(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:0)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:6)
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ XUÂN DIỆU
QUA HAI TẬP:
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC
VÕ THỊ LẪY
Hậu Giang- Năm 2014
(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:0)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:6)
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ XUÂN DIỆU
QUA HAI TẬP:
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. BÙI THỊ TÂM VÕ THỊ LẪY
MSSV: 1056010061
Lớp: Đại học Ngữ văn
Khóa: 3
Hậu Giang- Năm 2014
LỜI CẢM ƠN
----(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)----
Là sinh viên ngành Cử nhân Văn học của trường Đại học Võ Trường Toản,
được làm luận văn tốt nghiệp đó là niềm vinh dự lớn lao đối với tôi. Luận văn đó là
cơ hội để tôi thể hiện những kiến thức, kỹ năng đã học được trong suốt quá trình
học tập, cũng như thử thách để tôi vận dụng những kiến thức đã được học tại nhà
trường. Luận văn cũng là hành trang quý báu khi tôi ra trường và vững bước ở
tương lai.
Để hoàn thành luận văn, cùng với những nỗ lực của bản thân, người viết nhận
được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều người.
Đầu tiên tôi vô cùng biết ơn Cha Mẹ - Người đã sinh thành dưỡng dục cho tôi
sức mạnh, cũng như là nguồn động viên, ủng hộ rất lớn cho tôi cả về vật chất lẫn
tinh thần.
Người viết xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Ths. Bùi Thị Tâm- Cô đã
tận tình chỉ bảo và hướng dẫn người viết trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn đến thầy, cô giáo trong Khoa khoa học cơ bản đã cung
cấp cho người viết những kiến thức quý báo trong quá trình học tập.
Bên cạnh đó tôi cũng gửi lời cám ơn đến các bạn, những người đã đồng hành cùng
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này.
Người viết xin chân thành cảm ơn!
Hậu Giang, ngày……tháng…… năm 2014
Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)
Võ Thị Lẫy
LỜI CAM ĐOAN
----(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)----
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)
Võ Thị Lẫy
MỤC LỤC
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SO SÁNH VÀ SO SÁNH TU TỪ .............................. 8
1.1.1 So sánh tu từ ................................................................................................... 8
1.1.2 So sánh luận lí ................................................................................................ 9
1.1.3 Sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh luận lí ........................................ 9
1.2 MỘT SỐ QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ SO SÁNH TU TỪ
CỦA CÁC NHÀ NGÔN NGỮ ............................................................................... 10
1.2.1 Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Nở .......................................................... 11
1.2.2 Quan niệm của tác giả Hữu Đạt ...................................................................... 12
1.2.3 Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú ................................................................. 14
1.2.4. Quan niệm của tác giả Đinh Trọng Lạc ........................................................ 15
1.3 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ ............................................................. 17
1.3.1 Hình thức so sánh tu từ A như (dường như, giống như…)B .......................... 17
1.3.2 Hình thức so sánh tu từ A là B (B là hình ảnh) .............................................. 18
1.3.3 Hình thức so sánh tu từ A bao nhiêu B bấy nhiêu ......................................... 18
1.3.4 Hình thức so sánh tu từ không có từ so sánh ................................................. 18
1.3.5 Hình thức so sánh tu từ A hơn, bằng, kém,.. B ............................................. 19
1.3.6 Hình thức so sánh tu từ với từ so sánh khác ................................................. 20
1.4 CÁC CHỨC NĂNG CỦA SO SÁNH TU TỪ .................................................. 20
1.4.1 Chức năng nhận thức ..................................................................................... 20
1.4.2 Chức năng biểu cảm ..................................................................................... 21
Chương 2. CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ
TRONG HAI TẬP THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
2.1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM ........................................................ 23
2.1.1 Vài nét về tác giả ............................................................................................. 23
2.1.2 Vài nét về tác phẩm ......................................................................................... 24
2.2 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG HAI TẬP THƠ
THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA NHÀ THƠ XUÂN DIỆU ...................... 25
2.2.1 Hình thức so sánh tu từ A (như, dường như, như là, tưởng như…)B ............ 26
2.2.2 Hình thức so sánh tu từ A là B ........................................................................ 30
2.2.3 Hình thức so sánh tu từ A- B .......................................................................... 32
2.2.4 Hình thức so sánh tu từ A bằng, hơn, … B ..................................................... 33
2.3 HÌNH ẢNH SO SÁNH TRONG HAI TẬP
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA XUÂN DIỆU ................................ 34
2.3.1 Nhóm hình ảnh tự nhiên ................................................................................. 34
2.3.2 Nhóm hình ảnh là con người ........................................................................... 37
2.3.3 Nhóm hình ảnh là thực vật .............................................................................. 39
2.3.4 Nhóm hình ảnh là vật thể nhân tạo ................................................................. 41
2.3.5 Nhóm hình ảnh là động vật ............................................................................. 42
2.3.6 Nhóm hình ảnh là các vật thể khác ................................................................. 43
Chương 3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HÌNH
THỨC SO SÁNH TU TỪ TRONG HAI TẬP
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
3.1 SỬ DỤNG HÌNH ẢNH SO SÁNH TU TỪ ĐỂ THỂ HIỆN TÌNH YÊU CUỘC
SỐNG VÀ THIÊN NHÊN ....................................................................................... 45
3.1.1 Thể hiện tình yêu cuộc sống............................................................................ 45
3.1.2 Thể hiện tình yêu thiên nhiên .......................................................................... 51
3.2 SO SÁNH THỂ HIỆN NỖI BUỒN .................................................................. 55
3.2.1 So sánh thể hiện nỗi buồn trước cô đơn ......................................................... 56
3.2.2 So sánh thể hiện nỗi buồn trước thời cuộc ...................................................... 61
3.3 SO SÁNH TU TỪ THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA ..................................... 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 68
Tài liệu tham khảo
Phần phụ lục
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xuân Diệu là nhà thơ lớn, nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Trong sự nghiệp thơ của ông, ông đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời trước và
sau Cách mạng tháng Tám như: Yêu, Vội Vàng, Chiều, Lời kĩ nữ, Đàn, Tương tư,….
Tất cả những tác phẩm điều mang tâm hồn thơ về tình yêu thiên nhiên, tình yêu
cuộc sống, tình yêu say đắm. Tuy nhiên, nói đến giá trị thơ của Xuân Diệu phải
nhắc đến cái tôi được cảm nhận ở tấm lòng, tài năng của ông. Thơ trước Cách mạng
tháng Tám đáng kể nhất là hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió, mang hồn thơ
lãng mạn, thiết tha và sâu lắng.
Với Thơ thơ và Gửi hương cho gió mặc dù đã ra đời cách đây khoảng 76 năm
nhưng vẫn không thay đổi giá trị của nó về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống.
Bài thơ Vội vàng đã nói lên giá trị sử dụng cảm xúc, cảm giác rất đổi đời thường
vào trong thơ của Xuân Diệu: Ta muốn ôm, tôi muốn buộc gió, ta muốn riết mây, ta
muốn thâu, ta muốn cắn, hôn, … tình yêu tuổi trẻ được tác giả cảm nhận rất mạnh
mẽ, say đắm, khát khao tình yêu cuộc sống:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội Vàng)
Các nhà phê bình đã đánh giá rất cao về nghệ thuật và giá trị nội dung trong thơ
của ông. Để làm nên giá trị trong hai tập thơ, Xuân Diệu thể hiện tài năng sử dụng
giá trị sáng tạo từ mới, hình ảnh thơ, dùng từ, biện pháp nghệ thuật trong thơ. Đặc
biệt phải nói đến cách nhìn nhận tài năng của ông trong so sánh tu từ qua hai tập
Thơ thơ và Gửi hương cho gió:
Thư thì mỏng như suốt đời mộng ảo;
Tình thì buồn như tất cả chia ly.
Giấy phong kỹ mang thầm trong túi áo;
Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi
(Tình thứ nhất)
Chính những điều đó đã làm cho thơ ông hay và có giá trị hơn. Khi ông chứng
tỏ tài năng của mình không chịu dừng bước với những khuôn mẫu sẵn có và với nội
dung tư tưởng mới, điều đó càng tạo ra những bước tiến đột biến, đặc sắc trong thơ.
Là một sinh viên học ngành Ngữ văn, bản thân tôi rất thích thơ Xuân Diệu từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Tôi luôn khao khát được một lần tìm hiểu, đi sâu
vào nghiên cứu thơ ông.
Tôi yêu thơ ông bởi thơ ông đem đến tình yêu cuộc sống, giá trị cuộc sống, tình
yêu trong sáng, hồn nhiên:
Em đáp lại: “Nói gì đau đớn vậy!
Vừa gặp anh, em cũng đã mến rồi.
Em phải đâu là ngọn nước trôi xuôi;
Chưa hi vọng, sao anh liền thất vọng?
(Hẹn hò)
Chính vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu
qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ hiểu rõ hơn về thơ Xuân Diệu cả về nội
dung cũng như hình thức thơ của ông. Tôi hi vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé
của mình trong việc nghiên cứu vấn đề về so sánh tu từ trong thơ và để góp thêm
một ý kiến về việc đánh giá tài năng của nhà thơ Xuân Diệu.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể thấy rằng, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu từ lâu đã trở
thành đề tài của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Chỉ riêng về thế giới nghệ thuật
thơ Xuân Diệu cũng đã làm hao tốn biết bao công sức, giấy mực của các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học. Tuy nhiên trong giới hạn đề tài, người viết chỉ điểm qua một
số công trình tiêu biểu, với những ý kiến tiêu biểu nói về so sánh tu từ trong thơ
Xuân Diệu. Từ những ý kiến này, người viết có thể nhận thấy đề tài của người viết
mang tính kế thừa hoặc hoàn toàn mới mẻ.
- Về góc độ tác giả: Khi nói về phong trào thơ Mới, không ai lại không nhớ
đến Xuân Diệu. Người ta nhớ đến ông bởi ông được xem là người dẫn đầu trong
phong trào thơ Mới trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, Xuân Diệu cũng đã rất
thành công trên con đường nghệ thuật. Vì vậy, thơ ông đã để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng người đọc. Cho nên, khi nghiên cứu về Xuân Diệu cũng như tác phẩm
thơ của ông, các nhà phê bình đã đưa ra rất nhiều ý kiến hay và độc đáo.
Trong “Thi nhân Việt Nam”, tác giả Hoài Thanh- Hoài Chân đã viết: “Bởi
Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với một chút hương xưa của đất nước,
bao nhiêu nỗi niềm riêng của thanh niên bây giờ- Xuân Diệu mới nhất trong các
nhà thơ mới- nên chỉ những người lòng còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã
thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận vừa bước vào làng thơ đã được
người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến giữa chúng ta tới nay đã
năm năm mà những tiếng khen chê vẫn chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người
chê, chê không tiếc lời”. [19; tr.108]
Qua ý kiến trên, tác giả Hoài Thanh đã đánh giá về vấn đề tài năng và sự đổi
mới trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Chính từ
những vấn đề này đã dẫn đến “Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc
lời”.[19; tr.108]
Trong công trình “Thơ Xuân Diệu- những lời bình”, của tác giả Mã Giang Lân
với bài viết “Xuân Diệu”, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về nội dung trong
những tác phẩm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám như sau: “Nhưng thơ
Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả
chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di bất dich. Sao lại bắt ngày mai
phải giống hệt hôm qua? Nêu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: người
Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lí. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống
dào dạt chưa từng thấy ở nước non này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh
trời, sống vội vàng, sống cuống quý t, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của
mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”. [11; tr.25]
Tên tuổi nhà thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám gắn liền với hai tập
thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Vì vậy, cũng có rất nhiều ý kiến của các nhà phê
bình nhận xét về hai tập thơ này như sau:
Trong “Khảo luận văn chương”, tác giả Hà Minh Đức cho rằng: “Với Thơ thơ
và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu đã thực hiện sự đưa thơ mới lên ngôi trên thi đàn
với khuôn mặt trẻ trung, tươi thắm và hấp dẫn chưa từng có. Thơ thơ và Gửi hương
cho gió hai thi phẩm mang dấu ấn của một tài năng sáng tạo thơ nhưng cũng lại
chứa đựng nhiều phẩm chất riêng. Thơ thơ là niềm vui ánh sáng, nụ cười của tuổi
trẻ yêu đời, khát khao hạnh phúc. Và Gửi hương cho gió với giọng điệu trầm sâu
hơn và đã thấm hương vị đời xót xa, cay đắng trong những năm tháng đất nước có
nhiều chuyển động để thay đổi. Bút pháp nghệ thuật đều mới mẻ, sáng tạo hấp dẫn.
Nhưng điều quan trọng là Xuân Diệu đã đem đến trong thơ sức sống mới, cách cảm
nghĩ mới của một tâm hồn chan chứa lòng yêu đời”.[5; tr.345-346]
Trong “Nhà thơ Việt Nam hiện đại”, tác giả Phong Lê khẳng định rằng: “Xuân
Diệu có nét lớn xuyên suốt cả thời kì sáng tạo; đó là tiếng nói sôi nổi tha thiết một
cách bộc trực, trẻ trung, một năng lực cảm thụ tinh tế, dồi dào. Nếu Huy Cận đôn
hậu và sâu sắc, chú ý khai thác chọn lọc và tổng hợp những vấn đề dân tộc, lịch sử,
nhân loại với những suy nghĩ về thế kỉ, vũ trụ, tạo nên một mạch triết lý trong thơ,
thì Xuân Diệu bộc lộ phong cách sáng tạo khác. Anh quan sát tỉ mỉ những đổi thay
trong cuộc sống xung quanh, anh muốn chiếm lĩnh thực tại rộng lớn, thơ anh giàu
chất liệu hiện thực”. [12; tr.18]. “Một nét đặc sắc nữa trong phong cách thơ Xuân
Diệu là giàu hương vị cuộc đời gây tác động mạnh bằng cảm giác”. [12; tr.19]
Trong “Nét độc đáo trong thơ Xuân Diệu”, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn. Ông
đã trích bài viết về nhà thơ Xuân Diệu của tác giả Phạm Tiến Duật. Trong bài viết
này Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “Trong ngôn ngữ của anh, khi cởi mở, khi cay
nghiệt, lúc tỉnh táo, lúc mê say, luôn luôn đập một trái tim trung thực, luôn luôn hồi
hộp một nỗi niềm khám phá. Tất cả sự lớn lao của Xuân Diệu bắt đầu từ cái lẽ giản
dị sâu sắc ấy”. [15; tr.135]
Qua nhận xét của các nhà phê bình trên, người viết nhận thấy các ý kiến tập
trung vào sự sáng tạo từ mới và nét đặc sắc trong việc dùng từ của nhà thơ Xuân
Diệu trong thơ.
- Về góc độ ngôn ngữ: Trong giáo trình “Giáo trình Phong cách học Tiếng
Việt”, tác giả Nguyễn Văn Nở đã cho rằng: “So sánh (comparison, analogy), còn
được gọi là tỉ dụ, biện pháp tu từ dùng sự đối chiếu hai chiều hay nhiều đối tượng
(hoặc sự vật) có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất
bên trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của
người đọc, người nghe”. [16; tr.132]
Trong công trình “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác giả Đinh
Trọng Lạc nhận xét: “So sánh (còn gọi: so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện
pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực
tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau
nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [9;
tr.154]
Trong quyển “Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt”, tác giả Cù Đình
Tú đã khẳng định: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối
tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách
hình ảnh đặc điểm của đối tượng”. [21; tr.175]
Qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, người viết nhận thấy so
sánh tu từ đã được nhắc đến nhiều nhưng chỉ ở dạng lí thuyết và chưa có ý kiến nào
nghiêng về các biện pháp so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu. Đây là vấn đề đang
còn bỏ ngỏ và cũng là những cơ sở khoa học để người viết có được điểm nhìn, điểm
đứng để từ đó có thể sử dụng lí thuyết này vận dụng trong văn chương. Chính vì
vậy, người viết nhận thấy đề tài So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ
thơ và Gửi hương cho gió của người viết là đề tài mới mẻ. Với đề tài này người viết
đi sâu vào tìm hiểu các biện pháp so sánh tu từ trong thơ của ông, vấn đề này được
nhìn nhận và đánh giá trên phương diện nghệ thuật. Từ đó, góp phần tìm ra giá trị
nổi bật trong việc sử dụng so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và
Gửi hương cho gió.
3. Mục đích nghiên cứu
So sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật dễ sử dụng cho nên hầu như được
các nhà văn, nhà thơ sử dụng trong các sáng tác của mình. Xuất phát từ thực trạng
nghiên cứu thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, tính hấp dẫn
của đề tài, người viết đến với đề tài này với mong muốn tìm ra sự độc đáo, mới mẻ
trong cách sử dụng so sánh tu từ trong thơ ông. Trong các câu thơ, các bài thơ và
các tập thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Để từ đó hiểu thêm về một tâm hồn thơ khao
khát yêu và khao khát giao cảm với cuộc đời, cũng như một tâm hồn thơ luôn tìm
tòi và cống hiến cho nghệ thuật.
Bên cạnh đó, khi khảo sát về đề tài So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai
tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết có dịp tiếp xúc nhiều hơn với thơ
ông trước Cách mạng tháng Tám. Từ đó có cái nhìn toàn diện, đầy đủ những đóng
góp của ông đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Mặt khác, khi nghiên cứu đề tài này, người viết được vận dụng kiến thức đã
học của mình vào vấn đề cụ thể. Từ đó người viết có thể kiểm tra và đánh giá được
năng lực của chính bản thân mình.
Đây cũng là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của người viết, người viết
hi vọng đây không chỉ là luận văn tốt nghiệp mà còn là sự đóng góp nhỏ bé của bản
thân trong việc nhìn nhận và đánh giá về nhà thơ Xuân Diệu. Điều quan trọng trên
hết là qua việc thực hiện đề tài này, người viết sẽ được trang bị thêm tri thức trong
học tập và nghiên cứu khoa học sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khi nghiên cứu So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi
hương cho gió, người viết xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài này ở những vấn
đề sau đây:
- Về nội dung nghiên cứu: Người viết đi sâu vào nghiên cứu những câu thơ có
chứa so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
Từ những câu thơ này, người viết phân loại theo các dạng so sánh cụ thể. Từ những
số liệu đã có người viết đưa ra những nhận định cũng như những đánh giá, những
phân tích, những lí giải về nét độc đáo cũng như cái hay khi sử dụng các biện pháp
này của nhà thơ Xuân Diệu.
- Về đối tượng khảo sát: Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió in năm 2001,
Nhà xuất bản Văn học của nhà thơ Xuân Diệu. Người viết sử dụng cả hai tập thơ
này để làm tư liệu khảo sát cho mình. Người viết cho rằng, người viết chọn hai tập
thơ của nhà xuất bản trên là bởi lẽ ở hai tập thơ này tập trung tương đối đầy đủ các
bài thơ của nhà thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Giúp cho người viết có
được tư liệu để khảo sát chính xác, có cái nhìn toàn diện và có thể làm nổi bật giá trị
nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài biện pháp So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu
qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết đã sử dụng các biện pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp: Người viết sử dụng phương pháp này để tập hợp, hệ
thống hóa, khái quát hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài. Giúp cho người viết có
được cái nhìn toàn diện để thấy được vấn đề mình đang nghiên cứu, từ đó có sự tiếp
thu kế thừa và phát huy.
- Phương pháp hệ thống, thống kê và phân loại: Đây là phương pháp giúp
người viết nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách khoa học, chính xác và có thể hệ
thống các từ chỉ so sánh tu từ, thống kê được mức độ sử dụng nhiều hoặc ít. Từ đó
có sự lí giải một cách khoa học về nguyên nhân và mục đích của tác giả khi sử dụng
so sánh tu từ trong thơ.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Để thấy được sự khác biệt trong cách dùng
biện pháp so sánh tu từ cũng như cách dùng hình ảnh trong so sánh tu từ giữa hai
tập thơ (một số bài thơ khác), đồng thời đối chiếu với một số các nhà thơ cùng thời
với Xuân Diệu như: Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên,….. khi so sánh. Người viết
thấy được nét riêng, độc đáo trong việc sử dụng so sánh tu từ của nhà thơ. Từ đó,
người viết đúc kết được phong cách nghệ thuật riêng của nhà thơ Xuân Diệu.
- Phương pháp phân tích miêu tả: Phương pháp này người viết đánh giá, phân
tích nét hay trong việc sử dụng so sánh tu từ.
Bên cạnh đó, để có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu, người viết đã sử dụng
tất cả các phương pháp trên một cách tổng hợp, một cách hợp lí, hệ thống và lôgích.
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SO SÁNH VÀ SO SÁNH TU TỪ
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn thường sử dụng hay bắt gặp những
cách nói so sánh như: Xấu như ma, người này đẹp hơn người kia, đẹp như tiên,..
So sánh là một dạng thức phổ biến trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, bởi vì
không có cách gì làm cho người nghe hiểu nhanh điều mình nói bằng một sự so
sánh cụ thể. Trong văn chương, so sánh là phương thức tạo hình, phương thức gợi
cảm. Vì vậy, so sánh giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn những phương diện nào
đó của sự vật. Từ những cách nói so sánh đó, ta chia so sánh ra làm hai loại: So
sánh tu từ và so sánh luận lí.
1.1.1 So sánh tu từ
So sánh tu từ là cách đối chiếu công khai hai hay nhiều đối tượng khác loại của
thực tế khách quan. Trong đó, các đối tượng này không đồng nhất với nhau hoàn
toàn mà chỉ có nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên
trong, để diễn tả một cách hình ảnh lối tri giác mới mẻ về đối tượng, tạo ra cảm xúc
thẩm mĩ trong cảm nhận của người đọc, người nghe.
Trong “Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt”, tác giả Nguyễn Văn Nở đã
định nghĩa: “So sánh (comparison, analogy), còn được gọi là tỉ dụ, biện pháp tu từ
dùng sự đối chiếu hai chiều hay nhiều đối tượng (hoặc sự vật) có một nét tương
đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ
thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe”. [16;
tr.132].
Trong quyển “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”,tác giả Đinh Trọng
Lạc cho rằng: “So sánh (còn gọi: so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp
tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế
khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào
đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [9; tr.154].
Ví dụ: Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Ca dao)
“Công cha” khác phạm trù với núi “Thái Sơn” cũng như “nghĩa mẹ không
đồng nhất với “nước trong nguồn” nhưng lại mang một giá trị đặc biệt. Công cha,
nghĩa mẹ trong sự so sánh này được ví như trời bể.
Ví dụ: Tiền tài như phấn thổ
Nhân nghĩa tựa thiên kim.
(Ca dao)
Cách so sánh này làm nổi bật lên tính cách của con người coi trọng nhân nghĩa,
không ham danh lợi. Bởi vì so với “nhân nghĩa” thì tiền tài trở nên vô giá trị (như
phấn thổ), còn ngược lại “nhân nghĩa” lại đáng giá ngàn vàng (tựa thiên kim).
1.1.2 So sánh luận lí
So sánh luận lí là cách đối chiếu giữa hai hay nhiều đối tượng cùng loại của
thực tế khách quan, nhằm mục đích xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng (hay
nhiều đối tượng).
Trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, tác giả Cù Đình Tú nhận
định: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có
một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc
điểm của đối tượng”. [21; tr.175].
Trong quyển “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”, Hữu Đạt quan niệm: “So
sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này giải thích
cho sự thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác”.[4; tr.336].
Ví dụ: - Đen như than
Khi nhắc đến “than” thì ngay lập tức người nghe sẽ biết được thuộc tính của
“than” vốn là “đen” và lấy “than” để làm đối tượng so sánh nói lên mức độ đen của
cái được so sánh. Và hễ khi thấy “đen” là ta nghĩ ngay đến đối tượng so sánh
“than”. Qua đó, cũng thể hiện được thái độ chê của người nói hướng đến cái được
đem ra so sánh.
- Lan đẹp hơn Huệ
Khi người nói đưa ra câu so sánh trên thì ta biết ngay người nói lấy đối tượng
là “Huệ” để làm đối tượng so sánh. Đồng thời ta cũng biết được nét đẹp của “Huệ”
như thế nào, để từ đó có cái nhìn và sự so sánh tổng thể xem “Lan” đẹp hơn “Huệ”
ở điểm nào. Cuối cùng là đưa ra kết luận xem người nói có nói đúng hay không.
1.1.3 Sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh luận lí
So sánh là công cụ giúp ta nhận thức sâu sắc hơn về những phương diện nào đó
của sự vật, hiện tượng. Cả hai phép so sánh tu từ và so sánh luận lí đều mang trong
nó chức năng nhận thức. Từ những phân tích trên, ta thấy được sự khác nhau giữa
so sánh tu từ và so sánh luận lí có mấy điểm khác nhau như sau: Về cơ sở so sánh
và mục đích so sánh.
Sự khác nhau
giữa so sánh tu So sánh tu từ So sánh luận lí
từ và so sánh
luận lí
So sánh dựa trên cơ sở sự khác So sánh dựa trên cơ sở đồng
loại, khác chất giữa các sự vật loại, đồng chất giữa các sự Về cơ sở so
hiện tượng đem ra so sánh vật hiện tượng được đem ra sánh:
so sánh.
Về mục đích So sánh tu từ nhằm miêu tả, So sánh luận lí thì nhằm chỉ
đánh giá đối tượng được so ra sự hơn kém hoặc giống so sánh:
sánh một cách hình ảnh sinh nhau, hoặc khác nhau đơn
động tạo ra giá trị nghệ thuật thuần giữa các đối tượng
cao trong sử dụng ngôn ngữ. nhằm nhấn mạnh điều muốn
nói mà không đòi hỏi cao về
cách dùng từ, cách thể hiện.
Ví dụ: Đứt tay một chút chẳng đau Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô
giáo Xa nhau một chút như dao cắt
lòng. Khi tới trường, cô giáo như
mẹ hiền. (Ca dao)
(Lời bài hát)
Qua sự khác biệt trên ta thấy, thực chất của phép so sánh tu từ là dùng thuộc
tính hay tình trạng của sự vật hay hiện tượng này để giải thích cho thuộc tính hay
1.2 MỘT SỐ QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ SO SÁNH TU TỪ
CỦA CÁC NHÀ NGÔN NGỮ
tình trạng của sự vật hay hiện tượng khác.
So sánh tu từ có cấu tạo đơn giản, giá trị biểu đạt cao nên nó được sử dụng phổ
biến ở hầu hết phong cách chức năng tiếng Việt. Vì thế, nó cũng là đối tượng
nghiên cứu của rất nhiều nhà ngôn ngữ học. Mỗi tác giả ngôn ngữ có một quan
niệm khác nhau về so sánh tu từ, người viết xin dẫn ra một số quan niệm như sau:
1.1.1 Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Nở
Trong “Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt”, tác giả Nguyễn Văn Nở đã
định nghĩa: “So sánh (comparison, analogy), còn được gọi là tỉ dụ, biện pháp tu từ
dùng sự đối chiếu hai chiều hay nhiều đối tượng (hoặc sự vật) có một nét tương
đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ
thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe”. [16;
tr.132]. Từ định nghĩa trên, tác giả phân loại về so sánh tu từ như sau:
(cid:4) Về mặt hình thức:
Tác giả Nguyễn Văn Nở dựa trên sự xuất hiện hay vắng mặt các yếu tố so sánh
và từ chỉ quan hệ so sánh để phân loại cấp độ so sánh và hình thức so sánh. Căn cứ
vào từ chỉ quan hệ so sánh tác giả phân loại so sánh tu từ thành các kiểu như sau:
- Kiểu 1: A như (tựa như, dường như,…)B.
Ví dụ: Thân em như cá giữa rào
Kẻ chài người lưới biết vào tay ai?
(Ca dao)
- Kiểu 2: A bao nhiêu B bấy nhiêu.
Ví dụ: Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
(Cao dao)
- Kiểu 3: A là B.
Ví dụ: Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương
(Một mùa đông- Lưu Trọng Lư)
- Kiểu 4: A- B. (ẩn từ so sánh)
Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng
(Tục ngữ)
(cid:4) Về mặt nội dung:
Đối tượng nằm trong hai vế so sánh là khác loại nhưng lại có nét tương đồng
nào đó, tạo thành cơ sở cho so sánh. Nếu nét giống nhau của hai đối tượng được thể
hiện bằng từ ngữ cụ thể nào đó (cơ sở giống nhau) thì ta có so sánh tu từ nổi.
Ví dụ: Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ.
(Cây gạo- Vũ Tú Nam)
Nếu nét tương giống nhau này không thể hiện ra cụ thể bằng từ ngữ (cơ sở so
sánh) thì ta có so sánh tu từ chìm.
Ví dụ: Thương ai rồi lại nhớ ai,
Mặt em như thể nương khoai mới trồng.
(Ca dao)
1.2.2 Quan niệm của tác giả Hữu Đạt
Trong quyển “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”, tác giả quan niệm: “So
sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này giải thích
cho sự thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác”.[4; tr.336]. Vì thế, ông phân loại
so sánh tu từ như sau:
Tác giả đưa ra mô hình khái quát của phép so sánh tu từ là: A- X- B. Trong đó:
- A: là cái chưa biết được đem ra so sánh
- B: là cái đã biết đem ra so sánh.
- X: là cơ sở so sánh được biểu hiện bằng các từ: như, giống như, tựa như, là, như
là, tựa như, tựa hồ, hệt như, bằng, hơn, kém,…
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ X có thể có mặt hay vắng mặt. Khi X vắng
mặt người ta có thể nhận diện được A, B nhờ dấu phẩy [,] ngăn cách hoặc nhờ độ
ngắt của nhịp, ngữ điệu của câu.
Trên cơ sở xem xét phép so sánh có thể dựa vào mặt cấu trúc hoặc dựa vào
mặt ngữ nghĩa. Ông chia so sánh ra thành những loại hình sau:
- Loại 1: So sánh không có từ so sánh: Có mô hình cấu tạo: A - B.
Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng
(Tục ngữ)
Biến thể: A - B1B2…
Ví dụ: Bác ngồi đó lớn mênh mông,
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non.
(Sáng tháng Năm- Tố Hữu)
- Loại 2: So sánh có từ so sánh: Mô hình cấu tạo của loại này là: A X B. Từ loại
này, ông chia ra các biến thể sau:
(cid:2) A X B1, B2…
Ví dụ: Sống chết một lần thôi
Con sẽ chết như những người đã chết
Và những người đang chết.
(Thưa mẹ, trái tim- Trần Quang Long)
(cid:2) A X B1 X B2…
Ví dụ: Ta yêu quá như lần đầu mới biết
Ta yêu như mưa yêu gì thân thiết
Như tre, dừa như làng xóm quê hương
Như những con người- biết mấy yêu thương.
(Nhớ mưa quê hương- Lê Anh Xuân)
(cid:2) A1,B1 X A2,B2
Ví dụ: Lũ đế quốc là bầy dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
(Sáng tháng Năm- Tố Hữu)
- Loại 3: So sánh ngang bằng: Có mô hình cấu tạo: A bằng B
Ví dụ: Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
(Ca dao)
- Loại 4: So sánh bậc hơn- kém: Mô hình: A hơn, kém B.
Ví dụ: Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Nguồn ánh sáng đến muôn đời
Vượt cao hơn sự chết vẫn coi thường
(Muôn vàng tình thân yêu trùm lên khắp quê hương- Việt Phương)
- Loại 5: So sánh bậc cao nhất (bậc tuyệt đối):
Ví dụ: Đại đội thanh niên xung phong đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất
(Gửi em cô thanh niên xung phong- Phạm Tiến Duật)
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
(Nhớ đồng- Tố Hữu)
1.2.3 Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú
Trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, ông nhận định: “So sánh
tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có một dấu hiệu
chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối
tượng”. [21; tr.175]. Từ nhận định trên, ông phân loại so sánh tu từ như sau:
Ông phân chia so sánh dựa trên hai mặt nội dung và hình thức.
(cid:4) Về hình thức:
Tác giả dựa vào từ so sánh phân chia ra các loại sau:
- Loại 1: A như (tựa như, dường như,…) B
Ví dụ: Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt,
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
- Yêu, là chết trong lòng một ít.
(Yêu- Xuân Diệu)
- Loại 2: A bao nhiêu B bấy nhiêu
Ví dụ: Qua cầu ngã nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.
(Ca dao)
- Loại 3: A là B
Ví dụ: Những cây bàng là những bộ xương cao,
Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng sắt cũ
(Sắt- Xuân Diệu)
Ở loại so sánh này ông nhấn mạnh sắc thái của từ “là”. Từ “là” ở đây có giá trị
tương đương với từ “như” nhưng có sắc thái ý nghĩa khác. “Như” có sắc thái giả
định, còn “là” có sắc thái khẳng định. Loại so sánh này khác với phán đoán lôgích
khẳng định “S là P” ở chỗ: Nếu thay thế từ “là” bằng từ “như” thì nội dung cơ bản
không thay đổi, chỉ chuyển đổi sắc thái ý nghĩa: Từ sắc thái khẳng định chuyển
sang giả định.
Ngoài ra, tác giả còn nêu ra hình thức so sánh dạng để khuyết không dùng
từ so sánh.
(cid:4) Về nội dung:
Các đối tượng nằm trong hai vế của so sánh tu từ là khác loại nhưng lại có nét
giống nhau nào đó tạo thành cơ sở cho so sánh tu từ. Vì vậy, ông chia ra làm hai
loại so sánh: so sánh chìm và so sánh nổi.
- So sánh tu từ nổi: Nét giống nhau được hiểu ra bằng các từ ngữ cụ thể.
Ví dụ: Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn giữ như kiềng ba chân
(Tục ngữ)
- So sánh tu từ chìm: Nét giống nhau không phô ra mà ẩn bên trong hai vế.
Ví dụ: Ôi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy chung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm.
(Trở về quê nội- Lê Anh Xuân)
Có thể nói, mỗi tác giả đều có cách định nghĩa, phân loại về biện pháp so sánh
tu từ không hoàn toàn giống nhau. Nhưng nhìn chung giữa các định nghĩa trên có sự
tương đồng các tác giả đều cho rằng: So sánh tu từ là sự đối chiếu giữa hai đối
tượng khác nhau và hai đối tượng đem ra đối chiếu phải có nét tương đồng nào đó.
Trong số các định nghĩa trên thì có định nghĩa của tác giả Cù Đình Tú và tác giả
Nguyễn Văn Nở có tính khái quát cao hơn. Bởi vì trong thực tế, khi sáng tác văn
học các nhà thơ, các nhà văn không thể chỉ đối chiếu một đối tượng này với một đối
tượng khác mà đôi khi còn có sự đối chiếu giữa các đối tượng khác.
Ví dụ: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như say rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tủy.
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn
(Huyền diệu- Xuân Diệu)
1.2.4 Quan niệm của tác giả Đinh Trọng Lạc
Trong quyển “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác giả cho rằng:
“So sánh (còn gọi: so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp tu từ ngữ
nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan
không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm
diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [9; tr.154]. Từ quan
niệm trên ông phân loại so sánh tu từ như sau:
Căn cứ vào từ ngữ dùng làm yếu tố thể hiện quan hệ so sánh, tác giả Đinh
Trọng Lạc chia ra các hình thức so sánh sau đây:
- Yếu tố so sánh là từ như (tựa như, chừng như,… ).
Ví dụ: Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.
(Ca dao)
- Yếu tố so sánh là từ hô ứng bao nhiêu….. bấy nhiêu.
Ví dụ: Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
(Ca dao)
- Yếu tố so sánh là từ là.
Ví dụ: Chúng chị là hòn đá tảng trên trời
Chúng em chuột nhắt cứ đòi lung lay.
(Ca dao)
Tóm lại, người viết vừa đưa ra một số quan điểm về phân loại so sánh tu từ
của các nhà ngôn ngữ. Để thuận tiện trong việc khảo sát các biện pháp so sánh tu từ
trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết xin lấy quan điểm phân loại
của tác giả Nguyễn Văn Nở kết hợp cùng với quan điểm phân loại của tác giả Hữu
Đạt. Như vậy, về việc phân loại các biện pháp so sánh, người viết có thể tổng hợp
được các loại sau: Kiểu:
(cid:2) A X B (X cơ sở so sánh được thể hiện bằng các từ như: giống như, tựa như,
A là B.
A bao nhiêu B bấy nhiêu.
A – B.
1.3 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ
tựa hồ, hệt như, bằng,….). (cid:2) (cid:2) (cid:2) (cid:2) A bằng, hơn, kém, nhất B.
Từ quan niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trên, người viết phân so sánh
tu từ ra thành các loại như sau:
1.3.1 Hình thức so sánh tu từ có từ A như (dường như, tựa như,…) B
Loại so sánh A X B này có từ so sánh là: như, giống như, tựa như, dường
như,… Đây là dạng so sánh thường gặp trong thực tế sử dụng ngôn ngữ cũng như
trong văn chương. Trong đó:
A: là yếu tố được (hoặc bị) đem ra so sánh.
X : là từ dùng để so sánh (như, tựa như, dường như,…).
B: là yếu tố được dùng để so sánh.
Ví dụ: Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ
Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ.
(Tựu trường- Huy Cận)
Trong thời kì hiện đại phép so sánh có chiều hướng phát triển về độ dài cấu
trúc dưới các dạng sau: A X B X C, A X B1 X B2 X B3, A X B1, B2,…
Cụ thể: Dạng truyền thống A X B. Trong Ca dao.
Ví dụ: Anh em cùng một mẹ cha
Cũng như cây cọ sinh ra nhiều cành
(Ca dao)
Các dạng phát triển như sau:
(cid:2) A X B X C:
Ví dụ: Nhớ em như một vết thương
Trong lòng như vỡ mảnh gương trong lòng.
(cid:2)
(Nhớ em- Xuân Diệu )
A X B1 X B2 X B3
Ví dụ: Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa khí trời cũng khác
Như anh với em, như Nam với Bắc
Như đông với tây một dãy rừng liền
(Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây- Phạm Tiến Duật)
(cid:2) A X B1, B2,..
Ví dụ: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên )
1.3.2 Hình thức so sánh tu từ A là B (B là hình ảnh)
Loại so sánh tu từ này có mô hình: A là B
Ví dụ: Cô hãy là nơi mấy khóm dừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa;
Để tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay- thế cũng vừa.
(Vì sao- Xuân Diệu)
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..
(Từ ấy- Tố Hữu)
1.3.3 Hình thức so sánh tu từ A bao nhiêu B bấy nhiêu
Loại so sánh tu từ có từ so sánh là: Bao nhiêu, bấy nhiêu. Mô hình: A bao
nhiêu B bấy nhiêu
Ví dụ: Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu
(Bầm ơi- Tố Hữu)
Ngó lên nuột lạt mái nhà
Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
(Ca dao)
1.3.4 Hình thức so sánh tu từ không có từ so sánh
Loại so sánh tu từ không có từ so sánh này có mô hình A – B. Loại này có các
dạng:
(cid:2) A - B
Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng
(Tục ngữ)
Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài.
Ham chi bóng sắc, nó đọa đày tấm thân.
(Ca dao)
(cid:2) A - B1 B2
Ví dụ: Anh sông Hồng, sông Mã
Rầm reo trong đạn lửa.
(Ngoảnh lại mười lăm năm- Chế Lan Viên)
Loại so sánh này được nhận diện hai vế nhờ vào dấu phẩy [,] ngăn cách, hoặc
độ ngắt nhịp hay ngữ điệu của câu. Trong văn chương cổ, loại văn biền ngẫu và câu
đối được cấu tạo trên cơ sở hài hòa, cân xứng về số lượng, âm tiết, thanh điệu, ngữ
nghĩa, ngữ pháp nhưng đó không phải là so sánh tu từ. Vì nó không được xây dựng
trên cơ sở so sánh nét tương đồng.
Ví dụ: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngổng đầu rồng
(Giễu người thi đổ- Tú Xương)
1.3.5 Hình thức so sánh tu từ A hơn, bằng, kém, …B
Hình thức này có các mô hình như sau:
(cid:2) Mô hình: A hơn B
Ví dụ: Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Ra đi anh có dặn rằng
Đâu hơn thì lấy, đâu bằng đợi anh
(Ca dao)
(cid:2) Mô hình: A bằng B
Ví dụ: Không tỏ hay, yêu mến cũng là không,
Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch.
(Phải nói- Xuân Diệu)
Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
(Ca dao)
(cid:2) Mô hình: A kém B
Ví dụ: Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
1.3.6 Hình thức so sánh tu từ với các từ so sánh khác
Do cấu tạo của so sánh tu từ đơn giản nên được sử dụng rộng rãi. Do đó, so
sánh tu từ có nhiều hình thức thể hiện khác nhau, đôi khi ta cũng bắt gặp so sánh tu
từ với từ so sánh “hay”.
Ví dụ: Ấy nỗi buồn kêu xé của ngày qua,
Hay lời than rên rĩ của đêm xa;
Ấy là tiếng những âm binh tan nác,
Hay là giọng những vong hồn lưu lạc?
(Tiếng gió- Xuân Diệu)
Ngoài ra còn một số hình thức khác: nhất, sử dụng câu hỏi tu từ,….
Ví dụ: Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm;
Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em.
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.
Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
1.4 CÁC CHỨC NĂNG CỦA SO SÁNH TU TỪ
(Tương tư chiều- Xuân Diệu)
Khi giao tiếp hay trong văn chương, người ta thường dùng biện pháp so sánh
để miêu tả các đối tượng, sự vật làm tăng tính hình ảnh và biểu lộ thái độ của người
sử dụng. Do so sánh tu từ có hai chức năng cơ bản sau:
1.4.1 Chức năng nhận thức
So sánh tu từ là một công cụ giúp ta nhận thức sâu sắc hơn những phương tiện
nào đó của sự vật.
Ví dụ: Nói “Cô ấy ốm” người tiếp nhận chỉ biết là “ốm” chứ không thể hình dung
ra cô ấy ốm như thế nào, nhưng khi nói “Cô ấy ốm như cây tăm”, nhắc đến hình
ảnh “cây tăm” thì người nghe, người đọc sẽ hình dung được cấu tạo của “cây tăm”
là: ốm, nhỏ, cao. Khi chúng ta so sánh “Cô ấy ốm như cây tăm”, người đọc, người
nghe sẽ nhận thức được rằng cô ấy rất ốm.
Ví dụ: Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
(Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử)
Câu thơ trên nói đến màu xanh cây lá nơi thôn Vĩ. Từ đó ta thấy, nhà thơ
trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “vườn
ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh
mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông mượt quá một
màu xanh như ngọc bích. Cho nên, khi so sánh màu xanh của “vườn” với
màu xanh của “ngọc” càng chứng tỏ rằng: Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà,
con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên
rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống nơi thôn Vĩ Dạ.
Tuy nhiên, chức năng nhận thức còn cho cả so sánh luận lí. Sự khác nhau ở hai
chức năng của hai phép so sánh này thể hiện rõ ràng hơn ở chức năng biểu cảm.
1.4.2 Chức năng biểu cảm
So sánh luận lí không biểu lộ thái độ, cảm xúc của người nói người viết, vì so
sánh luận lí là so sánh dựa trên cơ sở lôgích.
So sánh tu từ là một phương diện biểu cảm. Qua phép so sánh tu từ ta sẽ dễ
dàng nhận ra lòng yêu hay ghét, ý khen hay chê và thái độ của người nói đối với đối
tượng được miêu tả.
Ví dụ: Anh như con một nhà giàu,
Em như tờ giấy bên Tàu mới sang.
(Ca dao)
Ở câu ca dao trên, thông qua những hình ảnh được so sánh “con một nhà giàu”
và “tờ giấy bên Tàu mới sang”, so sánh tu từ đã góp phần tạo nên sự đối lập của hai
nhân vật “anh” và “em”. Qua đó, câu ca dao bộc lộ quan niệm trọng nam khinh nữ
vốn rất đè nặng trong xã hội phong kiến. Nhờ vậy, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về
thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa, một xã hội mà quan hệ giữa nam và nữ có
sự bất bình đẳng.
Ví dụ: Mặt Hoa như trái xoan.
Mặt Hoa như cái mâm.
Ở hai câu trên cùng một nội dung thông báo là mặt của Hoa, ta thấy được thái
độ khác nhau của người nói. Khi nói “mặt Hoa như trái xoan” thì ta biết được thái
độ khen của người nói dành cho Hoa, “mặt trái xoan” là khuôn mặt đẹp, cũng là
khuôn mặt bao nhiêu người mơ ước. Ngược lại, khi nói “mặt Hoa như cái mâm” thì
ngay lập tức ta nhận được thái độ chê của người nói dành cho Hoa, nhắc đến “cái
mâm” ta biết nó to và tròn. Vì thế, ta thường so sánh mặt như cái mâm là mặt xấu.
Do có cấu tạo đơn giản nên lại mang chức năng nhận thức và biểu cảm nên so
sánh tu từ được sử dụng trong nhiều phong cách tiếng Việt, nhất là trong lời nói
nghệ thuật. Qua so sánh tu từ, ta có thể nhận ra những nét riêng của người sử dụng
so sánh tu từ, có tác giả thích sự mộc mạc, chân chất, gần gũi hoặc mới mẻ, chính
xác xen lẫn hài hước của dân gian, có tác giả thiên về hình ảnh mang tính chất suy
ngẫm, phát hiện của trí tuệ. Đồng thời, so sánh tu từ có chức năng vừa là công cụ
nhận thức, vừa là phương tiện giúp chúng ta bày tỏ tình cảm, thái độ trước những
vấn đề của xã hội.
Trong “Nghệ thuật so sánh tu từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Lê
Đình Tuấn nhận xét: “trong tiếng Việt, so sánh tu từ được sử dụng nhiều nhất so
với các phương thức so sánh tu từ vựng khác: ẩn dụ, nhân hóa, chơi chữ, phóng
dụ,... khi giải thích ta thường dùng so sánh để làm rõ hơn điều mình muốn thông
báo. Nhà văn lại càng dùng so sánh, bởi vì đối với họ so sánh không chỉ giúp người
đọc nhận thức sự vật hiện tượng, tình thái tính chất một cách chính xác mà còn
muốn thông qua so sánh làm tăng tính gợi cảm, gợi hình và biểu cảm cho câu văn.
Nếu đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn chương là tính thẩm mĩ thì nhà văn sử
dụng so sánh như là một biện pháp tu từ quan trọng để làm nên giá trị thẩm mĩ của
văn chương.” [22; tr.12]
Chương 2. CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ
TRONG HAI TẬP THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
2.1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
2.1.1 Vài nét về tác giả
- Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh Trảo Nha. Ông sinh
ngày 02 tháng 02 năm 1916 (năm Bính Thìn) tại quê mẹ vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha ông là Ngô Xuân Thọ quê quán tại làng
Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tú tài kép Hán Học,
vào làm thầy dạy học ở Bình Định. Mẹ là Nguyễn Thị Hiệp.
Thuở nhỏ Xuân Diệu học chữ Nho, Quốc ngữ và cả tiếng Pháp, năm 1927
xuống học ở Quy Nhơn và đỗ bằng Thành chung. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi
dạy học tư và làm viên chức ở Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội
sống bằng nghề viết văn. Ông là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938- 1940).
- Năm 1940 ông thi Tham tá Nha Thượng Chính (nhà Đoan) và vào Nam Bộ
làm Sở Đoan ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về Hà Nội.
Bên cạnh việc sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày nay và
Tiên Phong. Xuân Diệu là một trong những người sáng lập ra Đoàn báo chí Việt
Nam (nay là Hội nhà báo Việt Nam). Trong sự nghiệp sáng tác thơ của mình, ông
được biết đến như là một nhà thơ trữ tình lãng mạn, “nhà thơ mới nhất trong các
nhà thơ mới”, “ông hoàng thơ tình” và là “chủ soái của phong trào thơ Mới”.
- Năm 1943, Xuân Diệu xin thôi tham tá nhà Đoan và về sống với Huy Cận tại
Hà Nội.
- Năm 1944, Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh hồi bí mật.
- Năm 1945, Xuân Diệu cho ra đời tập thơ văn xuôi Trường Ca và tập thơ Gửi
hương cho gió (Nhà xuất bản Thời đại). Tháng 2- 1945, ông làm cuộc diễn thuyết
đầu tiên trong đời mình với bài Sinh viên với quốc văn do Tổng hội sinh viên Việt
Nam tổ chức; bài này sau đó được xuất bản với tên mở rộng Thanh niên với quốc
văn. Sau khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, trong hoàn cảnh đất nước biến động,
Xuân Diệu đã cho đăng những bài thơ Một cuộc “biểu tình”, Tổng bất đình công;
Vịnh cái cờ,….
- Năm 1946, xuất bản tráng ca Hội nghị non sông, bút kí Miền Nam nước
Việt; ông là Đại biểu Quốc hội khóa I (đại biểu tỉnh Hải Dương) từ 1946- 1960.
Tháng 5- 1946, với tư cách đại biểu các nhà báo, đi cùng phái đoàn Quốc hội Việt
Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn sang Paris đàm phán với chính
phủ Pháp.
- Năm 1947, ông đi theo Đài Tiếng nói Việt Nam và phụ trách mỗi tuần nói
một Câu chuyện văn hóa ở Đài.
- Năm 1948, được bầu là Ủy viên chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam kháng
chiến. Xuất bản tập bút kí Việt Nam trở dạ.
- Năm 1949, Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất bản
tập thơ Dưới ánh sao vàng.
- Năm 1951- 1953, xuất bản tập tiểu luận Tiếng thơ. Ông cũng là đội viên tham
gia phát động quần chúng Giảm tô, Giảm tức. Tập thơ Sáng cũng được xuất bản
trong giai đoạn này.
- Năm 1954, tham gia Cải cách ruộng đất và cho xuất bản tập thơ Mẹ con.
- Năm 1955, xuất bản tập thơ Ngôi sao và được giải thưởng Văn nghệ.
- Năm 1956, xuất bản tập Kí sự thăm nước Hung
- Năm 1957, được bầu làm Ủy viên chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
- Năm 1985, Xuân Diệu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập
hạng nhất. Nhà thơ Xuân Diệu từ trần ngày 18-12-1985 tại Hà Nội.
- Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
[1; tr9-10]
2.1.2 Vài nét về tác phẩm
- Năm 1938, Xuân Diệu cho ra đời tập Thơ thơ.
- Năm 1945, Gửi hương cho gió được ra đời.
Hai tập thơ đầu tay Thơ thơ và Gửi hương cho gió, đã tạo nên làn sóng đấu
tranh dữ dội trên thi đàn Văn học. Từ đó, Xuân Diệu bắt đầu cho con đường viết thơ
của mình và bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn thơ Mới Việt Nam. Thơ thơ và Gửi hương
cho gió đã ca ngợi tình yêu, ca ngợi cuộc sống. Thơ thơ là tiếng nói thiết tha rạo rực
của tuổi trẻ, của mùa xuân và là niềm khao khát mãnh liệt giao cảm với đời, xem
thiên nhiên tươi đẹp là tổ ấm. Xuân Diệu cũng cảm nhận được thời gian đang trôi
qua mau và sự mong manh của đời người với lòng khao khát muốn vĩnh cửu cái
đẹp, đầy triết lí nhân sinh. Nếu Thơ thơ là tiếng ca sôi nổi, rạo rực của tuổi trẻ, của
mùa xuân thì Gửi hương cho gió lại mang nỗi buồn não nùng. Buồn vì cô đơn, vì bị
chia cắt và có cả nỗi buồn vô cớ,… đến nỗi buồn vì lo sợ ngày mai. Nguyên nhân
của nỗi buồn phần nhiều do tình yêu: bị phụ tình, bị từ chối, bị làm ngơ.
Ngoài ra, Xuân Diệu cũng có những tác phẩm khác như:
Thơ có: Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới sao vàng
(1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà
Mau- Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Hai đợt sóng (19670, Tôi giàu đôi
mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (19760, Thanh ca (1982).
Nhà thơ cũng có viết truyện ngắn: Phấn thông vàng (1939). Bút kí gồm có:
Trường ca (1945), Miền Nam nước Việt (1945), Việt Nam nghìn dặm (1946), Việt
Nam trở dạ (1948), Kí sự thăm nước Hung (1956), Triều lên (1958).
Bên cạnh đó, ông cũng rất thành công trong lĩnh vực tiểu luận, phê bình: Thanh
niên với quốc văn (1945), Tiếng thơ (1951, 1953), Những bước đường tư tưởng của
tôi (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu thơ (1960), Hồ Xuân
Hương bà chúa thơ nôm (1961), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có
mài mới có sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn
(1968), Thơ Trần Tế Xương (1970), Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971), Và cây đời
mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắc nên kim (1977), Lượng thông tin và những kỹ sư
tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981, tập II, 1982), Tìm
hiểu Tản Đà (1982).
Xuân Diệu cũng là một trong những nhà dịch thuật thơ tiêu biểu, ông đã dịch:
Thi hào Nadim Hitmet (1962), V.I. Lênin (Maiakốpxki, 1967), Vây giữa tình yêu (B.
Đimitrôva, 1968) Việt Nam hồn tôi (1974), Những nhà thơ Bungari (1978- 1983),
2.2 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG HAI TẬP
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA NHÀ THƠ XUÂN DIỆU
Nhà thơ Nicoola Ghiden (1981).
Khi nhắc tới vai trò chuyên sâu của một cây bút miệt mài chăm lo cho sự phát
triển của nền thơ, người ta không bao giờ quên nhắc tới Xuân Diệu. “Lần đầu tiên,
những tình cảm nồng cháy, tha thiết đến rạo rực của cả một thế hệ tuổi trẻ khát
khao một cuộc sống mới, muốn vượt ra khỏi sự tù đọng, lụi tàn của xã hội cũ.. để
sống, để yêu, để khẳng định bản ngã. Sức sống dào dạt và nguồn cảm xúc tinh tế,
mới mẻ đã tìm được một hình thức thể hiện tân kỳ và mạnh mẽ, không chút gò bó,
sáo mòn. Sự cách tân của các nhà thơ mới, đặc biệt là của Xuân Diệu xuất phát từ
nội dung, từ cách nhìn và phương thức cảm thụ đời sống và cũng từ đòi hỏi của
công chúng, nhất là lớp người trẻ tuổi đang chán ngấy thứ văn chương biền ngẫu,
mất hết sinh khí và gò bó trong khuôn mẫu và niêm luật xơ cứng, khắc khe”. [1;
tr.22- 23].
Xuân Diệu đã có một cách nhìn mới và sâu hơn về đời sống được diễn tả bằng
những hình tượng và ngôn ngữ mới, vừa mạnh mẽ vừa tinh tế là ngọn nguồn của
thành công. Chính sự sử dụng những thủ pháp nghệ thuật so sánh tu từ trong quá
trình sáng tạo nghệ thuật đã tạo nên cái hay và thành công đó. Ngay từ tập thơ đầu
tay, Xuân Diệu đã cho thấy một cá tính sáng tạo rất riêng biệt. Ông sử dụng so sánh
tu từ rất nhiều, rất mới mẻ trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Cùng với sự
sáng tạo và đổi mới cho nền văn học nước nhà, so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu
cũng đặc sắc hơn, cả về kiểu, loại, chất. Ở đây người viết chỉ khảo sát các kiểu, các
loại so sánh đã được đề cập ở phần lí thuyết về So sánh tu từ trong hai tâp Thơ thơ
và Gửi hương cho gió.
Trong hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu đã sử dụng các
kiểu loại so sánh dân gian truyền thống. Trong 97 bài thơ của hai tập thơ (Thơ thơ
có 46 bài, Gửi hương cho gió có 51 bài) thì có 173 câu thuộc so sánh tu từ. Trong
173 câu thơ ấy được chia ra làm 4 kiểu so sánh nhỏ: A như B, A là B, A- B, A bằng
B (Xem phần phụ lục)
2.2.1 Hình thức so sánh tu từ A (như, dường như, như là,…..) B
Đây là hình thức so sánh được sử dụng phổ biến trong thơ ca dân gian truyền
thống. Xuân Diệu đã sử dụng hình thức này với tần số rất cao, có 95/173 lượt chiếm
54,9% trong tổng số lượt hình thức so sánh được sử dụng ở hai tập thơ. Ngoài ra,
Xuân Diệu còn sáng tạo nhiều kiểu so sánh hiện đại phức tạp, nhiều tầng bậc hơn.
Nhưng dù là truyền thống hay hiện đại thì vẫn nhằm mục đích sáng tạo ra hình ảnh
mới lạ, độc đáo làm cho ý thơ thêm uyển chuyển, hấp dẫn, mang sắc thái tu từ và
tính thẩm mĩ cao.
Từ kết quả trên, đã cho ta thấy Xuân Diệu rất chú trọng vào việc khai thác sử
dụng hình thức này trong thơ. Vì đây là hình thức đơn giản giúp người đọc dễ dàng
nhận ra trên bề mặt ngôn từ. So sánh tu từ có giá trị cao nhờ chức năng nhận thức
cũng như biểu cảm. Qua hình thức này, người đọc sẽ dễ nhận thấy được tư tưởng,
tình cảm mà nhà thơ đã gửi gắm qua ngôn từ bằng thủ pháp so sánh tu từ trong thơ.
Trong hình thức so sánh A như B ta có thể thấy 3 kiểu so sánh sau: A như B,
A như B1B2…, như BA.
- Hình thức so sánh tu từ A như B
Kiểu so sánh truyền thống này chiếm số lượng nhiều nhất trong các các kiểu so
sánh với 88 câu chiếm 50,9%. Kiểu này được Xuân Diệu sử dụng trong sáng tác,
đặc biệt là hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. (Xem phần phụ lục)
Tuy những câu thơ sử dụng so sánh kiểu truyền thống nhưng lồng vào đó là nội
dung rất hiện đại, hình ảnh mới mang màu sắc trí tuệ độc đáo và triết lí sâu sắc dễ
gây ấn tượng cho người đọc.
Xuân Diệu sử dụng hình ảnh A “giòng cảm xúc” so sánh với B “thuyền ngư
phủ lạc trong sương”, thuyền lạc trong sương thì rất mờ ảo. Nhà thơ so sánh như
vậy tạo ra hình ảnh mờ mờ, ảo ảo đến kì diệu làm ta không nhìn thấy rõ:
Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương
(Vì sao)
Xuân Diệu sử dụng hai vế đối lập nhau A “phút gần gũi” với B “giờ chia biệt”,
để thấy được mong muốn trong tình yêu, đồng thời thể hiện khát vọng được yêu quá
mãnh liệt của nhà thơ, vì yêu quá nhiều nên khi ở cạnh nhau nhưng lại thấy xa, thấy
chia biệt “phút gần gũi cũng như giờ chia biệt”:
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
(Yêu)
Bên cạnh, sự lo âu về tình yêu thì nhà thơ vẫn lấy lại niềm vui khi có sự tưởng
tượng độc đáo, hấp dẫn luôn lôi cuốn người đọc mà nhà thơ đã gửi gắm qua từng
câu chữ của mỗi bài thơ. Xuân Diệu sử dụng kiểu so sánh này một cách thuần thục
và đạt đến trình độ sáng tạo ngôn ngữ và nghệ thuật thơ.
Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên một câu thơ tuyệt bút:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác
thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất
cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của
Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian
“tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính trần tục “môi gần”.
Nhưng câu thơ vẫn giữ nguyên vẻ tinh khôi, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
(Vội vàng)
Nhà thơ ghi nhận và miêu tả đối tượng trong không gian trần thế rất gần gũi,
không hề xa lạ. “Không gian” vô hình trong thơ Xuân Diệu tưởng như cầm nắm
được so sánh với “giây tơ”, không gian thấm vị đời nhưng được gạn lọc không náo
động, xô bồ mà thanh cao, gọi cảm thích hợp cho đôi lứa trong tình yêu “giây tơ”:
Không gian như có giây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
(Chiều)
Qua hình thức so sánh trên, ta thấy sự sáng tạo rất độc đáo từ ngòi bút thần kì
và cái nhìn sâu sắc của “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông đã để lại
trong tâm trí người đọc qua bao thế hệ biết bao thi phẩm tuyệt vời. Đó cũng là tấm
gương để người sau noi theo.
- Hình thức so sánh tu từ A như B1B2 (hoặc A như B1, như B2)
Khi đến với Xuân Diệu, hình thức so sánh trở nên giàu có với những sáng tạo
mới mẻ, kiểu so sánh hiện đại càng tôn lên trí tưởng tượng mênh mông vô bờ bến
của nhà thơ. Chính sự tưởng tượng ấy đã đẩy vế B đi ra xa hơn, góp phần diễn đạt
đầy đủ chức năng nhận thức và biểu cảm của biện pháp nghệ thuật so sánh tu từ.
Đây cũng là một trong những sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Có 03 lượt so sánh kiểu
này, chiếm 1,7% trong tổng số 173 lượt so sánh.
Sự sáng tạo rất độc đáo khi so sánh “tình” với “màu nắng nhạt” và “hương”.
Người ta thường ví tình yêu đẹp như hoa, như hương, với trăng thanh gió mát, với
nắng vàng. Ở đây nhà thơ có sự so sánh như thế nhằm nói lên tình yêu tẻ nhạt như
nắng nhạt và không còn đẹp, lãng mạn như hương thơm nữa:
Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ
Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình
Và như màu theo nắng nhạt, như hương
(Dối trá)
Với những kiểu so sánh liên tiếp ở vế B, đã tạo nên cấu trúc nhiều tầng bậc,
hình ảnh mới, ý nghĩa mới mà vẫn mộc mạc, gần gũi với đời sống hàng ngày. Tác
giả không chỉ sử dụng từ so sánh “như” mà cả dấu phẩy [,] để ngăn cách trong vế B.
Đồng thời làm tăng lên sự thay đổi rất sáng tạo hết sức mới mẻ trong cấu trúc so
sánh tu từ.
Đôi khi giữa các hình ảnh so sánh ở vế B, tác giả sử dụng từ so sánh “như”
cộng với nhịp điệu trong câu nói và trí tưởng tượng rất táo bạo của mình, đã tạo nên
câu so sánh rất hấp dẫn và gần gũi hơn với người đọc, người nghe.
Nhà thơ mượn hình ảnh “rượu”, “hương” để nói lên sức mạnh từ khúc nhạc và
cả người thể hiện khúc nhạc ấy. Với sáng tạo kiểu so sánh liên tiếp ở vế B càng tăng
lên sức cuốn hút của đối tượng mà nhà thơ nói đến:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn
(Huyền diệu)
Hình thức so sánh tu từ là phương tiện rất dễ sử dụng. Bởi vì, vế so sánh và vế
được so sánh lộ rõ trên bề mặt ngôn từ. Với sự sáng tạo đã đẩy vế B đi ra xa hơn kết
hợp với nhịp điệu của câu thơ góp phần làm tăng thêm tính hấp dẫn, lôi cuốn đối
với người tiếp nhận.
- Hình thức so sánh tu từ có cấu trúc đảo như BA
Xuân Diệu là một trong các nhà thơ mang tư tưởng thi ca hiện đại và luôn
mang một ý thức sáng tạo ngôn ngữ trong thơ theo quy luật cái mới. Để thực thi quá
trình đổi mới và mang lại hiệu quả cao nhất cho thơ, Xuân Diệu đã quan tâm đến
quy trình sáng tạo. Vì thế, các kiểu so sánh trong thơ điều được ông sáng tạo, có
2,3% kiểu so sánh đảo như BA với 04/173 lượt so sánh. Tuy chỉ chiếm số lượng
nhỏ nhưng các câu so sánh ấy đã tạo nên nét đặc sắc riêng và góp phần làm phong
phú, đa dạng hơn các kiểu loại so sánh trong thơ Xuân Diệu.
“Đứa trẻ con ôm cái bánh” thể hiện sự trong sáng, ngây thơ. Đây là ước muốn
được giữ mãi tuổi thơ hồn nhiên, vui tươi của nhà thơ. Đồng thời qua hình ảnh đó,
Xuân Diệu chỉ muốn buộc chặt thời gian lại muốn cho thời gian chậm lại nếu như
không nói là không cho tuần hoàn:
Chủ nhật còn nguyên, còn trọn vẹn;
Tôi chưa tiêu mất một giờ nào.
Như đứa trẻ con ôm cái bánh,
E dè tôi muốn giữ cho lâu.
(Giờ tàn)
Đây như một giấc “chiêm bao” nhà thơ nghĩ đến tình yêu và kết quả thật viên
mãn cho tình yêu “bỗng một lần kia đỗ một bờ”. Ước muốn đơn sơ, giản dị như thế
vẫn không thể thực hiện được mà phải nhờ đến “chiêm bao”:
Như một chiêm bao rất mộng thơ,
Bâng khuâng tôi nghĩ chuyện tình cờ
Của hai thuyền lạ phiêu trên biển,
Bỗng một lần kia đỗ một bờ.
(Tình cờ)
Hình thức đảo từ so sánh lên phía trước này càng nhấn mạnh thêm ý của nhà
thơ. Tác giả không chỉ nhấn mạnh cho vế B mà cả vế A. Qua đó, còn hể hiện sự
sáng tạo độc đáo, hấp dẫn trong hình thức so sánh này.
2.2.2 Hình thức so sánh tu từ A là B (B là hình ảnh)
Hình thức này được Xuân Diệu sử dụng tương đối cao với 49/173 lượt chiếm
28,3% trong tổng số lượt được sử dụng trong hai tập thơ. Hình thức A là B có tác
dụng như một sự khẳng định về mặt giá trị nhận thức. Đồng thời để nhấn mạnh ý
nghĩa tuyệt đối của nó làm cho cái được so sánh rõ ràng hơn qua cái so sánh và
chúng cũng dễ hình tượng hơn. Chỉ trong bài thơ mở đầu cho tập thơ Thơ thơ đã sử
dụng hình thức so sánh A là B với 5 lượt.
Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây.
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
Đây là quán tha hồ muôn khách đến;
Đây là bình thu hợp khí muôn phương;
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương,
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc
…………….
- Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm;
Nếu hương đêm say giây với trăng rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả.
(Cảm xúc)
Cảm xúc là bài thơ mở đầu tập Thơ thơ, ta bắt gặp Xuân Diệu sử dụng liên tiếp
mấy câu thơ với từ so sánh “là” mang ý nghĩa giải thích đồng thời đó cũng là sự
khẳng định. Khi nhà thơ giải thích “quán tha hồ muôn khách đến”, “bình thu hợp
khí muôn phương”, “vườn chim nhả hạt mười phương”, đây là quy luật của lẽ
thường. Bên cạnh đó, nhà thơ còn tự khẳng định, so sánh mình là “một cây kim nhỏ
bé”, “mà vạn vật là muôn đá nam châm”.
Một chuỗi những câu so sánh tu từ nối tiếp nhau đã giúp Xuân Điệu diễn đạt
hết những cảm xúc của mình về những quy luật tự nhiên của tạo hóa. Có lúc “ông
hoàng của thơ tình” tự cho mình là:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
(Thở than)
Xuân Diệu rất táo bạo khi so sánh mình với “một kẻ điên cuồng”, vì chỉ khi là
kẻ điên mới có thể vô tư thể hiện những gì mà bình thường không thể nói được. với
từ so sánh “là” càng khẳng định sự đau khổ của tình yêu đơn phương.
Kiểu cấu trúc này được Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên và các nhà thơ khác
sử dụng nhiều. Nhưng với Xuân Diệu thì ông có cách tư duy và sáng tạo theo phong
cách của ông. Khi sử dụng kiểu so sánh này càng làm cho ý thơ trở nên thâm thúy,
giàu sức biểu cảm và mượt mà hơn. Từ “là” với chức năng nối hai vế A và B làm
cho so sánh tu từ mang sắc thái khẳng định.
Xuân Diệu rất sáng tạo khi đưa hình ảnh thực vật vào trong thơ để so sánh với
tình yêu “cơn mưa lũ” với “lá khoai”. Dù cho mưa hay lũ lớn như thế nào đi chăng
nữa nhưng khi gặp lá khoai cũng không thể tác động hay ảnh hưởng gì. Vì nước
không thể nào thấm vào bản chất cấu tạo của lá khoai. Nhà thơ so sánh như vậy
nhằm thể hiện sự thất vọng khi không được đáp trả lại tình yêu:
Lòng ta là một cơn mưa lũ,
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc,
Lá xanh không ướt đến da ngoài
(Nước đổ lá khoai)
Với hình thức so sánh này, nhà thơ muốn đưa ra sự so sánh cũng như lời khẳng
định để nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của nó. Cùng với lối vân dụng sáng tạo trong
nghệ thuật của Xuân Diệu càng làm tăng ý nghĩa tuyệt đối của hình thức so sánh
này lên gấp bội phần.
2.2.3 Hình thức so sánh tu từ A- B
Kiểu so sánh này thường được sử dụng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, với ưu
thế là hạn chế được câu chữ, không những thế nó còn góp phần làm cho câu thơ có
vần nhịp, sắc thái tu từ và tính thẩm mĩ cao. Kiểu so sánh này được Xuân Diệu sử
dụng với tỉ lệ 5,8% chiếm 10/173 lượt.
Câu thơ thể hiện niềm vui của mùa xuân, của năm mới với bao hi vọng đang
trông chờ phía trước và mùa xuân cũng bắt đầu cho tình yêu đẹp. Chính tình yêu đã
cảm hóa được thiên nhiên nên thiên nhiên và con người có sự giao cảm. Vì thế, nhà
thơ mới có sự so sánh “tình yêu” với “hoa nở”, đó là thời khắc vui tươi và đẹp nhất
của nhân loại, của đời người:
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
(Nguyên đán)
Do loại so sánh này được nhận diện hai vế A và B nhờ vào dấu [,] ngăn cách,
hoặc độ dài hay ngữ điệu của câu và được xây dựng trên cơ sở nét tương đồng.
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
(Lời kỹ nữ)
Qua câu thơ trên, ta thấy được thân phận bọt bèo trôi nổi của cuộc đời kỹ nữ
phải sống nhờ vào “du khách” rất bấp bênh, bởi “du khách” như “thuyền” mà người
“giai nhân” như “bến” đợi dưới cây già. Từ đó, có thể đưa ra một nhận định
“thuyền” có thể bỏ “bến” nhưng “bến” không thể bỏ “thuyền”.
Xuân Diệu quan sát mọi vật bằng tất cả các giác quan của mình. Qua đó ta
thấy được tài năng sáng tạo của ông, khi ông mượn hình ảnh “bến”, “thuyền” để so
sánh với đời người kỹ nữ. Bên cạnh đó ta còn thấy được sự chung thủy son sắc của
người phụ nữ, như câu ca dao:
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
Hình thức so sánh này nhờ vào lợi thế hạn chế được số chữ, nhưng nó cũng có
sức mạnh phi thường không thua gì các hình thức khác. Bởi nó nhờ vào ngữ điệu và
độ ngắt của câu thơ,… tạo sắc thái thẩm mĩ cao cho ý thơ. Nên thường được sử
dụng trong ca dao và thơ ca hiện đại.
2.2.4 Hình thức so sánh tu từ A bằng, hơn,.. B
Ngoài các kiểu so sánh trên, hình thức so sánh này được Xuân Diệu sử dụng tới
11% chiếm 19/173 lượt. Trong đó: So sánh bằng có 16 câu chiếm 9,2%, so sánh
hơn có 01 câu chiếm 0,6%, so sánh kém có 01 câu chiếm 0,6%, so sánh hay có 01
câu chiếm 0,6%.
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm;
Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em.
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.
Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
(Tương tư chiều)
Sự sáng tạo thật mới mẻ của Xuân Diệu với hình ảnh một buổi chiều, khi mọi
vật bắt đầu đi ngủ hay hoạt động theo quy luật của tạo hóa. Khi so sánh nỗi “buồn”
với “buổi chiều êm” không có tiếng động. Đó là cái buồn da diết nhất, đặc biệt khi
yêu mà không được người mình yêu đáp lại, chỉ là tương tư.
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi
(Dối trá)
Hình ảnh đáng thương của những đứa trẻ khi không còn nhận được sự quan
tâm từ chính gia đình mình, nay đã đi vào trong thơ Xuân Diệu. Khi ông có cách so
sánh ngộ ngĩnh mà đầy triết lí “lòng cô đơn” hơn “đứa mồ côi”, một khi đã mồ côi
rồi thì làm sao không khỏi cô đơn. Những đứa trẻ ấy phải gom nhặt niềm vui, tình
thương của thiên hạ để an ủi chính mình rằng mình không hề mồ côi. Từ đó, thấy
được sự trống trải và nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ.
Gió thêm nóng, ngày dài thêm ánh sáng
Ve thêm sầu- em cũng kém dung nhan.
(Hè)
Qua câu thơ trên ta thấy được sự gửi gắm, nhắn gửi của nhà thơ khi mỗi độ hè
sang, “ve” bắt đầu khải lên những khúc nhạc sầu báo hiệu mùa hè đến, thì khi ấy
cảnh vật lại trở nên buồn bả, thể hiện cả sự chia li. Tác giả đã so sánh hình ảnh “ve
thêm sầu” với “dung nhan” của người con gái để nói lên sự hữu hạn của thời gian,
còn đời người thì ngắn ngủi. Đặc biệt là tuổi xuân của người con gái qua đi không
bao giờ trở lại.
Qua khảo sát trên, ta thấy Xuân Diệu đã sử dụng các kiểu so sánh tu từ trong
thơ với tầng số tương đối cao nhằm tôn lên được hết những tầng ý nghĩa, với ý
2.3 HÌNH ẢNH SO SÁNH TRONG HAI TẬP
tưởng rất táo bạo, rất Xuân Diệu.
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA XUÂN DIỆU
Cũng như cấu trúc so sánh, hình thức so sánh, hình ảnh so sánh có tác dụng
quan trọng quyết định cho cách nhìn, cách đánh giá, tình cảm của những người đã
tạo ra chúng. Đó là yếu tố quan trọng làm nên nét đặc trưng về nội dung lẫn hình
thức trong thơ Xuân Diệu. Nhà thơ luôn cảm nhận, suy nghĩ những vấn đề của cuộc
sống bằng những chất liệu phong phú, đa dạng dù cho tâm trạng vui hay buồn.
Với hình ảnh so sánh tu từ trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió của nhà
thơ Xuân Diệu, người đọc sẽ nhận được những nét tương đồng rất độc đáo nhờ vào
trí tưởng tượng hết sức tuyệt vời của “ông hoàng thơ tình”.
Trong 173 lượt có sử dụng hình ảnh so sánh thì có thể chia ra làm 6 loại như:
hình ảnh lấy từ tự nhiên, con người, vật thể nhân tạo, thực vật, động vật, vật thể
khác. Hình ảnh lấy từ con người với những hành động trạng thái, cảm xúc, tâm
trạng thường ngày.
2.3.1 Nhóm hình ảnh tự nhiên
Hình ảnh so sánh là những hình ảnh tự nhiên được Xuân Diệu sử dụng phong
phú nhằm miêu tả, đánh giá, bộc lộ cảm xúc, tạo thêm sự gần gũi với thiên nhiên.
Người viết thống kê được hình ảnh so sánh là thiên nhiên có khoảng 55/173 lượt
chiếm 31,8%, đứng vị trí thứ nhất trong việc sử dụng hình ảnh so sánh trong thơ
Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu thường sử dụng các hình ảnh từ hiện tượng tự nhiên
như: hương, sa mạc, gió, mây, trăng, nắng,… Cụ thể ở trong một số bài thơ sau:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…
(Vì sao)
Cái sáng tạo của Xuân Diệu rất độc đáo và mới mẻ, khi so sánh “tình yêu” với
“nắng nhạt”, “mây nhè nhẹ”, “gió hiu hiu”. “Nắng nhạt” là nắng không quá gay
gắt hay nắng quá yếu, “mây nhè nhẹ” là mây trôi qua nhẹ nhàng thể hiện sự bình
yên; “gió hiu hiu” là gió đủ làm mát dễ đưa ta vào ngủ trưa ngon giấc. Từ những
hình ảnh tự nhiên đó, ta thấy thiên nhiên đã hòa hợp gắn kết vào nhau tạo ra bầu trời
tuyệt đẹp. Qua đó, diễn tả được tình yêu không thể chia cắt được, không thể tìm
hiểu nguyên nhân giống như thế giới tự nhiên: “nắng nhạt”, “mây nhè nhẹ”, “gió
hiu hiu”.
Tình yêu muôn thủa vẫn là hương
(Gửi hương cho gió)
“Hương” là mùi thơm được tiết ra từ hoa. Xuân Diệu rất độc đáo khi so sánh
“tình yêu” với “hương”. Đây là tình yêu đẹp và lãng mạn như hương thơm vậy.
Xuân Diệu hình dung hình ảnh gió- vốn là một vật thể vô hình, không cố định
và “gió” làm gì có “nước mắt”, “mồ hôi”,… để làm đối tượng cho sự liên tưởng của
mình. Sự liên tưởng độc đáo ấy diễn tả cảm xúc yêu thương và luôn quan sát mọi
vật bằng các giác quan nên mới thấy được:
Và mưa kia là nước mắt gió rơi,
Và sương ấy là mồ hôi gió rớt
(Tiếng gió)
“Gió”, “mây” gợi lên sự vô tư hồn nhiên, không bó buộc càng làm cho câu thơ
trở nên sinh động, phóng khoáng, sôi nổi hơn của “mây đưa” và “gió lượn”. Bên
cạnh đó, so sánh tu từ lấy hình ảnh so sánh là: hương, núi, trăng, nước cũng không
kém phần quan trọng, góp phần tạo nên tính hấp dẫn, độc đáo trong thơ Xuân Diệu:
Gió qua như một khách thừa lương,
Lay nắng trên mình lá loáng sương.
(Lạc quan)
Nhà thơ chắc hẳn có sự quan sát và cảm nhận rất tỉ mỉ mới có thể đưa ra sự so
sánh như thế “gió qua” như “một khách thừa lương”, thường thì khách đi đường thì
hay bị thiếu lương thực nhưng ở đây lại dư thừa. Từ đó ta có thể hình dung ra gió
như thế nào, đó cũng thể hiện tinh thần lạc quan của Xuân Diệu trước cuộc sống:
Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo…
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ.
(Thở than)
Với hình ảnh “sáng trăng” ta liên tưởng ngay đến những đêm trăng thanh chấp
cánh cho đôi tình yêu đang nở rộ của đôi trai gái , trẻ trung hẹn hò muốn kết duyên
với nhau như câu da dao:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
(Ca dao)
nhưng với Xuân Diệu thì ngược lại “lạnh lẽo” như “sáng trăng trên mặt nước thu
lờ”, chính sự so sánh hết sức táo bạo ấy đã thể hiện sự cô đơn hiu quạnh của nhà
thơ, khi trăng sáng thì nỗi buồn càng thêm nhiều, càng lạnh lẽo.
Ngoài ra, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh so sánh từ thiên nhiên khác như: mặt
trời, suối, ánh sáng, ngọc, vực thẳm,….
Tôi giấu sẵn một linh hồn hiu quạnh,
Cho nên, liền chiều đó, tôi hết vui.
Không thấy người bằng không thấy mặt trời
(Dối trá)
Nhà thơ so sánh “không thấy người bằng không thấy mặt trời”, thể hiện nỗi
nhớ trong tình yêu khi xa cách, khi không nhìn thấy người mình yêu. Từ đó, ta liên
tưởng đến hình ảnh trong ca dao:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời không thấy người thương
(Ca dao)
Từ những hình ảnh Xuân Diệu sử dụng, ta thấy nó mang vẻ đẹp của tư duy
nghệ thuật độc đáo, nó không chỉ giúp chúng ta nhìn và cảm nhận được vẻ đẹp tự
nhiên ấy mà còn giúp nhà thơ bộc lộ được tình yêu một cách tự nhiên, sâu sắc, nồng
nàn thắm thiết.
Hình ảnh hiện tượng tự nhiên là một chất liệu so sánh mà bao đời nay được các
thi nhân sử dụng rất nhiều trong sáng tác thơ văn. Họ dùng những hình ảnh: mây,
gió, sa mạc, nắng, trăng,… như những hình ảnh tượng trưng, ước lệ nhằm thể hiện
cái đẹp, cái sang trọng, độc đáo, quý phái của người xưa. Nếu trong thơ xưa hiện
tượng tự nhiên mang vẻ trang nghiêm, quý phái bao nhiêu thì hình ảnh tự nhiên
trong thơ Xuân Diệu lại giản dị, sâu sắc bấy nhiêu. Vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu là
nét đẹp đơn giản nhưng không sơ sài, sắc sảo mà không cầu kì.
2.3.2 Nhóm hình ảnh là con người
Hình ảnh so sánh là con người chiếm 17.3% với 30 lượt được sử dụng trong hai
tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió lấy từ cuộc sống thực của con người, nó gợi lên
những vẻ đẹp của sự mộc mạc, chân chất, bình dị và gần gũi với đời sống, nhận
thức của mọi tầng lớp người tiếp nhận.
Ai đem phân chất một mùi hương
Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương
(Vì sao)
Hình ảnh “thuyền ngư phủ” đã thay nhà thơ diễn tả cảnh đi đánh bắt của ngư
dân ven biển sống bằng nghề đánh bắt. Khi so sánh “giòng cảm xúc” với “thuyền
ngư phủ lạc trong sương”, tạo ra hình ảnh ngư dân cùng thuyền trở về sau bao ngày
ra khơi mờ mờ, ảo ảo đến kì diệu làm ta không nhìn thấy rõ.
Xuân Diệu liên tưởng đến nét tương đồng giữa hai đối tượng một cách bất ngờ,
thú vị, bóng bẩy nhưng rất dễ cảm nhận vì nó lấy từ con người gần gũi, thân thuộc
với đời sống con người. Từ đó cho thấy nhà thơ của chúng ta đã đi vào thơ ca rất
bình dị đồng thời cũng có chút ngông của tuổi trẻ.
Chủ nhật còn nguyên, còn trọn vẹn;
Tôi chưa tiêu mất một giờ nào.
Như đứa trẻ con ôm cái bánh,
E dè tôi muốn giữ cho lâu.
(Giờ tàn)
Xuân Diệu liên tưởng hình ảnh so sánh “như đứa trẻ con ôm cái bánh”, thể
hiện sự ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng. Đó là ước muốn đơn sơ của nhà thơ cũng
như bao người khác nhưng ước muốn đó không thể thực hiện được, bởi từ xưa đến
nay không ai có thể níu kéo hoặc giữ thời gian đứng lại được, vốn dĩ thời gian luôn
vận động và tuần hoàn.
Đôi lúc, nhà thơ còn nghĩ và liên tưởng đến những hình ảnh: đứa nhỏ, kẻ điên
cuồng, kẻ bơ vơ, cô khách,… đó là những thân phận bơ vơ không nơi nương tựa,
không làm chủ được bản thân mình, càng không có lối đi riêng cho cuộc đời.
Ta buồn riêng tây như đứa nhỏ
Mẹ bỏ đi, vò võ kiếm đồ chơi
(Riêng tây)
Nỗi buồn thì không ai giống ai và nỗi buồn của ta chỉ có mình ta hiểu. Vì thế,
Xuân Diệu mới có sự sáng tạo khi so sánh “ta buồn riêng tây” với “đứa nhỏ”. Khi
bị bỏ bơ vơ chỉ chơi một mình, phải tự mình kiếm đồ chơi của đứa nhỏ giống như
nỗi buồn của nhà thơ hiện giờ không biết chia sẻ, tâm sự cùng ai. Xuân Diệu mượn
hình ảnh ngây thơ, hồn nhiên để thể hiện cái buồn của mình:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
Tôi cứ bắt lòng tôi đau đớn mãi,
Đau vô duyên, đau không thể làm gì.
(Thở than)
Xuân Diệu rất táo bạo khi so sánh mình với “một kẻ điên cuồng”, vì chỉ khi là
kẻ điên mới có thể vô tư thể hiện những gì mà bình thường không thể nói được. Chỉ
có như thế mới giải bày được tình yêu đơn phương của mình.
Bên cạnh đó, nhà thơ còn không quên mơ ước khi là thi nhân và cũng ngộ ra
được cái hay của thi nhân “hát nỗi buồn vô cớ”, cả cái khổ của thi nhân khi làm thơ
vì “thơ không làm bớt khổ”:
Anh hãy là thi nhân
Hát nỗi buồn vô cớ:
- Tôi không biết làm thơ
Thơ không làm bớt khổ.
(Chàng sầu)
Thi nhân là một hình ảnh rất tài giỏi sáng tác ra những thi phẩm. Ở đây, nhà thơ
muốn là thi nhân nhưng chỉ muốn hát nỗi buồn mà là “nỗi buồn vô cớ”, nỗi buồn
không có lí do chính đáng. Xuân Diệu so sánh mình như thi nhân chỉ hát để giải sầu
vơi đi nỗi buồn, chứ không làm thơ vì “thơ không làm bớt khổ”.
Nhà thơ lấy hình ảnh so sánh từ con người với những hình ảnh có từ đời sống
hàng ngày như: đứa trẻ, kẻ điên, khách, đứa mồ côi,… càng làm cho người đọc
thấm đẫm nước mắt trước sự thật không thể chối từ mà cuộc sống mang đến cho
họ.không có cách nào giúp cho họ có được tình thương thật sự, cách tốt nhất là tự
an ủi mình “ta được yêu đấy chứ”.
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi,
Nhặc nụ cười của thiên hạ, than ôi
Ta tự nhủ: “ta được yêu đấy chứ”.
(Dối trá)
Hình ảnh đáng thương của những đứa trẻ khi không còn nhận được sự quan
tâm từ chính gia đình mình, nay đã đi vào trong thơ Xuân Diệu. Khi ông có cách so
sánh ngộ ngĩnh mà đầy triết lí “lòng cô đơn” với “đứa mồ côi”, một khi đã mồ côi
rồi thì làm sao không khỏi cô đơn. Qua đó, câu thơ trên cũng cho ta thấy được sự
trống trải và nỗi cô đơn của nhà thơ.
Sự sáng tạo rất mới mẻ của Xuân Diệu, khi đưa hình ảnh rất mộc mạc mà bình
dị của con người vào trong so sánh tu từ đã góp phần làm phong phú thêm hình ảnh
cũng như về đề tài sáng tác trong thơ ca. Đó cũng là một trong những phong cách
rất riêng của Xuân Diệu khi sáng tác, bởi ông nhìn mọi vật xung quanh bằng tất cả
các giác quan.
2.3.3 Nhóm hình ảnh là thực vật
Qua khảo sát hình ảnh thực vật cũng chiếm một số lượng đáng kể trong hình
ảnh so sánh của thơ Xuân Diệu, có 17 câu chiếm 9,8%. Hình ảnh thực vật được sử
dụng nhiều trong thơ văn vì nó biểu tượng cho cái đẹp, cái tinh túy thuần khuyết
nhất, cái sức mạnh tiềm tàng của một tâm hồn thơ. Khảo sát So sánh tu từ trong thơ
Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió ta thường bắt gặp những
hình ảnh thực vật như: hoa, lá, dừa, liễu, sậy, trái,…. Hình ảnh nào cũng mang một
vài đặc tính để biểu đạt cho những ý nghĩa nhất định.
Ý tôi là những cành trinh nữ
(Ý thoáng)
Nhà thơ so sánh “ý” mình như “những cành trinh nữ”, thể hiện mong muốn
được quan tâm, che chở. Bởi “trinh nữ” là hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp thuần
túy, quý phái của phái đẹp cũng thể hiện sự yếu ớt cần sự quan tâm, bảo vệ giúp đỡ
của phái mạnh:
Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài, như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm.
(Huyền diệu)
Khi nhà thơ so sánh tiếng trái tim “run” như “chiếc lá”. “Chiếc lá” vẫn ở trên
cành mới có thể gặp gió thổi run. Ở đây nhà thơ so sánh “trái tim” run sau khi nghe
khúc nhạc với “chiếc lá” run sau khi gió đã im, để thể hiện sức mạnh huyền diệu từ
khúc nhạc và sức mạnh từ “chiếc lá” tự run không cần gió thổi.
Vừa mới khi mai tôi cảm thấy
Trong tay ôm một bó hoa cười.
Ngọn gió thời gian không ngớt thổi:
Giờ tàn như những cánh hoa rơi…
(Giờ tàn)
Nhà thơ mượn hình ảnh “cánh hoa” sáng tươi, đẹp chiều tàn để chỉ cảm xúc
buồn vui lẫn lộn của con người. Từ đó, có cái nhìn thực tế về tâm trạng con người
thay đổi giống như “cánh hoa rơi”.
Hình ảnh so sánh là thực vật đôi khi được đi chung với hình ảnh khác. Từ đó,
cho ta thấy trí liên tưởng, tưởng tượng của nhà thơ vô cùng phong phú.
Mai yếu đuối, sao bằng thông mạnh mẽ?
Dáng yêu kiều, sao bằng vẻ hùng anh
Những chàng trai đương sức lực tươi xanh,
Bước vạm vỡ như là đi chinh phục.
(Đẹp)
Hình ảnh thực vật “mai” tượng trưng cho phái đẹp, cái đẹp, sự mềm mại, sống
ở những nơi có điều kiện tốt và cần chăm sóc, “thông” tượng trưng cho phái mạnh,
sự cứng cỏi có thể sống ở những nơi rừng núi hoang vu. Từ đó, Xuân Diệu liên
tưởng so sánh với hình ảnh người “phụ nữ” với “dáng yêu kiều” và “đàn ông” với
“vẻ hùng anh”. Hình ảnh người con trai trong tuổi thanh xuân thể hiện sự dũng cảm,
oai phong rất dễ lấy lòng các cô gái.
Thực vật cũng góp phần rất quan trọng trong đời sống của chúng ta, nó không
chỉ cung cấp các dưỡng chất nuôi cơ thể phát triển tốt. Mà khi nó đi vào trong
vănchương thì cũng rất được rất nhiều thi sĩ chú ý đến. Từ đó, thực vật được quan
tâm nhiều hơn và xuất hiện rất nhiều trong sáng tác của các nhà văn nhà thơ. Đặc
biệt là đến với Xuân Diệu, thế giới thực vật trở nên phong phú và đa dạng hơn nhờ
vào tài sáng tạo, vận dụng so sánh tu từ trong thơ.
2.3.4 Nhóm hình ảnh là vật thể nhân tạo
Đó là những vật thể nhân tạo được con người sáng tạo ra trong quá trình phát
triển để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. So sánh tu từ lấy hình ảnh từ vật
thể nhân tạo gợi cho người đọc thấy được sự tìm tòi, sáng tạo của con người dựa
trên những nguyên liệu, vật liệu sẵn có để phát minh ra những vật thể cần sử dụng
phục vụ cho nhu cầu đi cũng như ở, làm đẹp, kiếm sống cũng như giải trí,…. hình
ảnh này chiếm 14,5% tương đương với 25 câu. Xuân Diệu đã có những lúc liên
tưởng độc đáo và tuyệt vời như:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tủy.
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.
(Huyền diệu)
Xuân Diệu so sánh “say người như rượu tối tân hôn” cho thấy sức hấp dẫn, lôi
cuốn của người phụ nữ, “rượu” được người ta chế tạo để sử dụng như một thú vui
tao nhã, bên cạnh đó rượu cũng là một phương tiện để giải sầu. Ở đây nhà thơ đưa
vào trong thơ hình ảnh “rượu tối tân hôn” để thể hiện niềm vui khi được cùng người
mình yêu thành duyên như mơ ước. Đó là kết quả của cả một chặng đường dài, sự
bền chặc, lòng chung thủy son sắc trong tình yêu.
Nhưng có lúc nhà thơ lại rơi vào trạng thái bi ai muốn được thay đổi nhưng lại
rơi vào bế tắc của cuộc sống thực tại mà con người đã rất trăn trở khi đối mặt. Đó là
cảnh nghèo khó cơ cực trong cuộc sống của nhân dân ta ở những năm 1938 của
người dân Việt Nam như: chim, ngựa, nai,…. cụ thể như sau:
Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp
Như túp nhà không bốn vách xiêu
(Bên ấy bên này)
Hình ảnh “túp nhà ” thể hiện sự nghèo khó, giản dị nhưng ở đây lại là “túp nhà
không bốn vách xiêu” càng làm tăng lên cái nghèo, rất nghèo của cuộc sống nơi đây
vào giai đoạn này.
Cả cảnh bi ai, mất lòng tin vào tình yêu của nhà thơ, khi so sánh “tình yêu” với
quán trọ bên đường. Tình yêu là tình cảm quý giá nhất của tuổi trẻ ai cũng muốn
yêu và được yêu, trong khi đó “quán trọ bên đường” là nơi khách có thể đến ở trọ
lâu dài hoặc chỉ ở lại vài phút rồi cũng sẽ đi. Xuân Diệu còn cho ta thấy được sự
tạm bợ của tình yêu, nó không chung thủy gắn kết mà tình yêu chỉ là những giây
phút dừng chân ngắn ngủi như quán trọ bên đường không có gì chắc chắn bền chặt.
Mà tình yêu như quán trọ bên đường.
(Chỉ ở lòng ta)
Người Việt Nam vốn cần cù, siêng năng và sáng tạo nên họ đã dùng óc sáng
tạo của mình tạo ra những vật phẩm phục vụ cho đời sống. Không chỉ như thế,
những vật thể nhân tạo ấy thu hút được rất nhiều người ở các nơi khác cũng như thế
giới đến tham quan và học hỏi. Khi đi vào thế giới văn chương đã tạo nên một đề tài
thu hút rất nhiều nhà văn nhà thơ. Đặc biệt là Xuân Diệu đã có sáng tạo rất mới khi
đưa những hình ảnh vật thể nhân tạo này vào trong so sánh tu từ.
2.3.5 Nhóm hình ảnh là động vật
Lãnh thổ Việt Nam nằm trên thềm lục địa, có hình chữ S, thuộc vùng cận xích
đạo nóng ẩm mưa nhiều. Chính điều này đã làm cho nước ta phong phú về chủng
loại, giàu có về sản lượng động, thực vật. Vì thế mà động vật đi vào thơ xưa một
cách dễ dàng, đặc biệt là ca dao, dân ca. Việc đưa động vật vào thơ không chỉ làm
cho câu thơ gần gũi, giản dị, giàu tính gợi hình, mang phong cách đặc thù Việt Nam
mà còn ca ngợi được sự trù phú và đa dạng về chủng loại động vật của quê hương.
Cụ thể, hình ảnh so sánh là động vật có 13/173 câu chiếm 7,5% tổng số các câu
có sử dụng biện pháp so sánh tu từ. Xuân Diệu đã kế thừa và phát huy nền văn hóa
và văn chương của dân tộc nên trong thơ ông so sánh tu từ có hình ảnh là động vật
được sử dụng tạo nên những vần thơ hay. Nhìn chung hình ảnh so sánh là động vật
trong thơ Xuân Diệu là những loài quen thuộc, gần gũi với đời sống sinh hoạt hằng
ngày:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới,
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối.
(Khi chiều giăng lưới)
Xuân Diệu ví mình giống như “con nai bị chiều đánh lưới” để thể hiện sự bơ
vơ lạc lõng của nhà thơ, ông không biết đi đâu khi nỗi sầu đang vây quanh, bóng
tối phủ kín, một mình bơ vơ vô định.
Nói cùng ta nghìn thuở mộng hoa hương;
Và lòng ta như ngựa trẻ không cương.
(Mênh mông)
Hình ảnh “ngựa trẻ không cương” thể hiện ngựa không chịu sự ràng buộc, gò
bó, không chịu sự dẫn dắt của con người. Qua đó, thể hiện ý muốn, khát vọng tự do
của nhà thơ.
Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim;
Dưới nhánh, không còn một chút đêm:
(Lạc quan)
Câu thơ trên đã thể hiện được ý muốn nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người là
niềm vui trong cuộc sống. Khi so sánh “vườn cười bằng bướm, hót bằng chim”, đã
thể hiện được cuộc sống sôi động tràn trề sức sống với đủ âm thanh, sắc màu. Đó là
tình yêu cuộc sống rất mãnh liệt của nhà thơ Xuân Diệu.
Xuân Diệu đã sử dụng hình ảnh so sánh mình như “con chim đến từ núi lạ”,
“ngứa cổ hát chơi”, để thể hiện sự mới mẻ và lạ lẫm đối với tất cả mọi thứ khi mới
bước vào nền thơ. Đó là hình ảnh so sánh độc đáo chưa ai so sánh, Xuân Diệu bộc
lộ được cái cảm xúc, sự tự do không bị ràng buộc bởi những quy định, quy luật của
nơi mình mới đến:
Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngứa cổ hát chơi,
Khi gió sớm vào reo um khóm lá,
Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời.
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Cũng như so sánh tu từ lấy hình ảnh từ các loại khác, thế giới động vật đi vào
so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu cũng hết sức phong phú, đa dạng và quan trọng
hơn nữa là bằng trí tuệ của mình cùng sự liên tưởng kì diệu đã nắm bắt được nét
tương đồng giữa các đối tượng mà không phải ai cũng nhìn thấy được.
2.3.6 Nhóm hình ảnh là các vật thể khác
Qua khảo sát có 33/173 câu chiếm 19,1% trong tổng số câu có chứa hình ảnh
so sánh. Trong thơ Xuân Diệu ngoài những hình ảnh quen thuộc như: tự nhiên, con
người, động vật, thực vật,… Xuân Diệu còn sử dụng các vật thể khác cụ thể như:
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt,
Tưởng trăng tàn, hoa tạn với hồn tiêu
(Yêu)
Xuân Diệu sử dụng hai vế đối lập nhau A “phút gần gũi” với B “giờ chia biệt”,
để thấy được sự mong muốn trong tình yêu, đồng thời thể hiện khát vọng được yêu
quá mãnh liệt của nhà thơ, vì yêu quá nên khi ở gần đó nhưng cũng thấy xa “phút
gần gũi cũng như giờ chia biệt”.
Những hình ảnh này rất phong phú và đa dạng với sự suy nghĩ hết sức dễ
thương, độc đáo, thật hồn nhiên, dí dỏm. Bên cạnh đó, còn có những lời thơ thật sâu
sắc, nhà thơ đã dồn hết sự bực tức vào câu thơ:
Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa
Chết không gian, khô héo cả hồn cao!
(Hè)
Khi nhắc đến “tiếng gà” thì người ta sẽ biết rằng đó là niềm báo của hừng đông
của ngày mới với biết bao hi vọng về những gì tốt đẹp. Nhưng đối với Xuân Diệu
“tiếng gà gáy” thể hiện nỗi buồn da diếc, nỗi buồn đau đớn “như máu ứa”. Chết cả
không gian, khô héo cả tâm hồn.
Thơ Xuân Diệu có điểm chung là lấy hình ảnh để so sánh nhằm bộc lộ cảm xúc
trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Tuy nhiên, nó cũng có những hình ảnh độc đáo
riêng xuất phát từ cách nhìn, cách nghĩ, cách nói và cả cách diễn đạt riêng của “ông
hoàng thơ tình”.
Hầu hết những hình ảnh trong thơ là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi của
cuộc sống hàng ngày. Bởi nhờ vào sự sáng tạo ngôn từ rất đặc biệt của Xuân
Diệu. Nhờ so sánh tu từ mà nhà thơ đã thể hiện được sự quan sát, liên tưởng, giản dị
thật độc đáo, mở ra cho người đọc những nhận thức mới.
Chương 3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HÌNH
THỨC SO SÁNH TU TỪ TRONG HAI TẬP
THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
3.1 SỬ DỤNG HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ ĐỂ THỂ HIỆN TÌNH
YÊU CUỘC SỐNG VÀ THIÊN NHIÊN
Khi nói về Xuân Diệu có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: “Nguyễn Đăng Mạnh
thấy nét riêng của thơ Xuân Diệu là “niềm thiết tha giao cảm với đời”. Còn Nguyễn
Quốc Túy nhận xét: “Nhà thơ trữ tình cảm xúc, tràn đầy cảm giác và luôn “thức
nhọn giác quan”.” [15; tr.140]. Sở dĩ các nhà nghiên cứu có nhận xét như vậy là do
trong thơ Xuân Diệu có một tình yêu cuộc sống và thiên nhiên rất mãnh liệt. Cái
sức hút gây ấn tượng mạnh của người đọc với thơ ông là nhờ vào tài sáng tạo ngôn
từ rất táo bạo và cách sử dụng thủ pháp so sánh tu từ một cách điêu luyện.
3.1.1 Thể hiện tình yêu cuộc sống
(cid:4) Khát vọng sống mãnh liệt
Xuân Diệu tự ví mình như “con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi” khi gió
sớm, lúc trăng khuya. Nhà thơ đã so sánh “mình” với “con chim đến từ núi lạ” để
thể hiện sự vô tư, khi sống trong môi trường mới không bị bó buộc bởi những cái
quy luật khắc nghiệt nơi chốn cũ. Qua đó, nhà thơ cũng thể hiện quan niệm sáng tác
của mình không phụ thuộc vào những cái niêm, cái luật của thơ ca xưa.
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hát chơi
Khi gió sớm vào reo um khóm lá
Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Xuân Diệu so sánh mình như “con chim đến từ núi lạ” để mặc sức tung bay,
không bị bó buộc bởi những quy luật lạ lùng. “Con chim” ấy không mong vì tiếng
hót của mình mà hoa nở, không mong vì tiếng hót của mình mà trái chin. Nhưng
nguyện thề rằng đó phải là tiếng hót tha thiết, nồng nàn, đến độ có thể vỡ cổ, có thể
trào mau. Có lẽ vì tha thiết đến nhường ấy mà tiếng hót ấy đã đọng lại được trong
bầu trời thi ca Việt Nam, tạo được cung bậc riêng, một giọng điệu riêng, càng nghe
càng lảnh lót, càng nghĩ càng đắm say. Đó là tiếng lòng của một khát vọng sống
mãnh liệt. Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt
chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm
cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quý t, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của
mình”.[19;tr.105]
Dường như không có một ai lại không nói đến “nguồn sống dào dạt”, “lòng
say mê yêu đời”, độ “nồng nàn, tha thiết”. Chính khát vọng sống mãnh liệt này đã
mang đến cho thơ Xuân Diệu một chất trữ tình quyến rũ lạ lùng.
Trong thơ xưa, người ta hay triết lí về: sống, chết, mất, còn, danh, lợi…. nhưng
ít ai đưa lòng ham sống làm một nội dung trữ tình chính yếu. Với quan niệm “sống
gửi, thác về”, người ta ung dung, bình thản trong sự vần xoay của vũ trụ, trong
“chớp bóng” của đời người. Thậm chí nhiều khi còn đưa chữ “nhàn”, đưa thú tiêu
khiển ra để ngợi ca. Bao nhiêu bậc quân tử đã từng bộc lộ trong thơ một nỗi lòng
hằng mến nếp nhà thông, một ngõ trúc mà ngại chen nơi cửa mận, tường đào.
Với Xuân Diệu, lòng ham sống được bộc lộ một cách tha thiết, cuồng nhiệt,
nếu không nói là đã trở thành nội dung chính, một cảm hứng chủ đạo của thơ ông.
Ngay từ bài thơ đầu tiên của tập thơ đầu tiên ông đã cho thấy bao nhiêu khát khao
của lòng ham sống. Ông ước được “ru với giơ”, được “mơ theo trăng”, “vơ vẫn
cùng mây”, “ràng buộc với muôn dây”, được “chia sẽ với trăm tình yêu mến”. Bao
nhiêu trạng thái của cảm xúc trong thơ ông:
Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn rang buộc bởi muôn dây
Hay chia sẽ bởi trăm tình yêu mến
(Cảm xúc)
Chưa hết, ông tuyên bố rằng được sống là nhất. Ngay ở bài mở đầu tập Gửi
hương cho gió, ông đã viết như vậy:
Nhưng nghĩ lại: sống vẫn là hơn hết;
Gần hơn xa, yêu mến ngọt ngào thay!
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Với sự thành công khi đưa so sánh tu từ vào trong thơ và chính so sánh đã làm
cho câu thơ trở nên cuốn hút, đặc biệt với từ so sánh “là” càng khẳng định “sống
vẫn là hơn hết”. Đưa lòng ham sống thành một nội dung trữ tình, thơ Xuân Diệu đã
thể hiện sự sống như một niềm mê say. Nói khác đi, lòng ham sống trong cảm xúc
thơ của ông đã trở thành lòng “say sống”. Thơ ông rất nhiều cung bậc để diễn tả
niềm say mê ấy. Có thể nói thế giới thơ Xuân Diệu là thế giới của sự sống tràn trề,
mạnh mẽ, hăng say và đầy rạo rực. Thậm chí mạnh mẽ đến mức điên cuồng:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
(Thở than)
Khi nhắc đến hình ảnh “điên cuồng” là người ta hay liên tưởng đến trạng thái
tinh thần không bình thường. Nhưng đối với Xuân Diệu thì không như thế mà đó là
một khát vọng sống mãnh liệt đến mức “điên cuồng”, cùng với việc so sánh mình
“là một kẻ điên cuồng” với từ so sánh “là” càng khẳng định sức sống mãnh liệt của
một tâm hồn thơ tràn đầy sức sống.
Xuân Diệu ví “lòng” mình như “một cơn mưa lũ”, để cho thấy khát vọng sống
mãnh liệt, khi “mưa lũ” chảy xiếc có thể mang theo tất cả những gì mà nó gặp trên
đường với từ so sánh “là” càng khẳng định mạnh mẽ khát vọng sống mãnh liệt của
nhà thơ hơn:
Lòng ta là một cơn mưa lũ
(Nước đổ lá khoai)
cùng với hình ảnh “ngựa trẻ không cương” thể hiện sự tự do, “ngựa” không chịu sự
dẫn dắt của con người. Đồng thời, đó cũng là ước muốn được tự do thể hiện mình,
tự do thể hiện khát vọng sống:
Nói cùng ta nghìn thuở mộng hoa hương
Và lòng ta như ngựa trẻ không cương
(Mênh mông)
Tất cả những ví von ấy đều cho thấy đó là nỗi lòng của một con người lúc nào
cũng hăm hở, lúc nào cũng rạo rực; nỗi lòng của một con người khát sống và say
sống rất mãnh liệt. Hình như ở ông không bao giờ nguôi nỗi khát thèm được sống.
Trong thơ mình và hình như cả trong đời mình nữa, Xuân Diệu bao giờ cũng
thể hiện một chất sống mãnh liệt, dào dạt như thế. Xuân Diệu không chịu được sự
trung bình, đều đều, phẳng lặng, mà với ông:
Thà một chút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Đây là hai câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu. Không phải là hai câu thơ của sự
hưởng lạc, sống gấp mà là của sự ham sống, say sống cũng giống như cái chói
chang của ánh sáng, thà bùng lên “huy hoàng” mà tắt, còn hơn cái “le lói”, của trăm
năm.
Thế giới của Xuân Diệu là thế giới động, rạo rực, không đứng yên, sự sống
tuôn chảy dạt dào. Đối với Xuân Diệu lòng ham sống là một nhiệt tình phủ nhận cái
chết, phủ nhận cái nhạt nhẽo tầm thường vô vị trong cuộc đời. Cùng với thành công
khi sử dụng so sánh tu từ trong thơ đã tạo nên bức tranh vẽ đầy màu sắc. Vì thế
khát vọng sống mãnh liệt đến nhường ấy mà ta nhận ra trong thơ ông dù cho có
buồn, cô đơn.
(cid:4) Khát vọng sống được giao cảm với đời
Thơ Xuân Diệu có cái rạo rực của lòng khát khao được giao cảm với cuộc đời.
Mà cái khao khát ấy nói như Thế Lữ, còn gì làm cho “đầy đủ hơn là Xuân và Tình.
Cho nên Xuân Diệu đắm say với tình yêu và hăng hai với mùa xuân”. Sau này Lê
Đình Kỵ cũng nhận xét như vậy. Ông cho rằng lòng say mê yêu đời của Xuân Diệu
“đã trút hết vào tình yêu và thiên nhiên”. Nói khác đi, tình yêu trong thơ Xuân Diệu
là biểu hiện tập trung nhất, mãnh liệt nhất của lòng ham sống. Đây cũng chính là
một nội dung trữ tình quan trọng trong thơ ông.
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu mang một sắc thái khác, một quan niệm khác.
Đó là tình yêu của con người sống giữa đời chứ không phải tình yêu đạo đức trong
sách vở. Đó là thứ tình yêu vừa có cái thanh cao của tâm hồn, vừa có cái ham muốn
tột cùng của tuổi trẻ. Đó là thứ tình yêu rất trần thế mà không bị trần tục hóa:
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh
Và các môi hoa như sắp nói:
Ái tình đẹp tợ chúng em đây!
(Rạo rực)
Một tâm hồn luôn rạo rực với tình yêu, với khát vọng được giao cảm với đời ấy
là cái tuổi “mười sáu”, là cái tuổi “má hồng phơn phớt, mát long lanh”.
Xuân Diệu là người đưa cảm xúc thực tế vào thơ một cách đầy tinh tế. Trong
thơ cổ chưa có cảm giác này. Nhiều lắm như Nguyễn Du cũng chỉ ngắm nhìn: “dày
dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Ngay cả Hồ Xuân Hương cũng chỉ dừng lại ở
những hình ảnh mang tính chất “ám tượng”.
Chỉ đến với Xuân Diệu thì cảm xúc đời thường trong tình yêu mới được đưa
vào một cách táo bạo mà cũng đầy tinh tế. Cảm xúc trong tình yêu Xuân Diệu là
cảm xúc của một tâm hồn “mang sắc lòng tươi quá”, nhưng lại không thô tục. Ông
đã diễn tả bao nhiêu sắc độ của tình yêu với những trạng thái mạnh mẽ như muốn
“ôm”, “riết”, “cắn”,“say”… mà không gợi lên sự sống sượng của xác thịt, trái lại
chỉ gợi cảm giác nồng nàn, tha thiết của tình yêu, nhà thơ so sánh một khái niêm
trừu tượng về thiên nhiên “tháng giêng” với “cặp môi gần” của tình yêu, của cảm
xúc da thịt, của vị giác “ngon” để thể hiện khát vọng giao cảm với đời:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
(Vội vàng)
Cảm xúc tình yêu trong thơ Xuân Diệu rất đời mà cũng rất thơ. Nó không “thơ
quá” để đến mức chỉ là cảm xúc sách vở, nhưng cũng không đến mức “đời quá” để
chỉ cảm giác xác thịt. Nó hiện ra với tất cả sự cao cả và trần thế của nó, là biểu hiện
của một khát vọng sống, khát vọng giao cảm chứ không phải là một cảm giác “xác
thịt” thuần túy của nó:
Tôi không biết, không biết gì nữa cả,
Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà thôi.
(Tặng thơ)
Con người chỉ yêu nhiều “là tôi biết mà thôi” ấy luôn luôn khát khao sống,
cũng luôn khát khao được giao cảm với đời khi tự ví mình là “cây kim nhỏ bé” để
được giao cảm, hòa quyện với đời:
Tôi là cây kim nhỏ bé
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm xúc)
“Cây kim” ở đây nhỏ bé quá trước bao la của đất trời. Nó buộc phải chịu đựng
sức hút từ muôn mặt của “nam châm”. Nhà thơ sử dụng thủ pháp so sánh tu từ với
từ so sánh “là” càng khẳng định mạnh mẽ khát khao được giao cảm với đời. “Cây
kim Xuân Diệu” thật nhỏ bé trong không gian nhưng vẫn là một tâm hồn mở ra trên
mọi hướng để chờ đợi, để đón nhận tình yêu như một lẽ tự nhiên của sự giao hòa
giữa đất trời.
Đời người ai cũng muốn hòa nhập vào cuộc sống xung quanh để hưởng thụ
những gì mà thiên nhiên cũng như cuộc sống đã ban tặng. Nhưng đối với
XuânDiệu, đó là một khát vọng rất táo bạo, rất trần tục nhưng vẫn trong sáng tinh
tế. Đó là nhờ vào thủ pháp so sánh tu từ đã góp phần làm nên thành công ấy trong
tâm hồn thơ Xuân Diệu.
(cid:4) Khát vọng sống gấp
Xuân Diệu luôn khao khát sống và giao cảm với đời. Nhưng chính ông đã hiểu
rõ là sự sống mong manh không bền vững và là nguyên cớ chính cho sự trôi chảy
của thời gian. Nên Xuân Diệu “vội vàng” và “giục giã”. Vấn đề thời gian trong thơ
ông có ý nghĩa hệ trọng. Xuân Diệu không nhìn đời với con mắt tĩnh. Thời gian
luôn trôi chảy “thời gian không đứng đợi”. Nhiều nhà thơ thường đề cập vấn đề thời
gian như thời gian của một đời người, thời gian sinh sôi và tận cùng, thời gian của
thiên nhiên tạo vật. Xuân Diệu chủ yếu đề cập thời gian của tuổi trẻ trong yêu
đương. Đó là thời gian khát vọng sự sống biểu hiện đến vô biên và tột cùng. Đó là
thời gian của sự hưởng thụ hạnh phúc. Tất cả đều phải vội vàng, thời gian trong thơ
Xuân Diệu không tách khỏi không gian. Xuân Diệu có ý thức sâu sắc về quan hệ
giữa thời gian và không gian. Thời gian không trôi chảy mơ hồ chung chung mà
trên dòng đời, trong tình yêu lứa đôi và trong cả môi trường của thiên nhiên tạo vật,
thời gian trôi chảy một cách gấp gáp. Chính vì Xuân Diệu ý thức được sự trôi chảy
của thời gian nên ông luôn khát vọng sống gấp để hưởng thụ:
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là đời tôi cũng mất.
(Vội vàng)
Xuân Diệu ý thức được thời gian qua đi sẽ không trở lại. Ông đưa ra một cái
quy luật tất yếu của tạo hóa để so sánh với thời gian của đời người. Đó là “xuân
hết” thì “đời tôi cũng mất”.
Xuân Diệu lấy tuổi trẻ là thước đo của thời gian và tình yêu làm nội dung chủ
yếu của tuổi trẻ. Ông lo lắng và chắt chiu từng đơn vị nhỏ của thời gian để sống, để
tận hưởng niềm vui của sự sống, nên không thể nào thoát khỏi khát vọng sống gấp
gáp, hưởng thụ. Không gian trong thơ ông được cảm nhận có lúc như sương nhẹ:
Không gian như có giây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
(Chiều)
Ta hay bắt gặp cách nói “một phút” của Xuân Diệu với ý tưởng là dồn nén
nănglượng sống của cả trăm năm, của cả đời người vào một khoảnh khác bùng
cháy:
Ôi ngắn ngủi là những giờ họp mặt
Ôi vội vàng là những phút trao yêu
(Kỷ niệm)
Hay đó là khoảnh khắc “vàng” của tình yêu:
Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ
Vài giây trông khơi mối vạn ngày theo
(Yêu mến)
Xuân Diệu dồn nén sự sống vào một khoảnh khắc đến trào sôi, bùng cháy thì
khoảnh khắc ấy là vĩnh cửu, là một điểm hồng của trăm năm. Cho nên ông buộc
lòng mình lúc nào cũng dào dạt, cũng rạo rực. Cùng với sự thành công, khi đưa so
sánh tu từ vào trong sáng tác thơ. Ý thức “thời gian không đứng đợi”, về một “tuổi
trẻ chẳng hai lần thấy lại” ấy khiến cho Xuân Diệu hốt hoảng. Từ đó, ông càng có
khát vọng sống gấp gáp để hưởng thụ hết những gì mà cuộc sống đã ban tặng.
3.1.2 Thể hiện tình yêu thiên nhiên
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng của muôn đời của thi sĩ. Song nếu trong thơ cổ,
thiên nhiên chỉ thế giới của “phong, vân, tuyết,… thì trong thơ Xuân Diệu thiên
nhiên vừa mới được phát hiện, vừa giành lại quyền sống. Đó thực sự là thế giới tâm
hồn thi nhân và luôn luôn vận động theo mạch cảm xúc. Xuân Diệu rất yêu thiên
nhiên, “say đắm cảnh trời” cũng như “say đắm tình yêu”. Tâm hồn thi sĩ chan hòa
đắm đuối giữa thiên nhiên: trăng, hoa, gió, lá,… Thiên nhiên chính là sản phẩm
nghệ thuật vô giá. Bởi vậy, thiên nhiên luôn làm cho con người hấp dẫn mê say.
Nên Xuân Diệu đã có câu thơ độc đáo “phong cảnh cũng là người”.
Xuân Diệu đã xem “hương thơm, màu sắc, âm thanh tương hợp với nhau” là
phương châm sáng tạo của mình. Tất cả đều viết theo cảm hứng hòa hợp hương vị,
âm thanh, màu sắc. Tất cả đều bừng dậy sắc hương trong tương hợp với âm thanh
của thiên nhiên tạo vật và tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên bằng lối
riêng của mình. Ông nhìn thiên nhiên qua lăng kính ái ân.
(cid:4) Tình yêu cảnh vật
Thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu là một thế giới động, rạo rực, không có
đứng yên. Từ ngọn gió đến ánh trăng, từ con đường đến hàng cây… tất cả phải
động, phải bừng lên trong khát khao được sống, khát khao được giao cảm của trái
tim thi nhân.
Trong thơ Xuân Diệu hình ảnh trăng tràn ngập. Trăng góp phần tạo nên một
không gian mờ ảo thích hợp cho tình yêu đôi lứa. Trăng làm cho khung cảnh thêm
biết bao thi vị. Trăng mơ mộng, trăng hẹn hò, trăng thương nhớ:
Trăng, nguồn sương làm ước cả gió Hây
Trăng, võng rượu khiến Đêm mờ chếnh choáng
Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng
Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây
(Ca tụng)
Một vầng trăng thật đã đi qua thơ Xuân Diệu và tạo thành biết bao vầng trăng
của nghệ thuật. Trăng cũng tạo nên một không gian không kém phần lạnh lẽo:
Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết
(Buồn trăng)
Ánh trăng lạnh lẽo, choáng ngợp phù hợp với trạng thái tình yêu. Xuân Diệu là
nhà thơ có ý thức về thời gian và không gian. Thời gian trong thơ ông là thời gian
của sự sinh sôi nảy nở của sự sống và tình yêu. Xuân Diệu lấy tuổi trẻ làm thước đo
của thời gian và tình yêu làm nội dung chủ yếu của tuổi trẻ. Không gian trong thơ
được ông cảm nhận có lúc như sương nhẹ:
Không gian như có giây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
(Chiều)
Những “giây tơ” trong không gian mỗi người hình như đã có dịp cảm thấy, nó
mong manh biết bao, được thơ ghi lại thì nó còn mãi. Ánh trăng không lặng lẽ mà:
Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ
(Thở than)
Trong thế giới thơ Xuân Diệu ta cũng nhận thấy cảnh vật, con người, cảm xúc
được gợi lên từ những cảnh vật ấy. Nhưng ông không dừng lại ở “tả chân” về thế
giới. Thơ ông còn miêu tả cả ấn tượng, cả cảm giác về thế giới. Cho nên khi miêu tả
sự vật, Xuân Diệu không chú trọng miêu tả sự vật đó là gì mà chủ yếu miêu tả cảm
giác gợi lên từ sự vật, ấn tượng do sự vật để lại nhiều hơn.
Thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu là một thế giới rất động. Xuân Diệu rất nổi
bật ở những câu thơ viết về trăng. Trăng ở đây không còn là chị Hằng Nga xa vời
dương gian nữa mà là biểu tượng của cái đẹp, là nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận
của thi nhân. Thật tuyệt diệu nhưng cũng thật táo bạo:
Trăng, hoa vàng lay lắt cạnh trời mây
Trăng, đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí.
(Ca tụng)
Xuân Diệu so sánh “trăng” của thiên nhiên , của tạo hóa với “hoa vàng”, với
“đĩa ngọc” của trần thế để làm tăng lên vẻ cao quý và tinh túy của ánh trăng. Ánh
trăng của Xuân Diệu thân thương, gắn bó và gần gũi. Dù có một chút trần tục nhưng
những câu thơ viết về trăng của Xuân Diệu vẫn trong sáng.
Bài Nguyệt cầm nói về tiếng đàn hay về ánh trăng, không còn phân biệt được
nữa, tạo nên thế giới thơ riêng của Xuân Diệu:
Trăng nhập vào giây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
(Nguyệt cầm)
Sự sáng tạo rất hấp dẫn của Xuân Diệu “trăng nhập vào giây cung nguyệt
lạnh” và so sánh như “lệ ngân” của người tri kỹ sắp phải rời xa bạn tình, nhằm
hình tượng hóa ánh trăng của thiên nhiên, vũ trụ.
Có thể nói, ở tình cảm nào Xuân Diệu cũng có lời mềm mại, hoặc xán lạn đê
mê, hoặc lả lơi sung sướng, hoặc buồn bã tha thiết như tiếng thở than tận cõi sâu kín
của tân hồn. Đối với Xuân Diệu, vẻ đẹp của con người là chuẩn mực vể đẹp của thế
giới, của vũ trụ. Nhiều người phát hiện trong thơ Xuân Diệu có những cách so sánh
ngược hẳn với người xưa: thay vì ví vẻ đẹp của con người như một vẻ đẹp của thiên
nhiên, thì Xuân Diệu lại ví vẻ đẹp của thiên nhiên như một vẻ đẹp của con người:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
(Vội vàng)
Chỉ với từ “ngon” đã thấy được sự sáng tạo rất táo bạo của nhà thơ trữ tình.
“Ngon” là cảm nhận mùi vị của vị giác để thưởng thúc món ăn. Nhưng Xuân Diệu
lại dùng một khái niệm trừu tượng vốn thuộc về thời gian “tháng giêng” để so sánh
với một hình ảnh cụ thể mang tính trần tục như thế nhưng vẫn giữ nguyên vẻ tinh
khôi và phần trong sáng của câu thơ.
Đó là cái tôi trong quan hệ gắn bó với đời, được thể hiện bằng sự hòa hợp giữa
thiên với thiên nhiên, giữa thiên nhiên với hồn người. Có thể nói với phương thức
so sánh tu từ này Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca một luồng sinh khí mới: Cái tôi
yêu đời, yêu sự sống, hòa nhập với thiên nhiên, với cuộc đời.
(cid:4) Tình yêu màu sắc của thiên nhiên
Tâm hồn nhạy cảm với màu sắc, nhạy cảm với mùi hương, thế giới của cái
đẹp đẽ đã thành máu thịt của tấm lòng yêu đời, yêu thiên nhiên ấy. Tâm hồn thơ
Xuân Diệu cũng giao hòa, run rẩy với thiên nhiên:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thắm tận qua xương tủy
Âm điệu, thần tiên, thâm tận hồn
(Huyền diệu)
Với gam màu rất lạ: màu “hường” của nhạc, cùng lời thơ: “Mùi hương, âm
thanh cùng giao hòa” vừa diễn tả một trạng thái của thiên nhiên, vừa như là sự biểu
hiện một trạng thái của tâm hồn. Cảm nghe về âm thanh, về mùi hương của thiên
nhiên trong mối giao hòa gắn bó với con người. Cùng với việc vận dụng so sánh tu
từ trong thơ đã làm nên kì tích giúp Xuân Diệu tạo được một thế giới riêng của
mình, không lẫn với bất cứ nhà thơ nào khác.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên một cách ồ ạt, sống động bởi lòng khát khao được
giao cảm với đời của thi sĩ rất mãnh liệt. Đó là nhờ vào tâm hồn đầy cảm xúc của
thi sĩ với sự gợi yêu hay khát vọng sống và yêu như được gửi gắm vào thiên nhiên,
tất cả như hòa quyện với nhau cùng với những gam màu biết nói và biết kêu không
còn phân biệt nữa:
Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu
(Nụ cười xuân)
Xuân Diệu đã tạo được sự giao hòa giữa màu sắc và âm thanh khi màu hoa như
muốn cất tiếng lên nói. Linh hoạt mà mạnh mẽ khi nói lên niềm vui lạc quan
trong bản hợp tấu nhỏ, có ánh sáng, có âm thanh:
Vườn cười bằng bướm hót bằng chim
Dưới nhánh không còn một chút đêm
Những tiếng tung hô bằng ánh sáng
Ca đời hưng phục trẻ trung thêm.
(Lạc quan)
Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu cũng xôn xao, rạo rực, tràn đầy cảm xúc và
đa tình như kẻ đang yêu và màu sắc cũng biết đi “theo nắng nhạt”:
Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ
Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình
Và như màu theo nắng nhạt, như hương
Theo gió mất, tình người đà tản mác.
(Dối trá)
Bên cạnh đó, hệ thống màu sắc trong thơ Xuân Diệu cũng thật phong phú. Thơ
ông có những gam màu tự nhiên như:
Trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết
Trong suốt không gian, tịch mịch mờ.
(Buồn trăng)
Đâu đó cũng thấp thoáng những sắc màu như trong thơ cổ nơi “núi biếc”:
Êm êm núi biếc xinh như ngọc
Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà.
(Núi xa)
Có thể nói, thế giới màu sắc của Xuân Diệu đa dạng, phong phú có những gam
màu thực, cũng có những màu hư, những màu cảm xúc… Nói chung khuynh hướng
dùng màu của nhà thơ là theo khuynh hướng cá biệt hóa. Điều này góp phần tạo nên
thế giới “đa sắc” trong thơ, kết hợp với việc vận dụng biện pháp so sánh tu từ càng
3.2 SO SÁNH TU TỪ THỂ HIỆN NỖI BUỒN
làm tăng lên nét độc đáo trong thơ ông.
Xuân Diệu là một nhà “thi sĩ” trong các nhà thơ hiện đại. Bởi khuynh hướng
lãng mạn thiết tha với cuộc đời, với thiên nhiên, và cả tình yêu đôi lứa. Nhưng bên
cạnh đó, ông cũng không tránh khỏi được tình trạng chung của phong trào thơ lúc
bấy giờ đó là nỗi buồn. Cái buồn của sự cô đơn và hơn bao giờ hết là buồn vì thời
cuộc lúc bấy giờ.
Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 tuy không ảo não thê thiết
như Huy Cận, không lâm vào bi kịch số phận đớn đau như Hàn Mặc Tử,... nhưng
vẫn nặng nỗi buồn: buồn khi nhìn ra rặng liễu đìu hiu, buồn khi chiều buông lưới,
buồn khi thu đến, buồn khi xuân đi, buồn khi gió sớm bay về, buồn khi viễn khách
đi, buồn cùng trăng, sầu cùng kỹ nữ, buồn có cớ và buồn vô cớ... Đâu đâu cũng thấy
nhớ nhung, thương tiếc một cái gì “bình rơi gương vỡ, rụng cải rơi kim”, một cái gì
cứ ám vào như một thứ bản mệnh của văn thơ.
3.3.1 So sánh tu từ thể hiện nỗi buồn cô đơn
(cid:4) Thể hiện nỗi buồn trong tình yêu
Xuân Diệu bắt đầu từ cái đáng yêu của tình yêu tin cậy và lạc quan ban đầu với
cuộc sống và dừng lại ở cái tôi trăn trở xót xa, chưa tự ra khỏi được mình. Bên cạnh
một tình yêu đẹp, tình yêu say đắm với hương thơm và vị ngọt của hoa, không gian
huyền diệu của trăng thì cũng có không ít người phải niếm trải vị đắng trong tình
yêu. Khi thất vọng cả không gian ngập những lời dối trá:
Người tưởng buông chỉ đôi tiếng hẹn hò
Tôi hưởng ứng bằng vạn lời say đắm
(Dối trá)
Tình yêu vốn được xem là một phần của lẽ sống con người. Bên cạnh niềm vui
của một tình yêu đẹp thì cũng có nỗi buồn của những con người yêu mà không được
người mình yêu đáp trả lại. Đó là nỗi đau tột cùng của sự sống trong tâm hồn của
những người đang yêu và chính so sánh tu từ đã khắc họa thành công những hình
ảnh đau khổ của tình yêu đơn phương.
Khi càng ham sống càng mong được chia sẽ, mong được cảm thông xóa bớt
khoảng cách. Ông như muốn ôm tất cả vào vòng tay của mình cả đất trời, cả sự
sống. Đồng thời ông cũng như muốn tan ra, hòa vào đất trời như hoa kia “gửi hương
cho gió” vậy. Xuân Diệu tự ví mình như “cây kim nhỏ bé”, “mà vạn vật là những
thỏi nam châm”. Khát khao được hút vào vạn vật cũng là khát khao xóa bớt khoảng
cách. Dù mộng tưởng quá nhiều vào tình yêu, cuộc đời và không được đáp ứng như
mong ước cho nên nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Diệu hay thất vọng, buồn chán
và cô đơn. Đó là hệ quả tất yếu:
Thiên hạ vô tình nhận ước mơ
Nhận rồi không hiểu mộng và thơ..
Người si muôn kiếp vẫn là hoa núi
Uống nhụy lòng tươi tặng khách hờ.
(Gửi hương cho gió)
Thế nhưng gần như là nghịch lí, hình như càng muốn gần gũi thì ông thấy càng
trở nên xa cách. Con người trở thành tiểu vũ trụ, giữa họ mãi mãi là bức tường căm
lặng của Vạn Lý Trường Thành đầy bí ẩn không thể vượt qua.
Em là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào vượt qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
(Xa cách)
Con người luôn luôn “xa cách” như vậy cho nên trong thơ Xuân Diệu thấm nỗi
cô đơn đến rợn ngợp. Khi Xuân Diệu tự ví mình là “con chim bơ vơ”, cô độc giữa
không gian bao la. Tuy nhiên, đâu đó bên trong tâm hồn nhà thơ cũng cần có tình
yêu để không còn bơ vơ, lạnh lùng:
Anh là con chim bơ vơ
Lạnh lung bay giữa gió, sương, mưa
Qua gần tổ ấm đôi chim bạn
Bỗng thấy lòng cuồng yêu ngẩn ngơ
(Muộn màng)
Hay:
Ta nằm đây như một ải quan xa
(Riêng tây)
Cái cảm giác bơ vơ, lạc bước, cô đơn ngay bên cạnh nhau nhưng như rất xa
không tài nào với tới được. Nỗi buồn ấy khiến nhà thơ thấy cảnh vật buồn ảm đạm,
khi nhà thơ bộc bạch nỗi buồn không có “em” lại rất “lạnh lẽo”, một mình nhà thơ
lạc lối. Đó là cảnh cô đơn khi yêu mà không được đáp trả lại trong tình yêu và cũng
là tâm trạng chung của tuổi trẻ, của những người đang yêu mà không được đáp trả:
Chiều góa không em lạnh lẽo sao!
Một mình anh lạc dưới thu cao
Sắc trời: sương đọng; non: mây tỏa
(Hết ngày hết tháng)
Trong bài thơ mượn cảnh núi non để mô tả sự cô đơn “hoá thạch”, cô đơn bất
biến của lòng mình được viết vào thời kỳ đầu chớm xuất hiện trạng thái cô đơn:
Êm êm núi biếc, xinh như ngọc
Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà
(Núi xa)
Không có nỗi buồn nào hơn là “nỗi nhớ nhà”, đây là tâm trạng buồn chung của
tất cả mọi người khi xa nhà, xa quê hương mặc dầu cảnh vật êm đềm, xanh, đẹp chứ
không riêng gì nhà thơ. Tột đỉnh của sự cô đơn là lúc tự mình phải đối diện với
chính lòng mình:
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em phải gặp lòng em
(Lời kỹ nữ)
Các bài thơ khác như Nguyệt cầm, Buồn trăng, Xa cách, Tương tư chiều...
cũng diễn tả nỗi cô đơn bằng độ tinh nhạy của trực cảm, bằng những nhát khía buốt
lạnh xuyên qua “ngũ quan” ngấm vào tâm khảm buốt lạnh:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
(Nguyệt cầm)
Bên cạnh việc phản ánh thực trạng tinh thần xót đau, quằn quại, cái tâm thế cô
đơn cùng cực của cái tôi cá nhân tiểu tư sản với nỗi “sầu cốt tuỷ”, thơ Xuân Diệu
tập trung vào một khía cạnh bi kịch tinh thần lớn hơn, nếu không muốn nói là lớn
nhất của đời ông: Đó là nỗi cô đơn của một bi kịch tình yêu. Khát vọng tình yêu
càng lớn, thất vọng càng nhiều. Ai có thể ngờ người lĩnh xướng số một của dàn
đồng ca tình ái 1932-1945 lại là người luôn luôn cô đơn. Trên con đường tìm kiếm
vị ngọt ái tình, ông thường xuyên phải nếm đủ mùi cay đắng... Thời kỳ đầu của Thơ
thơ, Xuân Diệu còn được an ủi bởi niềm vui hò hẹn, gặp gỡ, được cùng nhau sánh
bước dưới đêm trăng. Càng về sau, Xuân Diệu chỉ còn trơ trọi đơn chiếc một mình
để rồi cuối cùng chỉ còn đọng lại trong tâm khảm của một nỗi buồn cô đơn:
Trái tim buồn như một bãi tha ma
Gượng mỉm cười: “người quên nghĩ rằng ta
Sẽ đau đớn bởi một lời nói vội”
(Dối trá)
Sự bất lực trước những khoảng cách của con người, của cuộc đời và của chính
mình đã khiến cho con người yêu đời, yêu người ấy có khi phải thốt lên:
Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách
Mà tình yêu như quán trọ bên đường
(Chỉ ở lòng ta)
Và tự nhận mình là:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
Càng buồn, càng cô đơn, càng khiến cho nhà thơ muốn thoát ra khỏi không
gian ngột ngạc đó. Nhưng biết đi đâu khi mà “chiều tứ bề không phá nổi trùng vây”
của cuộc đời, đành làm con nai bị chiều đánh lưới, đứng sầu muộn giữa cuộc đời.
Hình ảnh “con nai bị chiều đánh lưới” ẩn chứa là tất cả những ray rứt và băn khoăn
của một tâm hồn không có lối ra trước cuộc đời.
Những câu thơ vang lên điệp khúc “mời yêu” tha thiết, hiển hiện bên cạnh
những nhịp đập nặng nề của một con tim mệt mỏi, cô đơn.
Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dầu chỉ là trong một phút mà thôi
(Mời yêu)
Có thể thấy từ Thơ thơ đến Gửi hương cho gió, tình yêu trong thơ Xuân Diệu
càng lún sâu vào trạng thái cô đơn. Ở Thơ thơ, đó là một thứ mộng đẹp, sang Gửi
hương cho gió, ông đã chấp nhận một tình yêu đơn phương: Có gửi tình đi chẳng có
về, “hương bay cùng với gió” đúng như tên gọi của tập thơ. Cùng với thủ pháp so
sánh tu từ càng nhấn mạnh hơn sự cô đơn trong tình yêu ấy. (cid:4) Thể hiện nỗi buồn vô cớ
Xuân Diệu là nhà thơ rất thành công trên nền thơ hiện đại Việt Nam. Đặc biệt
là ở mãng thơ tình nên ông được gọi là “ông hoàng thơ tình”. Bên cạnh đó, trong
thơ ông cũng mang những nỗi buồn: trong tình yêu, buồn vì thời thế. Nên khi đọc
thơ ông, ta thấy nó mang một nỗi buồn vu vơ, một nỗi buồn vô cớ miên mang khó
tả nhất là trong một khung cảnh đẹp, “trời nhẹ lên cao” không một sắc mây đen.
Vậy mà Xuân Diệu lại thấy buồn, nỗi buồn của nhà thơ thật khó mà lí giải, chính
nhà thơ cũng không lí giải được vì sao mình buồn:
Hôm nay, trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn….
(Chiều)
Cũng trong bài Chiều, Xuân Diệu đã cho ta thấy được một nỗi buồn khó tả,
một nỗi buồn nhè nhẹ thoáng qua, trước không gian mỏng manh mà nhà thơ đã ví
như là “giây tơ”, nếu như nhà thơ không khéo léo và tinh tế thì “giây tơ” ấy sẽ biến
mất. Xuân Diệu cũng cho ta hiểu thêm giữa không gian ấy lòng ông không sao cả
nhưng giữa một buổi chiều “ngẩn ngơ” ông lại có một nỗi buồn “hiu hiu”, một nỗi
buồn vô cớ mà chính nhà thơ cũng không hiểu được nguyên do:
Không gian như có giây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm đềm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu buồn
(Chiều)
Bài thơ thể hiện nỗi buồn da diết, cái buồn không biết lí do, nỗi buồn vô cớ, nỗi
buồn len nhẹ qua nhưng đủ để nhà thơ suy nghĩ. Không những Xuân Diệu mà ngay
cả Huy Cận cũng có những nỗi buồn vô cớ, nỗi buồn mênh mang trước khung cảnh
thiên nhiên. Huy Cận cũng tự nhận khi xưa ông hay buồn hay sầu, nhiều khi nỗi
buồn, nỗi sầu ấy ông không lí giả được chỉ biết gửi cho gió trăng:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm,
Gió trăng ơi! nay còn nhớ người chăng?
Hơn một lần chàng gửi áo cha trăng
Nỗi hiu quạnh của hồn buồn không cớ
(Mai sau- Huy Cận)
Bên cạnh đó, trong bài thơ Tràng Giang nhà thơ Huy Cận cũng cho ta thấy
được nỗi buồn của mình khi nhìn khung cảnh thiên, khiến nhà thơ “không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà”, một nỗi buồn khó tả.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
(Tràng Giang- Huy Cận)
Đôi khi ta bắt gặp được những nỗi buồn của Xuân Diệu được thể hiện qua
khung cảnh thiên nhiên trước một khung cảnh đẹp trăng sáng, thơ mộng nhưng nhà
thơ cũng thấy buồn, thấy cô đơn lạnh lẽo:
Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ
(Thở than)
Xuân Diệu vốn là con người đa sầu đa cảm. Vì thế, trong thơ ông thường bắt
gặp những nỗi buồn, đôi khi có nguyên nhân, đôi khi lại không có nguyên nhân,
điều ấy cũng tạo nên một dấu ấn và phong cách riêng cho Xuân Diệu. Trước một
khung cảnh mùa xuân vui tươi, xinh đẹp thì nhà thơ lại thấy buồn, thấy lo sợ, sợ
“xuân” đến mình “sẽ già”, sợ “xuân hết” thì mình ‘cũng mất” không còn trên đời
này nữa. Chỉ có nhà thơ buồn vô cớ trong khi đó ai cũng mong xuân đến để được
hưởng cái không khí ấm áp của mùa xuân:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
(Vội vàng)
Từ những nỗi buồn trên, ta thấy được tài năng cũng như sự sáng tạo của Xuân
Diệu cùng là nỗi buồn nhưng qua cách thể hiện, cách dùng từ một cách điêu luyện
của nhà thơ thì nỗi buồn ấy nhẹ nhàng hơn, giảm bớt đi sự nặng nề. Tuy là nỗi buồn
vô cớ nhưng Xuân Diệu cũng cho ta hiểu thêm nỗi buồn ấy khi ông dùng những từ
như: trời nhè nhẹ lên cao, chiều ngẩn ngơ,….
3.3.2 So sánh tu từ thể hiện nỗi buồn trước thời cuộc
(cid:4) Thể hiện nỗi buồn chung của các nhà thơ cùng thời trước 1945
Trong thời kì này các nhà chiến sĩ yêu nước nói chung, đặc biệt là những nhà
thơ nói riêng như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận,… điều có chung một nỗi
buồn đó là nỗi buồn về thời cuộc, thế thái nhân tình. Khi đất nước rơi vào chiến
tranh, nhà thơ rơi vào cảnh bế tắc, họ luôn sống trong cảnh giữa mơ và thật. Vì
những nhà thơ ấy chưa tìm ra con đường đi đúng đắn cho riêng mình mình, trong đó
có Xuân Diệu.
Xuân Diệu trước kia mơ và yêu, anh cũng buồn, cái buồn của một thế hệ nhà
thơ bị bế tắc. Hầu như tất cả tâm hồn của anh đã giành cho mơ và yêu, mặc dầu
anh biết rằng trong cái xã hội cũ đồng tiền làm chủ. Cùng với những cám cảnh
thương tâm của phận nghèo thi sĩ:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ
(Giới thiệu)
Một nhà thơ như hàng trăm nhà thơ Việt Nam sống dưới chế độ thực dân Pháp,
Xuân Diệu có lòng yêu nước chống chế độ thực dân và mong muốn hướng tới một
lý tưởng cao đẹp giải phóng Tổ quốc. Lúc này nhà thơ chỉ biết đem tâm hồn mình
Gửi hương cho gió, nỗi niềm biết chia sẽ cùng ai:
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hát chơi
Hãy nghe lấy. Còn như sao rên rỉ rả
Hỏi làm chi! Tôi không biết trả lời
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Một sự liên kết những nỗi buồn cá thể thành nỗi sầu thế hệ. Bi kịch tinh thần
lớn nhất của những nhà thơ trước cách mạng tháng Tám là không thể dung hòa với
cuộc đời đen bạc, bon chen, nhưng không thể nào dứt bỏ. Đọc thơ Xuân Diệu, ta bắt
gặp nỗi buồn chung cả thế hệ về nhân tình thế thái:
Buồn thế hệ ta cũng đang u uất;
Chúng ta đau, thôi em tới đây mà!
(Sầu)
Nhà thơ than thở về nỗi “cay cực” của “khách thơ” phải lo sinh kế. Đó là cảnh
trí thức thất nghiệp thời ấy phải đi dạy tư, viết văn, làm báo mà chẳng đủ sống.
Cùng một thế hệ nhà thơ nhưng khi nói về nỗi buồn thì mỗi người lại có một
cách cảm nhận riêng, với Huy Cận ông thể hiện nỗi buồn ở sự nhớ thương và không
biết nỗi buồn ấy còn hay mất, tan hay chưa tan. Bên cạnh đó, ông cũng thể hiện tình
yêu đất nước, tình yêu sông núi và nỗi buồn thời cuộc qua bài thơ Mai sau:
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa ?
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng, sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn song núi?
(Mai sau- Huy Cận)
Tâm trạng Xuân Diệu lúc bấy giờ đang buồn trước thời thế khi đất nước đang
trong thời kỳ khó khăn, trí thức rơi vào cảnh bế tắc, nỗi lo cơm áo hòa cùng tình yêu
sông núi. Cho nên không chỉ Xuân Diệu mà các nhà thơ cùng thời cũng đang gặp
và mắc phải.
(cid:4) Thể hiện nỗi buồn khi chứng kiến xã hội còn nhiều bất công
Với quan niệm “thơ là thứ hoa càng nhiều người hái, nhiều người yêu, thì hoa
thơ lại càng tươi, càng sống”, Xuân Diệu rất thấm thía: “Thật ngây thơ dại dột là
người nào viết thơ, phê bình mà không thấy mỗi cá nhân người đọc là then chốt”,
“lịch sử văn học rất khắt khe, công chúng chảy qua thời gian đánh giá được hết mọi
cách công minh, tinh xảo, khoái trá, rõ ràng”. [8; tr.53-53]
Theo Xuân Diệu so sánh, trong xã hội áp bức bốc lột, công chúng biết đến văn
thơ rất kém, ít ỏi quá chừng, hầu hết là ở các giai cấp bên trên và các tầng lớp trung
lưu, còn công nhân và nông dân đại bộ phận chưa thành những công chúng của sáng
tác văn học thời kì này.
Cuộc đời hiện tại dần dần được nhận ra rõ rệt không phải ở vẻ bên ngoài mà
trong bản chất. “Tiếng gà gáy”, một âm thanh quen thuộc, nhắc nhở mọi người bắt
đầu một ngày mới, một công việc mới sau một giấc ngủ dài. Nhưng ở đây Xuân
Diệu lại cho ta thấy một nỗi buồn gì đó khi nghe “tiếng gà gáy” tựa như “máu ứa”.
Cùng với khung cảnh hoa phượng càng gợi lên một khung cảnh buồn ảm đạm
chất chứa biết bao nỗi buồn, tâm sự của nhà thơ, hoa phượng thường báo hiệu cho
sự chia tay. Tâm trạng Xuân Diệu cũng buồn, cũng ảm đạm như sắc phượng. Từ nỗi
buồn của khung cảnh thiên nhà thơ lại bắt gặp được nỗi buồn của xã hội, đất nước.
Trong thơ Xuân Diệu cũng có những câu thơ nặng nề với nỗi buồn khi chứng kiến
xã hội còn nhiều bất công, điều ấy được thể hiện rõ trong bài thơ Hè:
Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa
Chết không gian, khô héo cả hồn cao
Thắm tuyệt vọng hai hàng bông phượng lửa
Thê lương đời như trải mấy binh đao
(Hè)
Trong hoàng cảnh thời cuộc lúc bấy giờ thì nhà thơ cũng hiểu rõ số phận của
một người phải sống trong chiến tranh loạn lạc. Xuân Diệu rất sáng tạo khi so sánh
cuộc đời mình “thê lương đời” với hoàn cảnh thực tại “trải mấy binh đao”, nhằm
tôn lên sức sống mãnh liệt và nghị lực của con người Việt Nam. Đồng thời, cũng
nhằm tố cáo tội ác mà bọn xâm lăng đã đem lại cho nhân dân ta.
Xuân Diệu đã rất sáng tạo khi so sánh cuộc đời bé nhỏ của mình với xã hội còn
nhiều biến động, bất công. Một người đã sống và trải qua trong hoàn cảnh đất nước
chiến tranh, nên hơn ai hết ông hiểu thấu nỗi đau của nhân dân, sự mất còn của Tổ
quốc, tất yếu anh phải tham gia Cách mạng. Cách mạng đã thực sự thay đổi đời anh,
thay đổi thơ anh.
Chế Lan Viên nhận xét rất đúng khi anh viết: “Vâng, cách mạng tháng Tám đã
đến đánh dấu một bước ngoặt lịch sử tâm hồn tư tưởng của mọi người”. Nhưng sự
thực là Xuân Diệu viết: “Những truyện tiền kiếp trong mỗi con người chúng ta thỉnh
thoảng lại khuấy bùn lên gieo rắc hoang mang trong đáy sâu kín nhất của tâm trí”.
Đến đây là chỗ chia đường của những nhà thơ. Khi những người mất lòng tin
sẽ đem cái bùn bên trong tâm trí họ mà ném ra ngoài đời bôi đen lên chế độ, lên
cuộc sống. Nhưng Xuân Diệu đã có thái độ, phương pháp của mình. Ấy là bám chắc
vào Cách mạng, vào Đảng, Đảng cho ông sự sống, niềm tin vào cuộc sống, soi
đường chỉ lối cho ông. Ông đã tìm được hướng đi mới trong các sáng tác của mình,
điều ấy được thể hiện qua bài thơ sau:
Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son trẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh
(Rạo rực)
Đồng thời nhà thơ cũng nhìn lại quá khứ đen tối của mình trước Cách mạng
tháng Tám, của cả thế hệ mình chứ chẳng riêng gì mình. Sống trong cảnh loạn lạc,
3.3 SO SÁNH TU TỪ THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
chia ly của một xã hội đầy bất công.
Xuân Diệu xem tình yêu như biểu hiện tập trung và hấp dẫn nhất của sự sống
và là một phương tiện của lẽ sống. Tình yêu ấy không mang tính thuần khiết, thiếu
sức ấm, sức nóng của cuộc sống và hạnh phúc trần ai như trong thơ lãng mạn của
Tản Đà và kể cả Thế Lữ nữa người góp phần phác họa khuôn mặt mới của thi ca
hiện đại.
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là biểu hiện của sự sống nồng cháy của tuổi trẻ
là hạnh phúc thật sự giữa cuộc đời. Ông muốn nói nhiều đến sự sống mà ông cảm
nhận được với tất cả khả năng và sức lực của tuổi trẻ như mặt trời đang lúc hừng
đông, với sự nhạy cảm của các giác quan đang ở độ mầu nhiệm.
(cid:4) Thể hiện tình yêu say đắm của đôi lứa
Ông ca ngợi tuổi trẻ, cái tuổi thanh niên chỉ đến một lần. Không phải ngẫu
nhiên mà nhà thơ của tình yêu mơ mộng, của hoa lá nên thơ lại ca ngợi vẻ đẹp của
thanh niên với than hình măng mọc, chân vút thẳng và đôi tay rộng mở.
Mai yếu đuối sao bằng thông mạnh mẽ?
Dáng yêu kiều sao bằng vẻ hùng anh
(Đẹp)
“Mai” là loài hoa đẹp tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, đó là sự mềm
mại, yếu ớt cần sự che chở. Nhà thơ so sánh với “thông” là hình ảnh ước lệ cho sự
cứng cỏi thích họp với mọi điều kiện sống. Từ đó, Xuân Diệu liên tưởng so sánh với
hình ảnh người “phụ nữ” với “dáng yêu kiều” và “đàn ông” với “vẻ hùng anh”.
Hình ảnh người con trai trong tuổi thanh xuân thể hiện sự dũng cảm, oai phong rất
dễ lấy lòng các cô gái. Đó cũng là một phương diện để thể hiện tình yêu. Đối với
Xuân Diệu thì bộ áo có mà rực rỡ nhất của sự sống là tình yêu. Tình yêu là sự sống
đơm hoa kết trái. Tình yêu là sự giao hòa cảm thông của hai thế giới trong hai con
người. Xuân Diệu là nhà thơ diễn đạt tình yêu với bao vẻ đẹp và trăm ngàn sắc thái
tinh vi nhất.
Trong yêu đương, Xuân Diệu sôi nổi với tình yêu bộc lộ của “một kẻ cháy
lòng”. Tình yêu ấy là của thời kỳ hiện đại không nằm trong sự ràng buộc của đạo lý
phong kiến và sự bộc lộ tình yêu ấy cũng mang tính chất hiện đại, không gò bó, ước
lệ mà sát đúng với trạng thái tình cảm say mê, rạo rực của người đang yêu và được
yêu, của tình yêu đòi hỏi “vô biên và tuyệt đích”. Điều đó đã đẩy lên một mức nữa
của tình yêu đam mê, say đắm:
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
(Nguyên đán)
Nhà thơ so sánh tình yêu đẹp như hoa của mùa xuân:
Vương vấn bên mình một mối thương
Như chim nặng nghĩa với bông hường
(Đi dạo)
Không gian trong thơ Xuân Diệu phù hợp với trạng thái của tình yêu, với hình
ảnh“hương” của hoa, của thiên nhiên nó đẹp và tình yêu tuổi trẻ cũng đẹp, cũng có
hương thơm khiến người ta say đắm như hương thơm hoa đẹp vậy.
Tình yêu muôn thuở vẫn là hương
(Gửi hương cho gió)
Tình yêu là một biểu hiện, một phần của sự sống. Yêu và được yêu là niềm
hạnh phúc lớn lao của con người. Đới với “ông hoàng của thơ tình”, tình yêu là lẽ
sống. Cùng với việc sử dụng thủ pháp so sánh tu từ trong thơ càng nhấn mạnh sức
mạnh vốn không thể kháng cự lại của tình yêu, yêu bằng tất cả các giác quan, yêu
bằng tất cả những gì có thể , yêu đến say đắm.
(cid:4) Thể hiện khát khao được yêu
Một chủ đề nổi bật trong thơ Xuân Diệu là khát vọng yêu đương, là tình yêu
của tuổi trẻ rạo rực, thiết tha nồng cháy nhưng không phải là tình yêu u hoài mà là
tình yêu cá nhân của chính mình. Tình yêu và hy vọng luôn có trong thơ tình của
ông. Với niềm cảm xúc của mình luôn hướng đến bao nỗi niềm của người khác, của
nhân thế. Ta như đã nghe lời tâm tình, thở than của mình vì mọi người:
Hãy nghe lẫn lộn ghé bên tai
Giọng suối lời chim, tiếng khóc người
(Huyền diệu)
Tình yêu không chấp nhận cô đơn, không chấp nhận cá lẻ, không chấp nhận
khoảngcách đến mỗi người kỹ nữ, nhân vật tưởng đã dày dạn với chia xa, cũng biết
bao đau khổ khi tiễn khách vì sợ cảnh mình gặp lòng mình:
Khách ngồi lại cùng em chốc lát
Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi
(Lời kỹ nữ)
Bởi vậy, Xuân Diệu luôn luôn khao khát tình yêu. Thi sĩ thấy tình yêu như
nguồn nước mà mình như kẻ qua sa mạc. Ông như luôn luôn bị một cơn khát siêu
hình dày vò. Bầu trời trong mắt ông thành chiếc chén:
Trời cao trê nhử chén xanh êm
Biển đắng khôn nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em!
(Vô biên)
Ông rất hiện đại và thành thật trong chuyện “quảng cáo” để “mời yêu”, luôn
luôn lo sợ phải rơi vào tình cảm “Lan mấy đóa lạc loài sơn dã, Uống mùi hương
vương giả lắm thay” của người cung nữ xưa. Như cây thông kia, ông gửi hương
phấn của tình yêu cho gió để hy vọng gặp được tình yêu. Thơ Xuân Diệu đầy một
sự hồi hộp, lạc quan và đầy hy vọng. Chính cái tôi đã khao khát đi đến tình yêu và
hưởng thụ hạnh phúc, coi đó là chuyện tự nhiên: “Tài tử với giai nhân nợ sẵn”. Bài
thơ đầu tiên của mình, Xuân Diệu đã khẳng định một nỗi niềm đầy khao khát, triết
lí về tình yêu và ông cũng khẳng định sống trên đời này phải có tình yêu, phải biết
nhớ biết thương một ai đó như vậy mới là cuộc sống mới, mới là tình yêu:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào
Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa
Cho bừng tia nắng, đọ tia sao
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Trước Xuân Diệu, chưa có ai quan niệm về tình yêu như vậy cả. Cái khao khát
yêu trong ông càng ngày càng mãnh liệt và đối với “ông hoàng thơ tình” thì không
thể định lượng được tình yêu, với ông yêu chưa bao giờ thấy đủ:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái
(Phải nói)
Đó là con người tuyên bố yêu từ khi còn chưa có tuổi, cho đến khi không còn
trên đời này nữa. Đó là tâm hồn luôn luôn khao khát yêu, với ông tình yêu như lòng
ham sống của mình vậy. Nên trong ông lúc nào ngọn lửa tình yêu cũng luôn luôn
cháy không bao giờ tắt.
KẾT LUẬN
Xuân Diệu đến với thơ ca với tư cách là một nhà cách tân nghệ thuật đầy sáng
tạo. Ham mê sự sống với những cảm xúc thiết tha rạo rực như còn thấy sự rung
động của tâm hồn trên từng câu chữ. Xuân Diệu mới trong suy nghĩ, giọng điệu và
cả hình ảnh, ngôn từ.
Biện pháp so sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật độc đáo. Nó có đặc điểm
tính chất và giá trị sử dụng riêng. Qua quá trình nghiên cứu So sánh tu từ trong thơ
Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết nhận thấy có một
số vấn đề cần quan tâm sau đây:
Thứ nhất là biện pháp so sánh tu từ đã tồn tại từ lâu. Đặc biệt là trong sáng tác
văn chương, nó là biện pháp nghệ thuật tu từ được các nhà thơ Việt Nam sử dụng
nhiều trong sáng tác. Thế nên, trong thời gian qua có rất nhiều công trình khoa học
của các nhà nghiên cứu có sự khác biệt. Nhưng những quan điểm, khái niệm định
nghĩa về so sánh tu từ của các tác giả, các công trình này đưa ra đã tạo nên sự sinh
động hấp dẫn của vấn đề. Chính những quan điểm, định nghĩa trên đã tạo cho người
đọc phân vân, nên hay không nên theo cách này hay là tổng hợp các quan điểm đó
lại thành quan điểm mới phù hợp với cách hiểu của mình vv… Bởi vậy, chúng ta
cần tôn trọng cách lựa chọn của mỗi người vì đó là vấn đề thuộc về quan điểm lập
trường, có như vậy việc nghiên cứu so sánh tu từ sẽ có những bước tiến xa trong
tương lai hơn.
Thứ hai là qua quá trình khảo sát thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi
hương cho gió, người viết nhận thấy so sánh tu từ là biện pháp nghệ thuật được
Xuân Diệu sử dụng khá nhiều. Từ các tác phẩm đầu tay (trong tập Thơ thơ và Gửi
hương cho gió) đến tận các tác phẩm sau này. Xuân Diệu sử dụng so sánh tu từ rất
phong phú, đa dạng và có những nét đột phá mới. Ông sử dụng so sánh tu từ có
những kiểu so sánh truyền thống và so sánh hiện đại mới mẻ thể hiện những phát
hiện, nhận thức tiến bộ của một nhà thơ trí tuệ, sáng tạo, triết lý xen vào tình cảm,
cảm xúc. Chất liệu so sánh cũng rất phong phú, mang tính biểu trưng của từng thời kì.
Thứ ba là vấn đề phân loại so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu có thể nói rằng
với việc so sánh tu từ trong các sáng tác của một tác giả lớn như Xuân Diệu thành
từng dạng so sánh cụ thể là một điều cần thiết. Vì khi nhìn vào hệ thống phân loại
ấy, ta sẽ có cái nhìn toàn diện về cách sử dụng so sánh tu từ của nhà thơ. Dạng so
sánh nào được sử dụng thường xuyên trong sáng tác, dạng so sánh nào chỉ được sử
dụng trong một thời kỳ, một giai đoạn sáng tác cụ thể. Hơn thế nữa việc phân loại
so sánh tu từ cũng sẽ là cơ sở để chúng ta tiến hành phân tích đánh giá.
Thứ tư là vấn đề phân tích đánh giá, giá trị độc đáo trong việc sử dụng So sánh
tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, khi tiến hành
làm phần này người viết luôn bị cuốn hút bởi những chất liệu so sánh của thời kì
trước Cách mạng tháng Tám thật là hấp dẫn như: chim, mây, gió, hương,… Đó cũng
chính là điều làm nên sự độc đáo, hấp dẫn cho Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
Do đó trong quá trình nghiên cứu, người viết cũng cố gắng tìm tòi, phân tích
làm rõ giá trị biểu đạt của các dạng so sánh tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu qua hai
tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Đồng thời, người viết có sự so sánh với cách sử
dụng dạng so sánh tu từ tương tự ở các nhà thơ khác. Từ đó làm rõ hơn giá trị độc
đáo của việc sử dụng so sánh tu từ qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió của
nhà thơ Xuân Diệu.
Tóm lại, việc thực hiện đề tài này là cả một quá trình cố gắng, tìm tòi, tiếp thu
và học hỏi dựa trên chính kiến thức của bản thân. Vì thế, luận văn không tránh khỏi
còn những sai sót. Người viết rất mong nhận được những lời nhận xét góp ý của
bạn đọc quan tâm tới vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Bao (Sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), (2001), Toàn tập Xuân
Diệu (Tập 1), Nxb Văn học.
2. Ngô Viết Dinh (Tuyển chọn), (2000), Đến với thơ Xuân Diệu, Nxb Thanh
niên.
3. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
giai đoạn 1932- 1945, Nxb Giáo dục.
4. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
5. Hà Minh Đức (1997), Khảo luận Văn chương- Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
6. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại (Bình giảng và phân tích
tác phẩm), Nxb Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (2009), Văn chương và Thời cuộc (Tiểu luận văn học),
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Bích Hà (Tuyển chọn và giới thiệu), (2006), Xuân Diệu một cái tôi khao
khát nồng nàn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
9. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 Phương tiện và Biện pháp Tu Từ Tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Đinh Trọng Lạc (Chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (2009), Phong cách học
Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
11. Mã Giang Lân (Tuyển chọn và biên soạn), (1999), Thơ Xuân Diệu
những lời bình, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
12. Phong Lê (Phụ trách chung), (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
13. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện
đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
14. Tôn Thảo Miên (Tuyển chọn), (2002), Thơ thơ và Gửi hương cho gió tác
phẩm và dư luận, Nxb Văn học.
15. Lữ Huy Nguyên (Tuyển chọn), (2008), Nét độc đáo trong thơ Xuân Diệu,
Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Nở (Biên soạn), (2012), Phong cách học tiếng Việt, Nxb
Đại học Cần Thơ.
17. Vũ Tiến Quỳnh (Biên soạn), (1995), Phê bình Bình luận Văn học Xuân
Diệu Huy Cận, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
18. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Hoài Thanh– Hoài Chân (2013), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội .
20. Lý Hoài Thu (1999), Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945
(Thơ thơ và Gửi hương cho gió), Nxb Giáo dục.
21. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
22. Lê Đình Tuấn, “Nghệ thuật so sánh tu từ trong tùy bút người lái đò sông
Đà”, tạp chí Ngôn Ngữ và đời sống số 8- 1999.
23. Bùi Tất Tươm (Chủ biên), (1995), Giáo trình tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Anh Vũ (Biên tập), (2011), Tác phẩm trong nhà trường Xuân
Diệu, Nxb Văn học.
PHẦN PHỤ LỤC
NHỮNG CÂU THƠ SỬ DỤNG SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ
XUÂN DIỆU QUA HAI TẬP “THƠ THƠ” VÀ “GỬI HƯƠNG CHO GIÓ”
DẪN THƠ
STT HÌNH THỨC TÊN BÀI
TÊN TẬP THƠ THƠ
SO SÁNH
A là B
1 Đây là quán tha hồ muôn khách đến Cảm xúc
Thơ thơ
2 Đây là bình thu hợp trí muôn phương
3 Đây là vườn chim nhả hạt mười phương
4 Tôi chỉ là một cây kim nhỏ bé
5 Mà vạn vật là muôn đá nam châm
6 Cô hãy là nơi mấy khóm dừa Vì sao
7 Để tôi là kẻ đi qua sa mạc
8 Yêu là chết trong lòng một ít Yêu
9 Yêu, là chết trong lòng một ít
10 Yêu là chết trong lòng một ít
11 Và cảnh đời là sa mạc vô liêu
12 Và tình ái là sợi giây vấn vít
13 Yêu là chết trong lòng một ít
14 Anh hãy là thi nhân
Chàng sầu
15 Những lúc mây đen ám mặt mày, Vô biên
Là lúc lời xa muôn thế giới
16 Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Vội vàng
17 Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
18 Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
19 Đương lúc hoàng hôn xuống
Viễn khách Là giờ viễn khách đi
20 Và mưa kia là nước mắt gió rơi
Tiếng gió
21 Và sương ấy là mồ hôi gió rớt
22 Ấy là tiếng những âm binh tan tác
23 Anh chỉ là con chim bơ vơ
Muộn màng
24 Tôi là một kẻ điên cuồng Thở than
25 Tôi là một kẻ bơ vơ
26 Những cây bàng là những bộ xương cao Sắt
27 Tưởng như núi đẹp là tranh vẽ Núi xa
28 Tôi là một con chim không tổ Dối trá
29 Tôi là một con chim đến từ núi lạ
Lời thơ vào tập gửi hương Gửi hương cho gió
30 Nếu trang giấy có động mình tuyết bạch
Ấy là tôi dào dạt với âm thanh
31 Tôi là con chim đến từ núi lạ
32 Tình yêu muôn thủa vẫn là hương
Gửi hương cho gió
33 Người si muôn kiếp là hoa núi
34 Phố đẹp người xinh là đời bánh mật
Đêm thứ nhất
35 Mặt tươi môi đậm là gã trai tân
36 Lòng ta là một cơn mưa lũ
Nước đổ lá khoai
37 Đã gặp lòng em là lá khoai
Ấy là sa mạc của buồng hoa 38
Những kẻ đợi chờ
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới 39
Khi chiều giăng lưới
Ôi ngắn ngủi là những giờ họp mặt Kỷ niệm 40
Ôi vội vàng là những phút trao yêu 41
Sao ngắn ngủi là những giờ họp mặt 42
Sao vội vàng là những phút trao yêu 43
Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ Yêu mến 44
Tôi là một kẻ thơ …thẩn Đi dạo 45
Ấy là vạn vật nức xuân tâm 46
Tôi là một kẻ thơ thẩn 47
Ý tôi là những cành trinh nữ Ý thoáng 48
Ý tôi là những thoáng qua mau 49
Bên màu hoa mới thắm như kêu
50 A như B Nụ cười xuân Thơ thơ
Nỗi gì âu yếm qua không khí 51
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu
Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc Vì sao 52
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, 53
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu
Say người như rượu tối tân hôn; 54
Huyền diệu Như hương thấm tận qua xương tủy
Còn cứ run hoài, như chiếc lá 55
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt Yêu 56
Kiếm mãi nghi hoài, hay ghen bóng gió Xa cách 57
Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch Phải nói 58
59 Cốt nhất là em nhớ lạnh như đông
60 Chớ yên ổn như mặt hồ nước ngủ
61 Khí trời quanh tôi làm bằng tơ Nhị hồ
62 Khí trời quanh tôi là bằng thơ
63 Lá liễu dài như một nét mi
64 Em ác quá lòng anh như tự xé Hẹn hò
65 Vườn cười bằng bướm hót bằng chim Lạc quan
66 Những tiếng tung hô bằng ánh sáng
67 Gió qua như một khách thừa lương
68 Hoa cúc dường như thôi ẩn dật
69 Với bạn ân tình hay với cảnh Vô biên
70 Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Vội vàng
71 Như đứa trẻ con ôm cái bánh Giờ tàn
E dè tôi muốn giữ cho lâu
72 Giờ tàn như những cánh hoa rơi
73 Không gian như có giây tơ Chiều
74 Một bài thơ mênh mông như vũ trụ
Biệt ly êm ái
75 Không gì buồn bằng những buổi chiều êm
Tương tư chiều
76 Những chồng sách nặng khô như đá
Giới thiệu
77 Lòng ta trống lắm lòng ta sụp Bên ấy
bên này Như túp nhà không bốn vách xiêu
78 Thôi rồi em cũng chẳng thờ ơ nữa
Như đối cùng ta tự bấy nay
79 Như đối cùng ta giữa cảnh mưa
Mà lòng không hiểu trán bơ vơ
80 Có nhiều lúc gió kêu thê thiết quá
Tiếng gió Như gió đau một nỗi khổ vô hình
Như bao điều ảo não của nhân sinh
81 Trong khung xám của mùa đông bằng sắt
82 Đánh vào thân thể run như sậy
Muộn màng
83 Đem vứt đi, như trái chua cay Thở than
84 Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo Sắt
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ
85 Ngày muốn hết buồn như đời muốn hết
86 Đất đen kêu như dưới chân giày
87
Chân đi nặng như mang xiềng xích; giam cầm
88 Tóc mịn đầy như suối mát Gửi trời
99 Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng Ca tụng
90 Ngươi vĩnh viễn như lòng trăng ý gió
91 Êm êm núi biếc xinh như ngọc Núi xa
92 Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà
93 Thấy núi yên như một miếng bìa
94 Tất tả tôi run rẩy tựa giây đàn Dối trá
95 Tôi như chiếc thuyền hư, không bến đỗ
96 Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi
97 Hỡi lòng dạ sâu xa như vực thẩm
98
Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình
Và như màu theo nắng nhạt, như hương
99 Trái tim buồn như một bãi tha ma
100 Tôi hưởng ứng bằng vạn lời say đắm
101 Không thấy người bằng không thấy mặt trời
102 Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
103 Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi....
104 Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết
Buồn trăng
Gửi hương cho gió
105 Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn
Lời kỹ nữ
106 Tôi dệt hồn tôi bằng ánh nguyệt Phơi trải
107 Tôi như con bướm đắm tình thương
108 Như tuyệt diệu bởi hồn tôi xanh quá
Chỉ ở lòng ta Và người ấy vẫn như bao kẻ lạ
109 Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách
110 Mà tình yêu như quán trọ bên đường
111 Đêm đêm như nhớ chị đò xưa
Buổi chiều
112 Ta cũng như em hết trẻ rồi
Tặng bạn
bây giờ
113 Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc Hư vô
114 Tôi run như lá, tái như đông
115 Như một chiêm bao rất mộng thơ Tình cờ
Bâng khuâng tôi nghĩ chuyện tình cờ
116 Hây hây thục nữ mắt như thuyền Thu
117 Hoa lau trắng đã kết bằng tiêu tao Bụi mưa
mờ cũ
118 Thư tình mỏng như suốt đời mộng ảo
Tình thứ nhất
119 Tình thì buồn như tất cả chia ly
120 Hương mới thấm bền ghi như thiết thạch
121 Chỉ một thơ đầu lông tuyết phủ
Như đầu xuân chỉ một hoa tươi Trò chuyện với thơ
thơ
122 Lá như con mắt cụm cây nhìn
Lưu học sinh
123 Trái tựa hình tim, chim hót xin
124 Ta như cô khách khoảng đìu hiu Nước đổ
lá khoai
125 Sương mông lung như giữa khoảng giang hà
Sương mờ
126 Sương lan mờ, cây gần cũng như xa
Sương lan bay, ngày đứng cũng như tà
127 Tình riêng lẩn khuất như bờ vì lau Im lặng
128 Không dấu giếm, như một con đường thẳng Tặng thơ
129 Em lúc ấy nhìn anh như lệ ứa Kỷ niệm
130 Êm ái như trong ngó có mùi hương
131 Hết ngày Còi thét như gươm, tay hoảng đứt
hết tháng
132 Yêu mến Chỉ vì nghe một lời hứa như chim
133 Sao rải rác như lệ vàng đêm nhỏ
134 Mưa lơ phơ như dạ khóc âm thầm
135 Như chim nặng nghĩa với bông hường Đi dạo
136 Du dương như gái thời xưa Ý thoáng
137 Mùa xuân bay lượn bướm như thơ
138 Cũng dịu dàng như thể một mùa thu! Mơ xưa
139 Ve thêm sầu- em cũng kém nhung nhan Hè
140 Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa
141 Thê lương đời như trải mấy binh đao
142 Ta nằm đây như một ải quan xa
Riêng tây
143 Ta buồn bã riêng tây như đứa nhỏ
144 Khi dung dằng như chẳng vội gì qua Truyện
cái thư
145 Mỗi phong bì như vẽ cả sơn khê
146 Son sẻ trời như mười sáu tuổi Rạo rực
147 Lòng tôi rung động như Chiều
đợi chờ Hoa hồng trong cốc nước
148 Khí lạnh như thu, hồn ngây ngất quá Sầu
149 Đất nồng thơm hương dương tráng tựa
Mênh mông chàng trai
150 Và lòng ta như vậy đó, nhân gian
151 Hình óng ả cũng mê như nét vặm
152 Và lòng ta như ngựa trẻ không cương
153 Mai yếu đuối, sao bằng mai mạnh mẽ? Đẹp
154 Dáng yêu kiều, sao bằng vẻ hùng anh?
155 Bước vạm vỡ như là đi chinh phục
156 Cặp mày xanh như rừng biếc chen cây
157 Em thanh thơi như buổi sáng đầu ngày
158 Em mạnh mẽ như buổi chiều giữa hạ
159 Ngươi ríu rít như một rừng chim núi
Thanh niên
160 Ngươi xôn xao như một vạn cây rừng
161 Nao lòng ta bằng muôn cánh yêu thương
Làm rợn ngợp như phất cờ trẻ mạnh
162 Ta liếc đời bằng những khóe ham mê
163 Sự sống như hương bỏ hoa chiều
164 A-B Tiếng mưa khóc, lời reo tia nắng động Cảm xúc
Thơ thơ
165 Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Nguyên đán
166 Cây cỏ bình yên; khuya tĩnh mịch Nhị hồ
167 Trăng, hoa vàng lay lắt tựa trời mây Ca tụng
168 Trăng, ngọc giữa mâm trời huyền bí
169 Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Lời kỹ nữ
Gửi hương cho gió
170 Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt
171 Sắc trời: sương đọng; non: mây tỏa Hết ngày
hết tháng Không biết lòng ta đi tới chốn nào
172 Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Nguyệt cầm
173 Lòng tôi đó, một vườn hoa cháy nắng Tặng thơ