chơi cung Quế lần đâu
Ôi phép lạ, ôi nhiệm mâu
Vườn tiên sáng láng như lòng người thương
(Chơi trên trăng)
Có thê thấy tất cả đều vĩnh hằng trong một thứ không gian ảo mộng siêu thực
trong thơ Hàn Mặc Tử. Những cảm giác và quan niệm về không gian khách quan
của đời sống thực đã hoàn toàn biến hóa, vỡ vụn thành muôn mảnh. Hàn Mặc Tử đã
hợp lưu muôn mảnh ấy tạo ra một thứ vũ trụ mới tồn tại trong một kiểu không gian
nghệ thuật tưởng tượng đầy màu sắc chủ quan. Đây chính là cách bày tỏ khát vọng
mãnh liệt muốn trường tồn cùng vũ trụ của một tư duy thơ nhuốm màu siêu thực,
tôn giáo và duy tâm siêu hình.
Thơ Hàn Mặc Tử luôn gắn liền với những xúc cảm yêu thương. Vì thế không
gian tình yêu là không gian đặc trưng trong thơ ông. Đó là không gian điểm hẹn ái
tình, không gian vây bủa rướm máu, không gian vượt thoát, không kì dị lạ thường,
không gian vĩnh hằng. Tất cả thể hiện những khát khao cháy bỏng của thi nhân về
tình yêu. Qua đó, cũng thể hiện được tài năng độc đáo của ông trong thơ ca Việt
Nam.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 56 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thi pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
CHƯƠNG 3
THỊ PHÁP KÉT CÁU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU
TRONG THƠ ĐIỀN
3.1. THỊ PHÁP KÉT CẤU TRONG THƠ ĐIỀN
3.1.1. Lí luận chung về thi pháp kết cấu
3.1.1.1. Khái niệm về thi pháp kết
Trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Trần Đình Sử cho rằng: “ Kết cầu
là toàn bộ tô chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm. Trên một mức độ lớn có thể
nói sáng tác là kết cấu. Bởi vì khi nói xây dựng tác phẩm, xây dựng cốt truyện, xây
dựng nhân vật, xây dựng cấu tứ trong thơ...thì người ta đã xem tác phẩm như một
công trình kiến trúc. Bản thân thuật ngữ kết cấu Cũng IHƯỢNn từ kiến trúc, hội họa.
Từ những vật liệu khác nhau, trên một không gian nhất định, người ta có thể xây
dựng trên những công trình hợp mục đích tối đa phản ánh đời sống, biểu hiện sự
cảm nhận trước đời sống và thức tỉnh những thái độ, tình cảm nhất định với thực
tại. Cụ thể là xáy dựng nhân vật, tính cách, biểu hiện quan niệm vỀ con người, về
không gian, thời gian, sắp xếp chỉ tiết để tạo thành bức tranh sống động, tạo khả
năng cảm thụ cuộc sống ấy sao cho có thể rút ra được những ý nghĩa nhân sinh,
những phản ứng tình cảm như tác giả mong đợi”.
Mục đích của kết cấu là tạo thành một thế giới nghệ thuật mang khái quát của
tác giả. Đưa thế giới hình tượng mà người đọc có thể cảm nhận được bằng trí tưởng
tượng vào dòng liên tục của các phương tiện ngôn từ (từ ngữ, câu, đoạn, liên kết,
chỗ ngừng, nhịp điệu, vẫn, trùng điệp...) và dòng liên tục cố định của văn bản ngôn
từ mà cố định các mối liên hệ hình tượng: chỉ tiết này bên cạnh chỉ tiết kia, con
người này xuất hiện trước người kia, cảnh này tương ứng với cảnh nọ, sao cái
chính, cái quan trọng được nôi bật lên, cái phụ đóng đúng vai trò của nó. Về bản
chất có thể nói, kết cấu cũng có nghĩa là tổ chức cho người đọc con đường đi vào
tác phẩm, tô chức cho họ một trường nhìn, một cái nhìn, để tuân theo con đường và
cái nhìn ấy, người đọc thấy được hình tượng nghệ thuật với tất cả chiều sâu và chiều
rộng, tât cả tính bức thiệt và ý nghĩa nhân sinh đôi với con người.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 57 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
3.1.1.2. Các phương diện của thi pháp kết cầu
Kết cấu tác phẩm văn học bao hàm các phương diện sau:
Hệ thống hình tượng nhân vật, sự kiện và chỉ tiết nghệ thuật. Sắp xếp mối
tương quan của các nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, phản diện,
sao cho các nhân vật ấy có thể tương phản nhau, đối diện nhau hoặc bổ sung cho
nhau, tôn lên nhau. Lựa chọn và sắp xếp các chỉ tiết, tình tiết, môi trường, hoàn
cảnh, nội thất, đồ vật...sao cho ý nghĩa của hình tượng nổi lên.
Hệ thống điểm nhìn và tổ chức văn bản. Cùng với việc tổ chức nhân vật, sự
kiện, chỉ tiết, kết cầu nghệ thuật có nhiệm vụ tô chức cái nhìn xác lập hệ thống điểm
nhìn. Nhà văn không thê miêu tả nghệ thuật mà không xác lập cho mình một điểm
nhìn. Trước hết là hiện tượng đời sống được nhìn theo con mắt của ai, chủ thể nào
(nhân vật- người kể chuyện, nhân vật trữ tình, nhân vật chính hay nhân vật phụ...).
Mỗi nhân vật tùy theo lập trường xã hội, lập trường tư tưởng hay kinh nghiệm sống
mà mang lại cho thế giới nghệ thuật những ý nghĩa nhất định. Tiếp theo, cuộc sống
ấy được nhìn theo điểm nhìn thời gian và không gian nào. Nhìn từ thời hiện tại hồi
tưởng lại quá khứ, nhìn xa hay gần, trên cao xuống hay từ dưới lên. Điểm nhìn có
thể là chủ quan (nhìn theo một trạng thái tâm lý nào đó), hoặc là nhìn khách quan,
miêu tả, ghi chép, trần thuật theo con mắt phóng sự.
Hệ thống điểm nhìn như trên quy định cách tô chức văn bản, xác định quan hệ
văn bản ngôn từ với thế giới hình tượng. Trước hết là văn bản sẽ bắt đầu từ đâu. Kê
từ khi sự việc phát sinh cho đến kết thúc, hay kể từ giữa rồi hồi tưởng lại quá khứ
và kế tiếp cho đến hết. Thông thường trong sáng tác dân gian thì cái gì xảy ra trước
kế trước, cái gì xảy ra sau kể sau. Còn trong tác phẩm văn học viết thì thường kế
VỚI SỰ hồi VỌng, bổ sung quá khứ... Do đó, trong văn học trình tự kể và trình tự phát
sinh câu chuyện không trùng khít nhau. Xác định được điểm nhìn theo chủ thể nào
thì văn bản được kể theo ngôi thứ nhất “tôi” hay ngôi thứ ba, có thể dùng lời cung
kính hay suồng sã (anh ấy, hắn, y, lão, nó, ông cụ, thăng cha...) thân mật hay dửng
dưng. Xác định được điểm nhìn tâm lý thì văn bản sẽ kể qua kí ức, qua nỗi niềm,
ngôn từ ấy sẽ mang nặng sắc thái biêu cảm... Với cái nhìn bên trong của thơ trữ tình
văn bản thơ được tổ chức không chỉ theo con mắt hội họa (thi trung hữu họa) mà
còn được tổ chức theo con mắt âm nhạc (lặp lại, chỗ ngừng, bằng trắc, niêm, đối,
vân, sự luân phiên, đôi xứng...).
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 58 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Tóm lại nghệ thuật là sự tổ chức các yêu tô khác loại vào trong một chỉnh thể
của cái nhìn, của sự cảm thụ. Nguyên tắc quan trọng nhất của kết cầu là nguyên tắc
tổ chức cái nhìn sao cho bằng cảm thụ trực tiếp, người đọc nắm bắt được ý nghĩa
sâu xa và phổ quát của hình tượng nghệ thuật cũng như biểu hiện được niềm rung
cảm và đánh giá của tác giả.
3.1.2. Thi pháp kết cấu trong Thơ điên
3.1.2.1. Kết cấu so sánh
Trong 7hơ Điên Hàn Mặc Tử đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh so sánh
như một lối viết ví von giàu cảm xúc, phần lớn nhằm tạo cho thơ của ông thêm sức
hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Thậm chí nhấn mạnh Hàn Mặc Tử là nhà thơ có lối viết
ví von tài tình và điêu luyện nhất trong các nhà thơ cùng thời. Đặc biệt, trong thơ
ông sử dụng tiêu biểu và phổ biến nhất là từ “ N¡z” được sử dụng xuyên suốt trong
Thơ điên. Và đó cũng trở thành phương thức tư duy nghệ thuật cơ bản của Hàn Mặc
Tử:
Xuân trên mã nường Thơ
Ngon như tình mới cắn
(Cao hứng)
Như bông trăng nở, bông trăng nở
Những cánh bông thơ trắng ngạt ngào
(Uớc ao)
Bao nhiêu mơ ước trong tìm ấy
Như chực xuân về thổ lộ ra.
(Cô gái đồng trinh)
Vườn ai mướt quả xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điển
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Càng về sau từ “ Wøw” trong thơ càng xuất hiện nhiều hơn. Qua đó cảm xúc
của thi sĩ càng bộc lộ rõ ràng và mãnh liệt hơn. Người tình bấy lâu đã bị ngăn cách
nhưng thi nhân vẫn mơ tưởng bóng dáng người yêu và nuôi ước vọng chung đôi,
mặc dù thi nhân biết là ảo mộng:
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong đó có hương
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 59 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì
Nhớ lắm lúc như sỉ như dại
(Muôn năm sâu thảm)
Nguồn an ủi của người là tình yêu, nhưng khi đã bị ngăn cách thì yêu trở thành
tình hận. Mặc dù vậy, thi nhân vẫn mượn môi hận ây đê rên siêt cho vơi nôi đau
đớn của lòng mình.
Tuy nhiên, thi nhân cũng muốn rên la cho đỡ đau đớn, nhưng tiếng rên la ấy
cũng không làm thi nhân khuây khỏa được, trái lại còn tăng thêm u buồn nức nở:
Hay:
Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt
Ngó như gân song vẫn thiệt xa khơi !
Lau mắt đi, đừng cho lệ đầy vơi
Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ loi trong dãy động
Cũng hình như, em hỡi động Huyền Không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phối, trong tim, trong hỗn nữa
(Trường tương tr)
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Nghĩa là thơm tho như ảnh trăng
Mêm mại như lời tơ liễu rủ
Anh điên anh nói như người dại
Van lạy không gian xóa những ngày
(Lưu luyễn)
Bao nét chữ quay cung như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu)
Phân lớn các từ ví von không làm cho sự vật, con người cụ thê hơn mà là khái
quát, cao hơn, trừu tượng hơn và bóng bây hơn:
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ÿ thơ
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
GVWHDNguyễHaBăg 60 SVTH:SơnThịNhàn.
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Hay:
Hàng thông lấp lánh đứng trong im
Cành lá như in đã lặng chìm
(Đà Lạt trăng mò)
Sợ chừng như tiếng rụng của sao băng
Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo
Hàng muôn năm sống mãi với sương đêm
Mà vì đâu nghe tiếng bật giữa im lìm
Như mơ tiếp những thời hung bạo ?
(Thi sĩ Chàm)
Hình ảnh ví von còn thê hiện tâm trạng đau xót, nhớ thương người trong mộng
da diết, đến tỉnh mộng thì mang một niềm tương tư sâu sắc đến tuyệt vọng:
Nhiều hành tỉnh tan ấi vì đã lỏng
Ôi muôn năm ! Giấc mộng đã đời chưa ?
Lúc ấy sống triều rên rỉ chưa bưa
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết
Cứ sảng sốt tê mê và rũ liệt
(Đôi 14)
A ha ! Ta vốn người trong mộng
Hư thực như là một ÿ thơ
Ta đi góp nhặt từng tia sáng
Và kết duyên tình để ước mơ
(Người ngọc)
Càng tuyệt vọng lại càng như mong mỏi
Càng xa nhau càng thấy được gân nhau
(Đánh lừa)
Như xa xôi quá biết làm sao ?
Lấy trí tương tư đo được nào
(Thao thức)
Bên cạnh sự đau đớn tuyệt vọng, trong thơ Hàn Mặc Tử còn nói đến những nét
đẹp của làng quê của một thiên nhiên trong trẻo, tươi thắm. Hàn Mặc Tử càng bị lôi
cuôn với cái đẹp của sự viên mãn, đây đủ của Mùa xuân chín. Bài thơ như một bức
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 61 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
tranh đẹp, sinh động, nhiêu màu vẻ. Chỉ một vài nét thoáng qua mà niêm vui và vẻ
đẹp của mùa xuân hòa hợp. Có màu sắc, có âm thanh, không khí vui chơi hội hè,
tiêng ca của tuôi trẻ, lời hôn hên của nước mây. Cái đẹp không chỉ ở thiên nhiên
được nhân cách hóa mà còn ở sự giao cảm tự bên trong giữa tình người và cảnh vật:
Tiếng ca vắt véo lưng chừng
Hồn hến như lời của nước mây
Thâm thĩ với ai ngôi dưới trúc
Nghe ra ÿ vị và thơ ngây
(Mùa xuân chín)
Càng đi xa nguôn khoái cảm, say sưa trong cuộc sông thê nhân, Hàn Mặc Tử
tự thấy mình càng đau khổ cho thân phận, mặc dù chỉ là cuộc sống trong tưởng
tượng. Thi nhân vươn lên, vượt ra ngoài trân gian, đưa tâm hôn tản mác vũ trụ:
Ra không gian là vượt hắn thượng tầng
Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ
Nơi khí tượng bốc ngùn muôn tỉnh tú
Nơi không cho hôn lai vãng quan chiêm
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miễn
Không u ám như cõi lòng ma quỷ
(Ngoài vũ trụ)
Đưa tâm hôn ra khỏi thực tại của loài người, gân đên cõi siêu thoát, thi nhân
cảm thấy tươi sáng, mát mẻ hơn. Mây, khí, trăng, sao không còn là của tình yêu trần
tục, mà biến thành một thiên đàng của sảng khoái, không vướng bận sầu thương,
mât mát:
Tôi chỉ yêu em như thế này
Luôn báy giờ với mãi sau đây
Lòng tôi áy náy trong khi gió
Rủ rê bên tai chuyện nước mây
(Nước mây)
Buôm trắng phất phơ như cuồng lá
Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai
(Cô liêu)
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
62 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Và đôi lúc hình ảnh ví von được thê hiện như một lời câu nguyện ước ao cho
một tình yêu đôi lứa:
Tôi ước ao là tôi ước ao
Tình tôi vô lượng sẽ dâng cao
Như bông trăng nở, bông trăng nở
Những cánh bông thơ trắng ngạt ngào
(Uớc ao)
Hơi thở êm nông trộn với hương
Với làn gió nhẹ với tình thương
Bao la như cảnh trong mơ ước
(Nước mây)
Ví von là một hiện tượng độc đáo trong sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử, thể hiện
sự nối giữa trữ tình lãng mạn đến tượng trưng siêu thực, làm cho chất thơ cao cả,
bay bồng hơn, vừa hiện đại lại vừa cô kính của thi sĩ.
3.1.2.2. Kết cấu trùng điệp
Bên cạnh việc sử dụng các phương thức tạo dựng hình ảnh tương phản, ví von
thì Hàn Mặc Tử còn sử dụng cả phương thức trùng điệp trong thơ của mình. Trùng
điệp đó là sự lặp lại các đơn vị khác nhau của văn bản đỀ tạo ra một ý nghĩa thứ ba
vốn không có trong bản thân các đơn vị đó khi tách riêng ra.
Thật khó mà tìm thấy trong thơ Việt Nam hiện đại một nhà thơ thứ hai sử dụng
trùng điệp và dày đặc như nhà thơ Hàn Mặc Tử. Đặc biệt là trong 7ø điên, nhà thơ
đã sử dụng trùng điệp trên tất cả các cấp độ:
Tôi toan hớp cả ánh trời
Tôi toan đóp cả miễng cười trong khe
(Say nắng)
Ai hãy làm thỉnh chớ nói nhiều
Đề nghe dưới đáy nước hò reo
Để nghe tơ liễu rung trong gió
Và để xem người giải nghĩa yêu
(Đà Lạt trăng mờ)
Hứng lấy sao băng !
Hứng lấy sao băng !
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 63 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Hay:
Hoặc:
Ơi chàng võ sĩ
Máu đào đương băng
Hứng lấy sao băng !
Hứng lấy sao băng !
Ơi cô sơn nữ
Hết gì ánh trăng
(Chuỗi cười)
Chứa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong luông gió
Lưu luyên bên em chăng nói gì
Những ngày đau khổ nhuộm buôn thiu
Những ngày mây lam cuốn dập dìu
(Lưu luyễn)
Ngoài ra hầu hết trong các khổ, đoạn đều có sự trùng điệp, nguyên âm, điệp
thanh. Ta khảo sát bài thơ “7»ơng” của Hàn Mặc Tử sẽ thấy rõ cách điệp nguyên
âm, điệp thanh rất độc đáo và sáng tạo:
Với cả mùi băng phiến chị đồng chỉnh
Với gì đâu trang trọng vẻ xinh xinh
Một nửa niềm riêng vừa mới ngõ
Cho tôi lời thơ tôi nức nở
Và rung rinh xao xuyến cả đêm nay
Ngòi bút tôi rên rỉ mực cuông say
Cho đến cả bàn tay đương lảo đảo
Tôi thương quá thương những nguồn ảo não
Gió thì rét mướt gió thì run run
Những viền môi phai lạt hẾt màu son
Những tiếng nói nghẹn ngào trong nước mắt
Biết tìm đâu ra muôn vàn thanh sắc
Những tên hoa phố đằm thắm phổ quân phương
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
64 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Cho tôi tìm lại nghĩa của mễn thương.
(Thương)
Giống như nghệ thuật diễn thuyết hùng biện, mỗi từ, mỗi ý nghĩa quan trọng
phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đưới nhiều hình thức để khắc sâu vào tâm trí
người nghe, để lời điệp trong thơ của ông xoáy sâu vào các nốt nhạc chủ âm của tư
tưởng và tâm hôn:
Hãy tưới lên hoa giọt lệ nông
Đếm từng cánh một mấy lần thương
Hãy chôn những mảnh xuân tàn tạ
Và hãy chôn sáu tận đáy lòng
(Mơ hoa)
Ta muốn níu hôn ta đương hiển hiện
Trong lòng và đang tắm máu sông ta
Ta muốn vớt ai ngoài sóng điện
Để nhìn xem sắc mặt với làn đa
Hay là:
Ôi ngông cuông ! Ôi rô dại, rồ dại !
Ta đi thuyên trên mặt nước lòng ta
Ôi ngông cuông ! Ôi rô dại, rồ dại
Ta cắm thuyên chính giữa vũng hôn ta
(Biển hôn ta)
Trong bài thơ “7rzường tương £z° hầu hết là điệp câu, điệp thành phần câu làm
cho ngữ khí điệu nói có một sức vang ngân nội tại, và hồn thơ của Hàn Mặc Tử như
sa vào cơn đắm say, mê say trong nhớ thương xa cách. Hàn Mặc Tử đã thê hiện sâu
sắc và mới lạ tình cảm nhớ thương:
Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ 2
Và tình yêu sao lại dở dang chỉ ?
Và vì đâu, gió gọi giật lời đi 2
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hôn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 6S SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Một lời ru hoi hóp giữa không trung
(Trường tương tư)
Những ngày đau khổ nhuộm buôn thiu
Những áng mây lam cuốn dập dìu
Những mảnh nhạc vàng rơi lả tả
Những niềm run rấy của đêm yêu
(Lưu luyễn)
Để rung rỉnh nói lời của uyên ơng
Để một khi trên xiêm đào vướng ngã
Để rình nghe hơi thở của tình nương
(Vớt hôn)
Qua các bài thơ trên ta thấy Hàn Mặc Tử sử dụng kết cấu trùng điệp rất phong
phú, đa dạng với nhiều bút pháp nghệ thuật độc đáo và mang đậm dấu ấn phong
cách riêng. Với việc sử dụng kết cấu trùng điệp nhằm làm cho bài thơ mang một
điểm khác biệt riêng, kết hợp với sự luyến lái tài tình làm cho câu thơ có sức hấp
dẫn và sự lôi cuốn mạnh mẽ.
3.2. THỊ PHÁP NGÔN NGỮ TRONG THƠ ĐIỀN
3.2.1. Lí luận chung về thi pháp ngôn ngữ
3.2.1.1. Khái niệm về thi pháp ngôn ngữ
Phân biệt ngôn ngữ và ngôn từ: Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu con người
dùng để giao tiếp bao gồm các từ kết hợp lại với nhau. Ngôn ngữ tôn tại trong ý
thức chung là ngôn ngữ trong thực tiễn giao tiếp và nói năng của con người. Nếu
như ngôn ngữ là của chung thì ngôn từ là của riêng. Ngôn từ là lời nói hoặc viết của
một cá nhân cụ thể nào đó, do đó ngôn từ luôn luôn có tác giả, có chủ thể phát ngôn.
Khi sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu xây dựng lời nói của mình người nói luôn luôn
đưa vào đấy tình cảm, từ các tác giả cá nhân của mình. Văn chương là nghệ thuật
ngôn từ chứ không phải là nghệ thuật ngôn ngữ.
Khái niệm ngôn từ nghệ thuật: “ăn chương là phương thức tốn tại của văn
bản văn học. Ngôn từ là lời nói viết mà người ta dùng chất liệu để sáng tác văn học,
M. Gorki (1868 - 1936) đã gọi ngôn từ là “yếu tổ thứ nhất” của văn học. Nếu ngôn
ngữ là tổng thể các đơn vị, phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng (ngữ âm,
ngữ pháp, từ vựng, các phương thức tu từ), lời nói là hình thức tôn tại thực tế của
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 66 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
ngôn ngữ luôn phong phú, sinh động, đa dạng, thì ngôn từ là lời nói được sử dụng
với tắt cả phẩm chất thẩm mĩ và khả năng nghệ thuật của nó. Khả năng nghệ thuật
của ngôn từ thể hiện ở tính hình tượng. Trước hết, phải nói ngôn từ mang tỉnh hình
tượng từ trong bản chất. Bởi vì từ gắn liền với khái niệm, vốn là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Khi Mác nói ngôn ngữ là hiện thực “trực tiếp của tư duy”
thì cái hiện thực trực tiếp ấy chẳng gì khác hơn là một hình tượng của hiện thự `.
[21: tr. 186].
Khái niệm tính hình tượng ở đây là cái khả năng gợi lên những hình tượng
nghệ thuật, đưa ta thâm nhập vào thế giới của những cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng
mà ngôn ngữ thông thường ít khi truyền đạt được.
Tính hình tượng của ngôn từ thể hiện ở rất nhiều mặt. Thông thường, nó được
nhận ra trước hết ở các loại từ “hình tượng” như các từ tượng thanh, tượng hình, từ
mô tả các cảm giác, trạng thái như: lao xao, văng vắng, thăm thăm, lạnh lẽo, lặn lội,
eo xèo... Tính hình tượng của ngôn từ còn thể hiện ở các phương thức chuyển
nghĩa của từ như ví von, ấn dụ...
Các trường hợp này cho thấy khả năng của ngôn từ trong việc soi sáng một vật
này qua một vật khác. Nhưng thông thường hơn, ta bắt gặp những câu không có từ
“hình tượng” hay từ “chuyển nghĩa” mà đơn giản chỉ là những từ gợi ra sự vật hay
đặc điểm của sự vật trong những tương quan, quan hệ nhất định, và nhờ thế mà tạo
nên tính hình tượng.
Ngôn từ trong văn chương mang tính hình tượng. Điều cốt yếu làm cho ngôn
từ văn chương khác hắn với ngôn từ giao tiếp thông thường là mang tính hình
tượng. Tính hình tượng của ngôn từ văn chương không phải là giản đơn do các
phương thức tu từ chuyển nghĩa mà do bản chất hình tượng văn chương làm nên.
Trong văn chương, người trần thuật, nhân vật kể chuyện, và nhân vật hành động đều
là sản phẩm hư cấu do đó phát ngôn của chúng tức là ngôn từ văn bản nghệ thuật
cũng mang tính hình tượng. Tính hình tượng của ngôn từ thể hiện ở sự phát sinh từ
tính hình tượng về sáng tạo thế giới băng tưởng tượng. Mọi ngôn từ đều do tác giả
phân thân phát biểu ra một cách hình tượng. Trong tác phâm văn chương các loại
lời hoặc lời kế chuyện, hoặc lời nhân vật trữ tình, hoặc là loại lời các nhân vật khác
chứ không phải trực tiếp của tác giả. Trong văn chương không chỉ có con người mà
có cây cỏ, sông núi, người sông, người chêt, ma quỷ đêu có ngôn từ. Mọi lời nói
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 67 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
trong văn chương đêu là lời của hình tượng và thuộc lời hình tượng. Tính hình
tượng của ngôn từ còn thê hiện ở chỗ toàn bộ ngôn ngữ đều là ngôn từ miêu tả: vần,
nhịp, câu, tổng hợp trên câu đều có chức năng biểu diễn như diễn viên sân khấu
nhằm tái hiện hiện thực trong bản thân nó. Tính hình tượng của ngôn từ văn chương
còn bắt nguồn từ việc trong nghệ thuật do tư duy hình tượng có sự tách rời, giữa các
tác giả lời nói, chủ thể lời nói và ý thức lời nói. Trong lời nói hằng ngày thì ba yếu
tố đó nhập lại với nhau làm một.
3.2.1.2. Các phương tiện của ngôn ngữ
Các phương tiện ngôn ngữ của lời văn nghệ thuật: Lời văn trong tác phẩm văn
chương là lời văn nghệ thuật nó có tính hình tượng. Để xây dựng lời văn đó nhà văn
cần phải khai thác các phương tiện biểu hiện vốn có của ngôn ngữ như vần, giọng
điệu, bằng trắc, các phương thức tu từ, các kiểu lặp, các từ láy, các từ hình tượng,
tượng thanh, các thành ngữ, các cách chơi... Nói tóm lại là sử dụng tất cả các
phương tiện ở các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn bản... Các phương
tiện ngôn ngữ đó là:
Phương tiện ngữ âm: Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố như thanh,
vần, âm, nhịp điệu. Phương tiện từ vựng là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô
cùng quan trọng tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể các loại như các từ đồng
nghĩa, phản nghĩa, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài, từ tôn giáo... Phương tiện
chuyên nghĩa là biện pháp nghệ thuật được các nhà văn đặc biệt sử dụng để tạo nên
khả năng biểu hiện của lời văn. Các phương tiện chuyên nghĩa đó như so sánh, ân
dụ, nhân hóa, phúng dụ, tượng trưng, khoa trương, nói tránh, phản ngữ, chơi chữ.
Phương tiện ngôn ngữ cú pháp là các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm
câu, câu nghi vấn, câu cảm thán...
Thi pháp là lời văn nghệ là cách sử dụng các phương tiện lời văn để tạo tính
hình tượng theo các nguyên tắc nhất định, các nguyên tắc sử dụng tổ chức ngôn ngữ
thành văn bản nghệ thuật là thi pháp lời văn. Nghiên cứu thi pháp lời văn ta phải ra
nguyên tắc nghệ thuật dùng từ, dùng câu trong tác phẩm vì vậy tìm hiểu thi pháp lời
văn đòi hỏi ta phải khám phá tính nội dung, tính quan niệm của các phương tiện
ngôn ngữ đề nhận ra cách chiêm lĩnh đời sông của tác phâm.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 68 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
3.2.2. Thi pháp ngôn ngữ trong Thơ điên
$.2.2.I. Ngôn ngữ giàu hình ảnh
“Mùa xuân chín ” ngay tiêu đề của bài thơ đã gây cho người đọc một ấn tượng
lạ lùng, hấp dẫn: Mùa xuân chín. Nói đến mùa xuân, ta thường liên tưởng đến một
mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) với màu xanh mơn mởn của lộc non mới nhú, đến
hương thơm nồng nàn của muôn loài hoa đua nhau khoe sắc, đến mùi nhựa cây
hăng hái dồi dào, đến mùi đất của xuân ngai ngái. Chữ chín người ta thường dùng
để nói về hoa, trái nhưng ở đây tác giả lại dùng để nói về mùa xuân. Quả chín gợi
lên sự ngọt ngào, căng mọng, thơm mát. Qua bao nhiêu tháng ngày cần mẫn chắt
chiu từ đất, đến ngày quả chín là ngày dâng mật cho đời. Mùa xuân chín là mùa
xuân đã đến độ tròn đầy nhất, xuân nhất. Lúc này, ta không còn cảm thấy mùa đông
rơi rớt lại và cũng chưa thấy những dấu hiệu của mùa hạ sắp sang. Lúc này, cả đất
trời và con người say trong hương xuân, sung sướng tràn đầy trong những mùa xuân
dâng tặng.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lắm tắm vàng
SÔf soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang
Đọc bài thơ ta có cảm giác lúc này nhà thơ đang đứng ở một tầm cao, thật cao
để có thể chiêm ngưỡng toàn bộ bức tranh đang trải rộng ra bao la, phơi phới trước
mắt mình.
Sóng có xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát bên đôi
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chỗng bỏ cuộc chơi
Đối với Hàn Mặc Tử, cùng với màu xanh ấy còn là tiếng hát, tiếng hát của tuổi
trẻ, của mùa xuân, của bao cô thôn nữ hát trên đôi tiếng hát hồn nhiên và trong sáng
biết bao! Có thê ở một thời gian khác, một khung cảnh khác, tiếng hát ấy không có
gì đặc biệt, nhưng ở đây, tiếng hát làm cho mùa xuân thêm tràn đây sức trẻ, mùa
,
xuân dường như cùng bay lên. Từ “7iếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ”, nhưng không
bay mất, hòa tan trong không gian mà dừng lại ngân nga mãi. Từ vấắ: vẻo nảy sinh
trong lòng người đọc nhiêu ân tượng mới mẻ, vừa duyên dáng vừa tính nghịch của
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 69 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
tuôi xuân, của mùa xuân. Tiếng ca không còn chỉ là âm thanh nữa mà hình như ta có
thể năm bắt được. Tiếng hát trong trẻo, vui tươi, tinh nghịch. Tiếng hát ấy:
Hồn hến như lời của nước mây
Thâm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ÿ vị và thơ ngây
Trong tiếng ca ấy có biết bao lời nhắn gửi của mùa xuân, của tuôi trẻ, của tâm
hồn cô thôn nữ cũng của chính tâm hôn thi sĩ.
Trong lúc vui say ngây ngất với mùa xuân viên mãn, người khách xa bỗng
chợt thoáng qua ý nghĩ:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Đó là chuyện tất nhiên, là quy luật của tình cảm, của tạo hóa. Và trong suy
nghĩ của nhà thơ, người con gái đã lấy chồng rồi là hết, chấm dứt những ngày tháng
vui tươi, tự do của tuổi thanh xuân. Hàn Mặc Tử gợi lên một sự nuối tiếc nhẹ nhàng
nhưng không kém phần sâu sắc.
Trên dặm đường lữ thứ, nhìn những cô thôn nữ, người du khách lại Đáng
khuâng sực nhớ làng. Tâm hồn của con người Việt Nam là vậy, thật đáng yêu, đáng
quý; dù đi đâu vẫn nhớ về quê hương, nhớ về một làng quê mình sinh ra và lớn lên.
Nỗi nhớ của thi sĩ thật cụ thể:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
(Mùa xuân chín)
Nỗi nhớ tưởng như bâng khuâng thôi, vì sực mà nhớ, nhưng lại sâu sắc vô
cùng. Dáng hình chợt đến trong lòng nhà thơ lại là hình ảnh một người con gái đang
gánh thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang, hình ảnh một người con gái lao
động. Thúng thóc ấy, ánh nắng ấy, bờ sông ấy và cả cái dáng hình ấy của người con
gái mang nét đẹp duyên dáng rất Việt Nam.
Hình ảnh đơn sơ giản đị đi vào trong thơ ca của Hàn Mặc Tử rất gần gũi và
quen thuộc:
Gió theo lỗi gió mây đường mây
Dòng nước buôn thiu hoa bắp lay
Hay:
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 70 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Nhìn năng hàng cau, năng mới lên
Vườn ai mướt quả xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Đó là hình ảnh hàng cau trong nắng sớm ban mai, giữa những vườn mướt
“Xanh như ngọc” một hình ảnh trong sáng, thân thuộc đến bất ngờ. Câu thơ như
một cái ngước nhìn đầy thú vị. Nẵng ban mai êm địu xen giữa những thân cau thắng
tắp lá còn ướt đẫm sương đêm tạo ra cho cảnh vật một nét đẹp rất thơ mà cũng rất
đời thường. Khi nhớ đến thôn Vĩ, nhớ đến xứ Huế mơ mộng người ta không thể
nhắc đến những khu nhà vườn xinh đẹp dưới ánh nắng ban mai.
3.2.2.2. Ngôn ngữ mới lạ, khác thường
Thơ mới không thiếu nỗi đau, nhưng đau từ tâm hồn đến thể xác, như ứa ra,
như vọt ra thành thơ thì chỉ thấy ở Hàn Mặc Tử:
Hôn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiễn
Thịt da tôi sượng sân và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm hôn xuống một vũng trăng êm
(Hôn là ai)
Thân tàn ma dại đi rồi
Râu rẫu nước mắt bời bời ruột gan
(Muôn năm sẵu thảm)
Cơ thể đang tan rữa, sự sống đang rứt dần, câu thơ dù đau thương tột độ vẫn
không rên rỉ tang tóc ngay khi nói đến cái chết.
Trước mắt nhà thơ toàn hiện ra cái mùi của chết chốc, mùi của máu huyết:
Máu đã khô rồi thơ cũng khô
Tình ta chết yêu tự bao giờ
Từ nay trong gió trong mây gió
Lời thảm thương rên khắp nẻo mơ
Ta trút linh hôn giữa lúc đây
Gió sâu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chăng hay gì cả ?
Xin để tan anh đến vạn ngày
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 71 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
(Trút linh hôn)
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
(Rướm máu)
Thật là những dòng ghê gớm, những dòng tưởng như sắp gây án mạng dưới
mắt người đọc. Nhưng cũng chưa ghê gớm bằng nhưng dòng sau này:
Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vðỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuỗng mửa máắu ra
(Say trăng)
Có thể bệnh tật không cho phép nhà thơ có đủ lao động nghệ thuật kiên trì để
đưa bài thơ đến mức hoàn thiện.
Người ta đã thấy bệnh phong đã ảnh hưởng đến tư tưởng Hàn Mặc Tử đến thế
nào. Thị sĩ bị rặt những cảnh chết chốc rùng rợn ám ảnh, nên trí não không còn bình
thường nữa.
Ý tưởng lên đây đầy vẻ hối hả cuồng vọng, chúng ta không thể nào không cảm
giác sự thiết tha thèm thuồng của thi nhân đối với cuộc sống. “Ta muốn hôn trào ra
ngọn bú” trong niềm thiết tha ấy, thi nhân đã đem cả máu óc ra để gào thét, an ủi
phỉnh phờ mình. Hay nói cách khác, thi nhân đã đem cả sức mình quờ quạng, bám
víu cuộc sống trong cõi chết:
Ta muốn hôn trào ra ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dinh não cân ta
Bao nét chữ quay cuông như máắu vọt
Như mê man chết điểng cả làng da
(Rướm Máu)
“Não cân, máu huyết) là mạch sống của con người, nhưng thi nhân lại muốn
nó trào ra, quay cuồng theo lời thơ, để cho cơ thể mê man chết điếng đi! Không phải
thi nhân muốn hi sinh thể xác mình cho nguồn thơ, mà chính thi nhân muốn đem cả
khối uất hận trong người gởi vào thơ. Đối với thi nhân máu óc không còn là nguồn
sống mà đã trở thành một khối hận:
Cứ để ta ngắt ngư trong vũng huyết
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 72 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Trải niêm đau trên mảnh giây mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng tfa trong mớ chữ rung rinh
(Rướm máu)
Trạng thái tâm hồn thay đổi theo sức phản ứng của tình cảm. Sau những phút
lắng đọng, thi nhân lại thấy bực đọc, muốn phá vỡ những kìm hãm ấy chỉ là sức ám
ảnh của thân phận “cay nghiệt, trăm vạn nổi niềm riêng” thi nhân hẵn học phá vỡ
đè nén bằng cách mở tung khung trời trước mặt:
Ôi ta mửa ra từng búng huyết
Khi say sưa với lượng sống triển miên
Khi nhận lấy trong thâm tâm cay nghiệt
Giọng hờn đau trăm vạn nổi niềm riêng
(Biển hôn ta)
Hôn đối với thi nhân ở đây là một ảo tưởng, một cứu tinh, một tri ki, và có thể
cắt nghĩa là một người bạn của đau khổ. Người bạn này sinh trong cảm giác của thi
nhân, cho nên thi nhân có thể nói chuyện, đùa cợt với hồn:
Tôi dìm hôn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập, trăng dôn lên tới ngực
Hai chúng tôi lặng yên trong thôn thức
Rôi bay lên cho tới một hành tỉnh
Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình
Để gào thét một hơi cho rợn ốc
Cả thiêng đàng trần gian và địa ngục
(Hồn là ai)
Ngoài những tiếng rên siết với trăng, với hồn, với máu, với óc... Hàn Mặc Tử
còn tha thiết, hờn dỗi, đau đớn với tình yêu. Làm sao có thể yên lặng được khi con
người đang sống bỗng dưng bị vứt bỏ ra ngoài lề cuộc sống. Tương lai đã trở thành
mù mịt, dĩ vãng là những kỉ niệm đau buôn.
Đi ngược với quan niệm thi ca truyền thống, trong thơ Hàn Mặc Tử những từ
liên quan tới động tác của cái miệng luôn được sử dụng:
Ta cắn lời thơ để máu trào
Ta há miệng cho hồn thơ trào vọt
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 73 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuỗng mửa máảu ra
Có thể nói đó là một cuộc nổi loạn trong cảm giác của thi ca. Dường như, ở
Hàn Mặc Tử cái tư chất làm câu thơ mới lạ, khác thường đã dần hé mở ngay trong
thời kì đầu còn là nhà thơ cô điền.
Ở vào ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, vẻ đẹp trong thơ Hàn
Mặc Tử hiện lên vẻ đẹp lạnh, ma quái nhưng lại hết sức quyền rũ, nó làm cho người
đọc bất giác rợn người vì những viễn cảnh mà thi sĩ vẽ ra, thật mới lạ, khác thường.
Xét một vài hương diện về đặc trưng của hồn thơ Hàn Mặc Tử, ta hiểu thêm
bản lĩnh nghệ thuật độc đáo, tài năng kì lạ, phong cách lãng mạn kì diệu của nhà
thơ. Anh đã tạo ra một thế giới đầy hình thái với tất cả những nghịch lí tột cùng của
đau thương và khát vọng về vẻ đẹp, về tình yêu, về cuộc sống con người.
3.3. THỊ PHÁP GIỌNG ĐIỆU TRONG THƠ ĐIỀN
3.3.1. Lí luận chung về thi pháp giọng điệu
Có lẽ giọng điệu là một trong những yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa nhất trong
thi pháp cũng như phong cách nhà văn, nhưng lại khó xác định nhất về mặt lý
thuyết. Yếu tố giọng điệu gắn liền với tình điệu có ý nghĩa phong cách là một khái
niệm nằm trong thi pháp nói chung chứ không phải chỉ riêng ở trong thơ. Mở rộng
một chút, thực ra giọng điệu không chỉ quan trọng trong văn chương, nó cũng rất
quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Nhiều khi giọng điệu quan trọng và lấn át nội
dung của ngôn ngữ vốn có. Chắng hạn, hai từ “cám ơn” và “xin lỗi” vốn đề diễn tả
tình cảm biết ơn, một thái độ lịch sự...nhưng chỉ cần phát ra băng một ngữ điệu nào
đó, chắng hạn, nhắn giọng hay kéo dài ra... là lập tức nó sẽ trở thành mỉa mai hay
khinh bỉ.
Trong văn học, khái niệm giọng điệu vừa được biểu hiện ở phương diện ngữ
âm: trằm, bỗng, trong, đục, nhanh, chậm, dài, ngắn. .. vừa biểu hiện ở phương thức
phong cách: nóng, lạnh, nhu, cương; khoan thai hay dồn đập sôi nỗi; trân trọng hay
mỉa mai khinh bỉ, phê phán hay ngợi ca, yêu thương hay căm giận, mềm mại dịu
dàng hay cứng cỏi kiên quyết, tha thiết gắn bó hay thờ ơ lãnh đạm... Có những
giọng điệu ngọt ngào mát mẻ bên ngoài nhưng lại đay nghiến chì chiết bên trong:
Bê ngoài thơm mái nói cười
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 74 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Bên trong nham hiêm giết người không dao
(Truyện Kiểu - Nguyễn Du)
Như thế, để thấy giọng điệu có vai trò như thế nảo trong việc biểu lộ thái độ
tình cảm. Trong tác phẩm văn học, có giọng của nhân vật, có giọng của nhà văn...
Đứng ở bình diện thi pháp, chúng ta tìm hiểu các giọng gắn liền với tình điệu, với
é
Ax¬”?
văn khí, với hơi văn, mạch văn, giọng văn, cái giai điệu, cái “hôn” chi phối toàn tác
phẩm và đây chính là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt cái “cô họng” - nét bút
của các nhà văn này so với các nhà văn khác đề tạo nên phong cách nhà văn. [9; tr.
52- 53].
3.3.2. Thi pháp giọng điệu trong Thơ điên
Trong thơ của Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy hiện lên một con người với đầy đủ
hình hài, cảm xúc tâm trạng. Thật hiếm có một ai khi làm thơ lại đặt cả khối hỗn
của mình vào trong Ấy, để cho đời hiểu những tâm tư, nỗi buồn, sự cô đơn tuyệt
vọng mà mình phải gặp như ông. Chính bản thân của thi nhân cũng là một sự độc
đáo, đó là một cái tôi cô độc, đau thương. Sống trong sự xa cách thế giới đời
thường, bị dày vò bởi bệnh tật đem lại, nên ông đã bật lên tiếng gào, rú, thét... VỚI
những hành động: cắn, cào, nhai, mửa... Vì thế, ông tìm đến thơ như một phương
tiện giải thoát những nỗi đau khổ từ cuộc đời của mình. Theo Nguyễn Đăng Điệp
trong giọng điệu thơ trữ tình [tr.307 ] đã nhận xét: “Những điễu đáng nói là cái chất
giọng buôn thương ca thán ấy gặp gỡ với nỗi đau tột cùng đã khiến cho giọng điệu
thơ Hàn Mặc Tử trở thành giọng thơ đau thương, rên siết, rạn vỡ nhất của thời đại
Thơ mới ”.
3.3.2.1. Một giọng thơ đây tha thiết hỉ vọng
Trên thực tế, Hàn Mặc Tử mang nhiều nỗi đau, nỗi đau thân xác, nỗi đau cô
quạnh, nỗi đau tình yêu... Những cuộc tình của Hàn Mặc Tử đều là những bị kịch,
ông chỉ có thê yêu trong mộng mà thôi, song trái tìm đa cảm ấy lại không thể yêu,
cho dù tình yêu đơn phương. Còn sống nghĩa là còn yêu, còn hi vọng. Từ trong thế
giới đau khổ của mình, Hàn Mặc Tử luôn hướng về thế giới ngoài kia - thế giới của
hạnh phúc bằng cái nhìn nuối tiếc, tha thiết.
Anh đứng cách xa hàng thể giới
Lặng nhìn trong mộng miỆng e1 Cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 75 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Đề nhắn hôn em đã tới nơi
(Lưu luyễn)
Bên kia thế giới là anh, bên kia là em. Khoảng cách giữa anh và em là hàng
ngàn thế giới, anh muốn chạm vào em, chạm vào hạnh phúc, nhưng lại không thể
nào với tới được. Từ hoàn cảnh ấy đã xuất hiện giọng điệu “zíu luyến, hoài tiếc”
trong thơ Hàn Mặc Tử:
Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hôn tôi mắt
Một nửa hôn tôi bỗng đại khở
(Những giọt lệ)
Hai thế giới hoàn toàn cách biệt, thế giới của em là thế giới mà anh luôn ao
ước, thế giới đầy tình yêu, hạnh phúc. Nhưng thế giới chỉ là niềm mơ ước của Hàn
Mặc Tử mà thôi, có gì đau khổ hơn khi đang tôn tại trong cõi đời này, mà lại không
thể chạm tới được hạnh phúc có thực ẫy. VỊ thế, trong thơ của ông luôn thường trực
một tiếng nói tha thiết với cuộc sống và tình yêu.
3.3.2.2. Sự hòa trộn các sắc thái giọng điệu
Trên nền giọng điệu đau thương và hi vọng, Hàn Mặc Tử đã tô chức được
nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau trong thơ của mình:
Máu đã khô rồi thơ cũng khô
Tình ta chết yếu tự bao giờ !
Từ nay trong gió trong mây gió
Lời thản thương rên khắp nẻo mơ
Ta còn trìu mến biết bao người
Đây lệ, đây thương, đây tuyệt vọng
Ôi ! Giờ hấp hồi sắp chia phôi !
(Trút linh hôn)
“Máu khô, thơ khô, chết yêu, thản thương” nghĩ đến cái chết khi mà lòng vẫn
mang nặng nỗi vấn vương, luyến tiếc với cuộc đời, dù cho phải lìa tất cả như một
định mệnh tản khốc, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn hi vọng sống trong tình thương nỗi
nhớ. Sự hòa trộn sắc thái giọng điệu thể hiện trong một bài thơ, thậm chí trong một
khổ thơ ngắn:
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 76 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quả xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Mở đầu là một giọng thơ, xen vào đó là một giọng buồn, nuối tiếc của thi nhân
ấn đẳng sau mỗi chữ. Sự luân chuyển màu sắc giọng điệu làm mạch thơ trở nên
mềm mại, biến hóa đã tạo nên một thôn Vĩ mê đắm, với những hình ảnh vừa thoáng
hiện trong cõi nhớ, lại vừa như một nỗi ám ảnh từ rất xa xưa trong tiềm thức.
Với giọng điệu độc đáo trong thơ tình của mình, Hàn Mặc Tử đã làm cho
nhiều độc giả say mê và ngưỡng mộ. Thời gian không làm cho thơ của ông xưa cũ
mà trái lại càng mới mẻ và rực rỡ bội phân.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng T1 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
KẾT LUẬN
Với cuộc đời 2§ năm ngắn ngủi, chỉ 12 năm đi với nàng thơ nhưng Hàn Mặc
Tử đã đưa nàng thơ lên đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật. So với những nhà thơ cùng
thời, ông đã trở thành ngọn múi khổng lỗ cao sừng sững trên bầu trời rực rỡ của thi
ca và để lại cho đời những kiệt tác rung động lòng người. Có lẽ không có một nhà
thơ nào trong phong trào Thơ mới nói riêng và nền thi ca Việt Nam nói chung lại có
một nỗi đau thương quẳn quại về thân xác cũng như tỉnh thần bị dồn ép, tàn phá
khốc liệt về mọi phương diện. Bởi mang trong mình một trong những “# chứng
nan y như Hàn Mặc Tử. Nhưng có một sự bù trừ của tạo hóa, sự bất hạnh về tinh
thần, nỗi đau thân xác, cộng với bản năng sáng tạo đã chắp cánh cho thiên tài thi ca
Hàn Mặc Tử, đưa thi nhân đến tầm cao của văn chương nghệ thuật hiện đại.
Thơ Hàn Mặc Tử chiếm vị trí hàng đầu trong nên văn học Việt Nam hiện đại.
Việc đi sâu tìm hiểu nghiên cứu đã trở thành một yêu cầu cấp bách trong giới giảng
dạy, trong học sinh và sinh viên, cũng như trong các bạn yêu văn thơ.
Nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử giản dị và phong phú, giàu ngôn ngữ và nhạc
điệu, đa dạng luôn luôn đổi mới, nhưng thống nhất một phong cách: Phong cách
Hàn Mặc Tử.
Trong tư duy nghệ thuật của mình, Hàn Mặc Tử đã có ý thức đi tìm cái lạ và
nung nấu thi hứng sáng tạo ở một cường độ cao “7i đã sống mãnh liệt và đây đủ.
Sống bằng tim, bằng phối, bằng máu, bằng lệ, bằng hôn. Tôi đã phát triển hết cả
cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hòn đến gân đứt sự sống”. Trong bản
chất sáng tạo thơ của mình, Hàn Mặc Tử dường như bao giờ cũng muốn khai thác
đến tận cùng chất liệu “cái #ôi”, cái hành trang của mình. Với một chặng đường đài
từ thơ Đường cô điển chuyển nhanh sang lãng mạn, tượng trưng và chớm đến bờ
siêu thực. “Hàn Mặc Tử đã có gắng tổng hợp vào bản thân mình những truyền
thống văn học xưa và nay, dân gian và hiện đại, phương Đông và phương Tây,
Thiên Chúa giáo và Phát giáo ”.
Từ việc nghiên cứu về ““Öhj pháp Thơ Điên của Hàn Mặc Tử” chúng ta đã nhận
thấy những đóng góp vô cùng lớn lao của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại
của thế kỉ XX. Thơ ông không chỉ tác dụng sâu rộng đến tiếng thơ ông trong thực tế
đời sống con người, trong tư tưởng nhận thức và tình cảm, hay trong đóng góp đôi
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 78 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
mới câu thơ bảy chữ, câu thơ tám chữ... mà là tạo ra một hình thức nghệ thuật độc
đáo, tạo một dấu ấn riêng của Hàn Mặc Tử. Qua đây, chúng ta cũng thấy được “f/
pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử" đã được chúng tôi tìm hiểu rất kĩ từ nhiều khía
cạnh, bên cạnh đó còn so sánh với những tập thơ khác để thấy được sự tương đồng
và sự phát triển của thơ ông qua từng giai đoạn sáng tác khác nhau.
Trong 7hơ điên chúng ta thấy được quan niệm nghệ thuật về con người của
ông, đó là một con người cô đơn đau đớn, một con người sẵn sàng dâng tất cả cho ái
tình, đặc biệt con người trong thơ ông là một con người chung thủy với tình yêu
nhưng lại không được tình yêu đáp trả. Từ một con người mơ ước, khát khao mãnh
liệt trong tình yêu trở thành một con người cô đơn đau đớn, lạc lõng giữa vũ trụ bao
la và cuối cùng dẫn đến tuyệt vọng. Qua 7ø điên đã cho chúng ta thấy được một
bước phát triển mới về nhận thức của nhà thơ trong quan niệm nghệ thuật về con
người. Hàn Mặc Tử là một con người đau đớn quẳn quại vì bệnh tật dày vò nên thời
gian chủ yếu trong 7ø điên là thời gian truy đuổi, thời gian gấp khúc, đứt gãy với
nhiều biến cố khác nhau, tạo cho nhịp thơ của ông không liên tục mà đứt gãy, có lúc
nhịp thơ ông nhanh, chậm bắt thường làm cho người đọc như lạc vào thế giới của
ông, để cùng cảm nhận và chia sẻ với nỗi đau của thi nhân. Trong Thơ điên Hàn
Mặc Tử đã vận dụng các thủ pháp vừa cô điển vừa hiện đại, nhất là sự tương phản,
ví von, trùng điệp và liên tưởng tưởng tượng tạo thành tiếng nắc nghẹn ngào trong
thơ ông.
Nghiên cứu vấn đề thi pháp Thơ điên, chúng ta thấy rõ Hàn Mặc Tử đã đưa thơ
Việt Nam từ tượng trưng đến bờ siêu thực và mang một dấu ấn riêng không hòa lẫn
được với bất kì nhà thơ nào khác được.
Thơ Hàn Mặc Tử là sự kết hợp của chất nhục cảm đời thường với sự thánh
thiện, siêu thoát, tạo ra sự kinh dị, huyền bí nhưng hiện đại, mang lại sự giải tỏa ắn
ức, đưa con người trở về với cội nguồn của bản thể. Trong nỗi đau tột cùng của thể
xác và tinh thần, Hàn Mặc Tử đã chế tác nên những hình tượng trăng, hồn, máu đầy
ấn tượng ám ảnh. Đau thương, điên loạn trở thành nguồn sáng tạo vô biên, làm nên
những bài thơ xuất thần của Hàn Mặc Tử trong phong trào Thơ mới 1932-1939. Sự
xuất hiện của Hàn Mặc Tử đã góp phần đưa thơ trữ tình Việt Nam lên đến đỉnh cao
thành tựu. Chỉ trong vòng vải ba năm, Hàn Mặc Tử làm một cuộc hành trình vượt
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 79 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
ngưỡng với thi ca. Ông gân với các nhà thơ cô điên và gân với cả hôm nay, mở đâu
thơ bằng thơ Đường và kết thúc là bút pháp siêu thực phương Tây.
Hàn Mặc Tử là như vậy, có lẽ đó là con người dị thường nhất của thi ca Việt
Nam hiện đại. Cả cuộc đời mình ông đã tạo nên như một huyền thoại và trải qua nó
với tất cả sức mạnh của trái tim, của niềm đam mê trong sáng tạo. Từ khi xuất hiện
cho đến nay, trải qua bao thử thách của thời gian, thơ Hàn Mặc Tử vẫn mới, vẫn hấp
dẫn công chúng. Di sản thơ ca của ông đã nhập vào kho tàng văn chương nước nhà,
trở thành những giá trị vĩnh cửu, xuyên qua mọi thời gian, xuyên qua thế ki.
Hàn Mặc Tử là nhà thơ cổ điển mới nhất, cổ điển một cách tân kỳ của thơ ca
Việt Nam thế kỉ XX.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 80 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Nguyễn Thành Ân (2010), Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi
pháp, _ http://taieu.vn/doc/tim-hieu-tho-han-mac-tu-o-mot-vai-phuong-dien-thi-
phap-nguyen-thanh-an-329190.html
2. Lê Bảo (1999), Thơ Việt Nam tác giả tác phẩm lời bình, Nxb Giáo dục.
3. Phan Cự Đệ (Biên soạn) (1993), 7ø văn Hàn Mặc Tử (Phê bình và tưởng
niệm), Nxb Giáo dục.
4. Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng (Tuyền chọn và giới thiệu) (2007), Hàn Mặc
Tử vê tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
5s. Phan Cự Đệ Hàn Mặc Tử - Bách khoa toàn thư,
http://vi.wikipedia.org/wik/H%C3%A0n_M%EI%BA%B7c_T%EI%BB%AD
6. Hà Minh Đức (2009), Văn chương và thời cuộc, Nxb Khoa học xã hội.
7. Lê Bá Hán (Chủ biên) (1998), 7inh hoa thơ mới thẩm bình và suy ngẫm. Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
§. Đỗ Đức Hiểu (1983), Đổi mới phê bình văn học, Ñxb Mũi Cà Mau.
9. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Mã Giang Lân (Tuyền chọn và biên soạn) (2000), 7ơ Hàn Mặc Tử và những
lời bình, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
11.Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (Đồng chủ biên) (2004), Từ
điển tác giả - Tác phẩm văn học Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm.
12.Tôn Thảo Miên (Tuyền chọn) (2002), Hàn Mặc Tử tác phẩm và dự luận, Nxb
Văn học.
13.Tôn Thảo Miên (Biên soạn) (2007), /#àn Mặc Tử tác phẩm và lời bình, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
14.Lữ Huy Nguyên (1995), Hàn Mặc Tứ thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Vương Trí Nhàn (1996), Hàn Mặc Tứ hôm qua và hôm nay, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
16. Thế Phong (1998), Hàn Mặc Tử nhà thơ siêu thoát, Nxb Đồng Nai.
17. Trần Đình Sử (1993), Mộ số vấn đề thi pháp hiện đại, Nxb Bộ giáo dục và đào
tạo- vụ giáo viên Hà Nội.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 81 SVTH: Sơn Thị Nhàn
Thì pháp Thơ điên của Hàn Mặc Tử
18. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Thành phô Hồ Chí Minh. _
19. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tổ Hữu (Chuyên luận), Ñxb Giáo dục.
20. Trần Đình Sử (2005), 7i pháp học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
21. Trà Đình Sử (Chủ biên) (2007), Lý uận văn học (tập 2), Ñxb Đại học Sư phạm.
22.Hoài Thanh - Hoài Chân (1997), 77 nhân Việt Nam 1932-1941, Nxb Văn học,
Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Thiện (Chủ biên), Nguyễn Kiều Anh, Phạm Hồng Toản (1997),
Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam 1900-1945 (rập 2). Nxb Văn
học, Hà Nội.
24. Đỗ Lai Thúy (1997), Con mắt thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Trần Thị Huyền Trang (1997), Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
26.Phạm Du Yên (Tập hợp và giới thiệu) (2008), Thơ Hàn Mặc Tứ, Nxb Thanh
Niên.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng 82 SVTH: Sơn Thị Nhàn