ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VỪ MÈ XÍA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Tên đề tài:
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ SỐP CỘP HUYỆN SỐP CỘP
TỈNH SƠN LA
Hệ đào tạo : Chính quy
Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2015 – 2019
Thái Nguyên, năm 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VỪ MÈ XÍA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Tên đề tài:
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ SỐP CỘP HUYỆN SỐP CỘP
TỈNH SƠN LA
Hệ đào tạo : Chính quy
Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : K47 – KTNN – N01
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2015 – 2019
Giảng viên hướng dẫn : TS. Kiều Thị Thu Hương
Thái Nguyên, năm 2019
i
LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp trong một khoảng thời gian tuy ngắn nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời gian giúp cho sinh viên kiểm nghiệm những kiến thức đã được học ở trường, từ thầy cô, bạn bè. Bên cạnh đó còn giúp cho sinh viên làm quen với môi trường, tích lũy thêm kinh nghiệm thực tế, tạo hành lang vững chắc cho sinh viên sau khi ra trường có thể làm tốt những công việc được giao. Được sự nhất trí của Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, em đã thực tập tại Phòng phụ nữ xã Sốp Cộp – huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La từ ngày 20/02/2019 đến ngày 20/5/2019 với đề tài:
“Vai trò của phụ nữ dân tộc mông trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Sốp Cộp - huyện Sốp Cộp - tỉnh Sơn La.”
Để đạt được kết quả như ngày hôm nay là do sự giúp đỡ của Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, các thầy cô giáo trong khoa, đặc biệt là cô giáo TS. Kiều Thị Thu Hương cùng với sự phấn đấu và nỗ lực của bản thân.
Nhân dịp này cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, các thầy cô giáo trong khoa và cô giáo TS. Kiều Thị Thu Hương đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Phòng Hội liên hiệp phụ nữ xã Sốp Cộp cùng toàn thể cán bộ công chức, viên chức đang làm việc tại UBND Xã Sốp Cộp đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian thực tập.
Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng không thể tránh được những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Sốp Cộp, ngày tháng năm 2019
Sinh viên Vừ Mè Xía
ii
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
MỤC LỤC ......................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... v
DANH MỤC HÌNH ......................................................................................... vi
PHẦN I. MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1 Đặt vấn đề.................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .................................................................. 1
1.2.1. Mục tiêu chung ........................................................................................ 1
1.2.2. Mục tiêu cụ thể ........................................................................................ 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
1.3.1. Ý nghĩa về mặt học tập............................................................................ 2
1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn ......................................................................... 2
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .............................................................. 3
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài .............................................................................. 3
2.1.1 Một số khái niệm ...................................................................................... 3
2.1.2. Khái niệm về hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình .................................... 8
2.1.3. Quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế ................................... 10
2.1.4. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.......................................... 11
2.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ nữ trong phát triển
kinh tế gia đình ................................................................................................ 14
2.1.6. Một số vấn đề dặt ra đối với phụ nữ ..................................................... 16
2.1.7. Các chủ trương chính sách của đảng ..................................................... 21
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ......................................................................... 24
2.2.1. Thực trạng vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam .................. 24
iii
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 27
3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 27
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 27
3.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 27
3.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 27
3.4.1. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu ...................................................... 27
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 28
3.4.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu .......................................... 28
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 30
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 30
4.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 30
4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội ........................................................................ 36
4.2. Thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện
Sốp Cộp – tỉnh Sơn La. ................................................................................... 47
4.3. Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ Mông trong phát triển kinh tế
trên địa bàn xã Sốp Cộp. ................................................................................. 48
4.3.1. Hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội tại địa
bàn xã .............................................................................................................. 48
4.3.2. Thực trạng vai trò phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ gia
đình .................................................................................................................. 52
4.4. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc khai thác
và phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện Sốp Cộp –
tỉnh Sơn La ...................................................................................................... 68
4.4.1. Thành tựu .............................................................................................. 68
4.4.2. Hạn chế .................................................................................................. 68
iv
4.4.3. Nguyên nhân hạn chế trong việc khai thác và phát huy vai trò của phụ
nữ trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La. ........................ 69
4.5. Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ
xã Sốp Cộp trong phát triển kinh tế hộ. ............................................................. 71
4.5.1. Phương hướng ........................................................................................ 71
4.5.2. Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình tại xã Sốp Cộp. ......................................................... 72
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................... 76
5.1. Kết luận .................................................................................................... 76
5.2.Kiến nghị ................................................................................................... 77
5.2.1. Đối với nhà nước ................................................................................... 77
5.2.2. Đối với chính, quyền đoàn thể địa phương ........................................... 77
5.2.3. Đối với người nông dân ........................................................................ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 79
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân biệt giữa Giới và Giới tính ....................................................... 4 Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2018 ................................................... 32 Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng 1 số cây trồng chính của xã năm 2018 ............................................................................................. 38 Bảng 4.3. Số lượng gia súc, gia cầm của xã Sốp Cộp giai đoạn 2016 - 2018 39 Bảng 4.4. Cơ cấu hộ gia đình nông nghiệp và phi nông nghiệp của xã năm 2018 ............................................................................................. 41 Bảng 4.5: Lao động xã Sốp Cộp chia theo giới tính giai đoạn 2016 - 2018 ... 42 Bảng 4.6. Tình hình chung của các hộ điều tra ............................................... 47 Bảng 4.7. Trình độ của cán bộ hội đoàn thể nhiệm kỳ 2016 - 2018 ............... 49 Bảng 4.8. Cơ cấu phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể năm 2018 ...................................................................... 50 Bảng 4.9. Tỷ lệ phụ nữ Mông tham gia quản lý điều hành sản xuất .............. 52 Bảng 4.10. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp năm 2019 ............................................................................................. 53 Bảng 4.11. Phân công lao động trong hoạt động nội trợ chăm sóc con cái năm 2019 ............................................................................................. 55 Bảng 4.12: Tình hình quản lý vốn vay của hộ dân tộc Mông ......................... 57 Bảng 4.13. Phân công lao động trong hoạt động kinh doanh hàng hóa và dịch vụ 2019 ........................................................................................ 59 Bảng 4.14. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp năm 2019 ............................................................................................. 60 Bảng 4.1.5. Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động cộng đồng năm 2019 ..................... 61 Bảng 4.16. Quan điểm của các hộ nông dân về các công việc và vai trò phụ nữ Mông trong gia đình .............................................................. 62 Bảng 4.17. Phân bổ thời gian sử dụng trong ngày của phụ nữ và nam giới ... 64 Bảng 4.18. Quyền ra quyết định chính trong một số hoạt động trong gia đình ..................................................................................................... 66
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1. Biểu đồ hiện trạng sử dụng đất xã Sốp Cộp năm 2018 ................... 33
Hình 4.2: Biểu đồ cơ cấu phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể của xã năm
2018 ............................................................................................... 49
Hình 4.3. Biểu đồ phụ nữ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(sổ đỏ) ........................................................................................... 56
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề.
Sốp Cộp là một xã miền núi, vùng sâu vùng xa của huyện Sốp Cộp với
mật độ dân số khá đông đúc. Trong đó thì phụ nữ chiếm trên 50% tổng số dân và
lao động nữ chiếm số đông, chủ yếu là lao động sản xuất trực tiếp trong lĩnh vực
nông nghiệp. Ngày ngày họ làm việc tần tảo sớm hôm chăm sóc cho gia đình
chăm lo cho con cái, thế nhưng vai trò của người phụ nữ đến nay chưa được
khẳng định rõ rệt. Những quan niệm xưa cũ về họ vẫn được duy trì, người phụ
nữ chỉ cần chăm lo tốt cho chồng con và làm việc gia đình, việc đồng áng, trong
khi trên lĩnh vực kinh tế - chính trị tiếng nói của họ vẫn chưa được khẳng định.
Quá trình phát triển kinh tế ở vùng nông thôn nói riêng và nền kinh tế
đất nước nói chung nhiều câu hỏi được đặt ra rằng: Vai trò của phụ nữ trong
phát triển kinh tế nông thôn hiện nay như thế nào? Thực trạng vai trò của phụ
nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay ra sao? Giải pháp nhằm tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình phát triển và nâng cao năng lực cho phụ nữ?
Nghiên cứu về vai trò của phụ nữ nông thôn xã Sốp Cộp trong việc phát triển
kinh tế được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, từ đó đề xuất một số giải pháp
có tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng này, qua đó góp
phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế địa phương và nâng cao vị thế của phụ
nữ tại địa phương.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vai
trò của phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã
Sốp Cộp - huyện Sốp Cộp - tỉnh Sơn La”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trên địa bàn xã Sốp Cộp –
huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ, từ đó phân tích
2
những thuận lợi khó khăn và tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao vị thế và
vai trò của phụ nữ tại địa phương.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích và đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế hộ nông thôn tại xã Sốp Cộp
- Tìm hiểu những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong
việc khai thác và phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện
Sốp Cộp – tỉnh Sơn La.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ
trong phát triển kinh tế hộ gia đình trong thời gian tới.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa về mặt học tập
- Rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu khoa học: thu thập, xử lý số liệu,
viết báo cáo.
- Đề tài là cơ hội cho sinh viên đi sâu vào thực tế, áp dụng kiến thức đã
học áp dụng vào thực tế. Tích lũy thêm những kinh nghiệm mới cho bản thân
nhằm phục vụ cho công tác sau này. Ngoài ra, đề tài còn là cơ hội cho sinh
viên được nghiên cứu, tìm hiểu về đời sống của người dân trên địa bàn xã nơi
mình đang sinh sống.
1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhìn nhận đúng hơn về vai
trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn nghiên cứu. Kết
quả nghiên cứu có thể góp phần là tài liệu tham khảo cho các cán bộ, ban
ngành liên quan có thêm những căn cứ để xây dựng các chương trình dự án
nhằm thúc đẩy vai trò phụ nữ trong sản xuất phát triển nông nghiệp, nông thôn.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1.Giới tính, giới, phân biệt giới và giới tính
* Giới tính: Giới tính là khái niệm đề cập tới những đặc tính về mặt
sinh học của nam giới và phụ nữ mà cho phép xác định một cá nhân thuộc về
giống đực hay giống cái. Sự khác nhau này có ngay từ lúc một con người
được sinh ra (trừ trường hợp dị thường). Sự khác biệt giới tính rõ ràng nhất đó
là việc có kinh nguyệt, mang thai, cho con bú của phụ nữ và việc tạo ra tinh
trùng của nam giới. Ngoài những khác biệt rõ ràng kể trên, về cơ bản, những
khác biệt giới tính khác được xem xét ở góc độ tổng thể chứ không phải ở cá
biệt. Ví dụ, xét chung về mặt thể chất, nam giới cao lớn và khỏe hơn phụ nữ,
nhưng cá biệt cũng có phụ nữ cao lớn và khỏe hơn một số nam giới.[1]
Do các đặc điểm về giới tính là những yếu tố xác định về mặt sinh học
nên chúng có tính cố định, không thay đổi qua các thế hệ. Cụ thể, từ thời
thượng cổ cho đến nay, việc có kinh nguyệt, mang thai, cho con bú vẫn gắn
liền với phụ nữ và chỉ với phụ nữ; trong khi khả năng tạo ra tinh trùng vẫn chỉ
là đặc quyền của nam giới. Là một thuật ngữ được các ngành khoa học xã hội
và các nhà sinh học dùng để chỉ một phạm trù sinh học, trong ý nghĩa đó nam
và nữ khác nhau về mặt sinh học, tạo nên hai giới tính: nam giới và nữ giới.
* Giới: Giới là đề cập đến mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ và các
đặc tính được xã hội gắn cho từng nhóm. Nói cách khác, có thể coi giới là những
đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
Các đặc tính giới thường được truyền thụ tiếp nhận ngay từ thuở thơ ấu
của một con người. Chẳng hạn, các bé gái thường được bố mẹ mua cho đồ
chơi là búp bê, trong khi các bé trai thường được nhận quả bóng đá. Hay đến
một độ tuổi nhất định, các em gái thường được khuyên ở nhà giúp mẹ nấu nướng,
4
trong khi các em trai cùng độ tuổi vẫn có thể đi chơi. Trong hầu hết các xã hội, các
em gái thường được dạy dỗ để trở nên dịu dàng, kín đáo, còn con trai thì thường
được giáo dục để trở thành những con người táo bạo, mạnh mẽ.[1]
Như vậy các đặc tính giới là những yếu tố được xác định về mặt xã hội,
văn hóa chứ không phải về mặt tự nhiên như các đặc tính về giới tính. Đây là
sản phẩm của sự suy luận mang đậm tính chất chủ quan của con người từ sự
khác biệt mang tính tự nhiên về mặt sinh học sang sự khác biệt về mặt xã hội,
văn hóa giữa đàn ông và đàn bà.
Nhận thức đúng giới tính là những yếu tố cố định vốn có (yếu tố tự
nhiên) và giới là những yếu tố về mặt xã hội, văn hóa; là sản phẩm của tư duy
mang tính chủ quan có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng, chống
bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái trên cơ sở giới,...[1]
Bảng 2.1. Phân biệt giữa Giới và Giới tính
Giới Giới tính
Giới tính mô tả chúng ta là nam hay
Giới mô tả chúng ta thể hiện nam tính hoặc nữ tính nữ
Giới tính là: Sinh học – đó là những đặc tính thể chất đã có từ khi chúng ta sinh ra. Phổ biến – những đặc tính về tình dục giống nhau trên toàn thế giới – nam giới có dương vật và phụ nữ có âm đạo ở tất cả các nước.
Giới là: Được xây dựng nên bởi xã hội – nó là những vai trò, trách nhiệm và hành vi mong đợi ở nam và nữ trong một văn hóa hoặc xã hội cụ thể. Văn hóa – những yếu tố của giới khác nhau giữa các nền văn hóa và bên trong các nền văn hóa.
Bạn được sinh ra với giới tính của bạn – điều này không thể thay đổi.
Những vai trò về giới là được học tập – chúng phát triển và thay đổi theo thời gian.
(Nguồn: Peter Chown, 2008) [1]
5
2.1.1.2 Đặc trưng, nguồn gốc, sự khác biệt về giới
Đặc trưng cơ bản về giới
- Do dạy và học mà có
- Đa dạng
- Luôn biến đổi
- Có thể thay đổi được
Nguồn gốc giới
Trong gia đình, từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử và dạy dỗ khác
nhau tùy theo nó là trai hay gái. Đó là sự khác biệt về trang phục, hành vi,
cách ứng xử mà cha mẹ, gia đình, nhà trường và xã hội trông chờ ở con trai
và con gái. Đồng thời họ cũng hướng dẫn, dạy dỗ trẻ em trai và gái theo
những quan điểm riêng và cụ thể. Đứa trẻ phải học để trở thành con trai hay
con gái và phải luôn điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với khuôn mẫu cụ
thể của mỗi giới đã được quy định.[1]
Sự khác biệt về giới
Phụ nữ được xem là phái yếu vì một mặt thể lực họ yếu hơn nam giới,
họ sống thiên về tình cảm. Vì vậy việc phân công lao động giữa hai giới cũng
có sự khác biệt. Người phụ nữ có thiên chức làm vợ, làm mẹ, chăm sóc con
cái và gia đình. Còn nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình họ có
thể lực tốt hơn phụ nữ, cứng rắn nhanh nhẹn hơn trong công việc. Đặc trưng
này khiến nam giới ít bị ràng buộc hơn bởi con cái và gia đình, họ tập trung
hơn vào công việc tạo ra của cải vật chất và các công việc xã hội. Chính điều này
làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội.
Hơn nữa, nam giới và nữ giới lại có xuất phát điểm không giống nhau
để tiếp cận cái mới, họ có những thuận lợi, khó khăn với tính chất và mức độ
khác nhau để tham gia vào các chương trình kinh tế, từ góc độ nhận thức,
nắm bắt các thông tin xã hội. Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế, từ điều kiện
và cơ hội được học tập, tiếp cận việc làm và làm việc, từ vị trí trong gia đình,
6
ngoài xã hội khác nhau, từ tác động của định kiến xã hội, các hệ tư tưởng,
phong tục tập quán đối với mỗi giới cũng khác nhau.[1]
2.1.1.3. Nhu cầu giới và bình đẳng giới
Nhu cầu giới thực tế: Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới cần
được đáp ứng để thực hiện tốt các vai trò được xã hội công nhận. Những nhu
cầu này xuất phát từ công việc, đời sống hàng ngày, hoạt động hiện tại của
phụ nữ và nam giới. Nếu những nhu cầu này được đáp ứng thì sẽ giúp cho họ
làm tốt vai trò sẵn có của mình. Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu được
hình thành từ những điều kiện cụ thể mà mỗi giới trải qua. Chúng nảy sinh từ
những vị trí của họ trong phân công lao động theo giới, cùng với lợi ích giới
thực tế của họ là sự tồn tại của con người. Khác với nhu cầu chiến lược, chúng
được chính phụ nữ đưa ra từ vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên
ngoài. Vì vậy nhu cầu giới thực tế thường là sự hưởng ứng đối với sự cần thiết
được nhận thức ngay do phụ nữ xác định trong hoàn cảnh cụ thể.
Nhu cầu giới chiến lược: Là những nhu cầu thường nảy sinh từ vị thế
thấp hơn của mỗi giới trong xã hội. Các nhu cầu này liên quan đến phân công
lao động, đến quyền lực, sự kiểm soát và có thể bao hàm cả những vấn đề như
quyền pháp lý, bạo lực trong gia đình, tiền công công bằng hoặc sự kiểm soát
thân thể,… Việc đáp ứng các nhu cầu giới chiến lược sẽ làm thay đổi sự phân
công lao động, thay đổi vai trò và vị thế của giới.
Bình đẳng giới: Nam giới và nữ giới được coi trọng như nhau, cùng
được công nhận và có vị thế bình đẳng.
Nam giới và phụ nữ được bình đẳng về:
- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng.
- Các cơ hội để tham gia đóng góp, hưởng lợi trong quá trình phát triển.
- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống.[1]
7
2.1.1.4. Vai trò giới
Dù ở các loại hộ gia đình khác nhau, phụ nữ và nam giới đều thực hiện
3 vai trò:
Vai trò sản xuất: Là các hoạt động làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc
dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại. Đây là những hoạt động tạo ra
thu nhập, được trả công. Cả phụ nữ và nam giới đều có thể tham gia vào các
hoạt động sản xuất, tuy nhiên do những định kiến trong xã hội nên mức độ
tham gia của họ không như nhau và giá trị công việc họ làm cũng không được
nhìn nhận như nhau. Xã hội coi trọng và đánh giá cao vai trò này.
Vai trò tái sản xuất: Là các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy
dỗ,...Giúp tái sản xuất dân số và sức lao động bao gồm sinh con, các công
việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy và chăm sóc trẻ con, nấu ăn, dọn dẹp, giặt
giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình,… Những hoạt động này là thiết yếu đối với
cuộc sống con người, đảm bảo sự phát triển bền vững của dân số và lực lượng
lao động; tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy mà ít
khi được coi là "công việc thực sự", được làm miễn phí, không được các nhà
kinh tế đưa vào các con số tính toán. Xã hội không coi trọng và đánh giá cao
vai trò này. Hầu hết phụ nữ và trẻ em gái đóng vai trò và trách nhiệm chính
trong các công việc tái sản xuất.
Vai trò cộng đồng: Bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã hội và dịch vụ:
ví dụ như thăm hỏi động viên gia đình bị nạn trong thảm họa, thiên tai, nấu
cơm hoặc bố trí nhà tạm trú cho những gia đình bị mất nhà ở, huy động cộng
đồng đòng góp lương thực, thực phẩm cứu trợ người bị nạn,… Công việc
cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hoá tinh thần của
cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và
không nhìn thấy ngay được. Có lúc nó lại được trả công và có thể nhìn thấy
được (ví dụ: là thành viên phân phối hàng cứu trợ sau bão).
8
Cả nam và nữ đều có khả năng tham gia vào cả ba loại vai trò trên. Tuy
nhiên, ở nhiều địa phương, phụ nữ hầu như đều phải đảm nhiệm vai trò tái sản
xuất đồng thời cũng phải tham gia tương đối nhiều vào các hoạt động sản
xuất. Gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ cản trở họ tham gia một cách
tích cực và thường xuyên vào các hoạt động cộng đồng. Kết quả là, đàn ông
có nhiều thời gian và cơ hội hơn để đảm nhận vai trò cộng đồng và rất ít khi
tham gia vào các hoạt động tái sản xuất.
Sự hiểu biết sâu sắc về vai trò giới giúp chúng ta thiết kế các hoạt động
phù hợp cho cả nam và nữ, từ đó thu hút được sự tham gia một cách hiệu quả
của họ và đồng thời góp phần làm giảm sự bất bình đẳng trên cơ sở giới trong
việc phân chia lao động xã hội.
Thực tế cho thấy sự phân công lao động trong một xã hội nhất định
thường có xu hướng dựa vào đặc điểm giới tính. Theo đó, công việc họ đảm
nhiệm có tác động tới vị thế, cơ hội và chất lượng sống của mỗi người. Khi
xem xét vai trò giới chính là xem xét phụ nữ và nam giới trong 3 vai trò: vai
trò sản xuất, vai trò tái sản xuất và vai trò cộng đồng.[1]
2.1.2. Khái niệm về hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình
2.1.2.1. Khái niệm hộ gia đình
Hộ gia đình hay còn gọi đơn giản là hộ là một đơn vị xã hội bao gồm
một hay một nhóm người ở chung và ăn chung (nhân khẩu). Đối với những
hộ có từ 2 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay không có quỹ
thu chi chung hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình không đồng nhất với khái
niệm gia đình, những người trong hộ gia đình có thể có hoặc không có quan
hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả hai.
Hộ gia đình được phân loại như sau:
Hộ một người (01 nhân khẩu) Là hộ chi có một người đang thực tế
thường trú tại địa bàn.
9
Hộ hạt nhân: Là loại hộ chỉ bao gồm một gia đình hạt nhân đơn (gia
đình chỉ có 01 thế hệ) và được phân tổ thành: Gia đình có một cặp vợ chồng
có con đẻ hoặc không có con đẻ hay bố đẻ cùng với con đẻ, mẹ đẻ cùng với
con đẻ.
Hộ mở rộng: Là hộ bao gồm gia đình hạt nhân đơn và những người có
quan hệ gia đình với gia đình hạt nhân. Ví dụ: Một người cha đẻ cùng với con
đẻ và những người thân khác, hoặc một cặp vợ chồng với người thân khác;
Hộ hỗn hợp: Là trường hợp đặc biệt của loại hộ mở rộng.[2]
2.1.2.2. Khái niệm kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia
đình, trong đó các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để
hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. (M.T.T.Xuân và
Đ.T.T. Hiền, 2003). Kinh tế gia đình là loại hình kinh tế tương đối phổ biến
và được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Sự trường tồn của hình thức sản
xuất này đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội,
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Ở Việt
Nam, kinh tế hộ gia đình cũng có vai trò và ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta
bước vào nền kinh tế thị trường với gần 80% dân số đang sinh sống ở nông
thôn với xuất phát điểm thấp, kinh tế hộ gia đình đang là một đơn vị sản xuất
phổ biến. Đây là mô hình kinh tế có vị trí quan trọng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay, kinh tế hộ gia đình không phải là một thành phần kinh tế,
nhưng là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác.
Một trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong
hoạt động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản
xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh
10
doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta,
kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ
gia đình nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế
hộ gia đình hiện đang phát triển và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau
như nông nghiệp, vận tải, xây dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh,…[2]
2.1.3. Quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế đôi khi được coi như nhau nhưng
thực chất chúng có những nét khác nhau và có liên quan chặt chẽ với nhau.
Muốn phát triển kinh tế phải có sự tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải sự
tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới sự phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của vấn đề
lí luận kinh tế. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng: “Tăng trưởng kinh
tế là sự tăng thêm hay gia tăng về quy mô, sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kì nhất định”.
Trong khi đó phát triển kinh tế được hiểu là: “Một quá trình lớn lên hay
tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kì nhất định trong đó bao
gồm cả tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế”. Phát
triển kinh tế xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
dân bằng việc phát triển lực lượng sản xuất, thay đổi quan hệ sản xuất, quan
hệ xã hội, nâng cao chất lượng lao động văn hoá. Các nước trên thế giới trong
quá trình phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng đều
phải quan tâm đến mục tiêu phát triển đó là:
- Tăng khả năng sẵn có và mở rộng việc phân phối các loại hàng hóa
thiết yếu cho cuộc sống như phương tiện, nhà ở, y tế và bảo vệ cho tất cả các
thành viên trong xã hội.
11
- Tăng mức sống tức là ngoài mục tiêu tăng thu nhập ra còn phải tạo
thêm việc làm, cải thiện công tác giáo dục và chú trọng hơn đến giá trị văn
hoá, nhân văn.
- Mở rộng sự lựa chọn về y tế - xã hội cho các thành viên và các quốc
gia bằng cách giúp họ thoát khỏi sự ràng buộc và lệ thuộc không chỉ đối với
những người và những quốc gia khác nhau mà còn đối với những áp lực của
sự nghèo đói.[9]
2.1.4. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội
2.1.4.1. Vai trò của người phụ nữ trong hoạt động sản xuất phát triển kinh tế
gia đình
Có thể nói người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay trở thành một chủ thể
quan trọng trong đời sống các gia đình. Họ cũng là người lao động trong lĩnh
vực buôn bán dịch vụ góp phần tạo nên nguồn thu tiền mặt cho gia đình.
Cùng với chồng, người vợ cũng trở thành người tạo ra nguồn thu nhập chính.
Ở nông thôn khi mà người chồng đi làm thuê xa kiếm tiền cho gia đình thì
người vợ trở thành người lao động chính, họ là chủ thể chính phát triển kinh
tế hộ nông dân ở nông thôn. Ở thành phố, phụ nữ là lực lượng chính phát triển
buôn bán - dịch vụ và khi là người làm trong các công sở thì lương tháng của
họ cũng như lương của đồng nghiệp nam. Hiện nay thật khó khẳng định một
cách chung chung rằng người đóng vai trò quan trọng nhất trong gia đình là
người chồng hay người vợ.[10]
2.1.4.2. Vai trò của phụ nữ trong công việc gia đình
Công việc ở đây là công việc nội trợ nuôi dưỡng và chăm sóc các thành
viên trong gia đình. Nhiều quan niệm cho rằng đây là những việc vặt và
không quan trọng. Đây cũng chính là lí do mà vai trò và địa vị của người phụ
nữ bị hạ thấp, là cơ sở căn bản tạo nên sự bất bình đẳng nam nữ. Trong nền
văn minh nông nghiệp, với sự phát triển của đại gia đình, tính gia trưởng của
đàn ông được đề cao. Người phụ nữ trong các đại gia đình chỉ là những nhân
12
vật phụ thuộc và vai trò của họ hết sức mờ nhạt. Gánh nặng công việc nội trợ
vẫn đè lên vai người phụ nữ và hầu như chưa có sự chia sẻ của người chồng,
người nam giới.[10]
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thị Nhâm Tuyết (năm 2008), phụ nữ
nông thôn phải làm việc 8 - 16 h/ngày gồm cả công việc nội trợ gia đình và
chăm sóc con cái, họ không có thời gian đọc báo, nghe đài, xem văn nghệ
trong khi nam giới chỉ làm 7 h/ngày. Phụ nữ thành thị có điều kiện hơn do có
những dịch vụ và trang thiết bị gia đình tốt hơn nhưng thời gian dành cho
công việc gia đình vẫn gấp 1,5 lần so với nam giới.[3]
Trong việc nuôi dạy con cái, phụ nữ có ảnh hưởng rất lớn. Phần lớn các
công việc cho ăn, chăm sóc, dạy học thường do người mẹ đảm nhận, nhất là
thời kỳ em bé còn nhỏ. Sức khoẻ và trình độ cũng như kiến thức của người
mẹ giúp cho việc nuôi dạy con cái tốt hơn. Phụ nữ cũng được giao trách
nhiệm chăm sóc người già, người bệnh, người tàn tật. Họ phải làm việc vất
vả, thời gian dài nhưng lại không tạo thu nhập ở hoạt động này so với chồng,
họ phải chịu thiệt thòi nhiều hơn, thậm chí còn bị hiểu lầm bởi sự khó tính
của người già, người bệnh.
Rõ ràng vai trò của phụ nữ trở nên hết sức quan trọng trong việc thực
hiện những công việc nhằm nuôi dưỡng và tái sản xuất lao động của các thành
viên trong gia đình. Nhưng việc đồng thời phải thực hiện hai vai trò quan
trọng là làm kinh tế và nội trợ gia đình đã làm cho họ tốn rất nhiều thời gian
và trí lực. Hiện nay dù các quan hệ kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi nhưng
quan hệ giới hầu như chưa có những chuyển biến kịp thời. Do vậy phụ nữ thay
vì được giải phóng, được chia sẻ trong xã hội hiện đại thì vô hình chung họ trở
thành người gánh chịu nhiều trách nhiệm và chịu nhiều thiệt thòi.[3]
2.1.4.3. Vai trò của phụ nữ trong các hoạt động cộng đồng
Gia đình với tư cách là một chủ thể xã hội, khi tham gia sinh hoạt cộng
đồng bao giờ cũng hiện diện với tư cách là một chủ thể hoàn thiện. Người phụ
13
nữ hiện nay rất tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Mặc dù chưa
thực sự đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực hoạt động này
nhưng thực tế đã có một tiến bộ đáng kể khi mà người phụ nữ đã hiện diện
với tư cách là chủ, người đại diện cho gia đình để đi dự các đám hiếu, hỉ, giao
tiếp đoàn thể, chính quyền, họp làng bản, tiếp khách,…Như chúng ta đều biết
trong truyền thống những công việc này là của đàn ông - người chủ gia đình.
Điều này có nghĩa là phụ nữ đang có sự hòa nhập, chuyển đổi vai trò một
cách rõ rệt.
Như vậy, dù được thừa nhận hay không thừa nhận, thực tế cuộc sống và
những gì phụ nữ làm đã khẳng định vai trò và vị trí của họ trong gia đình,
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong bước tiến của nhân
loại. Phụ nữ cùng lúc phải thực hiện nhiều vai trò, cho nên họ cần được chia
sẻ, thông cảm cả về hành động lẫn tinh thần, gia đình và xã hội cũng cần có
những trợ giúp để họ thực hiện tốt hơn vai trò của mình.[10]
2.1.4.4. Các chỉ tiêu đánh giá về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế
hộ gia đình
Dựa vào mức độ tham gia của phụ nữ trong các hoạt động sản xuất
kinh doanh: Mức độ tham gia của phụ nữ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh càng nhiều thì vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình và
cả sự phát triển kinh tế xã hội càng cao.
Dựa vào thu nhập do phụ nữ tạo ra so với nam giới: Nếu chỉ dựa vào
mức độ tham gia của phụ nữ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng
chưa đủ để đánh giá vai trò của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình bởi tính
chất công việc khác nhau tạo ra mức thu nhập khác nhau. Do đó mà ta sử
dụng chỉ tiêu thu nhập của phụ nữ so với nam giới. Phần trăm thu nhập do
phụ nữ tạo ra càng lớn thì vai trò của họ càng được khẳng định trong gia đình.
Họ không chỉ chăm sóc con cái, chăm lo nhà cửa mà còn mang lại thu nhập
cho gia đình. Ngày nay phụ nữ có quyền tham gia vào các quyết định của gia
14
đình, các công việc kinh doanh buôn bán. Mặt khác phần trăm phụ nữ tham
gia vào các hoạt động sản xuất và gia đình thể hiện vai trò của họ trong việc
nâng cao mức sống gia đình và toàn xã hội.[10]
2.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ nữ trong phát
triển kinh tế gia đình
2.1.5.1. Quan niệm về giới, những phong tục tập quán ở nông thôn
Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á nên còn lưu giữ rất
nhiều những phong tục tập quán kể cả những phong tục cổ hủ lạc hậu. Ở nông
thôn, nơi mà sự tiếp cận của cơ chế thị trường rất chậm, văn minh thường đến
sau cùng, nên những tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” có cơ hội cản trở phụ nữ
nông thôn tham gia vào các hoạt động xã hội, người dân không dám mạnh
bạo làm ăn, hạn chế tính năng động sáng tạo và đương nhiên cản trở vai trò
của người phụ nữ. Đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số, nơi mà quan niệm về
giới và vai trò của giới vẫn có xu hướng đề cao vai trò của nam giới hơn. Họ
cho rằng chỉ nam giới mới có khả năng đảm đương được các công việc được
xem là quan trọng của gia đình, cộng đồng và xã hội.
Ngoài gánh nặng công việc gia đình người phụ nữ còn bị cộng đồng đối
xử bất bình đẳng, họ rất ít có cơ hội tham gia các hoạt động, hưởng thụ văn
hoá tinh thần và tiếp cận với các dịch vụ thông tin. Công việc chính của người
phụ nữ được thừa nhận là chăm sóc con cái, nội trợ, luôn lệ thuộc vào chồng
và con trai. Còn các hoạt động học tập, thi cử và quản lí đất nước là do nam
giới chi phối.[10]
2.1.5.2. Yếu tố về sức khoẻ
Với phụ nữ nông thôn vừa phải lao động nặng vừa phải thực hiện thiên
chức của mình là phải mang thai, sinh con và cho con bú bằng bầu sữa của
mình, cùng với điều kiện sinh hoạt thấp kém đã làm cho sức khoẻ của họ bị
giảm sút. Điều này không những ảnh hưởng đến khả năng lao động mà còn
làm vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng như trong việc phát triển kinh tế
15
gia đình trở nên thấp hơn.[10]
2.1.5.3. Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của người phụ nữ
dân tộc Mông
Ở nông thôn đặc biệt là miền núi phương tiện thông tin nghe nhìn cũng
như báo chí đến với người nông dân rất hạn chế, do vậy việc phụ nữ dân tộc
Mông tiếp cận và nắm bắt các thông tin khoa học liên quan đến kiến thức phát
triển sản xuất và chăn nuôi gặp nhiều khó khăn.
Tuy phụ nữ mông đã được bình đẳng với nam giới về tất cả các quyền
và được quy định rõ trong hiến pháp, bộ luật dân sự và luật hôn nhân gia đình
nhưng hầu hết phụ nữ dân tộc Mông không hiểu biết về những văn bản trên
và phải tuân theo các tập quán truyền thống. Phụ nữ Mông bị hạn chế về trình
độ chuyên môn kỹ thuật, sự hiểu biết nên gặp nhiều khó khăn trong việc nắm
bắt thông tin về chính trị, pháp luật và gặp nhiều khó khăn trong áp dụng các
tiến bộ KHKT mới hay các phương tiện hiện đại vào sản xuất, vào đời sống
do vậy hiệu quả công việc và năng suất lao động thấp. [10]
2.1.5.4. Yếu tố đầu tư
Trong phát triển kinh tế, yếu tố vốn là rất quan trọng nhưng trong phát
triển kinh tế hộ gia đình thì hầu hết là gặp khó khăn về vốn. Phụ nữ Mông rất
ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thống do trình độ học vấn
thấp, các hàng rào về xã hội và văn hoá, bản chất công việc kinh doanh và
những yêu cầu thế chấp, ví dụ như việc ghi tên trên giấy chứng nhận sở hữu
đất mà người phụ nữ không thể ghi tên mình vào. Hơn nữa thị trường ở nước
ta nhất là thị trường vốn ở các vùng xa xôi hẻo lánh hoạt động rất kém, cơ chế
vay vốn gặp nhiều khó khăn. Một điều là vay nợ ở khu vực nông thôn chủ yếu
được thực hiện thông qua khu vực phi chính thống với lãi suất rất cao. Do đó
mà phụ nữ nông thôn đặc biệt là phụ nữ nghèo không có điều kiện mở rộng
sản xuất phát triển kinh tế.[10]
16
2.1.5.5. Khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ Mông
Phụ nữ Mông phải đối mặt với nhiều ràng buộc về thời gian lớn hơn
nam giới. Họ có thể dành ít thời gian hơn cho công việc đồng ruộng nhưng lại
phải làm việc nhà nhiều hơn do sự phân công lao động mang tính chất giới về
việc chăm sóc con cái và trách nhiệm chăm lo việc nhà. Do vậy mà phụ nữ ít
có điều kiện tiếp xúc với các nguồn sách báo, thông tin. Điều này đã ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng nhận thức và hiểu biết xã hội. Ở nhiều vùng xa
xôi hẻo lánh, người dân ít có cơ hội tiếp xúc với báo chí và các hình thức
truyền tải thông tin khác. Do vậy mà cơ hội để phụ nữ giao tiếp rộng, tham
gia hội họp để nắm bắt thông tin cũng rất hiếm.[10]
2.1.5.6. Yếu tố chủ quan
Một yếu tố không thể không nhắc đến ảnh hưởng đến vai trò của phụ
nữ đó là nguyên nhân chủ quan do chính họ gây ra. Chính họ cũng cho rằng
những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái,… Là công việc của
người phụ nữ, như vậy vô hình chung họ công nhận cái định kiến của xã hội,
tự trói buộc mình để rồi công việc gia đình đè lên đôi vai của họ, họ không
còn thời gian cho việc tham gia các hoạt động xã hội, họ tự đánh mất vai trò
và vị trí của mình trong gia đình và xã hội.[10]
2.1.6. Một số vấn đề dặt ra đối với phụ nữ
2.1.6.1. Về vấn đề sức khoẻ
Sức khoẻ là một tài sản hết sức quan trọng đối với con người, đối với
phụ nữ thì sức khoẻ lại càng quan trọng, vì nó không chỉ làm tăng khả năng
lao động của phụ nữ mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống của họ và các
thành viên trong gia đình. Những bà mẹ khoẻ mạnh sẽ sinh ra những đứa con
khoẻ mạnh. Vì thế, quan tâm và cải thiện sức khoẻ cho phụ nữ là một phương
tiện cho phát triển kinh tế và phát triển con người. Mặc dù những năm qua, Việt
Nam đã đạt được những kết quả khả quan trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ. Tuy
nhiên, vẫn còn một số vấn đề đặt ra về sức khoẻ của phụ nữ nông thôn.[10]
17
Về sức khỏe, thể chất
Sức khoẻ của phụ nữ nông thôn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố sau đây:
+ Lao động vất vả: Phụ nữ đảm nhận khối công việc nhiều hơn nam
giới. Thời gian làm việc của phụ nữ dài hơn và căng thẳng hơn. Bên cạnh đó,
phụ nữ nông thôn thường lao động vất vả trong thời gian mang thai, thậm chí
vẫn lao động nặng trong những tháng cần phải chú ý giữ gìn để đảm bảo an
toàn cho thai nhi.
+ Môi trường ô nhiễm: Với phụ nữ, ảnh hưởng của môi trường ô nhiễm
càng nhiều vì thời gian phụ nữ lao động hàng ngày trên ruộng đồng nhiều hơn
nam giới nên dễ bị nhiễm độc bởi các hoá chất. Ở nhiều vùng nông thôn Việt
Nam có nhiều hồ, ao tù, đây là nguồn nước chủ yếu của người dân ở nông
thôn (tắm, giặt giũ,...) đồng thời cũng tạo điều kiện cho muỗi và ký sinh trùng
sinh sôi nảy nở.
+ Lấy chồng sớm, sinh đẻ nhiều: Có một điều dễ nhận thấy là ở Việt
Nam còn có hiện tượng tảo hôn. Những năm gần đây, ở các vùng nông thôn
hiện tượng tảo hôn, lấy chồng sớm có xu hướng gia tăng bởi nhiều nguyên
nhân văn hoá- xã hội, trong đó có nguyên nhân muốn xây dựng gia đình để
tách hộ nhận ruộng khoán, nếu kết hôn muộn sẽ không có cơ hội nhận ruộng
vì chính sách giao ruộng dài hạn (15 đến 20 năm). Lấy chồng sớm dẫn đến hệ
quả là bên cạnh việc chưa được chuẩn bị tốt cả về thể chất, tâm lý để làm dâu,
làm vợ, làm mẹ lẫn kiến thức nuôi dạy con,... Sự thiếu hiểu biết về dân số - kế
hoạch hoá gia đình nên dẫn đến mang thai và sinh nở, nạo hút thai nhiều.
+ Dinh dưỡng không đảm bảo: Suy dinh dưỡng, thiếu máu cũng là hiện
tượng phổ biến, một nghiên cứu quy mô như ở Việt Nam kiểm tra lượng
Hemoglobin ở phụ nữ có thai cho thấy: 49% phụ nữ nông thôn có lượng
Hemoglobin dưới tiêu chuẩn của Tổ chức y tế thế giới. Suy dinh dưỡng ở phụ
nữ không chỉ làm tăng tỷ lệ đẻ khó, tai biến thai sản có thể dẫn đến tử vong
mẹ mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ con cái. Hiện nay, có gần 42% trẻ em
18
Việt Nam dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng. (số liệu được đưa ra trong buổi họp
báo nhân Tuần lễ “Dinh dưỡng và phát triển” do Bộ Y tế phát động ngày
8.10.2013). [10]
Sức khoẻ về tinh thần
Đời sống văn hoá nghèo nàn sự đơn điệu trong đời sống văn hoá, thiếu
nơi vui chơi giải trí, hội họp sinh hoạt, thiếu thông tin thời sự chính trị, văn
hoá, khoa học kỹ thuật và kinh tế và hiện tượng dễ thấy ở nhiều vùng nông
thôn hiện nay. Đời sống văn hoá ở nông thôn nghèo nàn là một lý do thúc đẩy
thanh niên rời bỏ nông thôn. Do vậy, xoá bỏ sự nghèo nàn trong đời sống văn
hoá ở nông thôn là một yêu cầu bức thiết của sự công nghiệp hoá nông thôn,
làm điều đó cũng chính là đẩy mạnh việc truyền bá kiến thức khoa học - kỹ
thuật, công nghệ mới, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân nông thôn
về pháp luật, lối sống văn hoá. Hơn nữa, còn ngăn chặn và loại bỏ những các
tật xấu như: mê tín, cờ bạc, số đề, bói toán,...[10]
2.1.6.2. Về chuyên môn kỹ thuật
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường trong những
năm gần đây đã thực sự giải phóng lao động và đặc biệt là lao động nữ ở nông
thôn thoát ra khỏi những ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhưng
chưa thực sự giải phóng họ khỏi những ràng buộc của thể chế và tập quán của
nền kinh tế truyền thống, cùng với những thiếu hụt cả về năng lực và điều
kiện của lao động nữ trong sản xuất, kinh doanh. Sự nghiệp công nghiệp hóa
nông nghiệp nông thôn không thể thành công nếu người dân ở nông thôn chỉ
có kinh nghiệm được tích luỹ theo năm tháng mà thiếu hiểu biết về khoa học,
kỹ thuật và công nghệ mới. Với phụ nữ nông thôn hiện nay, trong quá trình
sản xuất kinh doanh, họ có một quan điểm nổi bật là sự khéo léo, sự tính toán
giỏi giang và thành đạt chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân của mỗi người,
số thành công do được học hành, đào tạo chưa nhiều. Nhược điểm này sẽ là
19
một hạn chế không nhỏ trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ để phát triển
nông thôn.[10]
2.1.6.3. Sự bất bình đẳng giới trong tiếp cận nguồn lực và ra quyết định
Cho dù đã có những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực bình đẳng giới
nhưng vẫn phải thừa nhận rằng bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại ở Việt
Nam đây là lực cản cơ bản của sự phát triển tự nhiên. Cũng như nhiều nước
trên thế giới, ở Việt Nam, những trở lực của bất bình đẳng giới là: Sự hạn chế
của phụ nữ trong tiếp cận các nguồn lực sản xuất đất đai, các dịch vụ khuyến
nông và tín dụng.[10]
2.1.6.4. Về vấn đề tiếp cận đất đai
Đối với người dân Việt Nam, nhà cửa, đất đai bao giờ cũng có giá trị
lớn và có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, trong
giai đoạn hiện nay, điều này là đặc biệt quan trọng, khi mà gần 80% dân cư
sống ở nông thôn, chủ yếu làm nông nghiệp và đất đai là tư liệu sản xuất
chính của họ. Việc xem xét người đứng tên giấy tờ sở hữu nhà, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là cần thiết để có thể phân biệt rõ về người tiếp cận
và quản lý nguồn lực trong hộ gia đình hay nói cách khác đi là quyền của mỗi
người nam và nữ trong gia đình. Về mặt pháp luật, ở Việt Nam, phụ nữ và
nam giới có quyền bình đẳng về tài sản, điều đó thể hiện qua Hiến pháp và
những bộ luật liên quan đến quyền sở hữu như Luật đất đai (1993, 2003,
2013), Bộ luật dân sự (1995), Luật hôn nhân và gia đình (2000). Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi chưa đảm bảo theo đúng quy định. Ví
dụ: Việc thực hiện quyền sử dụng đất đã được quy định trong Luật đất đai
Luật này quy định hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao đất có quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất.
Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi đầy đủ tên của cả vợ và
chồng. Nhưng trong thực tế, hầu như các giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ
ghi tên một người (chủ yếu là người chồng). Vì thế từ vị trí đồng sử dụng với
20
người chồng, người vợ đã rơi xuống vị trí người thừa hành, không có quyền
quyết định. Người chủ hộ (nam giới) có quyền lực pháp lý và kinh tế hơn các
thành viên khác trong gia đình. Việc không đứng tên giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng và một số quyền hạn khác
của người phụ nữ như chuyển nhượng, thừa kế. Việc không có quyền tương
đương với nam giới đối với đất đai- một tài sản chủ chốt, một tư liệu sản xuất
quan trọng của hộ gia đình nông thôn, ảnh hưởng rất lớn đến địa vị kinh tế và
xã hội của phụ nữ so với nam giới. Cho dù pháp luật quy định về quyền thừa
kế như nhau của con trai và con gái, nhưng theo truyền thống thì chủ yếu
người con trai trong gia đình có quyền thừa kế về nhà cửa, đất đai. Nhiều
nghiên cứu cho thấy phụ nữ chỉ có quyền sử dụng đất trong mối liên hệ với
đàn ông. Khi còn nhỏ, người con gái có phần đất được giao trong gia đình bố
mẹ đẻ, khi lấy chồng, hầu như không thể mang theo quyền sử dụng đất phần
đất, trừ khi họ lấy chồng cùng làng. Sau khi kết hôn, người vợ về cư trú bên
bố mẹ chồng và khi ra ở riêng có thể được gia đình bố mẹ chồng chia sẻ một
phần đất canh tác. Song, nếu như cuộc hôn nhân này bị đổ vỡ thì hầu như khó
đảm bảo quyền sử dụng đất đai của người phụ nữ sau khi li dị. Người phụ nữ
goá cũng không gặp không ít rắc rối về việc được đứng tên trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, vì nếu trong gia đình có người con trai lớn thì nhiều
khả năng tên của người con trai sẽ được ghi vào giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chứ không phải tên của người phụ nữ.[10]
2.1.4.5.Về vấn đề ra quyết định
Tìm hiểu vấn đề ai là người có tiếng nói quyết định đối với những vấn
đề quan trọng của gia đình như mua sắm tài sản đắt tiền, xây dựng nhà cửa,
những khoản chi lớn liên quan đến thành quả lao động của gia đình ta thấy có
nhiều bất cập. Phụ nữ được tham gia ý kiến và bàn bạc chung với tư cách là
người giữ tiền của gia đình “tay hòm chìa khoá” trong những quyết định quan
trọng nhưng trên thực tế họ không có quyền quyết định việc chi tiêu.[10]
21
2.1.6.6. Vấn đề tham gia các hoạt động cộng đồng
Phụ nữ ít có thời gian giành cho các hoạt động xã hội, hoặc cho việc
học tập kinh nghiệm từ người khác. Đặc biệt phụ nữ các dân tộc thiểu số rất ít
có cơ hội tham gia các lớp học văn hoá buổi tối thậm chí các lớp học đó đã có
sẵn và thích hợp với họ. Đó là những yếu tố hạn chế khả năng tham gia của
phụ nữ vào việc ra quyết định trong cộng đồng và ở cấp quốc gia.[10]
2.1.7. Các chủ trương chính sách của đảng
Chăm lo quyền lợi của phụ nữ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ là quan
điểm xuyên suốt lịch sử 80 năm hoạt động của đảng và 65 năm hoạt động của
nhà nước và suốt cả cuộc đời Bác Hồ. Luận cương chính trị năm 1930 của
đảng đã khẳng định: “Vấn đề giải phóng phụ nữ và sự nghiệp giải phóng phụ
nữ là một trong 10 nhiệm vụ quan trọng của Đảng”. Năm 1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tại điều 9 có ghi
rõ. “Phụ nữ bình đẳng với nam giới trên mọi phương diện và được hưởng mọi
quyền tự do của công dân”. Để phát huy tiềm năng lao động nữ thông qua đẩy
mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ, góp phần phát triển kinh tế. Nghị quyết
4/NQ-TW ra đời 12/7/1993 của bộ chính trị về “Đổi mới và tăng cường công
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, càng thể hiện rõ quan điểm và
đường lối của đảng ta.
Sau nghị quyết bộ chính trị, ban bí thư trung ương Đảng 04/NQ-TW đã
ban hành chỉ thị số 28/CT-TW ngày 19/9/1993 về “Thực hiện nghị quyết bộ
chính trị, đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình
mới”. Chỉ thị có đoạn ghi rõ phải làm cho toàn đảng toàn dân thấy rõ vị trí vai
trò của phụ nữ Việt Nam, sự cần thiết đổi mới và tăng cường công tác vận
động phụ nữ, quyết tâm thực hiện tốt nghị quyết của Bộ Chính Trị. Ngày
25/12/2001, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc
gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010, với mục tiêu nâng cao chất
lượng đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ.
22
Ngày 24/12/2010chính phủ ra quyết định 2351/QĐ -TTg “phê duyệt
chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020”. Năm 2013 có
quyết định số 2275 về ban hành quy chế hoạt động của ban vì sự tiến bộ của
phụ nữ.[6]
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hiệu quả quản lý của các quan
hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương đới với công tác phụ nữ,
thực hiện bình đẳng giới nhằm phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng
cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, có việc
làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hoa, tinh thần, tham gia
ngày càng nhiều vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực. Phấn đấu
để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất
của khu vực.
Đặc biệt trong chiến lược quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
đến năm 2020 với các nhiệm vụ, giải pháp được nêu rõ:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền và các tổ chức
trong hệ thống chính trị về bình đẳng giới, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước đối với công tác bình đẳng giới và phối hợp liên ngành thúc đẩy sự tiến
bộ của phụ nữ.
2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác phụ nữ và bình đẳng
giới, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác phụ nữ và bình đẳng giới.
3. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật, chính sách, chương trình, dự án về
bình đẳng giới phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới nhằm tạo điều kiện phát
triển cho phụ nữ.
Rà soát, bổ sung và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan trong các lĩnh vực của đời sống xã hội xây dựng chính sách khuyến
khích phát triển gia đình điển hình gương mẫu theo tiêu chí gia đình văn hóa.
23
Xây dựng hệ thống các mục tiêu quốc gia, chỉ tiêu về bình đẳng giới,
công cụ theo dõi, đánh giá vấn đề lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật.
4. Nâng cao vị thế của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống thông
qua tăng cường, sự tham gia lãnh đạo và quản lý của phụ nữ, thực hiện
nguyên tắc bình đẳng nam và nữ, lồng ghép các chính sách cụ thể về độ tuổi
trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm đới với cán bộ, công chức nữ.
Tăng cường cơ hội tiếp cận giáo dục và đào tạo, y tế pháp luật cho phụ
nữ và trẻ em gái.
Xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo cán bộ nữ.
Xây dựng và thực hiện chính sách đặc thù đối với lao động nữ làm việc
ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và là người dân tộc thiểu số.
Xây dựng cơ chế đảm bảo thúc đẩy sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ
vào quá trình ra quyết định và tăng tỷ lệ nữ ứng cử đại biểu Quốc Hội, hội
đồng nhân dân các cấp.
5. Quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước ở trung
ương và địa phương trong việc đảm bảo cho cán bộ nữ, công chức trong việc
tham gia quản lý nhà nước.
Nghiên cứu đánh giá việc thực hiện nghị định số19/2003/NĐ-CP ngày
07 tháng 3 năm 2003 của chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.
Xây dựng nghị định thay thế nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày
07/3/2003 của chính phủ để xác định rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính
nhà nước các cấp trong việc đảm bảo cho nữ cán bộ, công chức chủ động
tham gia vào quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược,
chương trình dự án có liên quan đến phụ nữ và trẻ em.
24
Xây dựng và ban hành quy chế về mối quan hệ công tác giữa chính phủ
với Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
6. Huy động nguồn lực cho các hoạt động bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ của phụ nữ.
7. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về bình đẳng giới
nối chung và sụ phát triển của phụ nữ nói riêng.[6]
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Thực trạng vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1.1. Khái quát về vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới
Hơn 50 năm trước, Charlotte Whitton, một nhà nữ quyền và là nữ thị
trưởng đầu tiên của một thành phố lớn ở Canada đã nói rằng: “Bất cứ công
việc nào phụ nữ đảm nhiệm, họ phải làm gấp hai lần nam giới để được công
nhận”. Phụ nữ chiếm 40% lực lượng lao động toàn cầu và họ cũng là đối
tượng tiêu dùng chính trên thị trường bởi họ thực hiện phần lớn các quyết
định mua hàng của các hộ gia đình. Mặc dù bình đẳng giới được ca ngợi là
một yếu tố quan trọng trong một nền kinh tế thông minh và đóng vai trò
không thể thiếu để phát triển đầy đủ tiềm năng của một tổ chức, nhưng việc
trao quyền cho phụ nữ vẫn còn chậm chạp, đặc biệt ở một số khu vực trên thế
giới như châu Á. Phụ nữ đóng vai trò quan trọng đối với các nền kinh tế châu
Á, đặc biệt trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ chủ chốt như dệt may, may
mặc, hành chính văn phòng và trung tâm chăm sóc khách hàng. Do cả lợi ích
về tài chính và xã hội của việc cho vay vốn, hỗ trợ phụ nữ, hầu hết các tổ
chức tín dụng vi mô đều nhắm vào đối tượng này. Đồng thời một nửa số dân
di cư trên thế giới là phụ nữ cũng đóng góp đáng kể vào nền kinh tế châu Á
bằng cách chuyển những khoản thu nhập của họ về nhà. Tuy nhiên, bất bình
đẳng giới vẫn còn phổ biến trong khu vực này. Nhiều phụ nữ châu Á vẫn
chưa được tiếp cận với giáo dục cơ bản, không được góp ý kiến vào việc đưa
ra quyết định ở chính gia đình và nơi họ làm việc. Hơn thế nữa, phụ nữ cũng
25
phải đối mặt với những thách thức đáng kể trong việc bắt đầu khởi nghiệp.
Mặc dù nhiều nền kinh tế châu Á đang tăng trưởng bùng nổ nhưng vẫn có rất
ít phụ nữ có chỗ đứng trong những vai trò mang tính quyết định về chính trị
và kinh tế. Tuy nhiên, phụ nữ châu Á đã tăng đều đặn, trong danh sách 100
phụ nữ quyền lực nhất thế giới năm 2016 do Forbes bình chọn, có đến 24 phụ
nữ châu Á, đến từ các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Hàn
Quốc, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Việt Nam,… Mặc dù có nhiều
yếu tố văn hóa cần xem xét ở mỗi quốc gia, nhưng sự gia tăng số phụ nữ châu
Á trong danh sách này là một dấu hiệu tiến bộ. Nó cho thấy một sự chuyển
đổi lớn đang diễn ra và phụ nữ có thể đạt được thành công bằng cách hỗ trợ
và cố vấn lẫn nhau trên con đường phát triển.
2.2.1.2. Phụ nữ nông thôn Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế - xã hội nông hộ
Từ xưa đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một lực lượng quan trọng và
đông đảo trong đội ngũ những người lao động tạo dựng nên xã hội. Phụ nữ
thể hiện vai trò quan trọng của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Có thể nói rằng, trong cuộc sống hiện đại, người phụ nữ có vai trò rất lớn.
Nếu gia đình được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi là hạt
nhân của tế bào này. Gia đình là nơi thể hiện thực chất sự bình đẳng và nâng
cao địa vị của người phụ nữ. Bên cạnh đó, người phụ nữ của thời hiện đại
càng không thể tách rời với thực tế gia đình và xã hội. Phụ nữ ở bất cứ thời
đại nào, quốc gia, dân tộc nào cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc sáng tạo,
giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc.
* Thực trạng phụ nữ Việt Nam
Trước đây, ở các địa bàn vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
nhiều người thường quan niệm phụ nữ chỉ là những người đảm đương công
việc nội trợ, công việc trong gia đình, hoặc làm những việc khác do sự sắp
xếp của đàn ông. Còn hôm nay, với sự sáng tạo, năng động và chủ động của
26
mình, chị em phụ nữ đã vươn lên khẳng định khả năng cũng như hiệu quả lao
động không thua kém đấng mày râu, trở thành trụ cột kinh tế trong nhiều hộ
gia đình. Đặc biệt chị em cũng đã hết sức linh hoạt trong việc hình thành
những tổ, nhóm đồng sở thích hoặc liên kết với nhau trong sản xuất để phát
triển kinh tế.
Là một nước có nền công nghiệp chưa phát triển, Việt Nam hiện có
trên 70% số người trong độ tuổi lao động sống ở nông thôn, trong đó phụ nữ
chiếm trên 50%, nhưng họ là nhóm người yếu thế và thiệt thòi nhất trong xã
hội, không được như đội ngũ công nhân, trí thức, phụ nữ nông thôn bị hạn chế
bởi trình độ nhận thức. Nhưng họ lại là lực lượng chính tham gia vào hầu hết
các khâu trong sản xuất nông nghiệp như: cấy lúa, nhổ mạ, chăm sóc cây lúa,
sát gạo. Hiện tượng tăng tương đối của lực lượng lao động nữ nông thôn
những năm gần đây là do một số nguyên nhân chính sau:
- Do sự gia tăng tự nhiên số người trong độ tuổi lao động, hiện nay
hàng năm nước ta có khoảng 80 - 90 vạn người bước vào tuổi lao động, trong
đó: lao động nữ chiếm 55%.
- Do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu tổ
chức của các ngành doanh nghiệp, đa số lao động nữ ở các cơ quan, xí nghiệp
bị giảm biên chế, không có việc làm phải quay về nông thôn làm việc.
- Do sự tan rã của thị trường Đông Âu, Nga vào đầu những năm 90,
khiến cho các nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam mất nguồn tiêu thụ
hàng hoá, đa số phụ nữ làm nghề này lại chuyển về làm nghề nông nghiệp.
- Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, do sức cạnh tranh yếu nên nhiều
hợp tác xã thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn cũng lâm vào tình trạng
phá sản. Kết quả là công nhân chủ yếu là nữ công nhân thuộc các hợp tác xã
thủ công này phải trở về nghề nông.
27
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phụ nữ dân tộc mông trong các hộ
gia đình trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc
mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu được triển khai từ ngày
20/02/2019 đến ngày 20/05/2019.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Sốp
Cộp– huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại địa bàn xã Sốp Cộp
Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia
đình trên địa bàn xã Sốp Cộp
Phân tích những khó khăn, trở ngại trong việc phát huy vai trò của phụ
nữ xã Sốp Cộp trong phát triển kinh tế hộ.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ xã
Sốp Cộp – huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Chọn địa điểm nghiên cứu
Sốp Cộp là xã của huyện Sốp Cộp. Địa hình của xã dốc, chủ yếu là đồi
núi, các bản cách xa nhau phụ thuộc vào nguồn nước tự nhiên. Căn cứ vào địa
hình và điều kiện của Đề tài tôi tiến hành lựa chọn ra 2 bản dân tộc Mông: bản
Co Hịnh, bản Pá Hốc, để nghiên cứu. Đây là 2 xóm dân tộc Mông trong xã.
28
Chọn hộ nghiên cứu
Sau khi lựa chọn vùng nghiên cứu, tiến hành chọn ngẫu nhiên ra 40 hộ
nghiên cứu từ danh sách các hộ gia đình, đảm bảo đủ các hộ thuộc 3 nhóm
khá, trung bình, nghèo.
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.2.1. Số liệu thứ cấp
Thu thập thông tin thứ cấp là những thông tin có sẵn, được tổng hợp từ
trước và đã được công bố.
Nguồn số liệu: Số liệu được thu thập qua các số liệu thống kê, báo cáo
tổng kết của UBND, báo cáo tổng kết các hoạt động của hội phụ nữ xã Sốp
Cộp. Một số sách, báo, công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề về vai
trò phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
Phương pháp thu thập: Qua việc ghi chép, thống kê các dữ liệu cần
thiết cho đề tài với một số chỉ tiêu được chuẩn bị sẵn.
3.4.2.2. Số liệu sơ cấp
Nguồn số liệu: Trên cơ sở các mẫu điều tra 40 hộ đã chọn, thu thập
thông tin sơ cấp là các thông tin được thu thập trực tiếp thông qua các cuộc
điều tra, phỏng vấn các cán bộ, người lao động. Thu thập thông tin này giúp
cho ta thấy được nguyên nhân của những tồn tại và những các ứng phó của
địa phương giúp chúng ta phân tích rõ từ đó đề xuất kiến nghị và có những
biện pháp kịp thời.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi: Thu thập
các số liệu bằng hệ thống các câu hỏi đã được soạn thảo trước.
Phương pháp chọn mẫu: Theo phương pháp ngẫu nhiên.
3.4.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
3.4.3.1. Phương pháp xử lý số liệu
Dựa vào số liệu đã thu thập, tiến hành tổng hợp và phân tích, đánh giá
vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
29
Các số liệu định lượng được tổng hợp trên phần mềm Excel.
3.4.3.2. Phương pháp thống kê so sánh
Các số liệu được so sánh qua các năm, các nhóm hộ, khá, trung bình,
nghèo để thấy được sự khác nhau về thực trạng vai trò của người phụ nữ
Mông qua các năm cũng như trong từng nhóm hộ. Từ đó có thể đưa ra nhận
xét, đánh giá.
30
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
- Xã Sốp Cộp là xã trung tâm của huyện Sốp Cộp, có diện tích tự nhiên
là 4.463 ha. Xã giáp ranh với với các xã như sau:
- Phía Đông giáp xã Mường Cai - huyện Sông Mã.
- Phía Bắc giáp xã Huổi Một của huyện Sông Mã.
- Phía Nam giáp xã Mường Và và Xã Nậm Lạnh của huyện Sốp Cộp.
- Phía Tây giáp với xã Dồm Cang huyện Sốp cộp.
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
- Xã có địa hình phức tạp, độ cao từ 700m đến 1500m so với mực nước
biển, bao gồm hai dạng địa hình chính:
- Địa hình đồi núi thấp và trung bình có độ cao từ 700m đến 950m so
với mực nước biển, dạng hình này hiện đang được nhân dân canh tác cây
hành năm (lúa nước, nương rẫy).
- Địa hình đồi núi cao có độ cao từ 950m đến 1500m so với mực nước
biển, dạng địa hình này hiện đang khoanh nuôi tái sinh.
4.1.1.3. Khí hậu
- Sốp Cộp nằm ở khu vực cận ôn đói, mùa đông lạnh, mùa hè mát.
- Nhiệt độ cao khá ổn định trung bình trong năm khoảng 22,440C.
- Tổng lượng mưa trung bình khoảng 1,718 mm/năm. Mùa khô lượng
mưa nhỏ chiếm 15% tổng lượng mưa. Độ ẩm trung bình là 78%.
31
- Tình trạng khô hạn vào mùa đông, gió tây khô nóng vào những tháng
cuối mùa khô, đầu mùa mưa là yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp,
sương muối, mưa đá, lũ quét là những yếu tố bất lợi đối với sản xuất nông
lâm nghiệp.
4.1.1.4. Thủy văn
Xã Sốp Cộp tập trung nhiều con suối, khe suối. Trên địa bàn xã là nơi
hội tụ của 3 con suối lớn là suối Nậm Ban, suối Nậm Ca và suối Nậm Lạnh
chảy từ đầu nguồn ra, 3 con suối hội tụ lại tạo thành vùng đầu nguồn của suối
Nậm Công rồi đổ ra Sông Mã.
Do địa hình chia cắt bởi các dãy núi cao với độ dốc chênh lệch đã tạo
ra các khe suối nhỏ và ngắn, mùa khô thì cạn kiệt, mùa mưa lưu lượng dòng
chảy tương đối lớn chảy vào con Sông Đà tạo ra sự chênh lệch về lưu lượng
nước giữa 2 mùa tương đối lớn vì vậy thường gây ra những trận lũ quét lũ ống
cục bộ gây thiệt hại và ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhân dân.
4.1.1.5. Các nguồn Tài nguyên
*Tài nguyên đất
Với tổng diện tích tự nhiên của xã là 4,463 ha.Trong đó: Đất nông
nghiệp: 3.160,41 ha, chiếm: 70,81%, đất phi nông nghiệp: 227,37 ha, chiếm:
5,09 %, đất chưa sử dụng: 1.075,55 ha, chiếm: 24,09%.
32
Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2018
Diện tích Cơ cấu STT Chỉ tiêu (ha) (%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 4.463,00 100
3.160,41 70,82 1 Đất nông nghiệp
119,56 2,68 1.1 Đất lúa nước
77,51 1,74 1.2 Đất trồng cây lâu năm
2.566,57 57,51 1.3 Đất lâm nghiệp
309,97 6,95 1.3.1 Đất rừng sản xuất
227,37 5,09 2. Đất phi nông nghiệp
34,73 0,77 2.1 Đất ở
133,78 3 2.2 Đất chuyên dùng
6,48 4,84 2.2.1 Đất trụ sở cơ quan hành chính sự nghiệp
1,17 0,87 2.2.2 Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
2.2.3 Đất sử dụng mục đích công cộng 65,31 48,81
8,89 6,64 2.2.4 Đất nghĩa trang nghĩa địa
46,00 1,03 2.2.5 Đất sông suối
1.075,22 24,09 3. Đất chưa sử dụng
0 0,00 3.1 Đất bằng chưa sử dụng
3.2 Đất đồi chưa sử dụng 1.075,22 24,09
(Nguồn: Số liệu thống kê xã Sốp Cộp năm 2018). [8]
Qua bảng 4.1 Báo cáo hiện trạng sử dụng đất xã Sốp Cộp năm 2018 ta
có biểu đồ hiện trạng sử dụng đất của xã được thể hiện qua biểu đồ sau:
33
Hình 4.1. Biểu đồ hiện trạng sử dụng đất xã Sốp Cộp năm 2018
* Nhóm đất nông nghiệp
+ Đất sản xuất nông nghiệp: Có diện tích 3.160,41 ha chiếm 70,82%
diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích đất trồng lúa chiếm 2,68%, chứng tỏ
lúa vẫn là cây lương thực phổ biến nhất của vùng. Đất trồng lúa chủ yếu là đất
lúa 2 vụ, khâu chủ động nước, hệ thống tưới tiêu còn nhiều bất cập. Đất trồng
cây hàng năm chủ yếu là trồng xoài, nhãn và các hoa quả khác.
+ Đất Lâm Nghiệp: Chiếm tỷ lệ tương đối cao 57,51%. Nhìn chung,
đất lâm nghiệp đã góp phần quan trọng vào phòng hộ xung yếu tránh xói
mòn, rửa trôi, cải thiện cảnh quan môi trường và cân bằng sinh thái. Tuy
nhiên, phần lớn rừng là rừng non, trữ lượng thấp. Ngoài việc tăng cường công
tác bảo vệ rừng tái sinh, rừng đặc dụng cần tập trung, đẩy mạnh công tác
tròng rừng, đặc biệt chú trọng trồng rừng phòng hộ đầu nguồn.
*Nhóm đất phi nông nghiệp
+ Đất ở: Nhìn chung, đất ở trên địa bàn phân bố không đồng đều. Một
số cụm dân cư nằm ở vùng cao rất khó khăn cho việc đi lại và trao đổi giao
lưu kinh tế văn hoá.
34
+ Đất chuyên dùng: Với tổng diện tích 133,78 ha chiếm 3% tổng diện
tích tự nhiên toàn xã. Nhìn chung, hầu hết các loại đất chuyên dùng trong xã
được sắp xếp khá hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, diện tích dành
cho các mục đích này còn ít. Hạng mục công trình văn hoá, công cộng phúc
lợi cũng như cơ sở hạ tầng ký thuật còn hạn chế, phần nhiều đã xuống cấp.
* Nhóm đất chưa sử dụng
Diện tích đất chưa sử dụng của xã còn 1.075,22 ha chiếm 24,09% tổng
diện tích tự nhiên. Trong đó đất đồi chưa sử dụng chiếm 24,09% trong tổng
diện tích đất tự nhiên. Đây chính là hậu quả tập quán phá rừng làm nương rẫy.
Thực tế này dẫn đến những khó khăn nhất định cho địa phương vì đất đồi là
đất khó khai thác và sử dụng. Vì vậy, chính quyền địa phương cần có những
chính sách và biện pháp cụ thể để khuyến khích các hộ cá nhân trồng rừng,
phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập
cho nhân dân.
*Tài nguyên nước
Nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong xã
được khai thác từ hai nguồn sau:
- Nguồn nước mặt: Đây là nguồn nước chính phục vụ sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân. Nguồn nước mặt chủ yếu là nước mưa được lưu giữ trong
các ao, ruộng và hệ thông sông, suối. Chất lượng nguồn nước tương đối sạch.
- Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm hiện tại chưa khảo sát đầy đủ,
song trong thực tế nhiều khu vực có thể khai thác được nước ngầm, để phục
vụ cho đời sống của nhân dân trong vùng (đào giếng lấy nước). Tuy nhiên
còn một số bản vùng cao do địa hình đồi núi có độ dốc lớn, nguồn nước ngầm
thường rất sâu nên việc đầu tư khai thác nguồn nước ngầm sẽ rất tốn kém.
*Tài nguyên rừng
Hiện nay độ che phủ của rừng chiếm tỷ lệ thấp, ảnh hưởng đến sản
xuất, đời sống và cảnh quan, môi trường ở một số nơi trong xã. Đất rường sản
35
xuất chiếm 309,97 ha, đất rừng phòng hộ chiếm 225,00 ha, chiếm 16,93%
diện tích đất nông nghiệp và 11,99 % tổng diện tích tự nhiên. Rừng góp phần
không nhỏ vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, tạo tầng che phủ cho đất, hạn
chế quá trình xói mòn, rửa trôi. Rừng sản xuất là nơi góp phần không nhỏ vào
việc tạo thu nhập cho người dân xã Sốp Cộp.
* Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn xã đang triển khai khoan thăm dò để tìm kiếm nguồn
khoáng sản trong lòng đất song chưa phát hiện ra nguồn khoáng sản lớn.
* Tài nguyên nhân văn
Xã có tổng diện tích tự nhiên 4,463 ha, có 17 bản, tổng số hộ 1,789 hộ
với 5,951 nhân khẩu, (số hộ tạm trú 178 hộ với 472 nhân khẩu) gồm 06 dân
tộc anh em cùng sinh sống, trong đó: Dân tộc Thái 3,942 nhân khẩu, chiếm
66,24%, dân tộc Kinh 1,552 nhân khẩu, chiếm 26,07%, dân tộc Mông 391
nhân khẩu, chiếm 6,57%, dân tộc Khơ Mú 135 nhân khẩu, chiếm 2,26%, dân
tộc Lào 28 nhân khẩu, chiếm 0,47%, dân tộc Mường 25 nhân khẩu, chiếm
0,42%. Xã có 03 bản đặc biệt khó khăn. Có 04 đơn vị trường học, 01 trạm y
tế trực thuộc.
Xã Sốp Cộp là vùng đất cổ được hình thành và phát triển sớm trong
lịch sử, trong quá trình đấu tranh và phát triển nhân dân các dân tộc xã Sốp
Cộp luôn giữ những nét đặc trưng riêng trong đời sống văn hóa truyền thống,
của dân tộc mình, xong có sự hòa nhập giữa các nền văn hóa làm phong phú,
đa dạng bản sắc văn hóa chung của nhân dân xã Sốp Cộp. Trên địa bàn xã
không có làng nghề truyền thống. Trình độ dân trí không đồng đều. Dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp Uỷ Đảng, chính quyền xã Sốp Cộp, cán bộ và nhân
dân đoàn kết, thống nhất.
4.1.1.6. Thực trạng môi trường
Là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Sốp Cộp, được sự quan tâm
của các cấp, các ngành những năm gần đây, diện tích rừng được tăng nhanh
36
do phát động phong trào trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hiện nay
đất rừng của xã đang tăng nhanh, cây trồng đa dạng, phong phú, ngoài ra
phong trào trồng cây xanh làm đẹp cơ quan, đường làng, ngõ xóm cũng được
các cấp các ngành quan tâm, cảnh quan đẹp, môi trường trong sạch, mát mẻ,
chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm không khí và nguồn nước.
4.1.1.7. Nhận xét chung
*Thuận Lợi: Xã Sốp Cộp có địa hình, khí hậu và đất đai phù hợp với
việc phát triển các ngành nông – lâm nghiệp. Cần phát triển nền kinh tế ổn
định vững chắc, khai thác triệt để lợi thế của địa phương, đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Tập trung tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến vào sản xuất, chú đến việc đầu tư giống cây trồng mới có năng
suất, chất lượng, hiệu quả.
*Khó khăn: Là một xã miền núi địa hình bị chia cắt nhiều, trình độ dân
trí không đồng đều, sản xuất nông nghiệp là chính, các ngành nghề chưa phát
triển, nguồn vốn ít, hoạt động thương mại, dịch vụ chậm phát triển và còn đơn
lẻ (trên địa bàn xã có 250 điểm bán lẻ hàng hóa tiêu dùng, 85 điểm dịch vụ ăn
uống và 73 hộ vận tải, kho bãi phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân),
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chậm, hàng năm lũ lụt, xói mòn và sạt
lở đất còn xảy ra ở một số vùng canh tác ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống
sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn xã
4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội
4.1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế
Lĩnh vực trồng trọt
- Tổng diện tích gieo trồng vụ đông xuân 753,5 ha, đạt 109% so với kế
hoạch, trong đó:
- Cây lương thực có hạt 281,5 ha, đạt 101% so với chỉ tiêu. Sản lượng
lương thực có hạt đạt, 1.4423 tấn, đạt 110,6% so với chỉ tiêu, trong đó: Thóc
37
1.022,3 tấn, đạt 108,8% so với chỉ tiêu, ngô 420 tấn, đạt 115,3% so với chỉ
tiêu, trong đó:
- Lúa chiêm xuân: Chỉ tiêu giao 61,7 ha, thực hiện 63,5 ha đạt 102,9% so với
chỉ tiêu giao. Cơ cấu giống: Nếp 87, nếp 97, giống BC15, nếp ĐT52. Năng suất
bình quân đạt: 61 tạ/ha, đạt 105% so với chỉ tiêu giao, Sản lượng đạt 387,3 tấn.
- Lúa mùa: Chỉ tiêu giao 78 ha. Thực hiện 78 ha đạt 100% so với chỉ tiêu
giao. Cơ cấu giống nếp 87, nếp 97, nếp tan địa phương, năng suất bình quân toàn
xã đạt: 50 tạ/ha, đạt 103% so với chỉ tiêu giao, Sản lượng đạt 390 tấn.
- Lúa nương: Chỉ tiêu giao 68 ha thực hiện 70 ha, đạt 102% so chỉ tiêu
giao, năng suất bình quân đạt 35 tạ/ha, đạt 116% so với chỉ tiêu giao, sản lượng
đạt 245 tấn.
- Sắn: Chỉ tiêu giao 250 ha thực hiện 320 ha, đạt 128% so với chỉ tiêu giao.
Năng suất bình quân đạt 102 tạ/ha, đạt 100% so với chi tiêu giao, Sản lượng đạt
3,264 tấn.
- Ngô: Chỉ tiêu giao 70 ha thực hiện 70 ha, đạt 100% so với chỉ tiêu giao.
Năng suất bình quân đạt 60 tạ/ha, đạt 115,3% so với chỉ tiêu giao, sản lượng đạt
420 tấn.
- Lạc: Chỉ tiêu giao 6,0 ha, thực hiện 6,0 ha, đạt 100% so với chỉ tiêu giao.
Năng suất bình quân đạt 20 tạ/ha, đạt 166,6% so với chỉ tiêu giao, sản lượng đạt
12 tấn.
- Rau màu: Chỉ tiêu giao 24 ha, thực hiện 24 ha, đạt 100% so với chỉ tiêu giao.
- Đậu đỗ : Chỉ tiêu giao 1,5 ha, thực hiện 2 ha đạt 133% so với chỉ tiêu giao.
- Trồng cỏ: Chỉ tiêu giao 5 ha, thực hiện 5 ha, đạt 100% so với chỉ tiêu
giao, trồng dải dác ở cả các bản.
38
Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng 1 số cây trồng chính của xã
năm 2018
Chỉ Tiêu DT (ha) NS (tạ/ha) SL (tấn)
Lúa (cả năm) 63,5 59,0 374,6
Ngô 70,0 40 280,0
Sắn 220 102 2244
(Nguồn: Bảng thống kê xã Sốp Cộp năm 2018)
Diện tích gieo trồng đạt kế hoạch NQHĐND xã giao, tuy nhiên do cơn
lũ lịch sử 9 – 11/10/2018 làm vùi lấp, cuốn trôi nên diện tích cho thu hoạch giảm.
Trong sản xuất nông nghiệp: Xác định cây lúa là trọng tâm, cây ngô là
cây mũi nhọn để phát triển kinh tế.
- Về sản xuất lương thực: Hàng năm gieo cấy lúa hết diện tích, giống
lúa lai cho năng suất cao được đưa vào sản xuất, tổng sản lượng lương thực
cây có hạt năm 2018 đạt 14,423 tấn.
- Về sản xuất ngô: Phát huy tiềm năng và điều kiện cụ thể của địa
phương xác định cây ngô là cây cho nguồn thu nhập đáng kể cho nhân dân,
hàng năm được nhà nước hỗ trợ vốn, kỹ thuật để cải tạo và trồng mới, hiện
nay trong toàn xã có diện tích gieo trồng là 70 ha đạt 100% kế hoạch năm,
bằng 98,5% so với cùng kỳ năm 2016.
Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của xã, cùng với kinh nghiệm lâu năm
của người dân. Ngoài thế mạnh về cây lúa, cây ngô là thế mạnh thứ hai của địa
phương. Vì vậy trong tương lai, địa phương cần tập trung phát huy thế mạnh cây
ngô, nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho bà con nông dân.
39
Lĩnh vực chăn nuôi
Bảng 4.3. Số lượng gia súc, gia cầm của xã Sốp Cộp giai đoạn 2016 - 2018
(ĐVT: con)
Chỉ tiêu Năm 2016 2017 2018
Đàn lợn 3800 3,579 4,101
Đàn trâu 450 401 407
Đàn bò 425 421 516
Đàn gia cầm 21,380 23,822 37,103
Đàn dê 412 433 701
(Nguồn: Bảng thống kê xã Sốp Cộp năm 2018)
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy, trong 3 năm gần đây số gia súc, gia
cầm được người dân địa phương nuôi có sự biến động. Nhìn chung số lượng
gia súc, gia cầm đều tăng lên. Từ năm 2016 đến năm 2018 số lượng lợn, gia
cầm tăng lên khá cao. Nguyên nhân là do công tác tiêm phòng dịch cúm A
cho gà, vịt, trâu, bò, lợn, dê thực hiện đúng theo kế hoạch đã được tập huấn,
mở được nhiều lớp học tập chuyển giao công nghệ mới cho người dân, trong
đó có các lớp về trồng trọt, chăm sóc phòng trừ sâu hại, cách sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật và các lớp thiết kế trồng rừng, trồng ngô, lớp chăn nuôi, thú y.
Vì vậy số lượng gia súc, gia cầm của toàn xã đã tăng lên đáng kể.
Số lượng trâu, bò cũng có xu hướng tăng giảm không ổn định, nguyên
nhân dẫn tới tình trạng số lượng trâu giảm là do diện tích chăn thả bị thu hẹp,
sức cày kéo phục vụ cho sản xuất đã dần được thay thế bằng các loại máy
móc nên rất ít hộ nuôi trâu. Đa số các hộ nuôi với quy mô nhỏ (1-2 con) để
bán ra thị trường. Đồng thời, thời tiết bất lợi, rét đậm, rét hại kéo dài làm một
số gia súc, gia cầm của các hộ bị chết.
Đàn dê của xã tăng lên 289 con do nhu cầu của người dân tăng, điều
kiện khí hậu phù hợp, thức ăn chăn nuôi tại địa bàn xã đáp ứng được nhu cầu
40
chăm sóc dê, vì vậy cần mở các lớp tập huấn kinh nghiệm chăm sóc cho
người dân để nhân rộng và phát triển thêm mô hình này.
Xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai tiêm phòng dịch bệnh, phòng chống
đói, rét và đăng ký tiêm phòng bắt buộc đối đàn gia súc, gia cầm năm 2018.
Kết quả thống kê tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2018 là 42,943 con, trong đó:
- Tổng đàn gia súc: Chỉ tiêu giao 5,738 con, thực hiện 5,865 con, đạt
120,7% so với chỉ tiêu giao, trong đó:
+ Trâu: 407 con, đạt 80,2% so với kế hoạch giao (500 con);
+ Bò: 516 con, đạt 140,98 % so với kế hoạch giao (366 con);
+ Lợn: 4,101 con, đạt 147,78% so với kế hoạch giao (3,775);
+ Dê: 701 con, đạt 146,04% so với kế hoạch giao (480).
- Tổng đàn gia cầm: 37,103 con, đạt 171,51% so với kế hoạch giao
(21,633 con), trong đó: Gà: 29,301 con; Vịt: 4,664 con; Ngan: 2,871 con;
Ngỗng: 267 con.
- Đàn ong: 370 đàn, đạt 202,18% so với kế hoạch giao (183).
- Công tác điều trị và kiểm dịch bệnh: Trong năm đã triển khai tiêm
phòng chống dịch THT trâu, bò 1,760 liều, LMLM trâu, bò 1,760 liều; dịch tả
lợn 1,840 liều, tiêm dại cho chó nuôi được 950 liều vụ xuân hè và vụ thu đông
được 3,545 liều, vắc xin niu cat xơn gà 29,200 liều và trâu, bò chết rét là 06 con.
- Về công tác phun khử trùng: Triển khai phun tiêu độc, khử trùng được
95,000m2
41
4.1.2.2. Tình hình phát triển xã hội
a, Dân số và lao động
Bảng 4.4. Cơ cấu hộ gia đình nông nghiệp và phi nông nghiệp
của xã năm 2018
Hộ nông nghiệp Hộ phi nông nghiệp Tổng STT Bản số hộ Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%)
1 Hua Mường 243 158 85 34,97 65,02
55 69,62 24 30,37 Cang Mường 2 79
50 70,42 21 29,57 Lả Mường 3 71
58 92,06 05 7,9 Bản Pe 4 63
49 98 06 10,9 5 Huổi Pe 55
45 83,33 09 16,6 6 Huổi Khăng 54
66 92,95 05 7,0 Bản Ban 7 71
36 78,26 10 21,7 Pom Khăng 8 46
80 75,47 26 24,52 9 Nà Lốc 106
58 81,69 13 18,3 10 Co Pồng 71
60 50 60 50 11 Sốp Nặm 120
10 8,5 107 91,45 12 Nà Dìa 117
46 100 0 0 13 Nà Nó 46
68 100 0 0 14 Nà sài 68
26 100 0 0 15 Co Hịnh 26
19 100 0 0 16 Pá Hốc 19
33 100 0 0 17 Tà Cọ 33
Tổng 941 347
(Nguồn: Bảng thống kê xã Sốp Cộp năm 2018)
42
b, Lao động của xã chia theo giới từ năm 2016 - 2018
Bảng 4.5: Lao động xã Sốp Cộp chia theo giới tính giai đoạn 2016 - 2018
Chia theo giới tính
Năm nghiên cứu Tổng số lao động
Nam Nữ
2016 2,911 1,495 1,416
2017 3,112 1,564 1,548
2018 3,512 1,656 1,856
(Nguồn: Bảng thống kê xã Sốp Cộp năm 2018)
Đánh giá về tình hình nhân lực của xã
Thuận lợi: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi của địa phương khá cao, chiếm
tỷ lệ 59,6%, nhận thức về đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm của người lao động
ngày càng được nâng lên. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người dân ngày
càng được nâng cao qua các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật.
- Khó khăn: Một số hộ gia đình nhận thức trong việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi còn chậm, chưa mạnh dạn đầu tư phát triển, số lao động chưa
có việc làm ổn định tỷ lệ còn quá cao chiếm tỷ lệ trên 30%. Tỷ lệ đi làm ăn xa
còn cao, lao động chưa tập trung vào ngành mũi nhọn của xã nên việc tăng
trưởng kinh tế còn chậm. Tỷ lệ lao động chưa được đào tạo nghề còn cao, mức
độ dân trí thấp ảnh hưởng nhiều tới việc chuyển giao khoa học kỹ thuật.
b, Lĩnh vực văn hóa xã hội
* Về công tác giáo dục
Duy trì phổ cập giáo dục đúng độ tuổi quy định của các cấp trường.
UBND xã chỉ đạo các ban, ngành đoàn thể xã và các bậc phụ huynh học sinh,
thường xuyên tuyên truyền, vận động con em đến trường lớp học đảm bảo sĩ
số học sinh của các trường trong năm học.
43
Xây dựng kế hoạch, phân công cho các bản, triển khai tu sửa, cơ sở vật
chất trường lớp học, để đảm bảo cho công tác dạy và học của các trường năm
học năm 2018 - 2019.
Chỉ đạo các trường thực hiện tốt lễ tổng kết năm học 2017 - 2018 và lễ
khai giảng năm học 2018 – 2019, đảm bảo đúng thời gian quy định.
- Năm học 2017 – 2018 tổng số Cán bộ CNVC của 4 trường là 134 cán
bộ, giáo viên, nhân viên, với tổng số học sinh: 1,780 em.
- Năm học 2018 – 2019 tổng số cán bộ CNVC của 02 trường là 133 cán
bộ với 1,887 học sinh và 68 phòng học, trong đó:
+ Trường Tiểu học & Trung học cơ sở: Tổng số cán bộ CNVC: 74 đ/c;
Toàn trường có 1,182 học sinh, với 44 phòng học.
+ Trường Mầm Non Hoa Phượng Đỏ: Tổng số cán bộ CNVC: 59 đ/c;
Tổng toàn trường có 705 trẻ, với 24 phòng.
- Công tác khuyến học:
Chỉ đạo Hội khuyến học xã cùng với các ngành đoàn thể xã, bản và các
bậc phụ huynh học sinh của các cấp học, tuyên truyền, vận động con em đến
trường lớp học, đảm bảo phổ cập đúng độ tuổi quy định. Kịp thời biểu dương,
khuyến khích các học sinh có hoàn cảnh khó khăn có thành tích trong học tập
cho 25 học sinh, trong đó: 02 trường Mầm Non là 10 cháu, trường Tiểu học
và Trung Học cơ sở là 15 em, tổng số tiền là 2.500.000 đồng.
Phối hợp với Phòng Giáo dục & ĐT huyện tổ chức mở lớp xóa mù chữ
cho nhân dân thuộc 3 bản vùng cao tại bản Co Hịnh.
Xây dựng kế hoạch tổ chức bình xét gia đình học tập năm 2018. Kết
quả bình xét và công nhận như sau: Gia đình học tập là 1,115 hộ/1,873 hộ,
Dòng họ học tập có 11 dòng họ và cộng đồng học tập có 14/17 bản đạt năm 2018.
44
* Về công tác y tế
Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân năm 2018.
Tổng số lần khám 1,581 lượt người, trong đó: Khám kê đơn người 1,581 lượt người.
- Công tác tiêm chủng: Trẻ em được tiêm chủng đầy đủ: 154 trẻ, số trẻ
được tiêm viêm não Nhật Bản: 617 trẻ, phụ nữ tiêm uốn ván 2: 34 người.
- Công tác phòng chống sốt rét: Lấy máu làm gửi xét nghiệm: 16 mẫu.
- Công tác phun khử khuẩn 4 bản: Hua mường, Lả Mường, Nà Nó,
Pom khăng, tổng số hộ được phun khử là 795 hộ và các trường học trên địa
bàn xã.
- Công tác phòng chống dịch bệnh, trong năm 2018 đã xảy ra vụ 01
bệnh dịch sởi tại xã.
- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Tổng số mắc HIV còn: 29 người,
trong đó: Nữ 10 người.
* Công tác Dân số - KHHGĐ
Tổng số hộ năm là: 1,875 hộ, với 7,140 nhân khẩu, trong đó: Số hộ tạm
trú 341 hộ với 775 khẩu.
Xây dựng kế hoạch hoạt động chương trình mục tiêu dân số - KHHGĐ
năm 2018, kế hoạch tuyên truyền hưởng ứng ngày dân số thế giới 11/7 và
ngày dân số Việt Nam 26/12 năm 2018. Hướng dẫn các bản rà soát, lập hồ sơ
các bản thực hiện tốt chính sách dân số - KHHGĐ, không có người tảo hôn và
kết hôn cận huyết thống năm 2018 đề nghị ban chỉ đạo lĩnh vực Y tế huyện
công nhận theo nghị quyết số 78/2014 của HĐND tỉnh Sơn La. Tổ chức tuyên
truyền tại các bản được 32 buổi với 523 lượt người nghe và tư vấn tại các hộ
gia đình được 41 hộ với 75 lượt nghe.
Phối hợp UBND huyện tổ chức lễ phát động chiến dịch chăm sóc
SKSS/KHHGĐ năm 2018.
45
* Công tác thông tin – tuyên truyền
Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện Sốp Cộp tăng thời lượng tiếp
âm, tiếp sóng đài THVN và Đài PT - TH tỉnh, bám sát nhiệm vụ chính trị của
Trung ương, tỉnh, huyện và phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, lực lượng
vũ trang, các xã trong huyện tuyên truyền sâu rộng các chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng được 17 Chương trình truyền
thanh, truyền hình, với 133 tin, 06 phóng sự, 01 trang truyền hình cơ sở cộng
tác với đài tỉnh, nội dung phản ánh các chuyến thăm, chúc tết của lãnh đạo
tỉnh, huyện và các đoàn từ thiện trong và ngoài tỉnh thăm tặng quà tết và các
hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới năm 2018, tuyên
truyền an toàn giao thông, an toàn thực phẩm, phòng, chống cháy nổ, đảm
bảo an toàn thông tin mạng,... Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện in, phóng
tác 74,5m2 pa nô, cắt dán, treo 30 băng rôn vượt đường, 50 cờ đảng, 50 cờ tổ
quốc, 25 cờ dây và dùng xe ô tô tuyên truyền cổ động mặt đường 12 lượt theo
tuyến đường chính trong huyện Sốp Cộp. Tổ chức chương trình văn nghệ biểu
diễn phục vụ nhân dân vào tối ngày 12/02/2018.
* Công tác xóa đói giảm nghèo: Xoá đói giảm nghèo toàn diện, bền
vững luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu
xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những
nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Công tác Quốc phòng – An ninh
+ Quốc phòng: Tăng cường công tác trực sẵn sàng, nhận nhiệm vụ, chủ
động giải quyết các nhân tố có thể gây mất ổn định, đảm bảo an ninh trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn.
46
Thực hiện tốt kế hoạch công tác tuyển quân năm 2019, đảm bảo quân
số theo chỉ tiêu giao. Thường xuyên kiểm tra, quản lý, nắm chắc quân số biên
chế, kiện toàn bổ sung lực lượng dự bị động viên, lực lượng dân quân và vũ
khí trang bị bảo đảm đúng theo quy định.
Nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an
ninh và công tác huấn luyện lực lượng dân quân, dự bị động viên năm 2019.
+ An ninh: Tiếp tục giữ vững ổn định và đảm bảo ANCT trật tự an toàn
xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền vận động nhân
dân chấp hành tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Không di dịch cư tự do, không học truyền đạo trái phép, không
trồng, tái trồng cây có chữa chất ma túy.
Tăng cường công tác phối hợp với các lực lượng đứng chân trên địa
bàn xã về phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, an toàn giao thông,
phòng cháy, chữa cháy,... Tiếp tục truy quét các loại tội phạm, đảm bảo trật tự
an toàn xã hội. Làm tốt công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các nhóm liên gia tự quản.
Xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai phòng, chống tội phạm, các tệ
nạn xã hội và bảo vệ Đảng, bảo vệ Chính quyền, các ngày lễ, sự kiện trọng
đại của đất nước trên địa bàn xã.
Quản lý tốt các đối tượng đã chấp hành xong hình phạt tù, án treo tại
địa phương, các đối tượng có tiền án, tiền sự, thanh thiếu niên hư để răn đe,
giáo dục họ và vận động họ chấp hành tốt mọi chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
47
4.2. Thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn xã Sốp Cộp –
huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La.
Bảng 4.6. Tình hình chung của các hộ điều tra
Chỉ tiêu Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo BQ
Tỷ lệ nam làm chủ hộ (%) 100% 100 % 100% 100%
Tỷ lệ nữ làm chủ hộ (%) 0% 0% 0 % 0%
Tuổi chủ hộ:
Tuổi bình quân 37 28 27 28
Tuổi cao nhất 63 51 50 51
Tuổi thấp nhất 26 23 21 24
Bình quân số khẩu/hộ 6 khẩu/hộ 5 Khẩu/ hộ 6 khẩu/ hộ
Bình quân lao động /hộ 4 Lao 3 lao động/ hộ 2 lao
động/ hộ động/hộ
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Qua điều tra 40 hộ trong đó có 19 hộ khá chiếm 38%, 13 hộ trung bình
chiếm 26% và còn lại là 8 hộ nghèo chiếm 16%. Bình quân chủ hộ dân tộc
Mông hộ khá, trung bình, nghèo hầu như là nam chiếm 100%, còn nữ chủ hộ
chiếm 0%. Vậy nên qua điều tra cho ta thấy nam được đứng tên chủ hộ.
Thông thường, nam chủ hộ chiếm tỷ lệ lớn là do nguyên nhân nam giới có
tính quyết đoán, nhanh chóng quyết định công việc, còn người phụ nữ thì e dè
hơn trong quá trình ra quyết định sản xuất hay kinh doanh ở một loại hình sản
xuất mới. Tuy nhiên, điều này cũng thể hiện sự bất bình đẳng giới trong gia
đình cũng như những quan niệm, định kiến của xã hội, trong khi công sức mà
nữ giới bỏ ra không hề thua kém nam giới, thậm chí còn phải đảm nhiệm
những công việc nặng nhọc trong gia đình.
Tuổi bình quân của các hộ là 37 tuổi. Nhìn chung đa số là hộ trẻ và
trung bình, đây cũng một phần khẳng định lao động của xã tương đối trẻ.
48
Bình quân số khẩu/hộ là 4 người/hộ, qua điều tra cho thấy tỷ lệ người
già ít, có thể nói một phần kết quả này là do chính sách DS-KHHGĐ đã có
những tác động nhất định. So sánh giữ tỷ lệ khẩu/hộ với tỷ lệ lao động/hộ cho
thấy nhờ giảm tỷ lệ sinh mà con em trong các gia đình nông thôn sẽ có điều
kiện để được quan tâm. Chăm sóc và đi học
4.3. Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ Mông trong phát triển
kinh tế trên địa bàn xã Sốp Cộp.
4.3.1. Hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội tại
địa bàn xã
4.3.1.1. Phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể năm 2018
Phụ nữ trong độ tuổi tham gia sinh hoạt đoàn thể trên địa bàn xã là
1187 người. Trong đó hội viên của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ có 720 hội viên.
Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội tập hợp rộng rãi
các tầng lớp phụ nữ, hội có chức năng vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ
thực hiện chủ trương của Đảng và tham gia quản lý Nhà nước. Hội liên kết
mọi tầng lớp phụ nữ lại với nhau, nhằm cùng học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ
nhau trong cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế và nâng cao nhận thức
của người phụ nữ về vai trò của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Trong năm 2018 hội viên hội liên hiệp phụ nữ tham gia nhiều chương trình
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phong trào xây dựng gia đình hạnh
phúc, ngoài ra hội phụ nữ còn tham gia phong trào tuyên truyền luật giao
thông, phòng chống tệ nạn xã hội. Đặc biệt tham gia cuộc vận động “5 không
- 3 sạch” có 560 hội viên tham gia chiếm 77,78%. Trong năm 2018 các hội
viên hội phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể rất tích cực và sôi nổi giành được
nhiều thành tích xứng đáng.
49
Hình 4.2: Biểu đồ cơ cấu phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể của xã
năm 2018
4.3.1.2. Trình độ của cán bộ các hội, đoàn thể là nữ trên địa bàn nghiên cứu
Bảng 4.7. Trình độ của cán bộ hội đoàn thể nhiệm kỳ 2016 - 2018
Số lượng (người) Tỷ lệ(%) Trình độ
THPT 3 50
Trung cấp 0 0
Cao đẳng 0 0
Đại học 3 50
6 100 Tổng cán bộ nữ
(Nguồn: Hội liên hiệp Phụ nữ xã Sốp Cộp năm 2018)
Cán bộ các hội, đoàn thể là nguồn lực quan trọng trong sự phát triển
của hội nói chung và sự phát triển của các hội viên các hội, đoàn thể nói
riêng. Đây là lực lượng chủ chốt lĩnh hội các kiến thức về các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, triển khai các chương trình phát triển
50
kinh tế xã hội, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, có lối sống lành mạnh và
các chương trình nâng cao nhận thức cho các hội viên trong tổ chức hội.
Qua bảng 4.7 có thể thấy trình độ của cán bộ hội đoàn thể chưa cao.
Các cán bộ hội, đoàn thể chủ yếu là trình độ THPT và trình độ Đại học chiếm
50%, hoạt động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, sự năng động sáng tạo
trong công việc còn thiếu. Điều này là một trong những nguyên nhân làm cho
hoạt động của hội, đoàn thể bị yếu kém, công tác tổ chức, vận động và tuyên
truyền các kiến thức, chương trình, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước liên quan trực tiếp đến các hội viên phần nào bị hạn chế. Vì vậy, để phát
huy hơn nữa vai trò của các hội, đoàn thể tới các hội viên thì chính quyền địa
phương cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, nâng cao trình độ của đội
ngũ cán bộ địa phương mình.
Bảng 4.8. Cơ cấu phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền và
đoàn thể năm 2018
Trong Tỷ lệ
Tổng số
Các chức danh đó nữ (%)
(người)
(người)
Lãnh đạo cấp Ủy Đảng 0 0 0
Lãnh đạo hội, đoàn thể 5 2 40
Lãnh đạo UBND xã 0 0 0
Trưởng xóm 0 0 0
5 33 Tham gia ban chấp hành Đảng ủy xã 15
(Nguồn: Hội liên hiệp Phụ nữ xã Sốp Cộp 2018)
51
Hiện nay, người phụ nữ ngày càng khẳng định được vị thế của mình
trong xã hội, ở các cấp, các ngành lực lượng cán bộ nữ tham gia vào công tác
lãnh đạo ngày một tăng lên. Tuy nhiên xã Sốp Cộp, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia
lãnh đạo ở các cấp, các ngành còn chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của địa
phương cũng như quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước. Bảng 4.8 ở
trên cho thấy cán bộ nữ tham gia lãnh đạo chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Tổng số phụ nữ
tham gia lãnh đạo các cấp Uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể không có. Cụ
thể cơ cấu phụ nữ lãnh đạo hội, đoàn thể chỉ chiếm 40%. Tham gia ban chấp
hành Đảng Ủy phụ nữ cũng chiếm tỷ lệ không nhiều 33%, còn lại trong các
chức danh khác không có mặt của phụ nữ. Xã Sốp Cộp có 9 bản, tuy nhiên
trưởng các bản 100% là nam giới. Nguyên nhân của tình trạng này do nhiều
yếu tố mang lại như: Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền về bình đẳng
giới, về vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế, hoặc do áp lực công việc
gia đình khiến người phụ nữ không làm tốt nhất công việc của mình, do đó bị
đánh giá sai năng lực,... Để tăng tỷ lệ nữ tham gia vào hoạt động lãnh đạo ở
các cấp, chính quyền các cấp cần quan tâm hơn nữa tới công tác bồi dưỡng
cán bộ nữ, nhận thức đầy đủ hơn về năng lực và vai trò của cán bộ nữ; gia
đình cần động viên, ủng hộ họ tham gia vào công tác lãnh đạo và hơn hết,
người phụ nữ phải nâng cao trình độ bản thân và nhận thức đúng về vị thế của
mình trong hoạt động đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
52
4.3.2. Thực trạng vai trò phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ
gia đình
4.3.2.1. Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất
Bảng 4.9. Tỷ lệ phụ nữ Mông tham gia quản lý điều hành sản xuất
(ĐVT:%)
Tiêu chí Hộ khá (n=19) Hộ trung bình (n=13) Hộ nghèo (n=8)
Tỷ lệ nữ tham gia
quản lý điều hành 44,70% 35,3% 20%
sản xuất trồng trọt
Tỷ lệ nữ tham gia
quản lý điều hành 49,59% 30,41 % 20%
trong chăn nuôi
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Người phụ nữ thường là người có vai trò quan trọng trong tất cả các
công việc gia đình, sản xuất hay phát triển kinh tế thế nhưng theo quan niệm
xưa cũ vai trò ấy lại không được nhìn nhận. Ngày nay, xã hội ngày càng phát
triển dường như vị trí của người phụ nữ cũng đang dần thay đổi.
Kết quả nghiên cứu trên 40 hộ cho ta thấy, tuy không cao nhưng người
phụ nữ đã có tiếng nói hơn trong gia đình, theo đó thì tỷ lệ nữ tham gia quản
lý điều hành sản xuất đã tăng lên và tham gia quản lý điều hành sản xuất hộ
khá là 63,15%, hộ trung bình là 46,15%, hộ nghèo giảm xuống nhiều hơn là
25%. Tuy nhiên qua điều tra cho thấy phụ nữ mới chỉ dừng ở mức độ tham
gia mà chưa phải quyết định. Để phụ nữ có thể dễ dàng hơn và chủ động
trong các hoạt động sản xuất tạo thu nhập cần tăng tỷ lệ phụ nữ làm chủ hộ và
bản thân người phụ nữ cần năng động và có chủ kiến.
53
4.3.2.2. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập
Bảng 4.10. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp năm 2019
(ĐVT:%)
Hộ trung bình (n=13)
Hộ nghèo (n=8)
Hộ khá (n=19)
Hoạt động
Vợ Chồng
Thuê
Vợ
Chồng
Thuê
Vợ
Chồng
Thuê
Cả hai
Cả hai
Cả hai
26,35
21,05
52,6
0
30,77
38,46
76,92
0
37,5
37,5
25
0
1.Trồng trọt Chọn giống (quyết định trồng cây gi…)
25
50
21,05 15,79 21,05 36,84 31,58
31,58 36,84 31,58 21,05 26,32
36,84 31,58 52,63 42,10 26,32
10,53 15,79 0 0 15,79
23,07 15,38 23,07 38,46 38,46
30,77 38,46 38,46 23,07 38,46
38,46 7,69 30,77 15,38 46,15 38,46 23,07
0 0 0
25 50 25 37,5 25
50 0 0 0 37,5
75 62,5 37,5
0 0 0 0 0
-Làm đất ( cày, bừa…) -Trồng cây -Mua vật tư ( phân bón) -Chăm sóc (bón phân. làm cỏ) -Thu hoạch -Bảo quản sau thu hoạch (phơi, sấy)
26,32 15,79
26,32 68,42
47,37 15,79
15,38 15,38
23,07 53,85
61,54 30,07
12,5 12,5
12,5 75
0 0
0 0
75 12,5
0 0
-Tìm thị trường tiêu thụ -Bán nông sản (quyết định thời điểm bán)
21,05
31,58
47,37
7,69
38,46
61,54
37,5
62,5
0
0
0
0
42,10
36,84
47,37
46,15
23,07
30,07
62,5
25
12,5
0
0
0
2.Chăn nuôi -Chọn giống (quyết định nuôi con gi…)
21,05 31,58 42,10
47,37 36,84 26,35
36,84 31,58 36,84
15,38 23,07 38,46
46,15 46,15 38,46
38,46 30,07 23,07
25 37,5 50
50 62,5 25
4 0 0
0 0 0
25 0 25
0 0 0
26,35
42,10
31,58
7,69
53,86
38,46
12,5
62,5
0
0
25
0
-Làm chuồng -Mua vật tư (cám, tăng trọng…) -Chăm sóc -Đi bán (quyết định thời điểm bán…)
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
54
Bảng 4.10 cho thấy phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại
các hộ nghiên cứu trên địa bàn xã Sốp Cộp như sau: Qua điều tra ba nhóm hộ
thì nhóm hộ khá có sự tham gia lao động của cả hai vợ chồng, chia sẻ việc
đồng áng cao nhất. Các công việc trong hoạt động trồng trọt và chăn nuôi tỷ
lệ người được điều tra trả lời rằng đó là công việc của cả hai là rất cao, tức là
họ đã có sự bàn bạc trong việc quyết định các hoạt động sản xuất, chăn nuôi
của gia đình mình.
Ở nhóm hộ khá cũng có những khâu trong hoạt động sản xuất mà người
phụ nữ làm nhiều hơn nam giới như khâu chọn giống, 27% người phụ nữ
quyết định, 20% người chồng quyết định còn lại 53% cả hai cùng bàn bạc. Tỷ
lệ này thấp dần ở hộ trung bình và thấp nhất ở nhóm hộ nghèo sự bàn bạc của
cả hai vợ chồng còn chưa cao chỉ chiếm 20%. Trong một số công việc thì
người chồng vẫn đảm nhiệm chính như: Làm đất, làm chuồng, vợ chỉ tham
gia với tỷ lệ nhỏ. Đặc biệt ở nhóm hộ nghèo thì sự tham gia của phụ nữ trong
hoạt động trên so với đàn ông tuy thấp nhưng so với hai nhóm hộ kia thì tỷ lệ
này cao hơn, có sự tham gia của phụ nữ vào công việc nặng nhọc nhiều hơn.
Trong công việc này thì ở nhóm hộ khá đã có sự thuê ngoài nhiều hơn cả do
các nhóm hộ này có điều kiện kinh tế tốt hơn. Quyết định nuôi con gì, trồng
cây gì, quyết định thời điểm bán, tìm thị trường, mua vật tư vẫn là công việc
chính của phụ nữ.
Còn ở nhóm hộ nghèo thì các công việc quyết định nuôi con gì, thời
điểm bán, bán sản phẩm thì ngược lại do người đàn ông quyết định, sự chia sẻ
công việc vẫn chưa có.
Qua bảng phân công lao động 4.10 có thể thấy, sự tham gia của người
phụ nữ vào các hoạt động sản xuất chiếm tỷ lệ rất cao, họ đã khẳng định vai
trò quan trọng của mình trong các hoạt động sản xuất, tạo thu nhập và sự san
sẻ công việc đồng áng được thể hiện rõ ở nhóm hộ khá và nhóm hộ trung
bình. Nhóm hộ nghèo hầu hết các công việc nặng vẫn đặt lên vai người phụ
55
nữ họ phải đảm đương quá nhiều mà ít có sự chia sẻ từ phía người đàn ông
trong gia đình.
4.3.2.3. Phân công lao động trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái
Bảng 4.11. Phân công lao động trong hoạt động nội trợ chăm sóc con cái
năm 2019
(ĐVT:%)
Hộ khá (n=19)
Hộ trung bình (n-13)
Hộ nghèo (n=8)
Hoạt động
Cả
Cả
Cả
Vợ
Chồng
Vợ Chồng
Vợ Chồng
hai
hai
hai
Nội trợ: Nấu
87,9
12,0
--
75,7
8,4
72,8
27,1
15,8
cơm, giặt
Chăm sóc sức
25,7
19,1
44,7
34,4
13,3
47,6
50
15,8
34,1
khỏe gia đình
Kèm con cái
29,6
17,6
52,1
31,7
--
68,2 14,6
29,2
56,1
học hành
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Ngoài thời gian lao động để tạo thu nhập và duy trì cuộc sống thì
người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ nông thôn lại dành phần lớn thời gian
cho các công việc như làm việc nội trợ, chăm sóc sức khỏe gia đình, kèm con
cái học hành. Những công việc này vẫn được coi là của phụ nữ và bản thân
người phụ nữ cũng không hề phàn nàn họ coi đó là phần việc của mình.
Bảng 4.11 cho thấy, nội trợ vẫn là công việc của phụ nữ dân tộc Mông,
hộ khá chiếm 87,9%, hộ trung bình 75,7% và 72,8% ở hộ nghèo, điều đáng
lưu ý từ hộ nghèo đến hộ khá thì tỷ lệ nữ tham gia hoạt động tái sản xuất giảm
đi, cũng đồng nghĩa với việc sự chia sẻ của đàn ông với phụ nữ đã tăng lên,
điều này cũng cho thấy luật bình đẳng giới đã một chút hiệu quả, tuy nhiên sự chia
sẻ này phụ thuộc nhiều vào nhận thức của cả hai giới trong từng nhóm hộ.
Công việc sản xuất và tái sản xuất làm cho phụ nữ nông thôn không
còn thời gian cho bản thân cũng như giao lưu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm
56
với bạn bè, những lúc thời vụ khẩn trương người phụ nữ phải làm việc quá
sức, điều này ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, hiệu quả công việc và sức lao
động cho mùa vụ tiếp theo của họ, vì vậy người chồng cần nhận thức rõ hơn
về vai trò của phụ nữ, chia sẻ gánh nặng trong công việc cũng như trong cuộc
sống với họ.
4.3.2.4. Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm soát nguồn lực của hộ
Qua bảng phân công lao động ở trên giúp ta thấy được người phụ nữ
đóng vai trò rất quan trọng trong các hoạt động sản xuất tạo nguồn thu nhập
cho gia đình. Còn về vai trò của họ trong việc kiểm soát một số nguồn lực của
hộ như thế nào thì ta sẽ cùng xem xét qua biểu đồ 4.3 và bảng 4.12 dưới đây.
Kiểm soát nguồn lực đất đai
Hình 4.3. Biểu đồ phụ nữ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (sổ đỏ)
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Biểu đồ 4.2 cho thấy trong các hộ nghiên cứu tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) không cao. Nhìn vào biểu đồ có thể
thấy rõ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới trong việc kiểm soát nguồn lực đất
57
đai của hộ. Ở hộ nghèo vợ đứng tên sổ đỏ chỉ chiếm 20%, trong khi đó người
chồng đứng tên sổ đổ là 80%, một sự chênh lệch khá lớn. Tương tự như vậy ở hộ
trung bình và hộ khá thì tỷ lệ nữ giới đứng tên sổ đổ cũng không cao, chủ yếu vẫn
do người đàn ông đứng tên và kiểm soát. Có thể nhận thấy ở cả 3 nhóm hộ thì
người dàn ông vẫn đứng tên trong sổ đỏ là cao hơn phụ nữ, mặc dù ở nhóm hộ
khá tỷ lệ phụ nữ đứng tên cao hơn 2 nhóm hộ còn lại. Đây là một thực tế trong các
hộ nghiên cứu và đây cũng là nguyên nhân phần nào dẫn đến sự bất công bằng
trong việc sở hữu và kiểm soát nguồn lực đất đai của hộ.
Kiểm soát nguồn lực tài chính Bảng 4.12: Tình hình quản lý vốn vay của hộ dân tộc Mông
ĐVT: %
Hộ trung bình Các vai trò (n=13)
Hộ nghèo (n=8) Hộ khá (n=19)
28,57 14,29 57,14 50 31,25 18,75 66,67 0 33,33
28,57 28,57 42,85 37,5 25 37,5 66,67 33,33 0
81,25 18,75 0 71,43 28,57 0 100 0 0
71,43 14,29 14,29 75 12,5 12,5 100 0 0
Tỷ lệ vay vốn 1.Quản lý Chồng Vợ Cả hai 2.Quyết định sử dụng Chồng Vợ Cả hai 3.Đứng tên vay vốn Chồng Vợ Người khác 4.Trả lãi tiền vay Chồng Vợ Người khác (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Bảng 4.12 thể hiện vai trò kiểm soát nguồn lực tài chính của phụ nữ
trong các nhóm hộ khác nhau. Tỷ lệ vay vốn của các nhóm hộ cũng khác
58
nhau, tỷ lệ vay vốn ở nhóm hộ khá, giàu là 46,67%, ở nhóm hộ trung bình là
64%, nhóm hộ nghèo là 60%. Nhóm hộ khá qua điều tra thì không vay vốn
nhiều vì thực tế họ đã có vốn làm ăn nếu vay chỉ khi họ muốn làm ăn lớn hơn
hoặc thiếu vốn mà thôi. Cuộc sống của nhóm hộ này đã đầy đủ, không còn
thiếu thốn do vậy tỷ lệ vay vốn của họ cũng không cao. Còn nhóm hộ nghèo
vay vốn để hỗ trợ tạo dựng cuộc sống. Nhưng họ cũng chưa dám vay vốn để
làm ăn lớn vì họ thường không dám nghĩ xa và rủi ro đối với họ là rất lớn.
Trong khi đó nhóm hộ trung bình tỷ lệ vay vốn là khá cao. Còn việc quản lý
nguồn vốn vay trong các nhóm hộ ra sao?
Qua bảng 4.12 ta thấy quyền quản lý vốn vay trong các nhóm hộ rất
khác nhau. Ở nhóm hộ khá quyền quản lý vốn thuộc về cả hai vợ chồng
chiếm tỷ lệ khá cao 57,14%. Nhóm hộ trung bình và hộ nghèo tỷ lệ này thấp
hơn. Sự chênh lệch giữa vai trò của chồng và vợ trong quản lý vốn trong gia
đình còn quá lớn, trong chi tiêu hàng ngày thì người vợ là người quản lý chi
tiêu. Nhưng các quyết định lớn trong gia đình thì lại do người đàn ông quyết
định. Trong vai trò quyết định sử dụng sự khác biệt càng được thể hiện rõ hơn
giữa nam giới và nữ giới. Trong gia đình người đàn ông vẫn chiếm tỷ lệ lớn
trong việc quyết định sử dụng đồng vốn, Ở nhóm hộ nghèo chiếm tới 66,67%,
nhóm hộ trung bình là 37,5% thấp nhất là nhóm hộ khá 28,57%. Trong nhóm
hộ khá, giàu thì tỷ lệ phụ nữ trong việc quyết định sử dụng cao hơn hai nhóm
hộ còn lại.
Trong việc đứng tên vay vốn thì chủ yếu lại là người chống đứng tên để
vay vốn, còn việc đi trả lãi thì ngược lại chủ yếu lại là người vợ đảm nhiệm
công việc này ở cả 3 nhóm hộ.
Vậy sự đối lập giữa tỷ lệ phụ nữ có quyền quyết định sử dụng vốn vay
và tỷ lệ phụ nữ đi trả lãi hàng tháng cho thấy sự bất công bằng trong vai trò
kiểm soát nguồn lực tài chính của nông hộ.
59
4.3.2.5. Phân công lao động trong các hoạt động khác
* Hoạt động kinh doanh hàng hóa và dịch vụ
Bảng 4.13. Phân công lao động trong hoạt động kinh doanh hàng hóa và
dịch vụ 2019
(ĐVT:%)
Hộ khá (n=19) Hộ trung bình (n=13)
Hoạt động Cả Cả Vợ Chồng Vợ Chồng hai hai
36,85% 26,31% Tỷ lệ hộ tham gia
- Chọn mặt hàng để bán 10,52 21,05 68,42 7,69 53,84 38,46
- Đi lấy hàng 21,05 21,05 57,89 38,46 46,15 15,38
- Bán hàng 57,89 26,31 15,79 61,53 30,76 7,69
- Quản lý sổ sách 10,52 73,68 15,78 0 76,92 23,07
- Trả nợ, đòi nợ 31,57 42,10 26,31 0 92,3 7,69
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
So với nam giới phụ nữ tham gia hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch
vụ không nhiều và không giống nhau giữa các hộ và nhóm hộ, còn hộ nghèo
không tham gia vao dịch vụ hàng hóa. Kết quả nghiên cứu ở cả ba nhóm hộ
đều cho thấy, trong tất cả các hộ gia đình, trong khi hầu hết các khâu đi lấy
hàng, quản lý sổ sách, trả nợ, đòi nợ đa phần đều do người chồng đảm nhận
đã cho thấy việc tham gia các hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ do
chồng thực hiện là chính, vợ đóng vai trò ít quan trọng hơn. Việc quản
Tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn xã 2.566,57 ha (chiếm 57,51% diện
tích đất tự nhiên). Những năm gần đây được sự quan tâm của các cấp, các
ngành rừng được bảo vệ và chăm sóc tốt hơn, diện tích rừng ngày một tăng
nhanh cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu cây trồng rất đa dạng và phong
phú, do chính sách giao đất giao rừng của địa phương được thực hiện tốt, ưu
thế về diện tích đất lâm nghiệp. vì vậy tỷ lệ hộ tham gia ngày một tăng lên.
60
Với một xã miền núi như Sốp Cộp, lâm nghiệp đang là một ngành có tiềm
năng lớn đối với sự phát triển kinh tế của địa phương.
Bảng 4.14. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp
năm 2019
(ĐVT:%)
Hộ khá Hộ nghèo Hộ trung bình (n=13) (n=19) (n=8) Hoạt
động Cả Cả Cả Vợ Chồng Vợ Chồng Vợ Chồng hai hai hai
Phát cây,
dọn đồi,
0
68,42
31,57 23,07
61,53
7,69
25
62,5
12,5
đốt
Cuốc hố
0
100
0
38,46
46,15
15,38
25
50
25
trồng cây
Chăm sóc
21,05
73,68
5,26
38,46
61,53
0
12,5
62,5
25
rừng
Khai thác
0
100
0
15,38
61,53
23,07
25
50
12,5
lấy gỗ, bán
Tỷ lệ hộ 68,42% 53,84% 50 tham gia
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Bảng tổng hợp cho thấy hộ khá tham gia hoạt động sản xuất lâm nghiệp
nhiều hơn chiếm 45%, với hoạt động này phụ nữ thường tham gia các công
việc nhẹ nhàng như phát cây, dọn đồi, đốt. Đặc biệt ta có thể thấy, phụ nữ
trong các hộ khá được ưu tiên hơn ở công việc nặng đòi hỏi sức khỏe như
cuốc hố trồng cây, khai thác bán, phần việc này đều do người chồng thực hiện
chiếm 100%, trong khi nhóm hộ nghèo người phụ nữ gần như tham gia ngang
bằng với đàn ông ở tất cả các khâu của hoạt động lâm nghiệp, họ vẫn chưa
nhận được sự ưu ái trong công việc.
61
4.3.2.7. Vai trò của phụ nữ trong tham gia công tác xã hội
Bảng 4.1.5. Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động cộng đồng năm 2019
(ĐVT:%)
Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo Hoạt
động Vợ Chồng Vợ Chồng Vợ Chồng Cả hai Cả hai Cả hai
25 25 50 24,4 29,2 46,4 12,4 64,1 23,5
20,4 33,3 46,3 18 53,6 28.4 20 48 32 Dự đám ma, cưới hỏi, lễ Đi họp xóm
68,1 18,5 13,3 50,1 14,7 35,2 25,8 42,5 31,7 Văn nghệ, TDTT
37,7 45,7 16,6 23,1 34,6 42,3 9,8 76,7 13,5 Tham gia tập huấn
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
So với nam giới phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng không nhiều
và không giống nhau giữa các hộ và nhóm hộ. Kết quả nghiên cứu ở cả ba
nhóm hộ đều cho thấy, trong tất cả các hộ gia đình, trong khi hầu hết các khâu
trong trồng trọt và chăn nuôi phần đa đều do người phụ nữ đảm nhận nhưng
việc tham gia các hoạt động cộng đồng nam giới thực hiện là chính, phụ nữ
đóng vai trò ít quan trọng hơn, 46,3% người chồng trong hộ khá, 53,7% hộ
trung bình và 48% ở hộ nghèo tham gia các buổi họp xóm. Về tham gia tập
huấn cũng chủ yếu do người chồng đảm nhận. Hộ khá người chồng tham gia
45,7%, hộ trung bình 34,6%, hộ nghèo 76,7%. Điều này càng làm tăng thêm
khoảng cách về nhận thức, hạn chế khả năng tiếp cận thông tin hiểu biết xã
hội hay những kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh và những
vấn đề khác. Đây có thể coi là hiện tượng “nữ làm, nam học”.
62
4.3.2.8. Phụ nữ trong tiếp cận thông tin
Một xã hội hiện đại sự phát triển của công nghệ thông tin giúp người
phụ nữ ngay cả ở vùng xâu, vùng xa hay phụ nữ dân tộc ít người đều được
tiếp cận thông tin. Ti vi, báo, đài là những phương tiện truyền tin chủ yếu đến
họ, họ không cần phải đi xa để nghe thông tin mà trực tiếp tìm hiểu tại nhà,
nguồn thông tin phong phú và được cập nhật thường xuyên. Cách tiếp cận
thông tin này giúp cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ vùng nông thôn, có thể tiết
kiệm thời gian mà công việc vẫn đảm bảo tính hiệu quả.
4.3.2.9. Đánh giá của hai giới về các công việc và vai trò của phụ nữ trong
gia đình
Bảng 4.16. Quan điểm của các hộ nông dân về các công việc và vai trò
phụ nữ Mông trong gia đình
(ĐVT:%)
Nội dung Hộ khá Hộ nghèo
Hộ trung bình Chồng Vợ Chồng Vợ Chồng Vợ I.Ý kiến về một số nội dung
37,9 62,5 30,1 69,9 30 70
Việc nội trợ, nấu cơm, giặt quần áo, chăm sóc con,… là việc của phụ nữ
70,4 29,5 76,7 23,3 70,1 29,9 Đi họp, tập huấn, nghe tuyên truyền là việc của đàn ông
73,9 26,1 76,7 23,3 68,7 31,3 Làm nhà, mua bán tài sản lớn là việc của đàn ông
50 50 50 50 59 41 Mua đồ dùng hàng ngày trong gia đình là việc của phụ nữ
60,3 39,7 60 40 59,1 49,1
Quyền quyết định cuối cùng là của đàn ông. Vợ phải nghe lời chồng
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
63
Phải chăng xuất phát từ quan niệm xã hội, phụ nữ sinh ra là để làm các
công việc gia đình như: Thực hiện chức năng mang thai, cho con bú, nuôi con
bằng sữa mẹ, chăm sóc người già, người ốm,… Nên họ không thể làm được
những công việc phức tạp, đòi hỏi về thể chất và tư duy. Những công việc
phụ nữ phải làm là sự phân công mang tính tự nhiên, phù hợp với thiên chức,
ngược lại đàn ông sẽ thích hợp hơn với những công việc khác. Vì vậy, sự chia
sẻ công việc nhà của nam giới chỉ được thực hiện trong những trường hợp
nhất định.
Ở mỗi hộ và nhóm hộ lại có sự đánh giá khác nhau của hai giới về các
công việc cũng như vai trò của phụ nữ. Khi đi từ nhóm hộ nghèo đến nhóm
hộ khá thì sự đánh giá của cả nam và nữ về vai trò của phụ nữ theo chiều
hướng tăng lên. Tuy nhiên xét trong từng nhóm hộ vẫn thấy được quan niệm
phong kiến ít nhiều còn tồn tại.
Nếu như nói quyền quyết định cuối cùng là của đàn ông, vợ phải nghe
lời chồng, ý kiến này hộ khá người chồng chiếm 42,86%, trong khi đó ở hộ
nghèo đánh giá chiếm 51,72%. Ý kiến trên ngoài việc đánh giá về khía cạnh
nhận thức của người chồng thì nó còn thể hiện tư tưởng an phận, nghe theo
của người phụ nữ. Tư tưởng ấy càng đúng khi có 57,14% người vợ ở nhóm hộ
khá, 85,71% nhóm hộ trung bình và 48,28% ở hộ nghèo vẫn nhận nội trợ, nấu
cơm, giặt, chăm sóc con cái là việc của mình. Trong khi đàn ông luôn cho
rằng các hoạt động tập huấn, tuyên truyền hay những vấn đề liên quan đến
quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội luôn là phạm trù của họ. Vì vậy bản thân
người phụ nữ muốn được xã hội nhìn nhận về vai trò, quyền lợi của mình
trước tiên bản thân họ cần thay đổi cách suy nghĩ của mình.
4.3.2.10. Sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ
Người phụ nữ không những là người cùng chồng tạo lập nên nguồn
sống, nguồn thu nhập cho gia đình ngoài ra họ còn tham gia một số công việc
ngoài xã hội và hơn thế họ còn thực hiện hầu như tất cả các công việc nội trợ
64
trong gia đình. Các công việc này thường được coi là công việc của đàn bà, là
thiên chức của phụ nữ, nhưng nó lại tốn nhiều thời gian và công sức mà
không đem lại thu nhập. Vậy mà khi nói đến công lao của người vợ hay người
chồng đóng góp cho gia đình thì người ta thường chỉ nhìn vào giá trị kinh tế
chứ không tính đến giá trị xã hội mà người phụ nữ bỏ ra. Bởi vì công việc đó
không tạo nên thu nhập nên chưa được quan tâm. Vậy việc phân bổ thời gian
trong ngày của phụ nữ và nam giới để làm các công việc đó như thế nào?
Được thể hiện ở bảng 4.17 dưới đây:
Bảng 4.17. Phân bổ thời gian sử dụng trong ngày của phụ nữ và nam giới
(ĐVT:giờ)
Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo Loại hộ
Vợ Chồng Vợ Chồng Vợ Chồng
Công việc
Làm việc nông nghiệp và 9,5 10 9,56 10 10 10
phi nông nghiệp
Dọn dẹp nhà cửa 0,5 1,5 1 1,5 0 0,2
Bếp núc 1,03 1 1,5 1 0,2 0,5
Kèm con học 0,65 1,06 1,5 0,5 0 1
Thời gian rảnh rỗi (xem ti 1,5 2 2 1,5 1,5 2,5
vi, đọc sách, báo…)
Ngủ (trưa, tối) 7,94 7,8 7,13 7 9 8,5
Các công việc khác 0,5 1,5 1,25 1,5 1,25 1
Thời gian 24 giờ
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Qua bảng 4.17 ta thấy thời gian mà phụ nữ và nam giới sử dụng để
làm các công việc là khác nhau ở 3 nhóm hộ. Làm công việc nông nghiệp bao
gồm trồng trọt, chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò, lên nương làm rẫy, trồng ngô,
65
trồng khoai hay ra đồng trồng rau màu. Công việc phi nông nghiệp bao gồm
một số công việc như bán hàng, chạy xe ôm, sửa chữa xe hay chạy chợ,…
Những công việc đó tạo thu nhập cho gia đình. Ngoài những công việc đã liệt
kê trong bảng còn các công việc khác như: Đi hội họp, lao động công ích,
thăm hỏi bà con, làng xóm, tham gia làm tổ trong các đám hiếu, hỉ,…
Ở nhóm hộ khá thời gian làm việc nông nghiệp và phi nông nghiệp
của phụ nữ là 9,5 giờ, trong đó của người chồng là 10 giờ. Bên cạnh đó người
phụ nữ vẫn phải bỏ ra nhiều giờ để làm công việc nội trợ bếp núc, dọn dẹp
nhà cửa họ chỉ nhận được sự chia sẻ của người chồng từ 0,5 - 1 giờ. Trong 3
nhóm hộ thì nhóm hộ này nhận được sự chia sẻ của người chồng cao nhất
nhưng phần lớn họ vẫn phải gánh vác một khối lượng lới công việc nội trợ,
tốn thời gian và công sức. Ở nhóm hộ trung bình nhìn chung vẫn là người vợ
làm chính. Còn nhóm hộ nghèo người vợ phải chịu thiệt thòi hơn, thời gian
cho công việc luôn nhiều hơn thời gian mà người chồng bỏ ra từ công việc tạo
thu nhập, đến công việc nội trợ, người phụ nữ ở nhóm hộ nghèo nhận được sự
chia sẻ của người chồng là rất ít. Các ông chồng thường dành thời gian cho
giải trí và thư giãn nên tạo thu nhập thấp hơn vợ. Chính vì vậy bản thân các
hộ nghèo phải cố gắng làm ăn để vươn lên thoát nghèo, cải thiện chất lượng
cuộc sống.
4.3.2.11. Quyền ra quyết định chính trong các hoạt động trong gia đình
Tuy phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp, phi nông nghiệp và nội trợ nhưng trong kiểm soát các nguồn lực của
hộ vai trò của họ được đánh giá thấp hơn nam giới. Còn quyền ra quyết định
trong các công việc trong gia đình như quyết định mua sắm tài sản lớn, số
lượng con cái, định hướng nghề nghiệp cho con hay quan hệ họ tộc thôn, xã
thì quyền ra quyết định chính có thuộc về nữ giới?
66
Bảng 4.18. Quyền ra quyết định chính trong một số hoạt động
trong gia đình
ĐVT: %
Hộ trung bình
Hộ nghèo
Nội dung
Hộ khá
Vợ
Chồng
Vợ Chồng Cả hai
Vợ
Chồng
Cả hai
Cả hai
1.Mua sắm tài sản lớn
6,67
6,67
86,67
16
28
56
20
60
20
0
2.Cất giữ tài chính
60
40
80
0
20
80
0
20
0
3.Số lượng con cái
6,67
93,33
12
4
44
20
40
40
30
16,67
53,33
28
4
68
60
0
40
4.Định hướng nghề nghiệp cho con cái
26,67
26,67
46,67
16
52
32
20
80
0
5.Tham gia việc thôn, xã
13,33
46,67
40
18
46
36
40
60
0
6.Phân công lao động trong sản xuất
13,33
13,33
73,33
20
36
44
40
60
0
7.Quyết định vay vốn sản xuất
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Qua bảng 4.18 ta có thể thấy sự khác nhau giữa ba nhóm hộ. Người
phụ nữ luôn được đánh giá cao hơn trong quản lý tài chính của gia đình với
trách nhiệm chi tiêu nhỏ lẻ hàng ngày nhưng việc quyết định mua sắm, làm
công việc lớn lại do người chồng quyết định. Qua số liệu điều tra, số phụ nữ
nắm giữ tài chính trong gia đình ở nhóm hộ khá là 60%, nhóm hộ trung bình
và hộ nghèo là 80%. Riêng ở nhóm hộ khá cả hai cùng cất giữ tài chính là cao
nhất 40%, còn ở hai hộ còn lại chỉ 20%.
Kết quả điều tra tại các hộ cho thấy trong quá trình ra quyết định mua
sắm tài sản lớn ở cả ba nhóm hộ khác nhau. Ở nhóm hộ khá có sự cùng bàn
bạc giữa hai vợ chồng (chiếm 86,67%), nhóm hộ trung bình là 56%, ở nhóm
hộ nghèo 20% chủ yếu vẫn là người chồng quyết định (chiếm 60%).
67
Người vợ trực tiếp quản lý tài chính như thủ quỹ của gia đình, người vợ
được ví như “tay hòm chìa khóa” vì đức tính cẩn thận, tỉ mỉ và chu đáo. Phụ
nữ thường quyết định những việc liên quan đến nội trợ, chăm sóc sức khỏe
của các thành viên trong gia đình hay việc học hành của con, định hướng
nghề nghiệp cho con là do phụ nữ quyết định.
Quyền phân công lao động trong sản xuất cũng chủ yếu là người
chồng quyết định, ở nhóm hộ khá là 46,67%, hộ trung bình 46%, rõ nhất ở
nhóm hộ nghèo chiếm 60%, trong khi người vợ chỉ chiếm 40%. Như vậy, vai
trò người chủ trong gia đình của người nam giới rất lớn và cũng chứng tỏ phụ
nữ thường nhường nhịn và chấp nhận hy sinh, chưa thật sự ý thức được quyền
của mình trong việc quyết định các vấn đề cho gia đình.
Tỷ lệ nam giới tham gia công việc thôn xã ở nhóm hộ khá ở người vợ
và chồng là ngang nhau 26,67%, cả hai chiếm 46,67%. Nhóm hộ trung bình
quyền quyết định vẫn là người chồng chiếm 52%, ở nhóm hộ nghèo chiếm tới
80%. Trong việc tham gia họp thôn xã, nam giới thường giành quyền đi họp
nhiều hơn phụ nữ vì quan niệm người chồng là chủ hộ và họ có vai trò quan
trọng hơn trong việc đại diện gia đình bàn bạc, tham gia ra quyết định công
việc thôn như xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, sửa chữa đình, chùa.
Trong quan hệ dòng tộc như họp dòng họ, xây mồ mả, nhà thờ họ, giỗ chạp
vai trò và sự tham gia của phụ nữ thấp hơn nam giới với những quan niệm
trọng nam khinh nữ còn khá phổ biến.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội là điều không
thể phủ nhận, tuy nhiên điều này không phải cả xã hội đã có cái nhìn đúng.
Không chỉ vậy mà chính một bộ phận không nhỏ phụ nữ còn hạn chế trong
nhận thức về vấn đề này. Đây chính là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến
sự bất bình đẳng trong xã hội hiện nay.
68
4.4. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc khai
thác và phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện Sốp
Cộp – tỉnh Sơn La
4.4.1. Thành tựu
- Hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới được hoàn thiện. Nhờ
đó phụ nữ nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số đã và đang đóng góp đáng kể
vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương cũng như đất nước.
- Phụ nữ đã chủ động tham gia vào hoạt động chính trị ở các cấp, các ngành
và cộng đồng, tích cực thực hiện các quyền công dân, tham gia vào các hình
thức dân chủ trực tiếp ở địa phương. Phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo tăng
nhiều hơn ở cấp huyện và cấp cơ sở, ngày càng nâng cao về chất lượng.
- Phụ nữ ngày càng được nâng cao nhận thức, kiến thức về luật pháp,
chính sách, về xã hội, gia đình, phát huy vai trò quan trọng trong tổ chức cuộc
sống gia đình, nuôi dạy con, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, các giá trị đạo
đức của dân tộc, truyền thống của gia đình.
- Tổ chức hội phụ nữ từ huyện đến cơ sở thường xuyên được kiện toàn
và hoạt động có chiều sâu, trở thành chỗ dựa vững chắc cho chị em trong hoạt
động kinh tế, xây dựng gia định hạnh phúc, ấm no, hạnh phúc và bình đẳng.
- Nhận thức xã hội về bình đẳng giới, về vai trò phụ nữ trong sự nghiệp
CNH - HĐH có chuyển biến tích cực, phụ nữ nói chung và phụ nữ dân tộc
thiểu số nói riêng có ý thức và nhu cầu cao hơn về các quyền cơ bản, quyền
bình đẳng nam - nữ.
4.4.2. Hạn chế
- Chất lượng lao động nữ còn thấp
- Một bộ phận chị em phụ nữ có mức độ tiếp cận dịch vụ y tế, nước sạch
còn nhiều hạn chế, chị em còn gặp nhiều vấn đề trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản, ít có điều kiện thụ hưởng các hoạt động văn hóa, thông tin.
69
- Tỉ lệ cán bộ nữ, đảng viên nữ vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm
năng và đóng góp của họ.
- Phụ nữ chịu nhiều sức ép giữa công việc gia đình với trách nhiệm xã
hội và nhu cầu học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp bị hạn chế.
- Một bộ phận phụ nữ còn có tư tưởng tự ti, an phận, thiếu hiểu biết về
luật pháp, chính sách, hạn chế về nhận thức chính trị.
- Người phụ nữ còn ít có quyền ra quyết định cho những công việc lớn
trong gia đình. Quyền quyết định vẫn chủ yếu là đàn ông.
4.4.3. Nguyên nhân hạn chế trong việc khai thác và phát huy vai trò của
phụ nữ trên địa bàn xã Sốp Cộp – huyện Sốp Cộp – tỉnh Sơn La.
4.4.3.1. Quan niệm bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại
Mặc dù không còn những hủ tục lạc hậu hay những quan niệm khắt khe
song ở xã Sốp Cộp vấn đề bình đẳng giới vẫn còn tồn tại trong tâm thức của
một số bộ phận người dân, đặc biệt là những người cao tuổi. Có nhiều quan
niệm cũ cho rằng phụ nữ là phải làm hết các công việc gia đình, phải tuân thủ
nghe theo lời chồng. Có nhiều phụ nữ khi điều tra trả lời rằng dọn dẹp nhà
cửa, nấu ăn, giặt giũ là công việc của phụ nữ, phụ nữ phải làm hết, họ cho
rằng mình sinh ra làm việc đó. Chính quan niệm sai lệch này đã tước di cơ hội
học hỏi vươn lên khẳng định mình, hạn chế sự cống hiến của mình cho gia
đình và cho xã hội. Ngoài ra tư tưởng của những người đàn ông luôn áp đặt
cho người phụ nữ là phải làm công việc nhà, phải chăm sóc gia đình, tại sao
họ không nghĩ rằng đó là công việc của cả hai vợ chồng, người chồng cũng
phải có trách nhiệm thực hiện, giúp đỡ người vợ thực hiện những công việc
đó? Để có thể xóa bỏ được những tư tưởng này cần có một quá trình lâu dài
và phức tạp, cũng như cách nhìn nhận và cách ứng xử của cả xã hội cần tiến
bộ hơn, phát triển hơn và công bằng hơn.
70
4.4.3.2. Bản thân người phụ nữ
Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, khoa học kỹ thuật là một yếu
tố rất quan trọng ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong phát triển gia đình
và xã hội. Chỉ khi có trình độ học vấn và chuyên môn thì chị em phụ nữ mới
có thể khẳng định được mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Qua khảo
sát chúng tôi thấy trình độ học vấn, chuyên môn của phụ nữ xã Sốp Cộp là
khá cao đặc biệt ở nhóm hộ có điều kiện kinh tế khá. Có trình độ, có học vấn thì
nhân thức mọi vấn đề cao hơn những người không có trình độ học vấn, cách giải
quyết vấn đề tốt hơn và hiệu quả hơn do vậy bản thân người phụ nữ muốn nâng
cao được vị thế hay phát huy vai trò của mình trong gia đình cũng như ngoài xã
hội thì trước hết cần phải có trình độ học vấn, chuyên môn nhất định.
Ngoài ra yếu tố cản trở, hạn chế vai trò của phụ nữ có thể kể đến là do
tư tưởng bản thân người phụ nữ, hay những quan niệm sai lệch. Một bộ phận
phụ nữ còn tự ti, cam chịu, an phận, chưa chủ động vượt khó vươn lên, chưa
nhận thức được đầy đủ quyền của mình, giữ lối sống khép kín bởi vậy họ luôn
hài lòng với vị trí của mình, chú tâm đến nội trợ và chăm sóc con nhiều hơn
các công việc khác. Những tư tưởng cách nghĩ đó được thể hiện ngay ra
những công việc hàng ngày như phụ nữ chỉ biết ở nhà làm công việc nhà, nhất
nghe theo chồng, chưa chủ động và không dám đưa ra ý kiến vào các công
việc lớn. Những tư tưởng đó phần nào hạn chế sự phát huy khả năng của phụ
nữ, sự an phận này cũng có thể xuất phát từ nhận thức không đúng về vai trò
giới trong gia đình và ngoài xã hội.
Bên cạnh đó trong nội bộ phụ nữ còn có tình trạng níu kéo, chưa ủng hộ
nhau, phụ nữ mù chữ, tái mù chữ và học vấn thấp vẫn còn. Một bộ phận phụ
nữ còn là nạn nhân của các hủ tục, mê tín, dị đoan, cờ bạc. Những khó khăn
trên đây đang ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của phụ nữ thế hệ tương lai.
Hay áp lực giữa công việc gia đình và công việc ngoài xã hội cũng phần nào
làm hạn chế việc phát huy vai trò của phụ nữ.
71
Lãnh tụ Hồ Chí Minh hiểu rất rõ sức cản của những thói quen, quan
niệm đã ăn sâu vào tiềm thức con người không dễ gì ngày một ngày hai có thể
thay đổi vì vậy người đã dặn dò bản thân người phụ nữ phải vươn lên đó cũng
là cuộc cách mạng đem đến quyền bình đẳng cho phụ nữ. Do vậy, bản thân
người phụ nữ cần chủ động khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu, nâng cao
phẩm chất và trình độ mọi mặt, tự khẳng định mình trong công tác, biết kết
hợp hài hòa giữa công việc gia đình và công tác xã hội.
4.4.3.3. Sự quan tâm của chính quyền đoàn thể
Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền địa phương về bình đẳng giới, về
vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế.
Cấp ủy, chính quyền thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện các chủ trương của Đảng về công tác vận động phụ nữ, chưa chủ động
nghiên cứu, dự báo và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh liên
quan tới phụ nữ. Chủ trương công tác cán bộ nữ chưa được quán triệt, thực
hiện đầy đủ trong quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng,
đề bạt cán bộ, còn có biểu hiện "khoán trắng" công tác phụ nữ cho Hội Phụ
nữ. Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công
tác phụ nữ, cán bộ nữ chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và còn nhiều thiếu sót.
Các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ chưa giải quyết tốt một số vấn đề thực
tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức xúc liên quan tới phụ nữ, việc
tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ trong từng thời
kỳ còn rất hạn chế.
4.5. Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ
nữ xã Sốp Cộp trong phát triển kinh tế hộ.
4.5.1. Phương hướng
Tiếp tục thực hiện tốt luật bình đẳng giới, phấn đấu đạt được các mục
tiêu về bình đẳng giới đã nêu ra trong chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
72
giai đoạn 2011 - 2020 theo Quyết định số 2351/QĐ-TTg của Thủ Tướng
Chính Phủ ngày 24 tháng 12 năm 2010 như sau:
Mục tiêu chung
Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ
về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Mục tiêu cụ thể
- Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo,
nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị.
- Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm tăng
cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu
số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham
gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
- Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe.
- Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin.
- Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ
bạo lực trên cơ sở giới.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
4.5.2. Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình tại xã Sốp Cộp.
Qua quá trình điều tra nhận thấy một số vấn đề còn tồn tại như quyền
kiểm soát các nguồn lực còn thấp hơn so với nam giới, trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn, khoa học kỹ thuật còn thấp, nhận thức của phụ nữ về
vấn đề giới và vai trò của phụ nữ chưa đầy đủ, phụ nữ còn chịu nhiều áp lực
giữa công việc gia đình và xã hội.
73
Từ những vấn đề trên muốn nâng cao vai trò của phụ nữ tại xã Sốp Cộp
trước hết cần tạo điều kiện cho họ thể hiện được khả năng, năng lực, đóng
góp vào lao động sản xuất, chăm sóc gia đình và tham gia các hoạt động xã
hội. Đặc biệt là phụ nữ ở những nhóm hộ nghèo đời sống còn khó khăn, đối
tượng yếu thế hơn so với nam giới, cần xây dựng môi trường thuận lợi để họ
tự tin tiếp cận với các điều kiện sản xuất mới, tiến bộ mới của xã hội. Từ đó
giúp họ khẳng định năng lực của mình trong xã hội.
4.5.2.1. Tích cực tổ chức tuyên truyền, giáo dục kiến thức về giới cho người
dân qua các lớp học, đồng thời triển khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng, nhằm thay đổi và nâng cao nhận thức của họ về vấn đề này
- Tổ chức những lớp học cho hệ thống cán bộ chuyên và bán chuyên, cán bộ
hoạch định chính sách có liên quan đến công tác giới từ trung ương đến cơ sở.
- Tổ chức các lớp học cho nam, nữ thanh niên đặc biệt là thanh niên
người DTTS trên địa bàn xã, huyện, tỉnh. Đặc biệt là những người đã lập gia
đình để xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu và cổ hủ đối với người phụ nữ.
- Tổ chức dạy cho học sinh phổ thông từ trung học cơ sở đến trung học phổ
thông và cho các trường dân tộc nội trú, cho sinh viên các trường chuyên nghiệp.
- Mở ra nhiều chuyên mục trên các báo, truyền hình, truyền thanh của
địa phương và lồng ghép trong các cuộc hội nghị, hội thảo lớn.
- Tổ chức tuyên truyền trong các cơ quan, đoàn thể, chính quyền để nâng
cao nhận thức của các cấp lãnh đạo đoàn thể về vai trò và năng lực của phụ
nữ từ đó tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cương vị lãnh đạo các khối đoàn thể,
chính quyền.
4.5.2.2. Nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ
Cần có các chính sách cho chị em phụ nữ có điều kiện nâng cao trình
độ văn hóa, kiến thức về kỹ thuật sản xuất, quản lý hộ giúp phụ nữ nâng cao
sự hiểu biết và năng lực quản lý hộ nhằm tăng sự đóng góp của họ trong gia
đình và ngoài xã hội, giúp họ tự khẳng định vai trò và vị thế của mình ở mọi
74
mặt. Đối với cán bộ nữ cần đào tạo, nâng cao trình độ về chuyên môn, kỹ
năng quản lý. Để họ có đủ trình độ và năng lực tham gia vào các vị trí lãnh
đạo ở các cấp, đoàn thể.
4.5.2.3. Xây dựng môi trường thuận lợi khuyến khích, động viên để phụ nữ tự
tin hơn tham gia vào các công việc gia đình cũng như ngoài xã hội
- Tại các xóm hội phụ nữ cần triển khai nhiều chương trình và các hoạt
động tập thể đặc biệt các hoạt động dành riêng cho phụ nữ để phụ nữ tham gia
nhiều hơn dần xóa đi những tư tưởng tự ti, rụt rè… Từ đó để họ đẩy mạnh và
khẳng định vai trò của mình.
4.5.2.4. Tăng khả năng tiếp cận và kiểm soát nguồn lực cho phụ nữ
Trong vấn đề tín dụng, ngân hàng cần đơn giản hóa thủ tục vay vốn,
sao cho các chương trình vay đến được với phụ nữ và nam giới bình đẳng như
nhau. Ngân hàng cần thông tin một cách đầy đủ đến các hộ gia đình một cách
cụ thể về các hình thức tín dụng mà họ có thể tham gia.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền trong
thực hiện bình đẳng giới. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể cần nâng
cao nhận thức về vai trò của phụ nữ và công tác cán bộ nữ. Từ đó có các
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ nhằm tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia các
cấp lãnh đạo.
4.5.2.5. Làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe và đời
sống cho phụ nữ
Thực tế cho thấy phụ nữ thường phải chịu nhiều sự can thiệp của y tế
hơn nam giới. Do họ phải chịu hậu quả nặng nề của việc sinh nở. Vì thế làm
tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe tốt cho phụ nữ sẽ giúp
họ hiểu biết hơn về sức khỏe sinh sản, giúp họ khỏe mạnh hơn, ít nhiễm bệnh
và sinh con an toàn. Vấn đề đặt ra là làm sao trong việc thực hiện kế hoạch
hóa gia đình không chỉ tập trung vào các đối tượng nữ giới mà còn phải vận
động tuyên truyền nam giới cùng thực hiện, làm cho cộng đồng hiểu được ý
75
nghĩa của việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Có như vậy chị em phụ nữ
mới đảm bảo sức khỏe có thời gian chăm sóc con cái, điều kiện phát triển
kinh tế gia đình. Vì vậy chiến lược dân số phải đi đôi với việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân đặc biệt là của phụ nữ và trẻ em để có thể
phát triển một cách bền vững về cả số lượng lẫn chất lượng. Muốn làm được
điều này các cấp chính quyền, đoàn thể, hội phụ nữ cần tích cực hơn trong
việc vận động gia đình không sinh con thứ 3, tổ chức khám chữa bệnh định
kì, vận động 100% phụ nữ có thai đi tiêm phòng và uống thuốc bổ.
Bên cạnh đó phải giảm cường độ lao động cho phụ nữ đặc biệt là phụ nữ
nông thôn vì họ phải làm việc tạo thu nhập trong khi đó họ vẫn đảm nhiệm
hết các công việc nội trợ của gia đình nên không có nhiều thời gian vui chơi,
giải trí. Đây là một giải pháp thiết thực nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc
nuôi dưỡng con cái và đảm bảo sức khỏe cho phụ nữ.
76
PHẦN 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Sốp Cộp là một xã vùng miền núi Tây Bắc người dân chủ yếu sống
bằng nghề sản xuất nông nghiệp, trong vài năm qua xã đã có sự thay đổi rất
nhiều điều kiện kinh tế khá hơn trước. Cùng với sự đi lên của điều kiện kinh
tế xã hội thì vai trò và vị thế của người phụ nữ nơi đây cũng được tăng lên
một cách đáng kể.
Qua quá trình nghiên cứu vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ
trên địa bàn xã Sốp Cộp, có thể kết luận đôi nét như sau:
Kinh tế - xã hội của xã tương đối phát triển, điều kiện cơ sở hạ tầng
ngày càng được nâng cao, cuộc sống của người dân đã và đang được cải thiện
rõ rệt.
Cơ cấu dân số tương đối cân bằng, lao động nữ chiếm 48% tổng số lao
động. Lao động nam chiếm 52% tổng số lao động. Đây là nguồn nhân lực
đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế địa phương.
Trình độ văn hóa, chuyên môn, lý luận chính trị của phụ nữ chưa cao.
cán bộ hội đoàn thể hầu như đã học hết cấp 3 và đã có trình độ chuyên môn
nhưng bậc đại học chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là trung cấp và cao đẳng.
Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền còn thấp. Lãnh
đạo nữ chiếm 33,33% trên tổng số lãnh đạo cấp ủy Đảng.
Trình độ văn hóa, nhận thức, quyền kiểm soát nguồn lực cũng như tiếp
cận thông tin… của phụ nữ ở cả 3 loại nhóm hộ khác nhau. Cao nhất là ở
nhóm hộ khá, thấp nhất là nhóm hộ nghèo.
Phụ nữ vẫn còn chịu nhiều gánh nặng trong gia đình và chịu nhiều áp
lực giữa công việc gia đình và công việc xã hội đặc biệt là phụ nữ ở những
nhóm hộ nghèo. Trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập, phụ nữ và nam giới
cùng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, trong hoạt động tái sản xuất thì
77
phụ nữ đảm nhiệm công việc nội trợ và chăm sóc con cái nhiều hơn nhưng
cũng đã nhận được sự chia sẻ từ phía người chồng. Thêm vào đó tiếng nói của
họ trong việc đưa ra quyết định về những công việc quan trọng trong gia đình
ngày càng có trọng lượng góp phần không nhỏ vào thu nhập gia đình.
Đa số phụ nữ đã nhận thức được vai trò của mình trong phát triển kinh
tế gia đình cũng như vai trò ngoài xã hội. Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận
nhỏ phụ nữ chưa nhận thức đúng về vai trò của mình và phân công lao động
chưa bình đẳng ở những nhóm hộ có điều kiện khó khăn.
5.2. Kiến nghị
5.2.1. Đối với nhà nước
Cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các nghị quyết về
bình đẳng giới. Đặc biệt là triển khai đến các địa phương “chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020” theo Quyết định số 2351/QĐ-TTg
của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 24 tháng 12 năm 2010. Chỉ đạo các ban
ngành có liên quan tích cực tuyên tuyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng về chiến lược bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. Đôn đốc công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quyết định số 2351/QĐ-TTg của Thủ Tướng
Chính Phủ, luật bình đẳng giới và các chế độ chính sách đối với phụ nữ.
Ban hành các chính sách và biện pháp loại bỏ những định kiến, những
hủ tục lạc hậu giúp phụ nữ đạt được sự bình đẳng toàn diện.
Xây dựng các chương trình nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn
trong đó cần đặc biệt quan tâm đến các dự án dành riêng cho phụ nữ.
5.2.2. Đối với chính, quyền đoàn thể địa phương
Mở các hội nghị quán triệt, triển khai Quyết định số 2351/QĐ-TTg của
Thủ Tướng Chính Phủ cho lãnh đạo, các cán bộ chủ chốt ở các cấp, ban
ngành có liên quan. Tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về luật
bình đẳng giới, luật hôn nhân gia đình và chiến lược Quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011- 2020. Đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát việc
78
triển khai các quyết định và luật nói trên. Đặc biệt là Hội liên hiệp phụ nữ
huyện và xã cần sát sao hơn với phụ nữ để kịp thời đề xuất với cấp có thẩm
quyền chỉnh sửa, bổ sung những nội dung trong các quy định cho phù hợp với
thực tế công tác nữ tại địa phương.
Chính quyền đoàn thể của địa phương cũng cần xem xét nhu cầu của
phụ nữ tại cơ sở để mở các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng kiến thức về mọi
mặt phù hợp với nhu cầu của chị em. Giúp đỡ chị em trong các vấn đề của
cuộc sống cũng như phát triển kinh tế. Các lớp tập huấn cần quy định tỷ lệ
nam giới và nữ giới tham gia.
Phối hợp và phát huy vai trò của đoàn thể như hội phụ nữ, hội nông dân
trong các công tác tập huấn, đào tạo, nâng cao trình độ kiến thức cho phụ nữ.
Thành lập các nhóm phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, tăng thu nhập cải
thiện cuộc sống
5.2.3. Đối với người nông dân
Mỗi người dân nói chung cần phải tự tìm hiểu về luật bình đẳng giới,
luật hôn nhân gia đình... để tự nâng cao hiểu biết của mình, ngoài ra cần có sự
trao đổi thông tin, kinh nghiệm sản xuất giữa người dân với nhau và giữa các
thành viên trong gia đình. Bản thân mỗi người dân cần tích cực tham gia các
lớp tập huấn về bình đẳng giới. Những chủ hộ là nam giới phải có cái nhìn
tích cực hơn về phụ nữ, cần khuyến khích, động viên, ủng hộ người phụ nữ
tham gia vào các hoạt động xã hội giúp họ giảm bớt gánh nặng về công việc
gia đình và đảm nhiệm tốt vai trò của mình ngoài xã hội.
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Minh Hà (2010), perter chown, 2008.“Bài giảng, Giới trong
khuyến nông và phát triển nông thôn”, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
2. Đỗ Trung Hiếu (2011), Bài giảng, “Kinh tế hộ và trang trại”, Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên
3. Lê Thị Nhâm Tuyết (2008), Việc làm đời sống phụ nữ trong chuyển đổi
kinh tế ở Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội 2008
4. Nguyễn Thị Châu (2010), Bài giảng, “Kinh tế phát triển nông thôn”, Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên
5. Phí Thị Hồng Minh (2009), Bài giảng, “Dân số và phát triển nông thôn”,
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
6. Thủ tướng chính phủ, 2010. Quyết định 2351/QĐ - TTG của Thủ tướng
chính phủ ngày 24/12/2010, “Phê duyệt chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2020”
7. UBND xã Sốp Cộp, Báo cáo, “kết quả thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
năm 2016, 2017, 2018”
8. UBND xã Sốp Cộp, Báo cáo, “Thống kê đất đai năm 2017, 2018”
9. Vũ Thị Hiền (2010), Bài giảng, “Nguyên lý phát triển nông thôn”, Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên
10. Vương Thị Vân (2009), Đề tài, “Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát
triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên”
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA NÔNG HỘ
*Phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt động Chú ý Chồng vợ
1. Trồng trột
Chọn giống (quyết định trồng cây
gì…)
Làm đất (cầy bừa…)
Trồng cây
Mua vật liệu(phân bón)
Chăm sóc (bón phân, làm cỏ)
Thu hoạch
Bảo quản sau thu hoạch (phơi, sấy)
Tìm thị trường tiêu thụ
Bán nông sản (quyết định thời điểm
bán)
2. chăn nuôi
Chọn giống (quyết định nuôi con
gì…)
Làm chuồng
Mua vật liệu (cám, tăng trọng…)
Chăm sóc
Đi bán (quyết định thời điểm bán)
*Phân công lao đông trong hoạt động nội trợ, chăm sóc con cái năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt động Chồng Vợ Cả hai
Nội trợ: nấu cơm,
giặt...
Chăm sóc sức khỏe
gia đình
Kèm con học hành
Tình hình quản lý vốn vay của hộ gia đình điều tra năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt động vay vốn Chồng Vợ Người khác
Quản lý vốn
Quyết định sử dụng
Đứng tên vay vốn
Trả lãi tiền vay
*Phân công lao động trong hoạt động kinh doanh hàng hóa và dịch vụ
năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt động Chồng Vợ Cả hai
Chọn mặt hàng để bán
Đi lấy hàng
Bán hàng
Quản lý sổ sách
Trả nợ, đòi nợ
Phân công lao động trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt dộng Chồng Vợ Cả hai
Phát cây, dọn đồi, đốt
Cuốc hố trồng cây
Chăm sóc rừng
Khai thác lấy gỗ, bán
Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động cộng đồng năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt động Chồng Vợ Cả hai
Dự đám ma, cưới hỏi, lễ
Đi họp xóm
Văn nghệ, TDTT
Tham gia tập huấn
Quan điểm của hộ nông dân về các việc và vai trò phụ nữ Mông trong gia
đình năm 2019
Người đảm nghiệm Hoạt động Chú ý Chồng Vợ
Việc nội trợ, nấu cơm, giặt quần áo,
chăm sóc con,… là việc của phụ nữ
Đi họp, tập huấn, nghe tuyên truyền là
việc của đàn ông
Mua đồ dùng hàng ngày trong gia đình
là việc của nữ
Quyền quyết định cuối cùng là của đàn
ông. Vợ phải nghe lời chồng
Phân bổ thời gian sử dụng trong ngày của phụ nữ và nam giới năm 2019
Người đảm nghiệm Công việc Chồng Vợ
Làm việc nông nghiệp và phi nông nghiệp
Dọn dẹp nhà cửa
Bếp núc
Tắm, giặt giũ
Kèm con học hành
Thời gian rảnh rỗi (xem tivi đọc sách/, báo…)
Ngủ (trưa, tối)
Các công việc khác
Thời gian
Quyền ra quyết định chính một số hoạt động trong gia đình dân tộc
mông năm 2019
Người đảm nghiệm Công việc Chồng Vợ Cả hai
Mua sắm tài sản lớn
Cất giữ tài chính
Số lượng con
Định hướng nghề nghiệp cho con cái
Tham gia việc thôn, xã
Phân công lao động trong sản xuất
Quyết định vay vốn sản xuất
PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ GIA ĐÌNH
THÔNG TIN KIỂM SOÁT
1. Ngày……………………………………………………………………….....
2. ID hộ………………………………………………………………………….
3. Tên xã..................................................................................................
4. Tên xóm……………………………………………………………………....
5. SĐT…………………………………………………………………………...
THÔNG TIN CHUNG CỦA HỘ GIA ĐÌNH
6. Tên của chủ hộ (ông bà):
7. Giới tính: Nam/Nữ
8. Tuổi của chủ hộ:…………...(Tuổi)
9. Dân tộc:………………………………………………………………………..
10. Trình độ học vấn:…………………………………………………………….
11. Nghề nghiệp của chủ hộ:…………………………………………………….
12. Những tổ chức xã hội mà chủ hộ tham gia là gì :
Hội nông dân
Hội phụ nữ
Hội cửu chiến binh
Hội người cao tuổi
13. phân loại hộ gia đình (2019)
Hộ nghèo
Hộ TB
Hộ khá
14. Hộ gia đình có bao nhiêu thành viên……………..(Người)
15. Số lao động chính của gia đình…………………..(Người)