(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:0)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:6)

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ XUÂN DIỆU

QUA HAI TẬP:

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC

VÕ THỊ LẪY

Hậu Giang- Năm 2014

(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:0)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:6)

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ XUÂN DIỆU

QUA HAI TẬP:

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC

Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:

ThS. BÙI THỊ TÂM VÕ THỊ LẪY

MSSV: 1056010061

Lớp: Đại học Ngữ văn

Khóa: 3

Hậu Giang- Năm 2014

LỜI CẢM ƠN

----(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)----

Là sinh viên ngành Cử nhân Văn học của trường Đại học Võ Trường Toản,

được làm luận văn tốt nghiệp đó là niềm vinh dự lớn lao đối với tôi. Luận văn đó là

cơ hội để tôi thể hiện những kiến thức, kỹ năng đã học được trong suốt quá trình

học tập, cũng như thử thách để tôi vận dụng những kiến thức đã được học tại nhà

trường. Luận văn cũng là hành trang quý báu khi tôi ra trường và vững bước ở

tương lai.

Để hoàn thành luận văn, cùng với những nỗ lực của bản thân, người viết nhận

được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều người.

Đầu tiên tôi vô cùng biết ơn Cha Mẹ - Người đã sinh thành dưỡng dục cho tôi

sức mạnh, cũng như là nguồn động viên, ủng hộ rất lớn cho tôi cả về vật chất lẫn

tinh thần.

Người viết xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Ths. Bùi Thị Tâm- Cô đã

tận tình chỉ bảo và hướng dẫn người viết trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và

hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Xin gửi lời cảm ơn đến thầy, cô giáo trong Khoa khoa học cơ bản đã cung

cấp cho người viết những kiến thức quý báo trong quá trình học tập.

Bên cạnh đó tôi cũng gửi lời cám ơn đến các bạn, những người đã đồng hành cùng

tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này.

Người viết xin chân thành cảm ơn!

Hậu Giang, ngày……tháng…… năm 2014

Sinh viên thực hiện

(Ký và ghi rõ họ tên)

Võ Thị Lẫy

LỜI CAM ĐOAN

----(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)----

Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu

thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề

tài nghiên cứu khoa học nào.

Sinh viên thực hiện

(Ký và ghi rõ họ tên)

Võ Thị Lẫy

MỤC LỤC

Mục lục

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 5

4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 6

5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ

1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SO SÁNH VÀ SO SÁNH TU TỪ .............................. 8

1.1.1 So sánh tu từ ................................................................................................... 8

1.1.2 So sánh luận lí ................................................................................................ 9

1.1.3 Sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh luận lí ........................................ 9

1.2 MỘT SỐ QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ SO SÁNH TU TỪ

CỦA CÁC NHÀ NGÔN NGỮ ............................................................................... 10

1.2.1 Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Nở .......................................................... 11

1.2.2 Quan niệm của tác giả Hữu Đạt ...................................................................... 12

1.2.3 Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú ................................................................. 14

1.2.4. Quan niệm của tác giả Đinh Trọng Lạc ........................................................ 15

1.3 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ ............................................................. 17

1.3.1 Hình thức so sánh tu từ A như (dường như, giống như…)B .......................... 17

1.3.2 Hình thức so sánh tu từ A là B (B là hình ảnh) .............................................. 18

1.3.3 Hình thức so sánh tu từ A bao nhiêu B bấy nhiêu ......................................... 18

1.3.4 Hình thức so sánh tu từ không có từ so sánh ................................................. 18

1.3.5 Hình thức so sánh tu từ A hơn, bằng, kém,.. B ............................................. 19

1.3.6 Hình thức so sánh tu từ với từ so sánh khác ................................................. 20

1.4 CÁC CHỨC NĂNG CỦA SO SÁNH TU TỪ .................................................. 20

1.4.1 Chức năng nhận thức ..................................................................................... 20

1.4.2 Chức năng biểu cảm ..................................................................................... 21

Chương 2. CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ

TRONG HAI TẬP THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

2.1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM ........................................................ 23

2.1.1 Vài nét về tác giả ............................................................................................. 23

2.1.2 Vài nét về tác phẩm ......................................................................................... 24

2.2 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG HAI TẬP THƠ

THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA NHÀ THƠ XUÂN DIỆU ...................... 25

2.2.1 Hình thức so sánh tu từ A (như, dường như, như là, tưởng như…)B ............ 26

2.2.2 Hình thức so sánh tu từ A là B ........................................................................ 30

2.2.3 Hình thức so sánh tu từ A- B .......................................................................... 32

2.2.4 Hình thức so sánh tu từ A bằng, hơn, … B ..................................................... 33

2.3 HÌNH ẢNH SO SÁNH TRONG HAI TẬP

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA XUÂN DIỆU ................................ 34

2.3.1 Nhóm hình ảnh tự nhiên ................................................................................. 34

2.3.2 Nhóm hình ảnh là con người ........................................................................... 37

2.3.3 Nhóm hình ảnh là thực vật .............................................................................. 39

2.3.4 Nhóm hình ảnh là vật thể nhân tạo ................................................................. 41

2.3.5 Nhóm hình ảnh là động vật ............................................................................. 42

2.3.6 Nhóm hình ảnh là các vật thể khác ................................................................. 43

Chương 3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HÌNH

THỨC SO SÁNH TU TỪ TRONG HAI TẬP

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

3.1 SỬ DỤNG HÌNH ẢNH SO SÁNH TU TỪ ĐỂ THỂ HIỆN TÌNH YÊU CUỘC

SỐNG VÀ THIÊN NHÊN ....................................................................................... 45

3.1.1 Thể hiện tình yêu cuộc sống............................................................................ 45

3.1.2 Thể hiện tình yêu thiên nhiên .......................................................................... 51

3.2 SO SÁNH THỂ HIỆN NỖI BUỒN .................................................................. 55

3.2.1 So sánh thể hiện nỗi buồn trước cô đơn ......................................................... 56

3.2.2 So sánh thể hiện nỗi buồn trước thời cuộc ...................................................... 61

3.3 SO SÁNH TU TỪ THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA ..................................... 64

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 68

Tài liệu tham khảo

Phần phụ lục

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Xuân Diệu là nhà thơ lớn, nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện

đại. Trong sự nghiệp thơ của ông, ông đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời trước và

sau Cách mạng tháng Tám như: Yêu, Vội Vàng, Chiều, Lời kĩ nữ, Đàn, Tương tư,….

Tất cả những tác phẩm điều mang tâm hồn thơ về tình yêu thiên nhiên, tình yêu

cuộc sống, tình yêu say đắm. Tuy nhiên, nói đến giá trị thơ của Xuân Diệu phải

nhắc đến cái tôi được cảm nhận ở tấm lòng, tài năng của ông. Thơ trước Cách mạng

tháng Tám đáng kể nhất là hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió, mang hồn thơ

lãng mạn, thiết tha và sâu lắng.

Với Thơ thơ và Gửi hương cho gió mặc dù đã ra đời cách đây khoảng 76 năm

nhưng vẫn không thay đổi giá trị của nó về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống.

Bài thơ Vội vàng đã nói lên giá trị sử dụng cảm xúc, cảm giác rất đổi đời thường

vào trong thơ của Xuân Diệu: Ta muốn ôm, tôi muốn buộc gió, ta muốn riết mây, ta

muốn thâu, ta muốn cắn, hôn, … tình yêu tuổi trẻ được tác giả cảm nhận rất mạnh

mẽ, say đắm, khát khao tình yêu cuộc sống:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Vội Vàng)

Các nhà phê bình đã đánh giá rất cao về nghệ thuật và giá trị nội dung trong thơ

của ông. Để làm nên giá trị trong hai tập thơ, Xuân Diệu thể hiện tài năng sử dụng

giá trị sáng tạo từ mới, hình ảnh thơ, dùng từ, biện pháp nghệ thuật trong thơ. Đặc

biệt phải nói đến cách nhìn nhận tài năng của ông trong so sánh tu từ qua hai tập

Thơ thơ và Gửi hương cho gió:

Thư thì mỏng như suốt đời mộng ảo;

Tình thì buồn như tất cả chia ly.

Giấy phong kỹ mang thầm trong túi áo;

Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi

(Tình thứ nhất)

Chính những điều đó đã làm cho thơ ông hay và có giá trị hơn. Khi ông chứng

tỏ tài năng của mình không chịu dừng bước với những khuôn mẫu sẵn có và với nội

dung tư tưởng mới, điều đó càng tạo ra những bước tiến đột biến, đặc sắc trong thơ.

Là một sinh viên học ngành Ngữ văn, bản thân tôi rất thích thơ Xuân Diệu từ

khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Tôi luôn khao khát được một lần tìm hiểu, đi sâu

vào nghiên cứu thơ ông.

Tôi yêu thơ ông bởi thơ ông đem đến tình yêu cuộc sống, giá trị cuộc sống, tình

yêu trong sáng, hồn nhiên:

Em đáp lại: “Nói gì đau đớn vậy!

Vừa gặp anh, em cũng đã mến rồi.

Em phải đâu là ngọn nước trôi xuôi;

Chưa hi vọng, sao anh liền thất vọng?

(Hẹn hò)

Chính vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu

qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ hiểu rõ hơn về thơ Xuân Diệu cả về nội

dung cũng như hình thức thơ của ông. Tôi hi vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé

của mình trong việc nghiên cứu vấn đề về so sánh tu từ trong thơ và để góp thêm

một ý kiến về việc đánh giá tài năng của nhà thơ Xuân Diệu.

2. Lịch sử vấn đề

Có thể thấy rằng, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu từ lâu đã trở

thành đề tài của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Chỉ riêng về thế giới nghệ thuật

thơ Xuân Diệu cũng đã làm hao tốn biết bao công sức, giấy mực của các nhà nghiên

cứu, phê bình văn học. Tuy nhiên trong giới hạn đề tài, người viết chỉ điểm qua một

số công trình tiêu biểu, với những ý kiến tiêu biểu nói về so sánh tu từ trong thơ

Xuân Diệu. Từ những ý kiến này, người viết có thể nhận thấy đề tài của người viết

mang tính kế thừa hoặc hoàn toàn mới mẻ.

- Về góc độ tác giả: Khi nói về phong trào thơ Mới, không ai lại không nhớ

đến Xuân Diệu. Người ta nhớ đến ông bởi ông được xem là người dẫn đầu trong

phong trào thơ Mới trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, Xuân Diệu cũng đã rất

thành công trên con đường nghệ thuật. Vì vậy, thơ ông đã để lại dấu ấn sâu đậm

trong lòng người đọc. Cho nên, khi nghiên cứu về Xuân Diệu cũng như tác phẩm

thơ của ông, các nhà phê bình đã đưa ra rất nhiều ý kiến hay và độc đáo.

Trong “Thi nhân Việt Nam”, tác giả Hoài Thanh- Hoài Chân đã viết: “Bởi

Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với một chút hương xưa của đất nước,

bao nhiêu nỗi niềm riêng của thanh niên bây giờ- Xuân Diệu mới nhất trong các

nhà thơ mới- nên chỉ những người lòng còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã

thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận vừa bước vào làng thơ đã được

người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến giữa chúng ta tới nay đã

năm năm mà những tiếng khen chê vẫn chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người

chê, chê không tiếc lời”. [19; tr.108]

Qua ý kiến trên, tác giả Hoài Thanh đã đánh giá về vấn đề tài năng và sự đổi

mới trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Chính từ

những vấn đề này đã dẫn đến “Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc

lời”.[19; tr.108]

Trong công trình “Thơ Xuân Diệu- những lời bình”, của tác giả Mã Giang Lân

với bài viết “Xuân Diệu”, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về nội dung trong

những tác phẩm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám như sau: “Nhưng thơ

Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả

chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di bất dich. Sao lại bắt ngày mai

phải giống hệt hôm qua? Nêu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: người

Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lí. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống

dào dạt chưa từng thấy ở nước non này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh

trời, sống vội vàng, sống cuống quý t, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của

mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”. [11; tr.25]

Tên tuổi nhà thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám gắn liền với hai tập

thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Vì vậy, cũng có rất nhiều ý kiến của các nhà phê

bình nhận xét về hai tập thơ này như sau:

Trong “Khảo luận văn chương”, tác giả Hà Minh Đức cho rằng: “Với Thơ thơ

và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu đã thực hiện sự đưa thơ mới lên ngôi trên thi đàn

với khuôn mặt trẻ trung, tươi thắm và hấp dẫn chưa từng có. Thơ thơ và Gửi hương

cho gió hai thi phẩm mang dấu ấn của một tài năng sáng tạo thơ nhưng cũng lại

chứa đựng nhiều phẩm chất riêng. Thơ thơ là niềm vui ánh sáng, nụ cười của tuổi

trẻ yêu đời, khát khao hạnh phúc. Và Gửi hương cho gió với giọng điệu trầm sâu

hơn và đã thấm hương vị đời xót xa, cay đắng trong những năm tháng đất nước có

nhiều chuyển động để thay đổi. Bút pháp nghệ thuật đều mới mẻ, sáng tạo hấp dẫn.

Nhưng điều quan trọng là Xuân Diệu đã đem đến trong thơ sức sống mới, cách cảm

nghĩ mới của một tâm hồn chan chứa lòng yêu đời”.[5; tr.345-346]

Trong “Nhà thơ Việt Nam hiện đại”, tác giả Phong Lê khẳng định rằng: “Xuân

Diệu có nét lớn xuyên suốt cả thời kì sáng tạo; đó là tiếng nói sôi nổi tha thiết một

cách bộc trực, trẻ trung, một năng lực cảm thụ tinh tế, dồi dào. Nếu Huy Cận đôn

hậu và sâu sắc, chú ý khai thác chọn lọc và tổng hợp những vấn đề dân tộc, lịch sử,

nhân loại với những suy nghĩ về thế kỉ, vũ trụ, tạo nên một mạch triết lý trong thơ,

thì Xuân Diệu bộc lộ phong cách sáng tạo khác. Anh quan sát tỉ mỉ những đổi thay

trong cuộc sống xung quanh, anh muốn chiếm lĩnh thực tại rộng lớn, thơ anh giàu

chất liệu hiện thực”. [12; tr.18]. “Một nét đặc sắc nữa trong phong cách thơ Xuân

Diệu là giàu hương vị cuộc đời gây tác động mạnh bằng cảm giác”. [12; tr.19]

Trong “Nét độc đáo trong thơ Xuân Diệu”, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn. Ông

đã trích bài viết về nhà thơ Xuân Diệu của tác giả Phạm Tiến Duật. Trong bài viết

này Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “Trong ngôn ngữ của anh, khi cởi mở, khi cay

nghiệt, lúc tỉnh táo, lúc mê say, luôn luôn đập một trái tim trung thực, luôn luôn hồi

hộp một nỗi niềm khám phá. Tất cả sự lớn lao của Xuân Diệu bắt đầu từ cái lẽ giản

dị sâu sắc ấy”. [15; tr.135]

Qua nhận xét của các nhà phê bình trên, người viết nhận thấy các ý kiến tập

trung vào sự sáng tạo từ mới và nét đặc sắc trong việc dùng từ của nhà thơ Xuân

Diệu trong thơ.

- Về góc độ ngôn ngữ: Trong giáo trình “Giáo trình Phong cách học Tiếng

Việt”, tác giả Nguyễn Văn Nở đã cho rằng: “So sánh (comparison, analogy), còn

được gọi là tỉ dụ, biện pháp tu từ dùng sự đối chiếu hai chiều hay nhiều đối tượng

(hoặc sự vật) có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất

bên trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của

người đọc, người nghe”. [16; tr.132]

Trong công trình “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác giả Đinh

Trọng Lạc nhận xét: “So sánh (còn gọi: so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện

pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực

tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau

nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [9;

tr.154]

Trong quyển “Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt”, tác giả Cù Đình

Tú đã khẳng định: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối

tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách

hình ảnh đặc điểm của đối tượng”. [21; tr.175]

Qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, người viết nhận thấy so

sánh tu từ đã được nhắc đến nhiều nhưng chỉ ở dạng lí thuyết và chưa có ý kiến nào

nghiêng về các biện pháp so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu. Đây là vấn đề đang

còn bỏ ngỏ và cũng là những cơ sở khoa học để người viết có được điểm nhìn, điểm

đứng để từ đó có thể sử dụng lí thuyết này vận dụng trong văn chương. Chính vì

vậy, người viết nhận thấy đề tài So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ

thơ và Gửi hương cho gió của người viết là đề tài mới mẻ. Với đề tài này người viết

đi sâu vào tìm hiểu các biện pháp so sánh tu từ trong thơ của ông, vấn đề này được

nhìn nhận và đánh giá trên phương diện nghệ thuật. Từ đó, góp phần tìm ra giá trị

nổi bật trong việc sử dụng so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và

Gửi hương cho gió.

3. Mục đích nghiên cứu

So sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật dễ sử dụng cho nên hầu như được

các nhà văn, nhà thơ sử dụng trong các sáng tác của mình. Xuất phát từ thực trạng

nghiên cứu thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, tính hấp dẫn

của đề tài, người viết đến với đề tài này với mong muốn tìm ra sự độc đáo, mới mẻ

trong cách sử dụng so sánh tu từ trong thơ ông. Trong các câu thơ, các bài thơ và

các tập thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Để từ đó hiểu thêm về một tâm hồn thơ khao

khát yêu và khao khát giao cảm với cuộc đời, cũng như một tâm hồn thơ luôn tìm

tòi và cống hiến cho nghệ thuật.

Bên cạnh đó, khi khảo sát về đề tài So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai

tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết có dịp tiếp xúc nhiều hơn với thơ

ông trước Cách mạng tháng Tám. Từ đó có cái nhìn toàn diện, đầy đủ những đóng

góp của ông đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

Mặt khác, khi nghiên cứu đề tài này, người viết được vận dụng kiến thức đã

học của mình vào vấn đề cụ thể. Từ đó người viết có thể kiểm tra và đánh giá được

năng lực của chính bản thân mình.

Đây cũng là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của người viết, người viết

hi vọng đây không chỉ là luận văn tốt nghiệp mà còn là sự đóng góp nhỏ bé của bản

thân trong việc nhìn nhận và đánh giá về nhà thơ Xuân Diệu. Điều quan trọng trên

hết là qua việc thực hiện đề tài này, người viết sẽ được trang bị thêm tri thức trong

học tập và nghiên cứu khoa học sau này.

4. Phạm vi nghiên cứu

Khi nghiên cứu So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi

hương cho gió, người viết xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài này ở những vấn

đề sau đây:

- Về nội dung nghiên cứu: Người viết đi sâu vào nghiên cứu những câu thơ có

chứa so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió.

Từ những câu thơ này, người viết phân loại theo các dạng so sánh cụ thể. Từ những

số liệu đã có người viết đưa ra những nhận định cũng như những đánh giá, những

phân tích, những lí giải về nét độc đáo cũng như cái hay khi sử dụng các biện pháp

này của nhà thơ Xuân Diệu.

- Về đối tượng khảo sát: Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió in năm 2001,

Nhà xuất bản Văn học của nhà thơ Xuân Diệu. Người viết sử dụng cả hai tập thơ

này để làm tư liệu khảo sát cho mình. Người viết cho rằng, người viết chọn hai tập

thơ của nhà xuất bản trên là bởi lẽ ở hai tập thơ này tập trung tương đối đầy đủ các

bài thơ của nhà thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Giúp cho người viết có

được tư liệu để khảo sát chính xác, có cái nhìn toàn diện và có thể làm nổi bật giá trị

nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài biện pháp So sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu

qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết đã sử dụng các biện pháp

nghiên cứu sau:

- Phương pháp tổng hợp: Người viết sử dụng phương pháp này để tập hợp, hệ

thống hóa, khái quát hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài. Giúp cho người viết có

được cái nhìn toàn diện để thấy được vấn đề mình đang nghiên cứu, từ đó có sự tiếp

thu kế thừa và phát huy.

- Phương pháp hệ thống, thống kê và phân loại: Đây là phương pháp giúp

người viết nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách khoa học, chính xác và có thể hệ

thống các từ chỉ so sánh tu từ, thống kê được mức độ sử dụng nhiều hoặc ít. Từ đó

có sự lí giải một cách khoa học về nguyên nhân và mục đích của tác giả khi sử dụng

so sánh tu từ trong thơ.

- Phương pháp so sánh đối chiếu: Để thấy được sự khác biệt trong cách dùng

biện pháp so sánh tu từ cũng như cách dùng hình ảnh trong so sánh tu từ giữa hai

tập thơ (một số bài thơ khác), đồng thời đối chiếu với một số các nhà thơ cùng thời

với Xuân Diệu như: Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên,….. khi so sánh. Người viết

thấy được nét riêng, độc đáo trong việc sử dụng so sánh tu từ của nhà thơ. Từ đó,

người viết đúc kết được phong cách nghệ thuật riêng của nhà thơ Xuân Diệu.

- Phương pháp phân tích miêu tả: Phương pháp này người viết đánh giá, phân

tích nét hay trong việc sử dụng so sánh tu từ.

Bên cạnh đó, để có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu, người viết đã sử dụng

tất cả các phương pháp trên một cách tổng hợp, một cách hợp lí, hệ thống và lôgích.

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ

1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SO SÁNH VÀ SO SÁNH TU TỪ

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn thường sử dụng hay bắt gặp những

cách nói so sánh như: Xấu như ma, người này đẹp hơn người kia, đẹp như tiên,..

So sánh là một dạng thức phổ biến trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, bởi vì

không có cách gì làm cho người nghe hiểu nhanh điều mình nói bằng một sự so

sánh cụ thể. Trong văn chương, so sánh là phương thức tạo hình, phương thức gợi

cảm. Vì vậy, so sánh giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn những phương diện nào

đó của sự vật. Từ những cách nói so sánh đó, ta chia so sánh ra làm hai loại: So

sánh tu từ và so sánh luận lí.

1.1.1 So sánh tu từ

So sánh tu từ là cách đối chiếu công khai hai hay nhiều đối tượng khác loại của

thực tế khách quan. Trong đó, các đối tượng này không đồng nhất với nhau hoàn

toàn mà chỉ có nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên

trong, để diễn tả một cách hình ảnh lối tri giác mới mẻ về đối tượng, tạo ra cảm xúc

thẩm mĩ trong cảm nhận của người đọc, người nghe.

Trong “Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt”, tác giả Nguyễn Văn Nở đã

định nghĩa: “So sánh (comparison, analogy), còn được gọi là tỉ dụ, biện pháp tu từ

dùng sự đối chiếu hai chiều hay nhiều đối tượng (hoặc sự vật) có một nét tương

đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ

thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe”. [16;

tr.132].

Trong quyển “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”,tác giả Đinh Trọng

Lạc cho rằng: “So sánh (còn gọi: so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp

tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế

khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào

đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [9; tr.154].

Ví dụ: Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

(Ca dao)

“Công cha” khác phạm trù với núi “Thái Sơn” cũng như “nghĩa mẹ không

đồng nhất với “nước trong nguồn” nhưng lại mang một giá trị đặc biệt. Công cha,

nghĩa mẹ trong sự so sánh này được ví như trời bể.

Ví dụ: Tiền tài như phấn thổ

Nhân nghĩa tựa thiên kim.

(Ca dao)

Cách so sánh này làm nổi bật lên tính cách của con người coi trọng nhân nghĩa,

không ham danh lợi. Bởi vì so với “nhân nghĩa” thì tiền tài trở nên vô giá trị (như

phấn thổ), còn ngược lại “nhân nghĩa” lại đáng giá ngàn vàng (tựa thiên kim).

1.1.2 So sánh luận lí

So sánh luận lí là cách đối chiếu giữa hai hay nhiều đối tượng cùng loại của

thực tế khách quan, nhằm mục đích xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng (hay

nhiều đối tượng).

Trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, tác giả Cù Đình Tú nhận

định: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có

một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc

điểm của đối tượng”. [21; tr.175].

Trong quyển “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”, Hữu Đạt quan niệm: “So

sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này giải thích

cho sự thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác”.[4; tr.336].

Ví dụ: - Đen như than

Khi nhắc đến “than” thì ngay lập tức người nghe sẽ biết được thuộc tính của

“than” vốn là “đen” và lấy “than” để làm đối tượng so sánh nói lên mức độ đen của

cái được so sánh. Và hễ khi thấy “đen” là ta nghĩ ngay đến đối tượng so sánh

“than”. Qua đó, cũng thể hiện được thái độ chê của người nói hướng đến cái được

đem ra so sánh.

- Lan đẹp hơn Huệ

Khi người nói đưa ra câu so sánh trên thì ta biết ngay người nói lấy đối tượng

là “Huệ” để làm đối tượng so sánh. Đồng thời ta cũng biết được nét đẹp của “Huệ”

như thế nào, để từ đó có cái nhìn và sự so sánh tổng thể xem “Lan” đẹp hơn “Huệ”

ở điểm nào. Cuối cùng là đưa ra kết luận xem người nói có nói đúng hay không.

1.1.3 Sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh luận lí

So sánh là công cụ giúp ta nhận thức sâu sắc hơn về những phương diện nào đó

của sự vật, hiện tượng. Cả hai phép so sánh tu từ và so sánh luận lí đều mang trong

nó chức năng nhận thức. Từ những phân tích trên, ta thấy được sự khác nhau giữa

so sánh tu từ và so sánh luận lí có mấy điểm khác nhau như sau: Về cơ sở so sánh

và mục đích so sánh.

Sự khác nhau

giữa so sánh tu So sánh tu từ So sánh luận lí

từ và so sánh

luận lí

So sánh dựa trên cơ sở sự khác So sánh dựa trên cơ sở đồng

loại, khác chất giữa các sự vật loại, đồng chất giữa các sự Về cơ sở so

hiện tượng đem ra so sánh vật hiện tượng được đem ra sánh:

so sánh.

Về mục đích So sánh tu từ nhằm miêu tả, So sánh luận lí thì nhằm chỉ

đánh giá đối tượng được so ra sự hơn kém hoặc giống so sánh:

sánh một cách hình ảnh sinh nhau, hoặc khác nhau đơn

động tạo ra giá trị nghệ thuật thuần giữa các đối tượng

cao trong sử dụng ngôn ngữ. nhằm nhấn mạnh điều muốn

nói mà không đòi hỏi cao về

cách dùng từ, cách thể hiện.

Ví dụ: Đứt tay một chút chẳng đau Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô

giáo Xa nhau một chút như dao cắt

lòng. Khi tới trường, cô giáo như

mẹ hiền. (Ca dao)

(Lời bài hát)

Qua sự khác biệt trên ta thấy, thực chất của phép so sánh tu từ là dùng thuộc

tính hay tình trạng của sự vật hay hiện tượng này để giải thích cho thuộc tính hay

1.2 MỘT SỐ QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ SO SÁNH TU TỪ

CỦA CÁC NHÀ NGÔN NGỮ

tình trạng của sự vật hay hiện tượng khác.

So sánh tu từ có cấu tạo đơn giản, giá trị biểu đạt cao nên nó được sử dụng phổ

biến ở hầu hết phong cách chức năng tiếng Việt. Vì thế, nó cũng là đối tượng

nghiên cứu của rất nhiều nhà ngôn ngữ học. Mỗi tác giả ngôn ngữ có một quan

niệm khác nhau về so sánh tu từ, người viết xin dẫn ra một số quan niệm như sau:

1.1.1 Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Nở

Trong “Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt”, tác giả Nguyễn Văn Nở đã

định nghĩa: “So sánh (comparison, analogy), còn được gọi là tỉ dụ, biện pháp tu từ

dùng sự đối chiếu hai chiều hay nhiều đối tượng (hoặc sự vật) có một nét tương

đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ

thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe”. [16;

tr.132]. Từ định nghĩa trên, tác giả phân loại về so sánh tu từ như sau:

(cid:4) Về mặt hình thức:

Tác giả Nguyễn Văn Nở dựa trên sự xuất hiện hay vắng mặt các yếu tố so sánh

và từ chỉ quan hệ so sánh để phân loại cấp độ so sánh và hình thức so sánh. Căn cứ

vào từ chỉ quan hệ so sánh tác giả phân loại so sánh tu từ thành các kiểu như sau:

- Kiểu 1: A như (tựa như, dường như,…)B.

Ví dụ: Thân em như cá giữa rào

Kẻ chài người lưới biết vào tay ai?

(Ca dao)

- Kiểu 2: A bao nhiêu B bấy nhiêu.

Ví dụ: Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

(Cao dao)

- Kiểu 3: A là B.

Ví dụ: Em là gái trong song cửa

Anh là mây bốn phương

(Một mùa đông- Lưu Trọng Lư)

- Kiểu 4: A- B. (ẩn từ so sánh)

Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng

(Tục ngữ)

(cid:4) Về mặt nội dung:

Đối tượng nằm trong hai vế so sánh là khác loại nhưng lại có nét tương đồng

nào đó, tạo thành cơ sở cho so sánh. Nếu nét giống nhau của hai đối tượng được thể

hiện bằng từ ngữ cụ thể nào đó (cơ sở giống nhau) thì ta có so sánh tu từ nổi.

Ví dụ: Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ.

(Cây gạo- Vũ Tú Nam)

Nếu nét tương giống nhau này không thể hiện ra cụ thể bằng từ ngữ (cơ sở so

sánh) thì ta có so sánh tu từ chìm.

Ví dụ: Thương ai rồi lại nhớ ai,

Mặt em như thể nương khoai mới trồng.

(Ca dao)

1.2.2 Quan niệm của tác giả Hữu Đạt

Trong quyển “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”, tác giả quan niệm: “So

sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này giải thích

cho sự thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác”.[4; tr.336]. Vì thế, ông phân loại

so sánh tu từ như sau:

Tác giả đưa ra mô hình khái quát của phép so sánh tu từ là: A- X- B. Trong đó:

- A: là cái chưa biết được đem ra so sánh

- B: là cái đã biết đem ra so sánh.

- X: là cơ sở so sánh được biểu hiện bằng các từ: như, giống như, tựa như, là, như

là, tựa như, tựa hồ, hệt như, bằng, hơn, kém,…

Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ X có thể có mặt hay vắng mặt. Khi X vắng

mặt người ta có thể nhận diện được A, B nhờ dấu phẩy [,] ngăn cách hoặc nhờ độ

ngắt của nhịp, ngữ điệu của câu.

Trên cơ sở xem xét phép so sánh có thể dựa vào mặt cấu trúc hoặc dựa vào

mặt ngữ nghĩa. Ông chia so sánh ra thành những loại hình sau:

- Loại 1: So sánh không có từ so sánh: Có mô hình cấu tạo: A - B.

Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng

(Tục ngữ)

Biến thể: A - B1B2…

Ví dụ: Bác ngồi đó lớn mênh mông,

Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non.

(Sáng tháng Năm- Tố Hữu)

- Loại 2: So sánh có từ so sánh: Mô hình cấu tạo của loại này là: A X B. Từ loại

này, ông chia ra các biến thể sau:

(cid:2) A X B1, B2…

Ví dụ: Sống chết một lần thôi

Con sẽ chết như những người đã chết

Và những người đang chết.

(Thưa mẹ, trái tim- Trần Quang Long)

(cid:2) A X B1 X B2…

Ví dụ: Ta yêu quá như lần đầu mới biết

Ta yêu như mưa yêu gì thân thiết

Như tre, dừa như làng xóm quê hương

Như những con người- biết mấy yêu thương.

(Nhớ mưa quê hương- Lê Anh Xuân)

(cid:2) A1,B1 X A2,B2

Ví dụ: Lũ đế quốc là bầy dơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.

(Sáng tháng Năm- Tố Hữu)

- Loại 3: So sánh ngang bằng: Có mô hình cấu tạo: A bằng B

Ví dụ: Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh

Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

(Ca dao)

- Loại 4: So sánh bậc hơn- kém: Mô hình: A hơn, kém B.

Ví dụ: Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

(Truyện Kiều- Nguyễn Du)

Nguồn ánh sáng đến muôn đời

Vượt cao hơn sự chết vẫn coi thường

(Muôn vàng tình thân yêu trùm lên khắp quê hương- Việt Phương)

- Loại 5: So sánh bậc cao nhất (bậc tuyệt đối):

Ví dụ: Đại đội thanh niên xung phong đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất

(Gửi em cô thanh niên xung phong- Phạm Tiến Duật)

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò

(Nhớ đồng- Tố Hữu)

1.2.3 Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú

Trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, ông nhận định: “So sánh

tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có một dấu hiệu

chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối

tượng”. [21; tr.175]. Từ nhận định trên, ông phân loại so sánh tu từ như sau:

Ông phân chia so sánh dựa trên hai mặt nội dung và hình thức.

(cid:4) Về hình thức:

Tác giả dựa vào từ so sánh phân chia ra các loại sau:

- Loại 1: A như (tựa như, dường như,…) B

Ví dụ: Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt,

Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!

- Yêu, là chết trong lòng một ít.

(Yêu- Xuân Diệu)

- Loại 2: A bao nhiêu B bấy nhiêu

Ví dụ: Qua cầu ngã nón trông cầu

Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.

(Ca dao)

- Loại 3: A là B

Ví dụ: Những cây bàng là những bộ xương cao,

Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng sắt cũ

(Sắt- Xuân Diệu)

Ở loại so sánh này ông nhấn mạnh sắc thái của từ “là”. Từ “là” ở đây có giá trị

tương đương với từ “như” nhưng có sắc thái ý nghĩa khác. “Như” có sắc thái giả

định, còn “là” có sắc thái khẳng định. Loại so sánh này khác với phán đoán lôgích

khẳng định “S là P” ở chỗ: Nếu thay thế từ “là” bằng từ “như” thì nội dung cơ bản

không thay đổi, chỉ chuyển đổi sắc thái ý nghĩa: Từ sắc thái khẳng định chuyển

sang giả định.

Ngoài ra, tác giả còn nêu ra hình thức so sánh dạng để khuyết không dùng

từ so sánh.

(cid:4) Về nội dung:

Các đối tượng nằm trong hai vế của so sánh tu từ là khác loại nhưng lại có nét

giống nhau nào đó tạo thành cơ sở cho so sánh tu từ. Vì vậy, ông chia ra làm hai

loại so sánh: so sánh chìm và so sánh nổi.

- So sánh tu từ nổi: Nét giống nhau được hiểu ra bằng các từ ngữ cụ thể.

Ví dụ: Dù ai nói ngả nói nghiêng

Lòng ta vẫn giữ như kiềng ba chân

(Tục ngữ)

- So sánh tu từ chìm: Nét giống nhau không phô ra mà ẩn bên trong hai vế.

Ví dụ: Ôi những bông trang trắng, những bông trang hồng

Như tấm lòng em trong trắng thủy chung

Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm.

(Trở về quê nội- Lê Anh Xuân)

Có thể nói, mỗi tác giả đều có cách định nghĩa, phân loại về biện pháp so sánh

tu từ không hoàn toàn giống nhau. Nhưng nhìn chung giữa các định nghĩa trên có sự

tương đồng các tác giả đều cho rằng: So sánh tu từ là sự đối chiếu giữa hai đối

tượng khác nhau và hai đối tượng đem ra đối chiếu phải có nét tương đồng nào đó.

Trong số các định nghĩa trên thì có định nghĩa của tác giả Cù Đình Tú và tác giả

Nguyễn Văn Nở có tính khái quát cao hơn. Bởi vì trong thực tế, khi sáng tác văn

học các nhà thơ, các nhà văn không thể chỉ đối chiếu một đối tượng này với một đối

tượng khác mà đôi khi còn có sự đối chiếu giữa các đối tượng khác.

Ví dụ: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như say rượu tối tân hôn;

Như hương thấm tận qua xương tủy.

Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn

(Huyền diệu- Xuân Diệu)

1.2.4 Quan niệm của tác giả Đinh Trọng Lạc

Trong quyển “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác giả cho rằng:

“So sánh (còn gọi: so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp tu từ ngữ

nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan

không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm

diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [9; tr.154]. Từ quan

niệm trên ông phân loại so sánh tu từ như sau:

Căn cứ vào từ ngữ dùng làm yếu tố thể hiện quan hệ so sánh, tác giả Đinh

Trọng Lạc chia ra các hình thức so sánh sau đây:

- Yếu tố so sánh là từ như (tựa như, chừng như,… ).

Ví dụ: Đôi ta làm bạn thong dong

Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.

(Ca dao)

- Yếu tố so sánh là từ hô ứng bao nhiêu….. bấy nhiêu.

Ví dụ: Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu

(Ca dao)

- Yếu tố so sánh là từ là.

Ví dụ: Chúng chị là hòn đá tảng trên trời

Chúng em chuột nhắt cứ đòi lung lay.

(Ca dao)

Tóm lại, người viết vừa đưa ra một số quan điểm về phân loại so sánh tu từ

của các nhà ngôn ngữ. Để thuận tiện trong việc khảo sát các biện pháp so sánh tu từ

trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết xin lấy quan điểm phân loại

của tác giả Nguyễn Văn Nở kết hợp cùng với quan điểm phân loại của tác giả Hữu

Đạt. Như vậy, về việc phân loại các biện pháp so sánh, người viết có thể tổng hợp

được các loại sau: Kiểu:

(cid:2) A X B (X cơ sở so sánh được thể hiện bằng các từ như: giống như, tựa như,

A là B.

A bao nhiêu B bấy nhiêu.

A – B.

1.3 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ

tựa hồ, hệt như, bằng,….). (cid:2) (cid:2) (cid:2) (cid:2) A bằng, hơn, kém, nhất B.

Từ quan niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trên, người viết phân so sánh

tu từ ra thành các loại như sau:

1.3.1 Hình thức so sánh tu từ có từ A như (dường như, tựa như,…) B

Loại so sánh A X B này có từ so sánh là: như, giống như, tựa như, dường

như,… Đây là dạng so sánh thường gặp trong thực tế sử dụng ngôn ngữ cũng như

trong văn chương. Trong đó:

A: là yếu tố được (hoặc bị) đem ra so sánh.

X : là từ dùng để so sánh (như, tựa như, dường như,…).

B: là yếu tố được dùng để so sánh.

Ví dụ: Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ

Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ.

(Tựu trường- Huy Cận)

Trong thời kì hiện đại phép so sánh có chiều hướng phát triển về độ dài cấu

trúc dưới các dạng sau: A X B X C, A X B1 X B2 X B3, A X B1, B2,…

Cụ thể: Dạng truyền thống A X B. Trong Ca dao.

Ví dụ: Anh em cùng một mẹ cha

Cũng như cây cọ sinh ra nhiều cành

(Ca dao)

Các dạng phát triển như sau:

(cid:2) A X B X C:

Ví dụ: Nhớ em như một vết thương

Trong lòng như vỡ mảnh gương trong lòng.

(cid:2)

(Nhớ em- Xuân Diệu )

A X B1 X B2 X B3

Ví dụ: Một dãy núi mà hai màu mây

Nơi nắng nơi mưa khí trời cũng khác

Như anh với em, như Nam với Bắc

Như đông với tây một dãy rừng liền

(Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây- Phạm Tiến Duật)

(cid:2) A X B1, B2,..

Ví dụ: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

(Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên )

1.3.2 Hình thức so sánh tu từ A là B (B là hình ảnh)

Loại so sánh tu từ này có mô hình: A là B

Ví dụ: Cô hãy là nơi mấy khóm dừa

Dầm chân trong nước, đứng say sưa;

Để tôi là kẻ qua sa mạc

Tạm lánh hè gay- thế cũng vừa.

(Vì sao- Xuân Diệu)

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim..

(Từ ấy- Tố Hữu)

1.3.3 Hình thức so sánh tu từ A bao nhiêu B bấy nhiêu

Loại so sánh tu từ có từ so sánh là: Bao nhiêu, bấy nhiêu. Mô hình: A bao

nhiêu B bấy nhiêu

Ví dụ: Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu

(Bầm ơi- Tố Hữu)

Ngó lên nuột lạt mái nhà

Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu

(Ca dao)

1.3.4 Hình thức so sánh tu từ không có từ so sánh

Loại so sánh tu từ không có từ so sánh này có mô hình A – B. Loại này có các

dạng:

(cid:2) A - B

Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng

(Tục ngữ)

Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài.

Ham chi bóng sắc, nó đọa đày tấm thân.

(Ca dao)

(cid:2) A - B1 B2

Ví dụ: Anh sông Hồng, sông Mã

Rầm reo trong đạn lửa.

(Ngoảnh lại mười lăm năm- Chế Lan Viên)

Loại so sánh này được nhận diện hai vế nhờ vào dấu phẩy [,] ngăn cách, hoặc

độ ngắt nhịp hay ngữ điệu của câu. Trong văn chương cổ, loại văn biền ngẫu và câu

đối được cấu tạo trên cơ sở hài hòa, cân xứng về số lượng, âm tiết, thanh điệu, ngữ

nghĩa, ngữ pháp nhưng đó không phải là so sánh tu từ. Vì nó không được xây dựng

trên cơ sở so sánh nét tương đồng.

Ví dụ: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt

Dưới sân ông cử ngổng đầu rồng

(Giễu người thi đổ- Tú Xương)

1.3.5 Hình thức so sánh tu từ A hơn, bằng, kém, …B

Hình thức này có các mô hình như sau:

(cid:2) Mô hình: A hơn B

Ví dụ: Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn.

(Truyện Kiều- Nguyễn Du)

Ra đi anh có dặn rằng

Đâu hơn thì lấy, đâu bằng đợi anh

(Ca dao)

(cid:2) Mô hình: A bằng B

Ví dụ: Không tỏ hay, yêu mến cũng là không,

Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch.

(Phải nói- Xuân Diệu)

Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh

Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

(Ca dao)

(cid:2) Mô hình: A kém B

Ví dụ: Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

(Truyện Kiều- Nguyễn Du)

1.3.6 Hình thức so sánh tu từ với các từ so sánh khác

Do cấu tạo của so sánh tu từ đơn giản nên được sử dụng rộng rãi. Do đó, so

sánh tu từ có nhiều hình thức thể hiện khác nhau, đôi khi ta cũng bắt gặp so sánh tu

từ với từ so sánh “hay”.

Ví dụ: Ấy nỗi buồn kêu xé của ngày qua,

Hay lời than rên rĩ của đêm xa;

Ấy là tiếng những âm binh tan nác,

Hay là giọng những vong hồn lưu lạc?

(Tiếng gió- Xuân Diệu)

Ngoài ra còn một số hình thức khác: nhất, sử dụng câu hỏi tu từ,….

Ví dụ: Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm;

Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em.

Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.

Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.

1.4 CÁC CHỨC NĂNG CỦA SO SÁNH TU TỪ

(Tương tư chiều- Xuân Diệu)

Khi giao tiếp hay trong văn chương, người ta thường dùng biện pháp so sánh

để miêu tả các đối tượng, sự vật làm tăng tính hình ảnh và biểu lộ thái độ của người

sử dụng. Do so sánh tu từ có hai chức năng cơ bản sau:

1.4.1 Chức năng nhận thức

So sánh tu từ là một công cụ giúp ta nhận thức sâu sắc hơn những phương tiện

nào đó của sự vật.

Ví dụ: Nói “Cô ấy ốm” người tiếp nhận chỉ biết là “ốm” chứ không thể hình dung

ra cô ấy ốm như thế nào, nhưng khi nói “Cô ấy ốm như cây tăm”, nhắc đến hình

ảnh “cây tăm” thì người nghe, người đọc sẽ hình dung được cấu tạo của “cây tăm”

là: ốm, nhỏ, cao. Khi chúng ta so sánh “Cô ấy ốm như cây tăm”, người đọc, người

nghe sẽ nhận thức được rằng cô ấy rất ốm.

Ví dụ: Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

(Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử)

Câu thơ trên nói đến màu xanh cây lá nơi thôn Vĩ. Từ đó ta thấy, nhà thơ

trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “vườn

ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh

mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông mượt quá một

màu xanh như ngọc bích. Cho nên, khi so sánh màu xanh của “vườn” với

màu xanh của “ngọc” càng chứng tỏ rằng: Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà,

con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên

rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống nơi thôn Vĩ Dạ.

Tuy nhiên, chức năng nhận thức còn cho cả so sánh luận lí. Sự khác nhau ở hai

chức năng của hai phép so sánh này thể hiện rõ ràng hơn ở chức năng biểu cảm.

1.4.2 Chức năng biểu cảm

So sánh luận lí không biểu lộ thái độ, cảm xúc của người nói người viết, vì so

sánh luận lí là so sánh dựa trên cơ sở lôgích.

So sánh tu từ là một phương diện biểu cảm. Qua phép so sánh tu từ ta sẽ dễ

dàng nhận ra lòng yêu hay ghét, ý khen hay chê và thái độ của người nói đối với đối

tượng được miêu tả.

Ví dụ: Anh như con một nhà giàu,

Em như tờ giấy bên Tàu mới sang.

(Ca dao)

Ở câu ca dao trên, thông qua những hình ảnh được so sánh “con một nhà giàu”

và “tờ giấy bên Tàu mới sang”, so sánh tu từ đã góp phần tạo nên sự đối lập của hai

nhân vật “anh” và “em”. Qua đó, câu ca dao bộc lộ quan niệm trọng nam khinh nữ

vốn rất đè nặng trong xã hội phong kiến. Nhờ vậy, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về

thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa, một xã hội mà quan hệ giữa nam và nữ có

sự bất bình đẳng.

Ví dụ: Mặt Hoa như trái xoan.

Mặt Hoa như cái mâm.

Ở hai câu trên cùng một nội dung thông báo là mặt của Hoa, ta thấy được thái

độ khác nhau của người nói. Khi nói “mặt Hoa như trái xoan” thì ta biết được thái

độ khen của người nói dành cho Hoa, “mặt trái xoan” là khuôn mặt đẹp, cũng là

khuôn mặt bao nhiêu người mơ ước. Ngược lại, khi nói “mặt Hoa như cái mâm” thì

ngay lập tức ta nhận được thái độ chê của người nói dành cho Hoa, nhắc đến “cái

mâm” ta biết nó to và tròn. Vì thế, ta thường so sánh mặt như cái mâm là mặt xấu.

Do có cấu tạo đơn giản nên lại mang chức năng nhận thức và biểu cảm nên so

sánh tu từ được sử dụng trong nhiều phong cách tiếng Việt, nhất là trong lời nói

nghệ thuật. Qua so sánh tu từ, ta có thể nhận ra những nét riêng của người sử dụng

so sánh tu từ, có tác giả thích sự mộc mạc, chân chất, gần gũi hoặc mới mẻ, chính

xác xen lẫn hài hước của dân gian, có tác giả thiên về hình ảnh mang tính chất suy

ngẫm, phát hiện của trí tuệ. Đồng thời, so sánh tu từ có chức năng vừa là công cụ

nhận thức, vừa là phương tiện giúp chúng ta bày tỏ tình cảm, thái độ trước những

vấn đề của xã hội.

Trong “Nghệ thuật so sánh tu từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Lê

Đình Tuấn nhận xét: “trong tiếng Việt, so sánh tu từ được sử dụng nhiều nhất so

với các phương thức so sánh tu từ vựng khác: ẩn dụ, nhân hóa, chơi chữ, phóng

dụ,... khi giải thích ta thường dùng so sánh để làm rõ hơn điều mình muốn thông

báo. Nhà văn lại càng dùng so sánh, bởi vì đối với họ so sánh không chỉ giúp người

đọc nhận thức sự vật hiện tượng, tình thái tính chất một cách chính xác mà còn

muốn thông qua so sánh làm tăng tính gợi cảm, gợi hình và biểu cảm cho câu văn.

Nếu đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn chương là tính thẩm mĩ thì nhà văn sử

dụng so sánh như là một biện pháp tu từ quan trọng để làm nên giá trị thẩm mĩ của

văn chương.” [22; tr.12]

Chương 2. CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ

TRONG HAI TẬP THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

2.1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

2.1.1 Vài nét về tác giả

- Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh Trảo Nha. Ông sinh

ngày 02 tháng 02 năm 1916 (năm Bính Thìn) tại quê mẹ vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản,

huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha ông là Ngô Xuân Thọ quê quán tại làng

Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tú tài kép Hán Học,

vào làm thầy dạy học ở Bình Định. Mẹ là Nguyễn Thị Hiệp.

Thuở nhỏ Xuân Diệu học chữ Nho, Quốc ngữ và cả tiếng Pháp, năm 1927

xuống học ở Quy Nhơn và đỗ bằng Thành chung. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi

dạy học tư và làm viên chức ở Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội

sống bằng nghề viết văn. Ông là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938- 1940).

- Năm 1940 ông thi Tham tá Nha Thượng Chính (nhà Đoan) và vào Nam Bộ

làm Sở Đoan ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về Hà Nội.

Bên cạnh việc sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày nay và

Tiên Phong. Xuân Diệu là một trong những người sáng lập ra Đoàn báo chí Việt

Nam (nay là Hội nhà báo Việt Nam). Trong sự nghiệp sáng tác thơ của mình, ông

được biết đến như là một nhà thơ trữ tình lãng mạn, “nhà thơ mới nhất trong các

nhà thơ mới”, “ông hoàng thơ tình” và là “chủ soái của phong trào thơ Mới”.

- Năm 1943, Xuân Diệu xin thôi tham tá nhà Đoan và về sống với Huy Cận tại

Hà Nội.

- Năm 1944, Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh hồi bí mật.

- Năm 1945, Xuân Diệu cho ra đời tập thơ văn xuôi Trường Ca và tập thơ Gửi

hương cho gió (Nhà xuất bản Thời đại). Tháng 2- 1945, ông làm cuộc diễn thuyết

đầu tiên trong đời mình với bài Sinh viên với quốc văn do Tổng hội sinh viên Việt

Nam tổ chức; bài này sau đó được xuất bản với tên mở rộng Thanh niên với quốc

văn. Sau khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, trong hoàn cảnh đất nước biến động,

Xuân Diệu đã cho đăng những bài thơ Một cuộc “biểu tình”, Tổng bất đình công;

Vịnh cái cờ,….

- Năm 1946, xuất bản tráng ca Hội nghị non sông, bút kí Miền Nam nước

Việt; ông là Đại biểu Quốc hội khóa I (đại biểu tỉnh Hải Dương) từ 1946- 1960.

Tháng 5- 1946, với tư cách đại biểu các nhà báo, đi cùng phái đoàn Quốc hội Việt

Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn sang Paris đàm phán với chính

phủ Pháp.

- Năm 1947, ông đi theo Đài Tiếng nói Việt Nam và phụ trách mỗi tuần nói

một Câu chuyện văn hóa ở Đài.

- Năm 1948, được bầu là Ủy viên chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam kháng

chiến. Xuất bản tập bút kí Việt Nam trở dạ.

- Năm 1949, Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất bản

tập thơ Dưới ánh sao vàng.

- Năm 1951- 1953, xuất bản tập tiểu luận Tiếng thơ. Ông cũng là đội viên tham

gia phát động quần chúng Giảm tô, Giảm tức. Tập thơ Sáng cũng được xuất bản

trong giai đoạn này.

- Năm 1954, tham gia Cải cách ruộng đất và cho xuất bản tập thơ Mẹ con.

- Năm 1955, xuất bản tập thơ Ngôi sao và được giải thưởng Văn nghệ.

- Năm 1956, xuất bản tập Kí sự thăm nước Hung

- Năm 1957, được bầu làm Ủy viên chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.

- Năm 1985, Xuân Diệu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập

hạng nhất. Nhà thơ Xuân Diệu từ trần ngày 18-12-1985 tại Hà Nội.

- Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.

[1; tr9-10]

2.1.2 Vài nét về tác phẩm

- Năm 1938, Xuân Diệu cho ra đời tập Thơ thơ.

- Năm 1945, Gửi hương cho gió được ra đời.

Hai tập thơ đầu tay Thơ thơ và Gửi hương cho gió, đã tạo nên làn sóng đấu

tranh dữ dội trên thi đàn Văn học. Từ đó, Xuân Diệu bắt đầu cho con đường viết thơ

của mình và bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn thơ Mới Việt Nam. Thơ thơ và Gửi hương

cho gió đã ca ngợi tình yêu, ca ngợi cuộc sống. Thơ thơ là tiếng nói thiết tha rạo rực

của tuổi trẻ, của mùa xuân và là niềm khao khát mãnh liệt giao cảm với đời, xem

thiên nhiên tươi đẹp là tổ ấm. Xuân Diệu cũng cảm nhận được thời gian đang trôi

qua mau và sự mong manh của đời người với lòng khao khát muốn vĩnh cửu cái

đẹp, đầy triết lí nhân sinh. Nếu Thơ thơ là tiếng ca sôi nổi, rạo rực của tuổi trẻ, của

mùa xuân thì Gửi hương cho gió lại mang nỗi buồn não nùng. Buồn vì cô đơn, vì bị

chia cắt và có cả nỗi buồn vô cớ,… đến nỗi buồn vì lo sợ ngày mai. Nguyên nhân

của nỗi buồn phần nhiều do tình yêu: bị phụ tình, bị từ chối, bị làm ngơ.

Ngoài ra, Xuân Diệu cũng có những tác phẩm khác như:

Thơ có: Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới sao vàng

(1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà

Mau- Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Hai đợt sóng (19670, Tôi giàu đôi

mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (19760, Thanh ca (1982).

Nhà thơ cũng có viết truyện ngắn: Phấn thông vàng (1939). Bút kí gồm có:

Trường ca (1945), Miền Nam nước Việt (1945), Việt Nam nghìn dặm (1946), Việt

Nam trở dạ (1948), Kí sự thăm nước Hung (1956), Triều lên (1958).

Bên cạnh đó, ông cũng rất thành công trong lĩnh vực tiểu luận, phê bình: Thanh

niên với quốc văn (1945), Tiếng thơ (1951, 1953), Những bước đường tư tưởng của

tôi (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu thơ (1960), Hồ Xuân

Hương bà chúa thơ nôm (1961), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có

mài mới có sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn

(1968), Thơ Trần Tế Xương (1970), Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971), Và cây đời

mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắc nên kim (1977), Lượng thông tin và những kỹ sư

tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981, tập II, 1982), Tìm

hiểu Tản Đà (1982).

Xuân Diệu cũng là một trong những nhà dịch thuật thơ tiêu biểu, ông đã dịch:

Thi hào Nadim Hitmet (1962), V.I. Lênin (Maiakốpxki, 1967), Vây giữa tình yêu (B.

Đimitrôva, 1968) Việt Nam hồn tôi (1974), Những nhà thơ Bungari (1978- 1983),

2.2 CÁC HÌNH THỨC SO SÁNH ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG HAI TẬP

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA NHÀ THƠ XUÂN DIỆU

Nhà thơ Nicoola Ghiden (1981).

Khi nhắc tới vai trò chuyên sâu của một cây bút miệt mài chăm lo cho sự phát

triển của nền thơ, người ta không bao giờ quên nhắc tới Xuân Diệu. “Lần đầu tiên,

những tình cảm nồng cháy, tha thiết đến rạo rực của cả một thế hệ tuổi trẻ khát

khao một cuộc sống mới, muốn vượt ra khỏi sự tù đọng, lụi tàn của xã hội cũ.. để

sống, để yêu, để khẳng định bản ngã. Sức sống dào dạt và nguồn cảm xúc tinh tế,

mới mẻ đã tìm được một hình thức thể hiện tân kỳ và mạnh mẽ, không chút gò bó,

sáo mòn. Sự cách tân của các nhà thơ mới, đặc biệt là của Xuân Diệu xuất phát từ

nội dung, từ cách nhìn và phương thức cảm thụ đời sống và cũng từ đòi hỏi của

công chúng, nhất là lớp người trẻ tuổi đang chán ngấy thứ văn chương biền ngẫu,

mất hết sinh khí và gò bó trong khuôn mẫu và niêm luật xơ cứng, khắc khe”. [1;

tr.22- 23].

Xuân Diệu đã có một cách nhìn mới và sâu hơn về đời sống được diễn tả bằng

những hình tượng và ngôn ngữ mới, vừa mạnh mẽ vừa tinh tế là ngọn nguồn của

thành công. Chính sự sử dụng những thủ pháp nghệ thuật so sánh tu từ trong quá

trình sáng tạo nghệ thuật đã tạo nên cái hay và thành công đó. Ngay từ tập thơ đầu

tay, Xuân Diệu đã cho thấy một cá tính sáng tạo rất riêng biệt. Ông sử dụng so sánh

tu từ rất nhiều, rất mới mẻ trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Cùng với sự

sáng tạo và đổi mới cho nền văn học nước nhà, so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu

cũng đặc sắc hơn, cả về kiểu, loại, chất. Ở đây người viết chỉ khảo sát các kiểu, các

loại so sánh đã được đề cập ở phần lí thuyết về So sánh tu từ trong hai tâp Thơ thơ

và Gửi hương cho gió.

Trong hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu đã sử dụng các

kiểu loại so sánh dân gian truyền thống. Trong 97 bài thơ của hai tập thơ (Thơ thơ

có 46 bài, Gửi hương cho gió có 51 bài) thì có 173 câu thuộc so sánh tu từ. Trong

173 câu thơ ấy được chia ra làm 4 kiểu so sánh nhỏ: A như B, A là B, A- B, A bằng

B (Xem phần phụ lục)

2.2.1 Hình thức so sánh tu từ A (như, dường như, như là,…..) B

Đây là hình thức so sánh được sử dụng phổ biến trong thơ ca dân gian truyền

thống. Xuân Diệu đã sử dụng hình thức này với tần số rất cao, có 95/173 lượt chiếm

54,9% trong tổng số lượt hình thức so sánh được sử dụng ở hai tập thơ. Ngoài ra,

Xuân Diệu còn sáng tạo nhiều kiểu so sánh hiện đại phức tạp, nhiều tầng bậc hơn.

Nhưng dù là truyền thống hay hiện đại thì vẫn nhằm mục đích sáng tạo ra hình ảnh

mới lạ, độc đáo làm cho ý thơ thêm uyển chuyển, hấp dẫn, mang sắc thái tu từ và

tính thẩm mĩ cao.

Từ kết quả trên, đã cho ta thấy Xuân Diệu rất chú trọng vào việc khai thác sử

dụng hình thức này trong thơ. Vì đây là hình thức đơn giản giúp người đọc dễ dàng

nhận ra trên bề mặt ngôn từ. So sánh tu từ có giá trị cao nhờ chức năng nhận thức

cũng như biểu cảm. Qua hình thức này, người đọc sẽ dễ nhận thấy được tư tưởng,

tình cảm mà nhà thơ đã gửi gắm qua ngôn từ bằng thủ pháp so sánh tu từ trong thơ.

Trong hình thức so sánh A như B ta có thể thấy 3 kiểu so sánh sau: A như B,

A như B1B2…, như BA.

- Hình thức so sánh tu từ A như B

Kiểu so sánh truyền thống này chiếm số lượng nhiều nhất trong các các kiểu so

sánh với 88 câu chiếm 50,9%. Kiểu này được Xuân Diệu sử dụng trong sáng tác,

đặc biệt là hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. (Xem phần phụ lục)

Tuy những câu thơ sử dụng so sánh kiểu truyền thống nhưng lồng vào đó là nội

dung rất hiện đại, hình ảnh mới mang màu sắc trí tuệ độc đáo và triết lí sâu sắc dễ

gây ấn tượng cho người đọc.

Xuân Diệu sử dụng hình ảnh A “giòng cảm xúc” so sánh với B “thuyền ngư

phủ lạc trong sương”, thuyền lạc trong sương thì rất mờ ảo. Nhà thơ so sánh như

vậy tạo ra hình ảnh mờ mờ, ảo ảo đến kì diệu làm ta không nhìn thấy rõ:

Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc

Như thuyền ngư phủ lạc trong sương

(Vì sao)

Xuân Diệu sử dụng hai vế đối lập nhau A “phút gần gũi” với B “giờ chia biệt”,

để thấy được mong muốn trong tình yêu, đồng thời thể hiện khát vọng được yêu quá

mãnh liệt của nhà thơ, vì yêu quá nhiều nên khi ở cạnh nhau nhưng lại thấy xa, thấy

chia biệt “phút gần gũi cũng như giờ chia biệt”:

Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt

(Yêu)

Bên cạnh, sự lo âu về tình yêu thì nhà thơ vẫn lấy lại niềm vui khi có sự tưởng

tượng độc đáo, hấp dẫn luôn lôi cuốn người đọc mà nhà thơ đã gửi gắm qua từng

câu chữ của mỗi bài thơ. Xuân Diệu sử dụng kiểu so sánh này một cách thuần thục

và đạt đến trình độ sáng tạo ngôn ngữ và nghệ thuật thơ.

Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên một câu thơ tuyệt bút:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác

thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất

cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của

Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian

“tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính trần tục “môi gần”.

Nhưng câu thơ vẫn giữ nguyên vẻ tinh khôi, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

(Vội vàng)

Nhà thơ ghi nhận và miêu tả đối tượng trong không gian trần thế rất gần gũi,

không hề xa lạ. “Không gian” vô hình trong thơ Xuân Diệu tưởng như cầm nắm

được so sánh với “giây tơ”, không gian thấm vị đời nhưng được gạn lọc không náo

động, xô bồ mà thanh cao, gọi cảm thích hợp cho đôi lứa trong tình yêu “giây tơ”:

Không gian như có giây tơ,

Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu

(Chiều)

Qua hình thức so sánh trên, ta thấy sự sáng tạo rất độc đáo từ ngòi bút thần kì

và cái nhìn sâu sắc của “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông đã để lại

trong tâm trí người đọc qua bao thế hệ biết bao thi phẩm tuyệt vời. Đó cũng là tấm

gương để người sau noi theo.

- Hình thức so sánh tu từ A như B1B2 (hoặc A như B1, như B2)

Khi đến với Xuân Diệu, hình thức so sánh trở nên giàu có với những sáng tạo

mới mẻ, kiểu so sánh hiện đại càng tôn lên trí tưởng tượng mênh mông vô bờ bến

của nhà thơ. Chính sự tưởng tượng ấy đã đẩy vế B đi ra xa hơn, góp phần diễn đạt

đầy đủ chức năng nhận thức và biểu cảm của biện pháp nghệ thuật so sánh tu từ.

Đây cũng là một trong những sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Có 03 lượt so sánh kiểu

này, chiếm 1,7% trong tổng số 173 lượt so sánh.

Sự sáng tạo rất độc đáo khi so sánh “tình” với “màu nắng nhạt” và “hương”.

Người ta thường ví tình yêu đẹp như hoa, như hương, với trăng thanh gió mát, với

nắng vàng. Ở đây nhà thơ có sự so sánh như thế nhằm nói lên tình yêu tẻ nhạt như

nắng nhạt và không còn đẹp, lãng mạn như hương thơm nữa:

Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ

Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình

Và như màu theo nắng nhạt, như hương

(Dối trá)

Với những kiểu so sánh liên tiếp ở vế B, đã tạo nên cấu trúc nhiều tầng bậc,

hình ảnh mới, ý nghĩa mới mà vẫn mộc mạc, gần gũi với đời sống hàng ngày. Tác

giả không chỉ sử dụng từ so sánh “như” mà cả dấu phẩy [,] để ngăn cách trong vế B.

Đồng thời làm tăng lên sự thay đổi rất sáng tạo hết sức mới mẻ trong cấu trúc so

sánh tu từ.

Đôi khi giữa các hình ảnh so sánh ở vế B, tác giả sử dụng từ so sánh “như”

cộng với nhịp điệu trong câu nói và trí tưởng tượng rất táo bạo của mình, đã tạo nên

câu so sánh rất hấp dẫn và gần gũi hơn với người đọc, người nghe.

Nhà thơ mượn hình ảnh “rượu”, “hương” để nói lên sức mạnh từ khúc nhạc và

cả người thể hiện khúc nhạc ấy. Với sáng tạo kiểu so sánh liên tiếp ở vế B càng tăng

lên sức cuốn hút của đối tượng mà nhà thơ nói đến:

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn

Như hương thấm tận qua xương tủy

Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn

(Huyền diệu)

Hình thức so sánh tu từ là phương tiện rất dễ sử dụng. Bởi vì, vế so sánh và vế

được so sánh lộ rõ trên bề mặt ngôn từ. Với sự sáng tạo đã đẩy vế B đi ra xa hơn kết

hợp với nhịp điệu của câu thơ góp phần làm tăng thêm tính hấp dẫn, lôi cuốn đối

với người tiếp nhận.

- Hình thức so sánh tu từ có cấu trúc đảo như BA

Xuân Diệu là một trong các nhà thơ mang tư tưởng thi ca hiện đại và luôn

mang một ý thức sáng tạo ngôn ngữ trong thơ theo quy luật cái mới. Để thực thi quá

trình đổi mới và mang lại hiệu quả cao nhất cho thơ, Xuân Diệu đã quan tâm đến

quy trình sáng tạo. Vì thế, các kiểu so sánh trong thơ điều được ông sáng tạo, có

2,3% kiểu so sánh đảo như BA với 04/173 lượt so sánh. Tuy chỉ chiếm số lượng

nhỏ nhưng các câu so sánh ấy đã tạo nên nét đặc sắc riêng và góp phần làm phong

phú, đa dạng hơn các kiểu loại so sánh trong thơ Xuân Diệu.

“Đứa trẻ con ôm cái bánh” thể hiện sự trong sáng, ngây thơ. Đây là ước muốn

được giữ mãi tuổi thơ hồn nhiên, vui tươi của nhà thơ. Đồng thời qua hình ảnh đó,

Xuân Diệu chỉ muốn buộc chặt thời gian lại muốn cho thời gian chậm lại nếu như

không nói là không cho tuần hoàn:

Chủ nhật còn nguyên, còn trọn vẹn;

Tôi chưa tiêu mất một giờ nào.

Như đứa trẻ con ôm cái bánh,

E dè tôi muốn giữ cho lâu.

(Giờ tàn)

Đây như một giấc “chiêm bao” nhà thơ nghĩ đến tình yêu và kết quả thật viên

mãn cho tình yêu “bỗng một lần kia đỗ một bờ”. Ước muốn đơn sơ, giản dị như thế

vẫn không thể thực hiện được mà phải nhờ đến “chiêm bao”:

Như một chiêm bao rất mộng thơ,

Bâng khuâng tôi nghĩ chuyện tình cờ

Của hai thuyền lạ phiêu trên biển,

Bỗng một lần kia đỗ một bờ.

(Tình cờ)

Hình thức đảo từ so sánh lên phía trước này càng nhấn mạnh thêm ý của nhà

thơ. Tác giả không chỉ nhấn mạnh cho vế B mà cả vế A. Qua đó, còn hể hiện sự

sáng tạo độc đáo, hấp dẫn trong hình thức so sánh này.

2.2.2 Hình thức so sánh tu từ A là B (B là hình ảnh)

Hình thức này được Xuân Diệu sử dụng tương đối cao với 49/173 lượt chiếm

28,3% trong tổng số lượt được sử dụng trong hai tập thơ. Hình thức A là B có tác

dụng như một sự khẳng định về mặt giá trị nhận thức. Đồng thời để nhấn mạnh ý

nghĩa tuyệt đối của nó làm cho cái được so sánh rõ ràng hơn qua cái so sánh và

chúng cũng dễ hình tượng hơn. Chỉ trong bài thơ mở đầu cho tập thơ Thơ thơ đã sử

dụng hình thức so sánh A là B với 5 lượt.

Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây.

Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.

Đây là quán tha hồ muôn khách đến;

Đây là bình thu hợp khí muôn phương;

Đây là vườn chim nhả hạt mười phương,

Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc

…………….

- Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ

Mà vạn vật là muôn đá nam châm;

Nếu hương đêm say giây với trăng rằm,

Sao lại trách người thơ tình lơi lả.

(Cảm xúc)

Cảm xúc là bài thơ mở đầu tập Thơ thơ, ta bắt gặp Xuân Diệu sử dụng liên tiếp

mấy câu thơ với từ so sánh “là” mang ý nghĩa giải thích đồng thời đó cũng là sự

khẳng định. Khi nhà thơ giải thích “quán tha hồ muôn khách đến”, “bình thu hợp

khí muôn phương”, “vườn chim nhả hạt mười phương”, đây là quy luật của lẽ

thường. Bên cạnh đó, nhà thơ còn tự khẳng định, so sánh mình là “một cây kim nhỏ

bé”, “mà vạn vật là muôn đá nam châm”.

Một chuỗi những câu so sánh tu từ nối tiếp nhau đã giúp Xuân Điệu diễn đạt

hết những cảm xúc của mình về những quy luật tự nhiên của tạo hóa. Có lúc “ông

hoàng của thơ tình” tự cho mình là:

Tôi là một kẻ điên cuồng

Yêu những ái tình ngây dại

(Thở than)

Xuân Diệu rất táo bạo khi so sánh mình với “một kẻ điên cuồng”, vì chỉ khi là

kẻ điên mới có thể vô tư thể hiện những gì mà bình thường không thể nói được. với

từ so sánh “là” càng khẳng định sự đau khổ của tình yêu đơn phương.

Kiểu cấu trúc này được Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên và các nhà thơ khác

sử dụng nhiều. Nhưng với Xuân Diệu thì ông có cách tư duy và sáng tạo theo phong

cách của ông. Khi sử dụng kiểu so sánh này càng làm cho ý thơ trở nên thâm thúy,

giàu sức biểu cảm và mượt mà hơn. Từ “là” với chức năng nối hai vế A và B làm

cho so sánh tu từ mang sắc thái khẳng định.

Xuân Diệu rất sáng tạo khi đưa hình ảnh thực vật vào trong thơ để so sánh với

tình yêu “cơn mưa lũ” với “lá khoai”. Dù cho mưa hay lũ lớn như thế nào đi chăng

nữa nhưng khi gặp lá khoai cũng không thể tác động hay ảnh hưởng gì. Vì nước

không thể nào thấm vào bản chất cấu tạo của lá khoai. Nhà thơ so sánh như vậy

nhằm thể hiện sự thất vọng khi không được đáp trả lại tình yêu:

Lòng ta là một cơn mưa lũ,

Đã gặp lòng em là lá khoai

Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc,

Lá xanh không ướt đến da ngoài

(Nước đổ lá khoai)

Với hình thức so sánh này, nhà thơ muốn đưa ra sự so sánh cũng như lời khẳng

định để nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của nó. Cùng với lối vân dụng sáng tạo trong

nghệ thuật của Xuân Diệu càng làm tăng ý nghĩa tuyệt đối của hình thức so sánh

này lên gấp bội phần.

2.2.3 Hình thức so sánh tu từ A- B

Kiểu so sánh này thường được sử dụng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, với ưu

thế là hạn chế được câu chữ, không những thế nó còn góp phần làm cho câu thơ có

vần nhịp, sắc thái tu từ và tính thẩm mĩ cao. Kiểu so sánh này được Xuân Diệu sử

dụng với tỉ lệ 5,8% chiếm 10/173 lượt.

Câu thơ thể hiện niềm vui của mùa xuân, của năm mới với bao hi vọng đang

trông chờ phía trước và mùa xuân cũng bắt đầu cho tình yêu đẹp. Chính tình yêu đã

cảm hóa được thiên nhiên nên thiên nhiên và con người có sự giao cảm. Vì thế, nhà

thơ mới có sự so sánh “tình yêu” với “hoa nở”, đó là thời khắc vui tươi và đẹp nhất

của nhân loại, của đời người:

Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi

(Nguyên đán)

Do loại so sánh này được nhận diện hai vế A và B nhờ vào dấu [,] ngăn cách,

hoặc độ dài hay ngữ điệu của câu và được xây dựng trên cơ sở nét tương đồng.

Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;

Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.

(Lời kỹ nữ)

Qua câu thơ trên, ta thấy được thân phận bọt bèo trôi nổi của cuộc đời kỹ nữ

phải sống nhờ vào “du khách” rất bấp bênh, bởi “du khách” như “thuyền” mà người

“giai nhân” như “bến” đợi dưới cây già. Từ đó, có thể đưa ra một nhận định

“thuyền” có thể bỏ “bến” nhưng “bến” không thể bỏ “thuyền”.

Xuân Diệu quan sát mọi vật bằng tất cả các giác quan của mình. Qua đó ta

thấy được tài năng sáng tạo của ông, khi ông mượn hình ảnh “bến”, “thuyền” để so

sánh với đời người kỹ nữ. Bên cạnh đó ta còn thấy được sự chung thủy son sắc của

người phụ nữ, như câu ca dao:

Thuyền về có nhớ bến chăng?

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

(Ca dao)

Hình thức so sánh này nhờ vào lợi thế hạn chế được số chữ, nhưng nó cũng có

sức mạnh phi thường không thua gì các hình thức khác. Bởi nó nhờ vào ngữ điệu và

độ ngắt của câu thơ,… tạo sắc thái thẩm mĩ cao cho ý thơ. Nên thường được sử

dụng trong ca dao và thơ ca hiện đại.

2.2.4 Hình thức so sánh tu từ A bằng, hơn,.. B

Ngoài các kiểu so sánh trên, hình thức so sánh này được Xuân Diệu sử dụng tới

11% chiếm 19/173 lượt. Trong đó: So sánh bằng có 16 câu chiếm 9,2%, so sánh

hơn có 01 câu chiếm 0,6%, so sánh kém có 01 câu chiếm 0,6%, so sánh hay có 01

câu chiếm 0,6%.

Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm;

Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em.

Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.

Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.

(Tương tư chiều)

Sự sáng tạo thật mới mẻ của Xuân Diệu với hình ảnh một buổi chiều, khi mọi

vật bắt đầu đi ngủ hay hoạt động theo quy luật của tạo hóa. Khi so sánh nỗi “buồn”

với “buổi chiều êm” không có tiếng động. Đó là cái buồn da diết nhất, đặc biệt khi

yêu mà không được người mình yêu đáp lại, chỉ là tương tư.

Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi

(Dối trá)

Hình ảnh đáng thương của những đứa trẻ khi không còn nhận được sự quan

tâm từ chính gia đình mình, nay đã đi vào trong thơ Xuân Diệu. Khi ông có cách so

sánh ngộ ngĩnh mà đầy triết lí “lòng cô đơn” hơn “đứa mồ côi”, một khi đã mồ côi

rồi thì làm sao không khỏi cô đơn. Những đứa trẻ ấy phải gom nhặt niềm vui, tình

thương của thiên hạ để an ủi chính mình rằng mình không hề mồ côi. Từ đó, thấy

được sự trống trải và nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ.

Gió thêm nóng, ngày dài thêm ánh sáng

Ve thêm sầu- em cũng kém dung nhan.

(Hè)

Qua câu thơ trên ta thấy được sự gửi gắm, nhắn gửi của nhà thơ khi mỗi độ hè

sang, “ve” bắt đầu khải lên những khúc nhạc sầu báo hiệu mùa hè đến, thì khi ấy

cảnh vật lại trở nên buồn bả, thể hiện cả sự chia li. Tác giả đã so sánh hình ảnh “ve

thêm sầu” với “dung nhan” của người con gái để nói lên sự hữu hạn của thời gian,

còn đời người thì ngắn ngủi. Đặc biệt là tuổi xuân của người con gái qua đi không

bao giờ trở lại.

Qua khảo sát trên, ta thấy Xuân Diệu đã sử dụng các kiểu so sánh tu từ trong

thơ với tầng số tương đối cao nhằm tôn lên được hết những tầng ý nghĩa, với ý

2.3 HÌNH ẢNH SO SÁNH TRONG HAI TẬP

tưởng rất táo bạo, rất Xuân Diệu.

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ CỦA XUÂN DIỆU

Cũng như cấu trúc so sánh, hình thức so sánh, hình ảnh so sánh có tác dụng

quan trọng quyết định cho cách nhìn, cách đánh giá, tình cảm của những người đã

tạo ra chúng. Đó là yếu tố quan trọng làm nên nét đặc trưng về nội dung lẫn hình

thức trong thơ Xuân Diệu. Nhà thơ luôn cảm nhận, suy nghĩ những vấn đề của cuộc

sống bằng những chất liệu phong phú, đa dạng dù cho tâm trạng vui hay buồn.

Với hình ảnh so sánh tu từ trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió của nhà

thơ Xuân Diệu, người đọc sẽ nhận được những nét tương đồng rất độc đáo nhờ vào

trí tưởng tượng hết sức tuyệt vời của “ông hoàng thơ tình”.

Trong 173 lượt có sử dụng hình ảnh so sánh thì có thể chia ra làm 6 loại như:

hình ảnh lấy từ tự nhiên, con người, vật thể nhân tạo, thực vật, động vật, vật thể

khác. Hình ảnh lấy từ con người với những hành động trạng thái, cảm xúc, tâm

trạng thường ngày.

2.3.1 Nhóm hình ảnh tự nhiên

Hình ảnh so sánh là những hình ảnh tự nhiên được Xuân Diệu sử dụng phong

phú nhằm miêu tả, đánh giá, bộc lộ cảm xúc, tạo thêm sự gần gũi với thiên nhiên.

Người viết thống kê được hình ảnh so sánh là thiên nhiên có khoảng 55/173 lượt

chiếm 31,8%, đứng vị trí thứ nhất trong việc sử dụng hình ảnh so sánh trong thơ

Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu thường sử dụng các hình ảnh từ hiện tượng tự nhiên

như: hương, sa mạc, gió, mây, trăng, nắng,… Cụ thể ở trong một số bài thơ sau:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…

(Vì sao)

Cái sáng tạo của Xuân Diệu rất độc đáo và mới mẻ, khi so sánh “tình yêu” với

“nắng nhạt”, “mây nhè nhẹ”, “gió hiu hiu”. “Nắng nhạt” là nắng không quá gay

gắt hay nắng quá yếu, “mây nhè nhẹ” là mây trôi qua nhẹ nhàng thể hiện sự bình

yên; “gió hiu hiu” là gió đủ làm mát dễ đưa ta vào ngủ trưa ngon giấc. Từ những

hình ảnh tự nhiên đó, ta thấy thiên nhiên đã hòa hợp gắn kết vào nhau tạo ra bầu trời

tuyệt đẹp. Qua đó, diễn tả được tình yêu không thể chia cắt được, không thể tìm

hiểu nguyên nhân giống như thế giới tự nhiên: “nắng nhạt”, “mây nhè nhẹ”, “gió

hiu hiu”.

Tình yêu muôn thủa vẫn là hương

(Gửi hương cho gió)

“Hương” là mùi thơm được tiết ra từ hoa. Xuân Diệu rất độc đáo khi so sánh

“tình yêu” với “hương”. Đây là tình yêu đẹp và lãng mạn như hương thơm vậy.

Xuân Diệu hình dung hình ảnh gió- vốn là một vật thể vô hình, không cố định

và “gió” làm gì có “nước mắt”, “mồ hôi”,… để làm đối tượng cho sự liên tưởng của

mình. Sự liên tưởng độc đáo ấy diễn tả cảm xúc yêu thương và luôn quan sát mọi

vật bằng các giác quan nên mới thấy được:

Và mưa kia là nước mắt gió rơi,

Và sương ấy là mồ hôi gió rớt

(Tiếng gió)

“Gió”, “mây” gợi lên sự vô tư hồn nhiên, không bó buộc càng làm cho câu thơ

trở nên sinh động, phóng khoáng, sôi nổi hơn của “mây đưa” và “gió lượn”. Bên

cạnh đó, so sánh tu từ lấy hình ảnh so sánh là: hương, núi, trăng, nước cũng không

kém phần quan trọng, góp phần tạo nên tính hấp dẫn, độc đáo trong thơ Xuân Diệu:

Gió qua như một khách thừa lương,

Lay nắng trên mình lá loáng sương.

(Lạc quan)

Nhà thơ chắc hẳn có sự quan sát và cảm nhận rất tỉ mỉ mới có thể đưa ra sự so

sánh như thế “gió qua” như “một khách thừa lương”, thường thì khách đi đường thì

hay bị thiếu lương thực nhưng ở đây lại dư thừa. Từ đó ta có thể hình dung ra gió

như thế nào, đó cũng thể hiện tinh thần lạc quan của Xuân Diệu trước cuộc sống:

Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo…

Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ.

(Thở than)

Với hình ảnh “sáng trăng” ta liên tưởng ngay đến những đêm trăng thanh chấp

cánh cho đôi tình yêu đang nở rộ của đôi trai gái , trẻ trung hẹn hò muốn kết duyên

với nhau như câu da dao:

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

(Ca dao)

nhưng với Xuân Diệu thì ngược lại “lạnh lẽo” như “sáng trăng trên mặt nước thu

lờ”, chính sự so sánh hết sức táo bạo ấy đã thể hiện sự cô đơn hiu quạnh của nhà

thơ, khi trăng sáng thì nỗi buồn càng thêm nhiều, càng lạnh lẽo.

Ngoài ra, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh so sánh từ thiên nhiên khác như: mặt

trời, suối, ánh sáng, ngọc, vực thẳm,….

Tôi giấu sẵn một linh hồn hiu quạnh,

Cho nên, liền chiều đó, tôi hết vui.

Không thấy người bằng không thấy mặt trời

(Dối trá)

Nhà thơ so sánh “không thấy người bằng không thấy mặt trời”, thể hiện nỗi

nhớ trong tình yêu khi xa cách, khi không nhìn thấy người mình yêu. Từ đó, ta liên

tưởng đến hình ảnh trong ca dao:

Núi cao chi lắm núi ơi

Núi che mặt trời không thấy người thương

(Ca dao)

Từ những hình ảnh Xuân Diệu sử dụng, ta thấy nó mang vẻ đẹp của tư duy

nghệ thuật độc đáo, nó không chỉ giúp chúng ta nhìn và cảm nhận được vẻ đẹp tự

nhiên ấy mà còn giúp nhà thơ bộc lộ được tình yêu một cách tự nhiên, sâu sắc, nồng

nàn thắm thiết.

Hình ảnh hiện tượng tự nhiên là một chất liệu so sánh mà bao đời nay được các

thi nhân sử dụng rất nhiều trong sáng tác thơ văn. Họ dùng những hình ảnh: mây,

gió, sa mạc, nắng, trăng,… như những hình ảnh tượng trưng, ước lệ nhằm thể hiện

cái đẹp, cái sang trọng, độc đáo, quý phái của người xưa. Nếu trong thơ xưa hiện

tượng tự nhiên mang vẻ trang nghiêm, quý phái bao nhiêu thì hình ảnh tự nhiên

trong thơ Xuân Diệu lại giản dị, sâu sắc bấy nhiêu. Vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu là

nét đẹp đơn giản nhưng không sơ sài, sắc sảo mà không cầu kì.

2.3.2 Nhóm hình ảnh là con người

Hình ảnh so sánh là con người chiếm 17.3% với 30 lượt được sử dụng trong hai

tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió lấy từ cuộc sống thực của con người, nó gợi lên

những vẻ đẹp của sự mộc mạc, chân chất, bình dị và gần gũi với đời sống, nhận

thức của mọi tầng lớp người tiếp nhận.

Ai đem phân chất một mùi hương

Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,

Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc

Như thuyền ngư phủ lạc trong sương

(Vì sao)

Hình ảnh “thuyền ngư phủ” đã thay nhà thơ diễn tả cảnh đi đánh bắt của ngư

dân ven biển sống bằng nghề đánh bắt. Khi so sánh “giòng cảm xúc” với “thuyền

ngư phủ lạc trong sương”, tạo ra hình ảnh ngư dân cùng thuyền trở về sau bao ngày

ra khơi mờ mờ, ảo ảo đến kì diệu làm ta không nhìn thấy rõ.

Xuân Diệu liên tưởng đến nét tương đồng giữa hai đối tượng một cách bất ngờ,

thú vị, bóng bẩy nhưng rất dễ cảm nhận vì nó lấy từ con người gần gũi, thân thuộc

với đời sống con người. Từ đó cho thấy nhà thơ của chúng ta đã đi vào thơ ca rất

bình dị đồng thời cũng có chút ngông của tuổi trẻ.

Chủ nhật còn nguyên, còn trọn vẹn;

Tôi chưa tiêu mất một giờ nào.

Như đứa trẻ con ôm cái bánh,

E dè tôi muốn giữ cho lâu.

(Giờ tàn)

Xuân Diệu liên tưởng hình ảnh so sánh “như đứa trẻ con ôm cái bánh”, thể

hiện sự ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng. Đó là ước muốn đơn sơ của nhà thơ cũng

như bao người khác nhưng ước muốn đó không thể thực hiện được, bởi từ xưa đến

nay không ai có thể níu kéo hoặc giữ thời gian đứng lại được, vốn dĩ thời gian luôn

vận động và tuần hoàn.

Đôi lúc, nhà thơ còn nghĩ và liên tưởng đến những hình ảnh: đứa nhỏ, kẻ điên

cuồng, kẻ bơ vơ, cô khách,… đó là những thân phận bơ vơ không nơi nương tựa,

không làm chủ được bản thân mình, càng không có lối đi riêng cho cuộc đời.

Ta buồn riêng tây như đứa nhỏ

Mẹ bỏ đi, vò võ kiếm đồ chơi

(Riêng tây)

Nỗi buồn thì không ai giống ai và nỗi buồn của ta chỉ có mình ta hiểu. Vì thế,

Xuân Diệu mới có sự sáng tạo khi so sánh “ta buồn riêng tây” với “đứa nhỏ”. Khi

bị bỏ bơ vơ chỉ chơi một mình, phải tự mình kiếm đồ chơi của đứa nhỏ giống như

nỗi buồn của nhà thơ hiện giờ không biết chia sẻ, tâm sự cùng ai. Xuân Diệu mượn

hình ảnh ngây thơ, hồn nhiên để thể hiện cái buồn của mình:

Tôi là một kẻ điên cuồng

Yêu những ái tình ngây dại

Tôi cứ bắt lòng tôi đau đớn mãi,

Đau vô duyên, đau không thể làm gì.

(Thở than)

Xuân Diệu rất táo bạo khi so sánh mình với “một kẻ điên cuồng”, vì chỉ khi là

kẻ điên mới có thể vô tư thể hiện những gì mà bình thường không thể nói được. Chỉ

có như thế mới giải bày được tình yêu đơn phương của mình.

Bên cạnh đó, nhà thơ còn không quên mơ ước khi là thi nhân và cũng ngộ ra

được cái hay của thi nhân “hát nỗi buồn vô cớ”, cả cái khổ của thi nhân khi làm thơ

vì “thơ không làm bớt khổ”:

Anh hãy là thi nhân

Hát nỗi buồn vô cớ:

- Tôi không biết làm thơ

Thơ không làm bớt khổ.

(Chàng sầu)

Thi nhân là một hình ảnh rất tài giỏi sáng tác ra những thi phẩm. Ở đây, nhà thơ

muốn là thi nhân nhưng chỉ muốn hát nỗi buồn mà là “nỗi buồn vô cớ”, nỗi buồn

không có lí do chính đáng. Xuân Diệu so sánh mình như thi nhân chỉ hát để giải sầu

vơi đi nỗi buồn, chứ không làm thơ vì “thơ không làm bớt khổ”.

Nhà thơ lấy hình ảnh so sánh từ con người với những hình ảnh có từ đời sống

hàng ngày như: đứa trẻ, kẻ điên, khách, đứa mồ côi,… càng làm cho người đọc

thấm đẫm nước mắt trước sự thật không thể chối từ mà cuộc sống mang đến cho

họ.không có cách nào giúp cho họ có được tình thương thật sự, cách tốt nhất là tự

an ủi mình “ta được yêu đấy chứ”.

Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi,

Nhặc nụ cười của thiên hạ, than ôi

Ta tự nhủ: “ta được yêu đấy chứ”.

(Dối trá)

Hình ảnh đáng thương của những đứa trẻ khi không còn nhận được sự quan

tâm từ chính gia đình mình, nay đã đi vào trong thơ Xuân Diệu. Khi ông có cách so

sánh ngộ ngĩnh mà đầy triết lí “lòng cô đơn” với “đứa mồ côi”, một khi đã mồ côi

rồi thì làm sao không khỏi cô đơn. Qua đó, câu thơ trên cũng cho ta thấy được sự

trống trải và nỗi cô đơn của nhà thơ.

Sự sáng tạo rất mới mẻ của Xuân Diệu, khi đưa hình ảnh rất mộc mạc mà bình

dị của con người vào trong so sánh tu từ đã góp phần làm phong phú thêm hình ảnh

cũng như về đề tài sáng tác trong thơ ca. Đó cũng là một trong những phong cách

rất riêng của Xuân Diệu khi sáng tác, bởi ông nhìn mọi vật xung quanh bằng tất cả

các giác quan.

2.3.3 Nhóm hình ảnh là thực vật

Qua khảo sát hình ảnh thực vật cũng chiếm một số lượng đáng kể trong hình

ảnh so sánh của thơ Xuân Diệu, có 17 câu chiếm 9,8%. Hình ảnh thực vật được sử

dụng nhiều trong thơ văn vì nó biểu tượng cho cái đẹp, cái tinh túy thuần khuyết

nhất, cái sức mạnh tiềm tàng của một tâm hồn thơ. Khảo sát So sánh tu từ trong thơ

Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió ta thường bắt gặp những

hình ảnh thực vật như: hoa, lá, dừa, liễu, sậy, trái,…. Hình ảnh nào cũng mang một

vài đặc tính để biểu đạt cho những ý nghĩa nhất định.

Ý tôi là những cành trinh nữ

(Ý thoáng)

Nhà thơ so sánh “ý” mình như “những cành trinh nữ”, thể hiện mong muốn

được quan tâm, che chở. Bởi “trinh nữ” là hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp thuần

túy, quý phái của phái đẹp cũng thể hiện sự yếu ớt cần sự quan tâm, bảo vệ giúp đỡ

của phái mạnh:

Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im

Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim

Còn cứ run hoài, như chiếc lá

Sau khi trận gió đã im lìm.

(Huyền diệu)

Khi nhà thơ so sánh tiếng trái tim “run” như “chiếc lá”. “Chiếc lá” vẫn ở trên

cành mới có thể gặp gió thổi run. Ở đây nhà thơ so sánh “trái tim” run sau khi nghe

khúc nhạc với “chiếc lá” run sau khi gió đã im, để thể hiện sức mạnh huyền diệu từ

khúc nhạc và sức mạnh từ “chiếc lá” tự run không cần gió thổi.

Vừa mới khi mai tôi cảm thấy

Trong tay ôm một bó hoa cười.

Ngọn gió thời gian không ngớt thổi:

Giờ tàn như những cánh hoa rơi…

(Giờ tàn)

Nhà thơ mượn hình ảnh “cánh hoa” sáng tươi, đẹp chiều tàn để chỉ cảm xúc

buồn vui lẫn lộn của con người. Từ đó, có cái nhìn thực tế về tâm trạng con người

thay đổi giống như “cánh hoa rơi”.

Hình ảnh so sánh là thực vật đôi khi được đi chung với hình ảnh khác. Từ đó,

cho ta thấy trí liên tưởng, tưởng tượng của nhà thơ vô cùng phong phú.

Mai yếu đuối, sao bằng thông mạnh mẽ?

Dáng yêu kiều, sao bằng vẻ hùng anh

Những chàng trai đương sức lực tươi xanh,

Bước vạm vỡ như là đi chinh phục.

(Đẹp)

Hình ảnh thực vật “mai” tượng trưng cho phái đẹp, cái đẹp, sự mềm mại, sống

ở những nơi có điều kiện tốt và cần chăm sóc, “thông” tượng trưng cho phái mạnh,

sự cứng cỏi có thể sống ở những nơi rừng núi hoang vu. Từ đó, Xuân Diệu liên

tưởng so sánh với hình ảnh người “phụ nữ” với “dáng yêu kiều” và “đàn ông” với

“vẻ hùng anh”. Hình ảnh người con trai trong tuổi thanh xuân thể hiện sự dũng cảm,

oai phong rất dễ lấy lòng các cô gái.

Thực vật cũng góp phần rất quan trọng trong đời sống của chúng ta, nó không

chỉ cung cấp các dưỡng chất nuôi cơ thể phát triển tốt. Mà khi nó đi vào trong

vănchương thì cũng rất được rất nhiều thi sĩ chú ý đến. Từ đó, thực vật được quan

tâm nhiều hơn và xuất hiện rất nhiều trong sáng tác của các nhà văn nhà thơ. Đặc

biệt là đến với Xuân Diệu, thế giới thực vật trở nên phong phú và đa dạng hơn nhờ

vào tài sáng tạo, vận dụng so sánh tu từ trong thơ.

2.3.4 Nhóm hình ảnh là vật thể nhân tạo

Đó là những vật thể nhân tạo được con người sáng tạo ra trong quá trình phát

triển để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. So sánh tu từ lấy hình ảnh từ vật

thể nhân tạo gợi cho người đọc thấy được sự tìm tòi, sáng tạo của con người dựa

trên những nguyên liệu, vật liệu sẵn có để phát minh ra những vật thể cần sử dụng

phục vụ cho nhu cầu đi cũng như ở, làm đẹp, kiếm sống cũng như giải trí,…. hình

ảnh này chiếm 14,5% tương đương với 25 câu. Xuân Diệu đã có những lúc liên

tưởng độc đáo và tuyệt vời như:

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn;

Như hương thấm tận qua xương tủy.

Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.

(Huyền diệu)

Xuân Diệu so sánh “say người như rượu tối tân hôn” cho thấy sức hấp dẫn, lôi

cuốn của người phụ nữ, “rượu” được người ta chế tạo để sử dụng như một thú vui

tao nhã, bên cạnh đó rượu cũng là một phương tiện để giải sầu. Ở đây nhà thơ đưa

vào trong thơ hình ảnh “rượu tối tân hôn” để thể hiện niềm vui khi được cùng người

mình yêu thành duyên như mơ ước. Đó là kết quả của cả một chặng đường dài, sự

bền chặc, lòng chung thủy son sắc trong tình yêu.

Nhưng có lúc nhà thơ lại rơi vào trạng thái bi ai muốn được thay đổi nhưng lại

rơi vào bế tắc của cuộc sống thực tại mà con người đã rất trăn trở khi đối mặt. Đó là

cảnh nghèo khó cơ cực trong cuộc sống của nhân dân ta ở những năm 1938 của

người dân Việt Nam như: chim, ngựa, nai,…. cụ thể như sau:

Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp

Như túp nhà không bốn vách xiêu

(Bên ấy bên này)

Hình ảnh “túp nhà ” thể hiện sự nghèo khó, giản dị nhưng ở đây lại là “túp nhà

không bốn vách xiêu” càng làm tăng lên cái nghèo, rất nghèo của cuộc sống nơi đây

vào giai đoạn này.

Cả cảnh bi ai, mất lòng tin vào tình yêu của nhà thơ, khi so sánh “tình yêu” với

quán trọ bên đường. Tình yêu là tình cảm quý giá nhất của tuổi trẻ ai cũng muốn

yêu và được yêu, trong khi đó “quán trọ bên đường” là nơi khách có thể đến ở trọ

lâu dài hoặc chỉ ở lại vài phút rồi cũng sẽ đi. Xuân Diệu còn cho ta thấy được sự

tạm bợ của tình yêu, nó không chung thủy gắn kết mà tình yêu chỉ là những giây

phút dừng chân ngắn ngủi như quán trọ bên đường không có gì chắc chắn bền chặt.

Mà tình yêu như quán trọ bên đường.

(Chỉ ở lòng ta)

Người Việt Nam vốn cần cù, siêng năng và sáng tạo nên họ đã dùng óc sáng

tạo của mình tạo ra những vật phẩm phục vụ cho đời sống. Không chỉ như thế,

những vật thể nhân tạo ấy thu hút được rất nhiều người ở các nơi khác cũng như thế

giới đến tham quan và học hỏi. Khi đi vào thế giới văn chương đã tạo nên một đề tài

thu hút rất nhiều nhà văn nhà thơ. Đặc biệt là Xuân Diệu đã có sáng tạo rất mới khi

đưa những hình ảnh vật thể nhân tạo này vào trong so sánh tu từ.

2.3.5 Nhóm hình ảnh là động vật

Lãnh thổ Việt Nam nằm trên thềm lục địa, có hình chữ S, thuộc vùng cận xích

đạo nóng ẩm mưa nhiều. Chính điều này đã làm cho nước ta phong phú về chủng

loại, giàu có về sản lượng động, thực vật. Vì thế mà động vật đi vào thơ xưa một

cách dễ dàng, đặc biệt là ca dao, dân ca. Việc đưa động vật vào thơ không chỉ làm

cho câu thơ gần gũi, giản dị, giàu tính gợi hình, mang phong cách đặc thù Việt Nam

mà còn ca ngợi được sự trù phú và đa dạng về chủng loại động vật của quê hương.

Cụ thể, hình ảnh so sánh là động vật có 13/173 câu chiếm 7,5% tổng số các câu

có sử dụng biện pháp so sánh tu từ. Xuân Diệu đã kế thừa và phát huy nền văn hóa

và văn chương của dân tộc nên trong thơ ông so sánh tu từ có hình ảnh là động vật

được sử dụng tạo nên những vần thơ hay. Nhìn chung hình ảnh so sánh là động vật

trong thơ Xuân Diệu là những loài quen thuộc, gần gũi với đời sống sinh hoạt hằng

ngày:

Tôi là con nai bị chiều đánh lưới,

Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối.

(Khi chiều giăng lưới)

Xuân Diệu ví mình giống như “con nai bị chiều đánh lưới” để thể hiện sự bơ

vơ lạc lõng của nhà thơ, ông không biết đi đâu khi nỗi sầu đang vây quanh, bóng

tối phủ kín, một mình bơ vơ vô định.

Nói cùng ta nghìn thuở mộng hoa hương;

Và lòng ta như ngựa trẻ không cương.

(Mênh mông)

Hình ảnh “ngựa trẻ không cương” thể hiện ngựa không chịu sự ràng buộc, gò

bó, không chịu sự dẫn dắt của con người. Qua đó, thể hiện ý muốn, khát vọng tự do

của nhà thơ.

Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim;

Dưới nhánh, không còn một chút đêm:

(Lạc quan)

Câu thơ trên đã thể hiện được ý muốn nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người là

niềm vui trong cuộc sống. Khi so sánh “vườn cười bằng bướm, hót bằng chim”, đã

thể hiện được cuộc sống sôi động tràn trề sức sống với đủ âm thanh, sắc màu. Đó là

tình yêu cuộc sống rất mãnh liệt của nhà thơ Xuân Diệu.

Xuân Diệu đã sử dụng hình ảnh so sánh mình như “con chim đến từ núi lạ”,

“ngứa cổ hát chơi”, để thể hiện sự mới mẻ và lạ lẫm đối với tất cả mọi thứ khi mới

bước vào nền thơ. Đó là hình ảnh so sánh độc đáo chưa ai so sánh, Xuân Diệu bộc

lộ được cái cảm xúc, sự tự do không bị ràng buộc bởi những quy định, quy luật của

nơi mình mới đến:

Tôi là con chim đến từ núi lạ,

Ngứa cổ hát chơi,

Khi gió sớm vào reo um khóm lá,

Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời.

(Lời thơ vào tập gửi hương)

Cũng như so sánh tu từ lấy hình ảnh từ các loại khác, thế giới động vật đi vào

so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu cũng hết sức phong phú, đa dạng và quan trọng

hơn nữa là bằng trí tuệ của mình cùng sự liên tưởng kì diệu đã nắm bắt được nét

tương đồng giữa các đối tượng mà không phải ai cũng nhìn thấy được.

2.3.6 Nhóm hình ảnh là các vật thể khác

Qua khảo sát có 33/173 câu chiếm 19,1% trong tổng số câu có chứa hình ảnh

so sánh. Trong thơ Xuân Diệu ngoài những hình ảnh quen thuộc như: tự nhiên, con

người, động vật, thực vật,… Xuân Diệu còn sử dụng các vật thể khác cụ thể như:

Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt,

Tưởng trăng tàn, hoa tạn với hồn tiêu

(Yêu)

Xuân Diệu sử dụng hai vế đối lập nhau A “phút gần gũi” với B “giờ chia biệt”,

để thấy được sự mong muốn trong tình yêu, đồng thời thể hiện khát vọng được yêu

quá mãnh liệt của nhà thơ, vì yêu quá nên khi ở gần đó nhưng cũng thấy xa “phút

gần gũi cũng như giờ chia biệt”.

Những hình ảnh này rất phong phú và đa dạng với sự suy nghĩ hết sức dễ

thương, độc đáo, thật hồn nhiên, dí dỏm. Bên cạnh đó, còn có những lời thơ thật sâu

sắc, nhà thơ đã dồn hết sự bực tức vào câu thơ:

Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa

Chết không gian, khô héo cả hồn cao!

(Hè)

Khi nhắc đến “tiếng gà” thì người ta sẽ biết rằng đó là niềm báo của hừng đông

của ngày mới với biết bao hi vọng về những gì tốt đẹp. Nhưng đối với Xuân Diệu

“tiếng gà gáy” thể hiện nỗi buồn da diếc, nỗi buồn đau đớn “như máu ứa”. Chết cả

không gian, khô héo cả tâm hồn.

Thơ Xuân Diệu có điểm chung là lấy hình ảnh để so sánh nhằm bộc lộ cảm xúc

trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Tuy nhiên, nó cũng có những hình ảnh độc đáo

riêng xuất phát từ cách nhìn, cách nghĩ, cách nói và cả cách diễn đạt riêng của “ông

hoàng thơ tình”.

Hầu hết những hình ảnh trong thơ là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi của

cuộc sống hàng ngày. Bởi nhờ vào sự sáng tạo ngôn từ rất đặc biệt của Xuân

Diệu. Nhờ so sánh tu từ mà nhà thơ đã thể hiện được sự quan sát, liên tưởng, giản dị

thật độc đáo, mở ra cho người đọc những nhận thức mới.

Chương 3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HÌNH

THỨC SO SÁNH TU TỪ TRONG HAI TẬP

THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

3.1 SỬ DỤNG HÌNH THỨC SO SÁNH TU TỪ ĐỂ THỂ HIỆN TÌNH

YÊU CUỘC SỐNG VÀ THIÊN NHIÊN

Khi nói về Xuân Diệu có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: “Nguyễn Đăng Mạnh

thấy nét riêng của thơ Xuân Diệu là “niềm thiết tha giao cảm với đời”. Còn Nguyễn

Quốc Túy nhận xét: “Nhà thơ trữ tình cảm xúc, tràn đầy cảm giác và luôn “thức

nhọn giác quan”.” [15; tr.140]. Sở dĩ các nhà nghiên cứu có nhận xét như vậy là do

trong thơ Xuân Diệu có một tình yêu cuộc sống và thiên nhiên rất mãnh liệt. Cái

sức hút gây ấn tượng mạnh của người đọc với thơ ông là nhờ vào tài sáng tạo ngôn

từ rất táo bạo và cách sử dụng thủ pháp so sánh tu từ một cách điêu luyện.

3.1.1 Thể hiện tình yêu cuộc sống

(cid:4) Khát vọng sống mãnh liệt

Xuân Diệu tự ví mình như “con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi” khi gió

sớm, lúc trăng khuya. Nhà thơ đã so sánh “mình” với “con chim đến từ núi lạ” để

thể hiện sự vô tư, khi sống trong môi trường mới không bị bó buộc bởi những cái

quy luật khắc nghiệt nơi chốn cũ. Qua đó, nhà thơ cũng thể hiện quan niệm sáng tác

của mình không phụ thuộc vào những cái niêm, cái luật của thơ ca xưa.

Tôi là con chim đến từ núi lạ

Ngứa cổ hát chơi

Khi gió sớm vào reo um khóm lá

Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời

(Lời thơ vào tập gửi hương)

Xuân Diệu so sánh mình như “con chim đến từ núi lạ” để mặc sức tung bay,

không bị bó buộc bởi những quy luật lạ lùng. “Con chim” ấy không mong vì tiếng

hót của mình mà hoa nở, không mong vì tiếng hót của mình mà trái chin. Nhưng

nguyện thề rằng đó phải là tiếng hót tha thiết, nồng nàn, đến độ có thể vỡ cổ, có thể

trào mau. Có lẽ vì tha thiết đến nhường ấy mà tiếng hót ấy đã đọng lại được trong

bầu trời thi ca Việt Nam, tạo được cung bậc riêng, một giọng điệu riêng, càng nghe

càng lảnh lót, càng nghĩ càng đắm say. Đó là tiếng lòng của một khát vọng sống

mãnh liệt. Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt

chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm

cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quý t, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của

mình”.[19;tr.105]

Dường như không có một ai lại không nói đến “nguồn sống dào dạt”, “lòng

say mê yêu đời”, độ “nồng nàn, tha thiết”. Chính khát vọng sống mãnh liệt này đã

mang đến cho thơ Xuân Diệu một chất trữ tình quyến rũ lạ lùng.

Trong thơ xưa, người ta hay triết lí về: sống, chết, mất, còn, danh, lợi…. nhưng

ít ai đưa lòng ham sống làm một nội dung trữ tình chính yếu. Với quan niệm “sống

gửi, thác về”, người ta ung dung, bình thản trong sự vần xoay của vũ trụ, trong

“chớp bóng” của đời người. Thậm chí nhiều khi còn đưa chữ “nhàn”, đưa thú tiêu

khiển ra để ngợi ca. Bao nhiêu bậc quân tử đã từng bộc lộ trong thơ một nỗi lòng

hằng mến nếp nhà thông, một ngõ trúc mà ngại chen nơi cửa mận, tường đào.

Với Xuân Diệu, lòng ham sống được bộc lộ một cách tha thiết, cuồng nhiệt,

nếu không nói là đã trở thành nội dung chính, một cảm hứng chủ đạo của thơ ông.

Ngay từ bài thơ đầu tiên của tập thơ đầu tiên ông đã cho thấy bao nhiêu khát khao

của lòng ham sống. Ông ước được “ru với giơ”, được “mơ theo trăng”, “vơ vẫn

cùng mây”, “ràng buộc với muôn dây”, được “chia sẽ với trăm tình yêu mến”. Bao

nhiêu trạng thái của cảm xúc trong thơ ông:

Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây

Để linh hồn rang buộc bởi muôn dây

Hay chia sẽ bởi trăm tình yêu mến

(Cảm xúc)

Chưa hết, ông tuyên bố rằng được sống là nhất. Ngay ở bài mở đầu tập Gửi

hương cho gió, ông đã viết như vậy:

Nhưng nghĩ lại: sống vẫn là hơn hết;

Gần hơn xa, yêu mến ngọt ngào thay!

(Lời thơ vào tập gửi hương)

Với sự thành công khi đưa so sánh tu từ vào trong thơ và chính so sánh đã làm

cho câu thơ trở nên cuốn hút, đặc biệt với từ so sánh “là” càng khẳng định “sống

vẫn là hơn hết”. Đưa lòng ham sống thành một nội dung trữ tình, thơ Xuân Diệu đã

thể hiện sự sống như một niềm mê say. Nói khác đi, lòng ham sống trong cảm xúc

thơ của ông đã trở thành lòng “say sống”. Thơ ông rất nhiều cung bậc để diễn tả

niềm say mê ấy. Có thể nói thế giới thơ Xuân Diệu là thế giới của sự sống tràn trề,

mạnh mẽ, hăng say và đầy rạo rực. Thậm chí mạnh mẽ đến mức điên cuồng:

Tôi là một kẻ điên cuồng

Yêu những ái tình ngây dại

(Thở than)

Khi nhắc đến hình ảnh “điên cuồng” là người ta hay liên tưởng đến trạng thái

tinh thần không bình thường. Nhưng đối với Xuân Diệu thì không như thế mà đó là

một khát vọng sống mãnh liệt đến mức “điên cuồng”, cùng với việc so sánh mình

“là một kẻ điên cuồng” với từ so sánh “là” càng khẳng định sức sống mãnh liệt của

một tâm hồn thơ tràn đầy sức sống.

Xuân Diệu ví “lòng” mình như “một cơn mưa lũ”, để cho thấy khát vọng sống

mãnh liệt, khi “mưa lũ” chảy xiếc có thể mang theo tất cả những gì mà nó gặp trên

đường với từ so sánh “là” càng khẳng định mạnh mẽ khát vọng sống mãnh liệt của

nhà thơ hơn:

Lòng ta là một cơn mưa lũ

(Nước đổ lá khoai)

cùng với hình ảnh “ngựa trẻ không cương” thể hiện sự tự do, “ngựa” không chịu sự

dẫn dắt của con người. Đồng thời, đó cũng là ước muốn được tự do thể hiện mình,

tự do thể hiện khát vọng sống:

Nói cùng ta nghìn thuở mộng hoa hương

Và lòng ta như ngựa trẻ không cương

(Mênh mông)

Tất cả những ví von ấy đều cho thấy đó là nỗi lòng của một con người lúc nào

cũng hăm hở, lúc nào cũng rạo rực; nỗi lòng của một con người khát sống và say

sống rất mãnh liệt. Hình như ở ông không bao giờ nguôi nỗi khát thèm được sống.

Trong thơ mình và hình như cả trong đời mình nữa, Xuân Diệu bao giờ cũng

thể hiện một chất sống mãnh liệt, dào dạt như thế. Xuân Diệu không chịu được sự

trung bình, đều đều, phẳng lặng, mà với ông:

Thà một chút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm

(Giục giã)

Đây là hai câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu. Không phải là hai câu thơ của sự

hưởng lạc, sống gấp mà là của sự ham sống, say sống cũng giống như cái chói

chang của ánh sáng, thà bùng lên “huy hoàng” mà tắt, còn hơn cái “le lói”, của trăm

năm.

Thế giới của Xuân Diệu là thế giới động, rạo rực, không đứng yên, sự sống

tuôn chảy dạt dào. Đối với Xuân Diệu lòng ham sống là một nhiệt tình phủ nhận cái

chết, phủ nhận cái nhạt nhẽo tầm thường vô vị trong cuộc đời. Cùng với thành công

khi sử dụng so sánh tu từ trong thơ đã tạo nên bức tranh vẽ đầy màu sắc. Vì thế

khát vọng sống mãnh liệt đến nhường ấy mà ta nhận ra trong thơ ông dù cho có

buồn, cô đơn.

(cid:4) Khát vọng sống được giao cảm với đời

Thơ Xuân Diệu có cái rạo rực của lòng khát khao được giao cảm với cuộc đời.

Mà cái khao khát ấy nói như Thế Lữ, còn gì làm cho “đầy đủ hơn là Xuân và Tình.

Cho nên Xuân Diệu đắm say với tình yêu và hăng hai với mùa xuân”. Sau này Lê

Đình Kỵ cũng nhận xét như vậy. Ông cho rằng lòng say mê yêu đời của Xuân Diệu

“đã trút hết vào tình yêu và thiên nhiên”. Nói khác đi, tình yêu trong thơ Xuân Diệu

là biểu hiện tập trung nhất, mãnh liệt nhất của lòng ham sống. Đây cũng chính là

một nội dung trữ tình quan trọng trong thơ ông.

Tình yêu trong thơ Xuân Diệu mang một sắc thái khác, một quan niệm khác.

Đó là tình yêu của con người sống giữa đời chứ không phải tình yêu đạo đức trong

sách vở. Đó là thứ tình yêu vừa có cái thanh cao của tâm hồn, vừa có cái ham muốn

tột cùng của tuổi trẻ. Đó là thứ tình yêu rất trần thế mà không bị trần tục hóa:

Son sẻ trời như mười sáu tuổi

Má hồng phơn phớt, mắt long lanh

Và các môi hoa như sắp nói:

Ái tình đẹp tợ chúng em đây!

(Rạo rực)

Một tâm hồn luôn rạo rực với tình yêu, với khát vọng được giao cảm với đời ấy

là cái tuổi “mười sáu”, là cái tuổi “má hồng phơn phớt, mát long lanh”.

Xuân Diệu là người đưa cảm xúc thực tế vào thơ một cách đầy tinh tế. Trong

thơ cổ chưa có cảm giác này. Nhiều lắm như Nguyễn Du cũng chỉ ngắm nhìn: “dày

dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Ngay cả Hồ Xuân Hương cũng chỉ dừng lại ở

những hình ảnh mang tính chất “ám tượng”.

Chỉ đến với Xuân Diệu thì cảm xúc đời thường trong tình yêu mới được đưa

vào một cách táo bạo mà cũng đầy tinh tế. Cảm xúc trong tình yêu Xuân Diệu là

cảm xúc của một tâm hồn “mang sắc lòng tươi quá”, nhưng lại không thô tục. Ông

đã diễn tả bao nhiêu sắc độ của tình yêu với những trạng thái mạnh mẽ như muốn

“ôm”, “riết”, “cắn”,“say”… mà không gợi lên sự sống sượng của xác thịt, trái lại

chỉ gợi cảm giác nồng nàn, tha thiết của tình yêu, nhà thơ so sánh một khái niêm

trừu tượng về thiên nhiên “tháng giêng” với “cặp môi gần” của tình yêu, của cảm

xúc da thịt, của vị giác “ngon” để thể hiện khát vọng giao cảm với đời:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

(Vội vàng)

Cảm xúc tình yêu trong thơ Xuân Diệu rất đời mà cũng rất thơ. Nó không “thơ

quá” để đến mức chỉ là cảm xúc sách vở, nhưng cũng không đến mức “đời quá” để

chỉ cảm giác xác thịt. Nó hiện ra với tất cả sự cao cả và trần thế của nó, là biểu hiện

của một khát vọng sống, khát vọng giao cảm chứ không phải là một cảm giác “xác

thịt” thuần túy của nó:

Tôi không biết, không biết gì nữa cả,

Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà thôi.

(Tặng thơ)

Con người chỉ yêu nhiều “là tôi biết mà thôi” ấy luôn luôn khát khao sống,

cũng luôn khát khao được giao cảm với đời khi tự ví mình là “cây kim nhỏ bé” để

được giao cảm, hòa quyện với đời:

Tôi là cây kim nhỏ bé

Mà vạn vật là muôn đá nam châm

(Cảm xúc)

“Cây kim” ở đây nhỏ bé quá trước bao la của đất trời. Nó buộc phải chịu đựng

sức hút từ muôn mặt của “nam châm”. Nhà thơ sử dụng thủ pháp so sánh tu từ với

từ so sánh “là” càng khẳng định mạnh mẽ khát khao được giao cảm với đời. “Cây

kim Xuân Diệu” thật nhỏ bé trong không gian nhưng vẫn là một tâm hồn mở ra trên

mọi hướng để chờ đợi, để đón nhận tình yêu như một lẽ tự nhiên của sự giao hòa

giữa đất trời.

Đời người ai cũng muốn hòa nhập vào cuộc sống xung quanh để hưởng thụ

những gì mà thiên nhiên cũng như cuộc sống đã ban tặng. Nhưng đối với

XuânDiệu, đó là một khát vọng rất táo bạo, rất trần tục nhưng vẫn trong sáng tinh

tế. Đó là nhờ vào thủ pháp so sánh tu từ đã góp phần làm nên thành công ấy trong

tâm hồn thơ Xuân Diệu.

(cid:4) Khát vọng sống gấp

Xuân Diệu luôn khao khát sống và giao cảm với đời. Nhưng chính ông đã hiểu

rõ là sự sống mong manh không bền vững và là nguyên cớ chính cho sự trôi chảy

của thời gian. Nên Xuân Diệu “vội vàng” và “giục giã”. Vấn đề thời gian trong thơ

ông có ý nghĩa hệ trọng. Xuân Diệu không nhìn đời với con mắt tĩnh. Thời gian

luôn trôi chảy “thời gian không đứng đợi”. Nhiều nhà thơ thường đề cập vấn đề thời

gian như thời gian của một đời người, thời gian sinh sôi và tận cùng, thời gian của

thiên nhiên tạo vật. Xuân Diệu chủ yếu đề cập thời gian của tuổi trẻ trong yêu

đương. Đó là thời gian khát vọng sự sống biểu hiện đến vô biên và tột cùng. Đó là

thời gian của sự hưởng thụ hạnh phúc. Tất cả đều phải vội vàng, thời gian trong thơ

Xuân Diệu không tách khỏi không gian. Xuân Diệu có ý thức sâu sắc về quan hệ

giữa thời gian và không gian. Thời gian không trôi chảy mơ hồ chung chung mà

trên dòng đời, trong tình yêu lứa đôi và trong cả môi trường của thiên nhiên tạo vật,

thời gian trôi chảy một cách gấp gáp. Chính vì Xuân Diệu ý thức được sự trôi chảy

của thời gian nên ông luôn khát vọng sống gấp để hưởng thụ:

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là đời tôi cũng mất.

(Vội vàng)

Xuân Diệu ý thức được thời gian qua đi sẽ không trở lại. Ông đưa ra một cái

quy luật tất yếu của tạo hóa để so sánh với thời gian của đời người. Đó là “xuân

hết” thì “đời tôi cũng mất”.

Xuân Diệu lấy tuổi trẻ là thước đo của thời gian và tình yêu làm nội dung chủ

yếu của tuổi trẻ. Ông lo lắng và chắt chiu từng đơn vị nhỏ của thời gian để sống, để

tận hưởng niềm vui của sự sống, nên không thể nào thoát khỏi khát vọng sống gấp

gáp, hưởng thụ. Không gian trong thơ ông được cảm nhận có lúc như sương nhẹ:

Không gian như có giây tơ

Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu

(Chiều)

Ta hay bắt gặp cách nói “một phút” của Xuân Diệu với ý tưởng là dồn nén

nănglượng sống của cả trăm năm, của cả đời người vào một khoảnh khác bùng

cháy:

Ôi ngắn ngủi là những giờ họp mặt

Ôi vội vàng là những phút trao yêu

(Kỷ niệm)

Hay đó là khoảnh khắc “vàng” của tình yêu:

Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ

Vài giây trông khơi mối vạn ngày theo

(Yêu mến)

Xuân Diệu dồn nén sự sống vào một khoảnh khắc đến trào sôi, bùng cháy thì

khoảnh khắc ấy là vĩnh cửu, là một điểm hồng của trăm năm. Cho nên ông buộc

lòng mình lúc nào cũng dào dạt, cũng rạo rực. Cùng với sự thành công, khi đưa so

sánh tu từ vào trong sáng tác thơ. Ý thức “thời gian không đứng đợi”, về một “tuổi

trẻ chẳng hai lần thấy lại” ấy khiến cho Xuân Diệu hốt hoảng. Từ đó, ông càng có

khát vọng sống gấp gáp để hưởng thụ hết những gì mà cuộc sống đã ban tặng.

3.1.2 Thể hiện tình yêu thiên nhiên

Thiên nhiên là nguồn cảm hứng của muôn đời của thi sĩ. Song nếu trong thơ cổ,

thiên nhiên chỉ thế giới của “phong, vân, tuyết,… thì trong thơ Xuân Diệu thiên

nhiên vừa mới được phát hiện, vừa giành lại quyền sống. Đó thực sự là thế giới tâm

hồn thi nhân và luôn luôn vận động theo mạch cảm xúc. Xuân Diệu rất yêu thiên

nhiên, “say đắm cảnh trời” cũng như “say đắm tình yêu”. Tâm hồn thi sĩ chan hòa

đắm đuối giữa thiên nhiên: trăng, hoa, gió, lá,… Thiên nhiên chính là sản phẩm

nghệ thuật vô giá. Bởi vậy, thiên nhiên luôn làm cho con người hấp dẫn mê say.

Nên Xuân Diệu đã có câu thơ độc đáo “phong cảnh cũng là người”.

Xuân Diệu đã xem “hương thơm, màu sắc, âm thanh tương hợp với nhau” là

phương châm sáng tạo của mình. Tất cả đều viết theo cảm hứng hòa hợp hương vị,

âm thanh, màu sắc. Tất cả đều bừng dậy sắc hương trong tương hợp với âm thanh

của thiên nhiên tạo vật và tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên bằng lối

riêng của mình. Ông nhìn thiên nhiên qua lăng kính ái ân.

(cid:4) Tình yêu cảnh vật

Thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu là một thế giới động, rạo rực, không có

đứng yên. Từ ngọn gió đến ánh trăng, từ con đường đến hàng cây… tất cả phải

động, phải bừng lên trong khát khao được sống, khát khao được giao cảm của trái

tim thi nhân.

Trong thơ Xuân Diệu hình ảnh trăng tràn ngập. Trăng góp phần tạo nên một

không gian mờ ảo thích hợp cho tình yêu đôi lứa. Trăng làm cho khung cảnh thêm

biết bao thi vị. Trăng mơ mộng, trăng hẹn hò, trăng thương nhớ:

Trăng, nguồn sương làm ước cả gió Hây

Trăng, võng rượu khiến Đêm mờ chếnh choáng

Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng

Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây

(Ca tụng)

Một vầng trăng thật đã đi qua thơ Xuân Diệu và tạo thành biết bao vầng trăng

của nghệ thuật. Trăng cũng tạo nên một không gian không kém phần lạnh lẽo:

Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết

(Buồn trăng)

Ánh trăng lạnh lẽo, choáng ngợp phù hợp với trạng thái tình yêu. Xuân Diệu là

nhà thơ có ý thức về thời gian và không gian. Thời gian trong thơ ông là thời gian

của sự sinh sôi nảy nở của sự sống và tình yêu. Xuân Diệu lấy tuổi trẻ làm thước đo

của thời gian và tình yêu làm nội dung chủ yếu của tuổi trẻ. Không gian trong thơ

được ông cảm nhận có lúc như sương nhẹ:

Không gian như có giây tơ

Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu

(Chiều)

Những “giây tơ” trong không gian mỗi người hình như đã có dịp cảm thấy, nó

mong manh biết bao, được thơ ghi lại thì nó còn mãi. Ánh trăng không lặng lẽ mà:

Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo

Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ

(Thở than)

Trong thế giới thơ Xuân Diệu ta cũng nhận thấy cảnh vật, con người, cảm xúc

được gợi lên từ những cảnh vật ấy. Nhưng ông không dừng lại ở “tả chân” về thế

giới. Thơ ông còn miêu tả cả ấn tượng, cả cảm giác về thế giới. Cho nên khi miêu tả

sự vật, Xuân Diệu không chú trọng miêu tả sự vật đó là gì mà chủ yếu miêu tả cảm

giác gợi lên từ sự vật, ấn tượng do sự vật để lại nhiều hơn.

Thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu là một thế giới rất động. Xuân Diệu rất nổi

bật ở những câu thơ viết về trăng. Trăng ở đây không còn là chị Hằng Nga xa vời

dương gian nữa mà là biểu tượng của cái đẹp, là nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận

của thi nhân. Thật tuyệt diệu nhưng cũng thật táo bạo:

Trăng, hoa vàng lay lắt cạnh trời mây

Trăng, đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí.

(Ca tụng)

Xuân Diệu so sánh “trăng” của thiên nhiên , của tạo hóa với “hoa vàng”, với

“đĩa ngọc” của trần thế để làm tăng lên vẻ cao quý và tinh túy của ánh trăng. Ánh

trăng của Xuân Diệu thân thương, gắn bó và gần gũi. Dù có một chút trần tục nhưng

những câu thơ viết về trăng của Xuân Diệu vẫn trong sáng.

Bài Nguyệt cầm nói về tiếng đàn hay về ánh trăng, không còn phân biệt được

nữa, tạo nên thế giới thơ riêng của Xuân Diệu:

Trăng nhập vào giây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

(Nguyệt cầm)

Sự sáng tạo rất hấp dẫn của Xuân Diệu “trăng nhập vào giây cung nguyệt

lạnh” và so sánh như “lệ ngân” của người tri kỹ sắp phải rời xa bạn tình, nhằm

hình tượng hóa ánh trăng của thiên nhiên, vũ trụ.

Có thể nói, ở tình cảm nào Xuân Diệu cũng có lời mềm mại, hoặc xán lạn đê

mê, hoặc lả lơi sung sướng, hoặc buồn bã tha thiết như tiếng thở than tận cõi sâu kín

của tân hồn. Đối với Xuân Diệu, vẻ đẹp của con người là chuẩn mực vể đẹp của thế

giới, của vũ trụ. Nhiều người phát hiện trong thơ Xuân Diệu có những cách so sánh

ngược hẳn với người xưa: thay vì ví vẻ đẹp của con người như một vẻ đẹp của thiên

nhiên, thì Xuân Diệu lại ví vẻ đẹp của thiên nhiên như một vẻ đẹp của con người:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

(Vội vàng)

Chỉ với từ “ngon” đã thấy được sự sáng tạo rất táo bạo của nhà thơ trữ tình.

“Ngon” là cảm nhận mùi vị của vị giác để thưởng thúc món ăn. Nhưng Xuân Diệu

lại dùng một khái niệm trừu tượng vốn thuộc về thời gian “tháng giêng” để so sánh

với một hình ảnh cụ thể mang tính trần tục như thế nhưng vẫn giữ nguyên vẻ tinh

khôi và phần trong sáng của câu thơ.

Đó là cái tôi trong quan hệ gắn bó với đời, được thể hiện bằng sự hòa hợp giữa

thiên với thiên nhiên, giữa thiên nhiên với hồn người. Có thể nói với phương thức

so sánh tu từ này Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca một luồng sinh khí mới: Cái tôi

yêu đời, yêu sự sống, hòa nhập với thiên nhiên, với cuộc đời.

(cid:4) Tình yêu màu sắc của thiên nhiên

Tâm hồn nhạy cảm với màu sắc, nhạy cảm với mùi hương, thế giới của cái

đẹp đẽ đã thành máu thịt của tấm lòng yêu đời, yêu thiên nhiên ấy. Tâm hồn thơ

Xuân Diệu cũng giao hòa, run rẩy với thiên nhiên:

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn

Như hương thắm tận qua xương tủy

Âm điệu, thần tiên, thâm tận hồn

(Huyền diệu)

Với gam màu rất lạ: màu “hường” của nhạc, cùng lời thơ: “Mùi hương, âm

thanh cùng giao hòa” vừa diễn tả một trạng thái của thiên nhiên, vừa như là sự biểu

hiện một trạng thái của tâm hồn. Cảm nghe về âm thanh, về mùi hương của thiên

nhiên trong mối giao hòa gắn bó với con người. Cùng với việc vận dụng so sánh tu

từ trong thơ đã làm nên kì tích giúp Xuân Diệu tạo được một thế giới riêng của

mình, không lẫn với bất cứ nhà thơ nào khác.

Xuân Diệu yêu thiên nhiên một cách ồ ạt, sống động bởi lòng khát khao được

giao cảm với đời của thi sĩ rất mãnh liệt. Đó là nhờ vào tâm hồn đầy cảm xúc của

thi sĩ với sự gợi yêu hay khát vọng sống và yêu như được gửi gắm vào thiên nhiên,

tất cả như hòa quyện với nhau cùng với những gam màu biết nói và biết kêu không

còn phân biệt nữa:

Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều

Bên màu hoa mới thắm như kêu

(Nụ cười xuân)

Xuân Diệu đã tạo được sự giao hòa giữa màu sắc và âm thanh khi màu hoa như

muốn cất tiếng lên nói. Linh hoạt mà mạnh mẽ khi nói lên niềm vui lạc quan

trong bản hợp tấu nhỏ, có ánh sáng, có âm thanh:

Vườn cười bằng bướm hót bằng chim

Dưới nhánh không còn một chút đêm

Những tiếng tung hô bằng ánh sáng

Ca đời hưng phục trẻ trung thêm.

(Lạc quan)

Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu cũng xôn xao, rạo rực, tràn đầy cảm xúc và

đa tình như kẻ đang yêu và màu sắc cũng biết đi “theo nắng nhạt”:

Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ

Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình

Và như màu theo nắng nhạt, như hương

Theo gió mất, tình người đà tản mác.

(Dối trá)

Bên cạnh đó, hệ thống màu sắc trong thơ Xuân Diệu cũng thật phong phú. Thơ

ông có những gam màu tự nhiên như:

Trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết

Trong suốt không gian, tịch mịch mờ.

(Buồn trăng)

Đâu đó cũng thấp thoáng những sắc màu như trong thơ cổ nơi “núi biếc”:

Êm êm núi biếc xinh như ngọc

Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà.

(Núi xa)

Có thể nói, thế giới màu sắc của Xuân Diệu đa dạng, phong phú có những gam

màu thực, cũng có những màu hư, những màu cảm xúc… Nói chung khuynh hướng

dùng màu của nhà thơ là theo khuynh hướng cá biệt hóa. Điều này góp phần tạo nên

thế giới “đa sắc” trong thơ, kết hợp với việc vận dụng biện pháp so sánh tu từ càng

3.2 SO SÁNH TU TỪ THỂ HIỆN NỖI BUỒN

làm tăng lên nét độc đáo trong thơ ông.

Xuân Diệu là một nhà “thi sĩ” trong các nhà thơ hiện đại. Bởi khuynh hướng

lãng mạn thiết tha với cuộc đời, với thiên nhiên, và cả tình yêu đôi lứa. Nhưng bên

cạnh đó, ông cũng không tránh khỏi được tình trạng chung của phong trào thơ lúc

bấy giờ đó là nỗi buồn. Cái buồn của sự cô đơn và hơn bao giờ hết là buồn vì thời

cuộc lúc bấy giờ.

Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 tuy không ảo não thê thiết

như Huy Cận, không lâm vào bi kịch số phận đớn đau như Hàn Mặc Tử,... nhưng

vẫn nặng nỗi buồn: buồn khi nhìn ra rặng liễu đìu hiu, buồn khi chiều buông lưới,

buồn khi thu đến, buồn khi xuân đi, buồn khi gió sớm bay về, buồn khi viễn khách

đi, buồn cùng trăng, sầu cùng kỹ nữ, buồn có cớ và buồn vô cớ... Đâu đâu cũng thấy

nhớ nhung, thương tiếc một cái gì “bình rơi gương vỡ, rụng cải rơi kim”, một cái gì

cứ ám vào như một thứ bản mệnh của văn thơ.

3.3.1 So sánh tu từ thể hiện nỗi buồn cô đơn

(cid:4) Thể hiện nỗi buồn trong tình yêu

Xuân Diệu bắt đầu từ cái đáng yêu của tình yêu tin cậy và lạc quan ban đầu với

cuộc sống và dừng lại ở cái tôi trăn trở xót xa, chưa tự ra khỏi được mình. Bên cạnh

một tình yêu đẹp, tình yêu say đắm với hương thơm và vị ngọt của hoa, không gian

huyền diệu của trăng thì cũng có không ít người phải niếm trải vị đắng trong tình

yêu. Khi thất vọng cả không gian ngập những lời dối trá:

Người tưởng buông chỉ đôi tiếng hẹn hò

Tôi hưởng ứng bằng vạn lời say đắm

(Dối trá)

Tình yêu vốn được xem là một phần của lẽ sống con người. Bên cạnh niềm vui

của một tình yêu đẹp thì cũng có nỗi buồn của những con người yêu mà không được

người mình yêu đáp trả lại. Đó là nỗi đau tột cùng của sự sống trong tâm hồn của

những người đang yêu và chính so sánh tu từ đã khắc họa thành công những hình

ảnh đau khổ của tình yêu đơn phương.

Khi càng ham sống càng mong được chia sẽ, mong được cảm thông xóa bớt

khoảng cách. Ông như muốn ôm tất cả vào vòng tay của mình cả đất trời, cả sự

sống. Đồng thời ông cũng như muốn tan ra, hòa vào đất trời như hoa kia “gửi hương

cho gió” vậy. Xuân Diệu tự ví mình như “cây kim nhỏ bé”, “mà vạn vật là những

thỏi nam châm”. Khát khao được hút vào vạn vật cũng là khát khao xóa bớt khoảng

cách. Dù mộng tưởng quá nhiều vào tình yêu, cuộc đời và không được đáp ứng như

mong ước cho nên nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Diệu hay thất vọng, buồn chán

và cô đơn. Đó là hệ quả tất yếu:

Thiên hạ vô tình nhận ước mơ

Nhận rồi không hiểu mộng và thơ..

Người si muôn kiếp vẫn là hoa núi

Uống nhụy lòng tươi tặng khách hờ.

(Gửi hương cho gió)

Thế nhưng gần như là nghịch lí, hình như càng muốn gần gũi thì ông thấy càng

trở nên xa cách. Con người trở thành tiểu vũ trụ, giữa họ mãi mãi là bức tường căm

lặng của Vạn Lý Trường Thành đầy bí ẩn không thể vượt qua.

Em là em, anh vẫn cứ là anh

Có thể nào vượt qua Vạn Lý Trường Thành

Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật

(Xa cách)

Con người luôn luôn “xa cách” như vậy cho nên trong thơ Xuân Diệu thấm nỗi

cô đơn đến rợn ngợp. Khi Xuân Diệu tự ví mình là “con chim bơ vơ”, cô độc giữa

không gian bao la. Tuy nhiên, đâu đó bên trong tâm hồn nhà thơ cũng cần có tình

yêu để không còn bơ vơ, lạnh lùng:

Anh là con chim bơ vơ

Lạnh lung bay giữa gió, sương, mưa

Qua gần tổ ấm đôi chim bạn

Bỗng thấy lòng cuồng yêu ngẩn ngơ

(Muộn màng)

Hay:

Ta nằm đây như một ải quan xa

(Riêng tây)

Cái cảm giác bơ vơ, lạc bước, cô đơn ngay bên cạnh nhau nhưng như rất xa

không tài nào với tới được. Nỗi buồn ấy khiến nhà thơ thấy cảnh vật buồn ảm đạm,

khi nhà thơ bộc bạch nỗi buồn không có “em” lại rất “lạnh lẽo”, một mình nhà thơ

lạc lối. Đó là cảnh cô đơn khi yêu mà không được đáp trả lại trong tình yêu và cũng

là tâm trạng chung của tuổi trẻ, của những người đang yêu mà không được đáp trả:

Chiều góa không em lạnh lẽo sao!

Một mình anh lạc dưới thu cao

Sắc trời: sương đọng; non: mây tỏa

(Hết ngày hết tháng)

Trong bài thơ mượn cảnh núi non để mô tả sự cô đơn “hoá thạch”, cô đơn bất

biến của lòng mình được viết vào thời kỳ đầu chớm xuất hiện trạng thái cô đơn:

Êm êm núi biếc, xinh như ngọc

Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà

(Núi xa)

Không có nỗi buồn nào hơn là “nỗi nhớ nhà”, đây là tâm trạng buồn chung của

tất cả mọi người khi xa nhà, xa quê hương mặc dầu cảnh vật êm đềm, xanh, đẹp chứ

không riêng gì nhà thơ. Tột đỉnh của sự cô đơn là lúc tự mình phải đối diện với

chính lòng mình:

Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn

Chớ để riêng em phải gặp lòng em

(Lời kỹ nữ)

Các bài thơ khác như Nguyệt cầm, Buồn trăng, Xa cách, Tương tư chiều...

cũng diễn tả nỗi cô đơn bằng độ tinh nhạy của trực cảm, bằng những nhát khía buốt

lạnh xuyên qua “ngũ quan” ngấm vào tâm khảm buốt lạnh:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

(Nguyệt cầm)

Bên cạnh việc phản ánh thực trạng tinh thần xót đau, quằn quại, cái tâm thế cô

đơn cùng cực của cái tôi cá nhân tiểu tư sản với nỗi “sầu cốt tuỷ”, thơ Xuân Diệu

tập trung vào một khía cạnh bi kịch tinh thần lớn hơn, nếu không muốn nói là lớn

nhất của đời ông: Đó là nỗi cô đơn của một bi kịch tình yêu. Khát vọng tình yêu

càng lớn, thất vọng càng nhiều. Ai có thể ngờ người lĩnh xướng số một của dàn

đồng ca tình ái 1932-1945 lại là người luôn luôn cô đơn. Trên con đường tìm kiếm

vị ngọt ái tình, ông thường xuyên phải nếm đủ mùi cay đắng... Thời kỳ đầu của Thơ

thơ, Xuân Diệu còn được an ủi bởi niềm vui hò hẹn, gặp gỡ, được cùng nhau sánh

bước dưới đêm trăng. Càng về sau, Xuân Diệu chỉ còn trơ trọi đơn chiếc một mình

để rồi cuối cùng chỉ còn đọng lại trong tâm khảm của một nỗi buồn cô đơn:

Trái tim buồn như một bãi tha ma

Gượng mỉm cười: “người quên nghĩ rằng ta

Sẽ đau đớn bởi một lời nói vội”

(Dối trá)

Sự bất lực trước những khoảng cách của con người, của cuộc đời và của chính

mình đã khiến cho con người yêu đời, yêu người ấy có khi phải thốt lên:

Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách

Mà tình yêu như quán trọ bên đường

(Chỉ ở lòng ta)

Và tự nhận mình là:

Tôi là con nai bị chiều đánh lưới

Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối

(Khi chiều giăng lưới)

Càng buồn, càng cô đơn, càng khiến cho nhà thơ muốn thoát ra khỏi không

gian ngột ngạc đó. Nhưng biết đi đâu khi mà “chiều tứ bề không phá nổi trùng vây”

của cuộc đời, đành làm con nai bị chiều đánh lưới, đứng sầu muộn giữa cuộc đời.

Hình ảnh “con nai bị chiều đánh lưới” ẩn chứa là tất cả những ray rứt và băn khoăn

của một tâm hồn không có lối ra trước cuộc đời.

Những câu thơ vang lên điệp khúc “mời yêu” tha thiết, hiển hiện bên cạnh

những nhịp đập nặng nề của một con tim mệt mỏi, cô đơn.

Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi

Dầu chỉ là trong một phút mà thôi

(Mời yêu)

Có thể thấy từ Thơ thơ đến Gửi hương cho gió, tình yêu trong thơ Xuân Diệu

càng lún sâu vào trạng thái cô đơn. Ở Thơ thơ, đó là một thứ mộng đẹp, sang Gửi

hương cho gió, ông đã chấp nhận một tình yêu đơn phương: Có gửi tình đi chẳng có

về, “hương bay cùng với gió” đúng như tên gọi của tập thơ. Cùng với thủ pháp so

sánh tu từ càng nhấn mạnh hơn sự cô đơn trong tình yêu ấy. (cid:4) Thể hiện nỗi buồn vô cớ

Xuân Diệu là nhà thơ rất thành công trên nền thơ hiện đại Việt Nam. Đặc biệt

là ở mãng thơ tình nên ông được gọi là “ông hoàng thơ tình”. Bên cạnh đó, trong

thơ ông cũng mang những nỗi buồn: trong tình yêu, buồn vì thời thế. Nên khi đọc

thơ ông, ta thấy nó mang một nỗi buồn vu vơ, một nỗi buồn vô cớ miên mang khó

tả nhất là trong một khung cảnh đẹp, “trời nhẹ lên cao” không một sắc mây đen.

Vậy mà Xuân Diệu lại thấy buồn, nỗi buồn của nhà thơ thật khó mà lí giải, chính

nhà thơ cũng không lí giải được vì sao mình buồn:

Hôm nay, trời nhẹ lên cao

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn….

(Chiều)

Cũng trong bài Chiều, Xuân Diệu đã cho ta thấy được một nỗi buồn khó tả,

một nỗi buồn nhè nhẹ thoáng qua, trước không gian mỏng manh mà nhà thơ đã ví

như là “giây tơ”, nếu như nhà thơ không khéo léo và tinh tế thì “giây tơ” ấy sẽ biến

mất. Xuân Diệu cũng cho ta hiểu thêm giữa không gian ấy lòng ông không sao cả

nhưng giữa một buổi chiều “ngẩn ngơ” ông lại có một nỗi buồn “hiu hiu”, một nỗi

buồn vô cớ mà chính nhà thơ cũng không hiểu được nguyên do:

Không gian như có giây tơ

Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu

Êm đềm chiều ngẩn ngơ chiều

Lòng không sao cả, hiu hiu buồn

(Chiều)

Bài thơ thể hiện nỗi buồn da diết, cái buồn không biết lí do, nỗi buồn vô cớ, nỗi

buồn len nhẹ qua nhưng đủ để nhà thơ suy nghĩ. Không những Xuân Diệu mà ngay

cả Huy Cận cũng có những nỗi buồn vô cớ, nỗi buồn mênh mang trước khung cảnh

thiên nhiên. Huy Cận cũng tự nhận khi xưa ông hay buồn hay sầu, nhiều khi nỗi

buồn, nỗi sầu ấy ông không lí giả được chỉ biết gửi cho gió trăng:

Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm,

Gió trăng ơi! nay còn nhớ người chăng?

Hơn một lần chàng gửi áo cha trăng

Nỗi hiu quạnh của hồn buồn không cớ

(Mai sau- Huy Cận)

Bên cạnh đó, trong bài thơ Tràng Giang nhà thơ Huy Cận cũng cho ta thấy

được nỗi buồn của mình khi nhìn khung cảnh thiên, khiến nhà thơ “không khói

hoàng hôn cũng nhớ nhà”, một nỗi buồn khó tả.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

(Tràng Giang- Huy Cận)

Đôi khi ta bắt gặp được những nỗi buồn của Xuân Diệu được thể hiện qua

khung cảnh thiên nhiên trước một khung cảnh đẹp trăng sáng, thơ mộng nhưng nhà

thơ cũng thấy buồn, thấy cô đơn lạnh lẽo:

Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo

Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ

(Thở than)

Xuân Diệu vốn là con người đa sầu đa cảm. Vì thế, trong thơ ông thường bắt

gặp những nỗi buồn, đôi khi có nguyên nhân, đôi khi lại không có nguyên nhân,

điều ấy cũng tạo nên một dấu ấn và phong cách riêng cho Xuân Diệu. Trước một

khung cảnh mùa xuân vui tươi, xinh đẹp thì nhà thơ lại thấy buồn, thấy lo sợ, sợ

“xuân” đến mình “sẽ già”, sợ “xuân hết” thì mình ‘cũng mất” không còn trên đời

này nữa. Chỉ có nhà thơ buồn vô cớ trong khi đó ai cũng mong xuân đến để được

hưởng cái không khí ấm áp của mùa xuân:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

(Vội vàng)

Từ những nỗi buồn trên, ta thấy được tài năng cũng như sự sáng tạo của Xuân

Diệu cùng là nỗi buồn nhưng qua cách thể hiện, cách dùng từ một cách điêu luyện

của nhà thơ thì nỗi buồn ấy nhẹ nhàng hơn, giảm bớt đi sự nặng nề. Tuy là nỗi buồn

vô cớ nhưng Xuân Diệu cũng cho ta hiểu thêm nỗi buồn ấy khi ông dùng những từ

như: trời nhè nhẹ lên cao, chiều ngẩn ngơ,….

3.3.2 So sánh tu từ thể hiện nỗi buồn trước thời cuộc

(cid:4) Thể hiện nỗi buồn chung của các nhà thơ cùng thời trước 1945

Trong thời kì này các nhà chiến sĩ yêu nước nói chung, đặc biệt là những nhà

thơ nói riêng như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận,… điều có chung một nỗi

buồn đó là nỗi buồn về thời cuộc, thế thái nhân tình. Khi đất nước rơi vào chiến

tranh, nhà thơ rơi vào cảnh bế tắc, họ luôn sống trong cảnh giữa mơ và thật. Vì

những nhà thơ ấy chưa tìm ra con đường đi đúng đắn cho riêng mình mình, trong đó

có Xuân Diệu.

Xuân Diệu trước kia mơ và yêu, anh cũng buồn, cái buồn của một thế hệ nhà

thơ bị bế tắc. Hầu như tất cả tâm hồn của anh đã giành cho mơ và yêu, mặc dầu

anh biết rằng trong cái xã hội cũ đồng tiền làm chủ. Cùng với những cám cảnh

thương tâm của phận nghèo thi sĩ:

Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ

(Giới thiệu)

Một nhà thơ như hàng trăm nhà thơ Việt Nam sống dưới chế độ thực dân Pháp,

Xuân Diệu có lòng yêu nước chống chế độ thực dân và mong muốn hướng tới một

lý tưởng cao đẹp giải phóng Tổ quốc. Lúc này nhà thơ chỉ biết đem tâm hồn mình

Gửi hương cho gió, nỗi niềm biết chia sẽ cùng ai:

Tôi là con chim đến từ núi lạ

Ngứa cổ hát chơi

Hãy nghe lấy. Còn như sao rên rỉ rả

Hỏi làm chi! Tôi không biết trả lời

(Lời thơ vào tập gửi hương)

Một sự liên kết những nỗi buồn cá thể thành nỗi sầu thế hệ. Bi kịch tinh thần

lớn nhất của những nhà thơ trước cách mạng tháng Tám là không thể dung hòa với

cuộc đời đen bạc, bon chen, nhưng không thể nào dứt bỏ. Đọc thơ Xuân Diệu, ta bắt

gặp nỗi buồn chung cả thế hệ về nhân tình thế thái:

Buồn thế hệ ta cũng đang u uất;

Chúng ta đau, thôi em tới đây mà!

(Sầu)

Nhà thơ than thở về nỗi “cay cực” của “khách thơ” phải lo sinh kế. Đó là cảnh

trí thức thất nghiệp thời ấy phải đi dạy tư, viết văn, làm báo mà chẳng đủ sống.

Cùng một thế hệ nhà thơ nhưng khi nói về nỗi buồn thì mỗi người lại có một

cách cảm nhận riêng, với Huy Cận ông thể hiện nỗi buồn ở sự nhớ thương và không

biết nỗi buồn ấy còn hay mất, tan hay chưa tan. Bên cạnh đó, ông cũng thể hiện tình

yêu đất nước, tình yêu sông núi và nỗi buồn thời cuộc qua bài thơ Mai sau:

Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa ?

Hay lòng chàng vẫn tủi nắng, sầu mưa

Cùng đất nước mà nặng buồn song núi?

(Mai sau- Huy Cận)

Tâm trạng Xuân Diệu lúc bấy giờ đang buồn trước thời thế khi đất nước đang

trong thời kỳ khó khăn, trí thức rơi vào cảnh bế tắc, nỗi lo cơm áo hòa cùng tình yêu

sông núi. Cho nên không chỉ Xuân Diệu mà các nhà thơ cùng thời cũng đang gặp

và mắc phải.

(cid:4) Thể hiện nỗi buồn khi chứng kiến xã hội còn nhiều bất công

Với quan niệm “thơ là thứ hoa càng nhiều người hái, nhiều người yêu, thì hoa

thơ lại càng tươi, càng sống”, Xuân Diệu rất thấm thía: “Thật ngây thơ dại dột là

người nào viết thơ, phê bình mà không thấy mỗi cá nhân người đọc là then chốt”,

“lịch sử văn học rất khắt khe, công chúng chảy qua thời gian đánh giá được hết mọi

cách công minh, tinh xảo, khoái trá, rõ ràng”. [8; tr.53-53]

Theo Xuân Diệu so sánh, trong xã hội áp bức bốc lột, công chúng biết đến văn

thơ rất kém, ít ỏi quá chừng, hầu hết là ở các giai cấp bên trên và các tầng lớp trung

lưu, còn công nhân và nông dân đại bộ phận chưa thành những công chúng của sáng

tác văn học thời kì này.

Cuộc đời hiện tại dần dần được nhận ra rõ rệt không phải ở vẻ bên ngoài mà

trong bản chất. “Tiếng gà gáy”, một âm thanh quen thuộc, nhắc nhở mọi người bắt

đầu một ngày mới, một công việc mới sau một giấc ngủ dài. Nhưng ở đây Xuân

Diệu lại cho ta thấy một nỗi buồn gì đó khi nghe “tiếng gà gáy” tựa như “máu ứa”.

Cùng với khung cảnh hoa phượng càng gợi lên một khung cảnh buồn ảm đạm

chất chứa biết bao nỗi buồn, tâm sự của nhà thơ, hoa phượng thường báo hiệu cho

sự chia tay. Tâm trạng Xuân Diệu cũng buồn, cũng ảm đạm như sắc phượng. Từ nỗi

buồn của khung cảnh thiên nhà thơ lại bắt gặp được nỗi buồn của xã hội, đất nước.

Trong thơ Xuân Diệu cũng có những câu thơ nặng nề với nỗi buồn khi chứng kiến

xã hội còn nhiều bất công, điều ấy được thể hiện rõ trong bài thơ Hè:

Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa

Chết không gian, khô héo cả hồn cao

Thắm tuyệt vọng hai hàng bông phượng lửa

Thê lương đời như trải mấy binh đao

(Hè)

Trong hoàng cảnh thời cuộc lúc bấy giờ thì nhà thơ cũng hiểu rõ số phận của

một người phải sống trong chiến tranh loạn lạc. Xuân Diệu rất sáng tạo khi so sánh

cuộc đời mình “thê lương đời” với hoàn cảnh thực tại “trải mấy binh đao”, nhằm

tôn lên sức sống mãnh liệt và nghị lực của con người Việt Nam. Đồng thời, cũng

nhằm tố cáo tội ác mà bọn xâm lăng đã đem lại cho nhân dân ta.

Xuân Diệu đã rất sáng tạo khi so sánh cuộc đời bé nhỏ của mình với xã hội còn

nhiều biến động, bất công. Một người đã sống và trải qua trong hoàn cảnh đất nước

chiến tranh, nên hơn ai hết ông hiểu thấu nỗi đau của nhân dân, sự mất còn của Tổ

quốc, tất yếu anh phải tham gia Cách mạng. Cách mạng đã thực sự thay đổi đời anh,

thay đổi thơ anh.

Chế Lan Viên nhận xét rất đúng khi anh viết: “Vâng, cách mạng tháng Tám đã

đến đánh dấu một bước ngoặt lịch sử tâm hồn tư tưởng của mọi người”. Nhưng sự

thực là Xuân Diệu viết: “Những truyện tiền kiếp trong mỗi con người chúng ta thỉnh

thoảng lại khuấy bùn lên gieo rắc hoang mang trong đáy sâu kín nhất của tâm trí”.

Đến đây là chỗ chia đường của những nhà thơ. Khi những người mất lòng tin

sẽ đem cái bùn bên trong tâm trí họ mà ném ra ngoài đời bôi đen lên chế độ, lên

cuộc sống. Nhưng Xuân Diệu đã có thái độ, phương pháp của mình. Ấy là bám chắc

vào Cách mạng, vào Đảng, Đảng cho ông sự sống, niềm tin vào cuộc sống, soi

đường chỉ lối cho ông. Ông đã tìm được hướng đi mới trong các sáng tác của mình,

điều ấy được thể hiện qua bài thơ sau:

Mặt trời vừa mới cưới trời xanh

Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành

Son trẻ trời như mười sáu tuổi

Má hồng phơn phớt, mắt long lanh

(Rạo rực)

Đồng thời nhà thơ cũng nhìn lại quá khứ đen tối của mình trước Cách mạng

tháng Tám, của cả thế hệ mình chứ chẳng riêng gì mình. Sống trong cảnh loạn lạc,

3.3 SO SÁNH TU TỪ THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA

chia ly của một xã hội đầy bất công.

Xuân Diệu xem tình yêu như biểu hiện tập trung và hấp dẫn nhất của sự sống

và là một phương tiện của lẽ sống. Tình yêu ấy không mang tính thuần khiết, thiếu

sức ấm, sức nóng của cuộc sống và hạnh phúc trần ai như trong thơ lãng mạn của

Tản Đà và kể cả Thế Lữ nữa người góp phần phác họa khuôn mặt mới của thi ca

hiện đại.

Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là biểu hiện của sự sống nồng cháy của tuổi trẻ

là hạnh phúc thật sự giữa cuộc đời. Ông muốn nói nhiều đến sự sống mà ông cảm

nhận được với tất cả khả năng và sức lực của tuổi trẻ như mặt trời đang lúc hừng

đông, với sự nhạy cảm của các giác quan đang ở độ mầu nhiệm.

(cid:4) Thể hiện tình yêu say đắm của đôi lứa

Ông ca ngợi tuổi trẻ, cái tuổi thanh niên chỉ đến một lần. Không phải ngẫu

nhiên mà nhà thơ của tình yêu mơ mộng, của hoa lá nên thơ lại ca ngợi vẻ đẹp của

thanh niên với than hình măng mọc, chân vút thẳng và đôi tay rộng mở.

Mai yếu đuối sao bằng thông mạnh mẽ?

Dáng yêu kiều sao bằng vẻ hùng anh

(Đẹp)

“Mai” là loài hoa đẹp tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, đó là sự mềm

mại, yếu ớt cần sự che chở. Nhà thơ so sánh với “thông” là hình ảnh ước lệ cho sự

cứng cỏi thích họp với mọi điều kiện sống. Từ đó, Xuân Diệu liên tưởng so sánh với

hình ảnh người “phụ nữ” với “dáng yêu kiều” và “đàn ông” với “vẻ hùng anh”.

Hình ảnh người con trai trong tuổi thanh xuân thể hiện sự dũng cảm, oai phong rất

dễ lấy lòng các cô gái. Đó cũng là một phương diện để thể hiện tình yêu. Đối với

Xuân Diệu thì bộ áo có mà rực rỡ nhất của sự sống là tình yêu. Tình yêu là sự sống

đơm hoa kết trái. Tình yêu là sự giao hòa cảm thông của hai thế giới trong hai con

người. Xuân Diệu là nhà thơ diễn đạt tình yêu với bao vẻ đẹp và trăm ngàn sắc thái

tinh vi nhất.

Trong yêu đương, Xuân Diệu sôi nổi với tình yêu bộc lộ của “một kẻ cháy

lòng”. Tình yêu ấy là của thời kỳ hiện đại không nằm trong sự ràng buộc của đạo lý

phong kiến và sự bộc lộ tình yêu ấy cũng mang tính chất hiện đại, không gò bó, ước

lệ mà sát đúng với trạng thái tình cảm say mê, rạo rực của người đang yêu và được

yêu, của tình yêu đòi hỏi “vô biên và tuyệt đích”. Điều đó đã đẩy lên một mức nữa

của tình yêu đam mê, say đắm:

Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi

(Nguyên đán)

Nhà thơ so sánh tình yêu đẹp như hoa của mùa xuân:

Vương vấn bên mình một mối thương

Như chim nặng nghĩa với bông hường

(Đi dạo)

Không gian trong thơ Xuân Diệu phù hợp với trạng thái của tình yêu, với hình

ảnh“hương” của hoa, của thiên nhiên nó đẹp và tình yêu tuổi trẻ cũng đẹp, cũng có

hương thơm khiến người ta say đắm như hương thơm hoa đẹp vậy.

Tình yêu muôn thuở vẫn là hương

(Gửi hương cho gió)

Tình yêu là một biểu hiện, một phần của sự sống. Yêu và được yêu là niềm

hạnh phúc lớn lao của con người. Đới với “ông hoàng của thơ tình”, tình yêu là lẽ

sống. Cùng với việc sử dụng thủ pháp so sánh tu từ trong thơ càng nhấn mạnh sức

mạnh vốn không thể kháng cự lại của tình yêu, yêu bằng tất cả các giác quan, yêu

bằng tất cả những gì có thể , yêu đến say đắm.

(cid:4) Thể hiện khát khao được yêu

Một chủ đề nổi bật trong thơ Xuân Diệu là khát vọng yêu đương, là tình yêu

của tuổi trẻ rạo rực, thiết tha nồng cháy nhưng không phải là tình yêu u hoài mà là

tình yêu cá nhân của chính mình. Tình yêu và hy vọng luôn có trong thơ tình của

ông. Với niềm cảm xúc của mình luôn hướng đến bao nỗi niềm của người khác, của

nhân thế. Ta như đã nghe lời tâm tình, thở than của mình vì mọi người:

Hãy nghe lẫn lộn ghé bên tai

Giọng suối lời chim, tiếng khóc người

(Huyền diệu)

Tình yêu không chấp nhận cô đơn, không chấp nhận cá lẻ, không chấp nhận

khoảngcách đến mỗi người kỹ nữ, nhân vật tưởng đã dày dạn với chia xa, cũng biết

bao đau khổ khi tiễn khách vì sợ cảnh mình gặp lòng mình:

Khách ngồi lại cùng em chốc lát

Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi

(Lời kỹ nữ)

Bởi vậy, Xuân Diệu luôn luôn khao khát tình yêu. Thi sĩ thấy tình yêu như

nguồn nước mà mình như kẻ qua sa mạc. Ông như luôn luôn bị một cơn khát siêu

hình dày vò. Bầu trời trong mắt ông thành chiếc chén:

Trời cao trê nhử chén xanh êm

Biển đắng khôn nguôi nỗi khát thèm

Nên lúc môi ta kề miệng thắm

Trời ơi, ta muốn uống hồn em!

(Vô biên)

Ông rất hiện đại và thành thật trong chuyện “quảng cáo” để “mời yêu”, luôn

luôn lo sợ phải rơi vào tình cảm “Lan mấy đóa lạc loài sơn dã, Uống mùi hương

vương giả lắm thay” của người cung nữ xưa. Như cây thông kia, ông gửi hương

phấn của tình yêu cho gió để hy vọng gặp được tình yêu. Thơ Xuân Diệu đầy một

sự hồi hộp, lạc quan và đầy hy vọng. Chính cái tôi đã khao khát đi đến tình yêu và

hưởng thụ hạnh phúc, coi đó là chuyện tự nhiên: “Tài tử với giai nhân nợ sẵn”. Bài

thơ đầu tiên của mình, Xuân Diệu đã khẳng định một nỗi niềm đầy khao khát, triết

lí về tình yêu và ông cũng khẳng định sống trên đời này phải có tình yêu, phải biết

nhớ biết thương một ai đó như vậy mới là cuộc sống mới, mới là tình yêu:

Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào

Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa

Cho bừng tia nắng, đọ tia sao

(Bài thơ tuổi nhỏ)

Trước Xuân Diệu, chưa có ai quan niệm về tình yêu như vậy cả. Cái khao khát

yêu trong ông càng ngày càng mãnh liệt và đối với “ông hoàng thơ tình” thì không

thể định lượng được tình yêu, với ông yêu chưa bao giờ thấy đủ:

Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ

Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần

Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân

Đem chim bướm thả trong vườn tình ái

(Phải nói)

Đó là con người tuyên bố yêu từ khi còn chưa có tuổi, cho đến khi không còn

trên đời này nữa. Đó là tâm hồn luôn luôn khao khát yêu, với ông tình yêu như lòng

ham sống của mình vậy. Nên trong ông lúc nào ngọn lửa tình yêu cũng luôn luôn

cháy không bao giờ tắt.

KẾT LUẬN

Xuân Diệu đến với thơ ca với tư cách là một nhà cách tân nghệ thuật đầy sáng

tạo. Ham mê sự sống với những cảm xúc thiết tha rạo rực như còn thấy sự rung

động của tâm hồn trên từng câu chữ. Xuân Diệu mới trong suy nghĩ, giọng điệu và

cả hình ảnh, ngôn từ.

Biện pháp so sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật độc đáo. Nó có đặc điểm

tính chất và giá trị sử dụng riêng. Qua quá trình nghiên cứu So sánh tu từ trong thơ

Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, người viết nhận thấy có một

số vấn đề cần quan tâm sau đây:

Thứ nhất là biện pháp so sánh tu từ đã tồn tại từ lâu. Đặc biệt là trong sáng tác

văn chương, nó là biện pháp nghệ thuật tu từ được các nhà thơ Việt Nam sử dụng

nhiều trong sáng tác. Thế nên, trong thời gian qua có rất nhiều công trình khoa học

của các nhà nghiên cứu có sự khác biệt. Nhưng những quan điểm, khái niệm định

nghĩa về so sánh tu từ của các tác giả, các công trình này đưa ra đã tạo nên sự sinh

động hấp dẫn của vấn đề. Chính những quan điểm, định nghĩa trên đã tạo cho người

đọc phân vân, nên hay không nên theo cách này hay là tổng hợp các quan điểm đó

lại thành quan điểm mới phù hợp với cách hiểu của mình vv… Bởi vậy, chúng ta

cần tôn trọng cách lựa chọn của mỗi người vì đó là vấn đề thuộc về quan điểm lập

trường, có như vậy việc nghiên cứu so sánh tu từ sẽ có những bước tiến xa trong

tương lai hơn.

Thứ hai là qua quá trình khảo sát thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi

hương cho gió, người viết nhận thấy so sánh tu từ là biện pháp nghệ thuật được

Xuân Diệu sử dụng khá nhiều. Từ các tác phẩm đầu tay (trong tập Thơ thơ và Gửi

hương cho gió) đến tận các tác phẩm sau này. Xuân Diệu sử dụng so sánh tu từ rất

phong phú, đa dạng và có những nét đột phá mới. Ông sử dụng so sánh tu từ có

những kiểu so sánh truyền thống và so sánh hiện đại mới mẻ thể hiện những phát

hiện, nhận thức tiến bộ của một nhà thơ trí tuệ, sáng tạo, triết lý xen vào tình cảm,

cảm xúc. Chất liệu so sánh cũng rất phong phú, mang tính biểu trưng của từng thời kì.

Thứ ba là vấn đề phân loại so sánh tu từ trong thơ Xuân Diệu có thể nói rằng

với việc so sánh tu từ trong các sáng tác của một tác giả lớn như Xuân Diệu thành

từng dạng so sánh cụ thể là một điều cần thiết. Vì khi nhìn vào hệ thống phân loại

ấy, ta sẽ có cái nhìn toàn diện về cách sử dụng so sánh tu từ của nhà thơ. Dạng so

sánh nào được sử dụng thường xuyên trong sáng tác, dạng so sánh nào chỉ được sử

dụng trong một thời kỳ, một giai đoạn sáng tác cụ thể. Hơn thế nữa việc phân loại

so sánh tu từ cũng sẽ là cơ sở để chúng ta tiến hành phân tích đánh giá.

Thứ tư là vấn đề phân tích đánh giá, giá trị độc đáo trong việc sử dụng So sánh

tu từ trong thơ Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, khi tiến hành

làm phần này người viết luôn bị cuốn hút bởi những chất liệu so sánh của thời kì

trước Cách mạng tháng Tám thật là hấp dẫn như: chim, mây, gió, hương,… Đó cũng

chính là điều làm nên sự độc đáo, hấp dẫn cho Thơ thơ và Gửi hương cho gió.

Do đó trong quá trình nghiên cứu, người viết cũng cố gắng tìm tòi, phân tích

làm rõ giá trị biểu đạt của các dạng so sánh tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu qua hai

tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Đồng thời, người viết có sự so sánh với cách sử

dụng dạng so sánh tu từ tương tự ở các nhà thơ khác. Từ đó làm rõ hơn giá trị độc

đáo của việc sử dụng so sánh tu từ qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió của

nhà thơ Xuân Diệu.

Tóm lại, việc thực hiện đề tài này là cả một quá trình cố gắng, tìm tòi, tiếp thu

và học hỏi dựa trên chính kiến thức của bản thân. Vì thế, luận văn không tránh khỏi

còn những sai sót. Người viết rất mong nhận được những lời nhận xét góp ý của

bạn đọc quan tâm tới vấn đề này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Bao (Sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), (2001), Toàn tập Xuân

Diệu (Tập 1), Nxb Văn học.

2. Ngô Viết Dinh (Tuyển chọn), (2000), Đến với thơ Xuân Diệu, Nxb Thanh

niên.

3. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu

giai đoạn 1932- 1945, Nxb Giáo dục.

4. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

5. Hà Minh Đức (1997), Khảo luận Văn chương- Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

6. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại (Bình giảng và phân tích

tác phẩm), Nxb Hà Nội.

7. Hà Minh Đức (2009), Văn chương và Thời cuộc (Tiểu luận văn học),

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Bích Hà (Tuyển chọn và giới thiệu), (2006), Xuân Diệu một cái tôi khao

khát nồng nàn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

9. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 Phương tiện và Biện pháp Tu Từ Tiếng Việt,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Đinh Trọng Lạc (Chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (2009), Phong cách học

Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

11. Mã Giang Lân (Tuyển chọn và biên soạn), (1999), Thơ Xuân Diệu

những lời bình, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.

12. Phong Lê (Phụ trách chung), (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện

đại, Nxb Lao động, Hà Nội.

14. Tôn Thảo Miên (Tuyển chọn), (2002), Thơ thơ và Gửi hương cho gió tác

phẩm và dư luận, Nxb Văn học.

15. Lữ Huy Nguyên (Tuyển chọn), (2008), Nét độc đáo trong thơ Xuân Diệu,

Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Nở (Biên soạn), (2012), Phong cách học tiếng Việt, Nxb

Đại học Cần Thơ.

17. Vũ Tiến Quỳnh (Biên soạn), (1995), Phê bình Bình luận Văn học Xuân

Diệu Huy Cận, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

18. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

19. Hoài Thanh– Hoài Chân (2013), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà

Nội .

20. Lý Hoài Thu (1999), Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945

(Thơ thơ và Gửi hương cho gió), Nxb Giáo dục.

21. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục.

22. Lê Đình Tuấn, “Nghệ thuật so sánh tu từ trong tùy bút người lái đò sông

Đà”, tạp chí Ngôn Ngữ và đời sống số 8- 1999.

23. Bùi Tất Tươm (Chủ biên), (1995), Giáo trình tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

24. Nguyễn Anh Vũ (Biên tập), (2011), Tác phẩm trong nhà trường Xuân

Diệu, Nxb Văn học.

PHẦN PHỤ LỤC

NHỮNG CÂU THƠ SỬ DỤNG SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ

XUÂN DIỆU QUA HAI TẬP “THƠ THƠ” VÀ “GỬI HƯƠNG CHO GIÓ”

DẪN THƠ

STT HÌNH THỨC TÊN BÀI

TÊN TẬP THƠ THƠ

SO SÁNH

A là B

1 Đây là quán tha hồ muôn khách đến Cảm xúc

Thơ thơ

2 Đây là bình thu hợp trí muôn phương

3 Đây là vườn chim nhả hạt mười phương

4 Tôi chỉ là một cây kim nhỏ bé

5 Mà vạn vật là muôn đá nam châm

6 Cô hãy là nơi mấy khóm dừa Vì sao

7 Để tôi là kẻ đi qua sa mạc

8 Yêu là chết trong lòng một ít Yêu

9 Yêu, là chết trong lòng một ít

10 Yêu là chết trong lòng một ít

11 Và cảnh đời là sa mạc vô liêu

12 Và tình ái là sợi giây vấn vít

13 Yêu là chết trong lòng một ít

14 Anh hãy là thi nhân

Chàng sầu

15 Những lúc mây đen ám mặt mày, Vô biên

Là lúc lời xa muôn thế giới

16 Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Vội vàng

17 Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

18 Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

19 Đương lúc hoàng hôn xuống

Viễn khách Là giờ viễn khách đi

20 Và mưa kia là nước mắt gió rơi

Tiếng gió

21 Và sương ấy là mồ hôi gió rớt

22 Ấy là tiếng những âm binh tan tác

23 Anh chỉ là con chim bơ vơ

Muộn màng

24 Tôi là một kẻ điên cuồng Thở than

25 Tôi là một kẻ bơ vơ

26 Những cây bàng là những bộ xương cao Sắt

27 Tưởng như núi đẹp là tranh vẽ Núi xa

28 Tôi là một con chim không tổ Dối trá

29 Tôi là một con chim đến từ núi lạ

Lời thơ vào tập gửi hương Gửi hương cho gió

30 Nếu trang giấy có động mình tuyết bạch

Ấy là tôi dào dạt với âm thanh

31 Tôi là con chim đến từ núi lạ

32 Tình yêu muôn thủa vẫn là hương

Gửi hương cho gió

33 Người si muôn kiếp là hoa núi

34 Phố đẹp người xinh là đời bánh mật

Đêm thứ nhất

35 Mặt tươi môi đậm là gã trai tân

36 Lòng ta là một cơn mưa lũ

Nước đổ lá khoai

37 Đã gặp lòng em là lá khoai

Ấy là sa mạc của buồng hoa 38

Những kẻ đợi chờ

Tôi là con nai bị chiều đánh lưới 39

Khi chiều giăng lưới

Ôi ngắn ngủi là những giờ họp mặt Kỷ niệm 40

Ôi vội vàng là những phút trao yêu 41

Sao ngắn ngủi là những giờ họp mặt 42

Sao vội vàng là những phút trao yêu 43

Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ Yêu mến 44

Tôi là một kẻ thơ …thẩn Đi dạo 45

Ấy là vạn vật nức xuân tâm 46

Tôi là một kẻ thơ thẩn 47

Ý tôi là những cành trinh nữ Ý thoáng 48

Ý tôi là những thoáng qua mau 49

Bên màu hoa mới thắm như kêu

50 A như B Nụ cười xuân Thơ thơ

Nỗi gì âu yếm qua không khí 51

Như thoảng đưa mùi hương mến yêu

Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc Vì sao 52

Như thuyền ngư phủ lạc trong sương

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, 53

Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu

Say người như rượu tối tân hôn; 54

Huyền diệu Như hương thấm tận qua xương tủy

Còn cứ run hoài, như chiếc lá 55

Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt Yêu 56

Kiếm mãi nghi hoài, hay ghen bóng gió Xa cách 57

Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch Phải nói 58

59 Cốt nhất là em nhớ lạnh như đông

60 Chớ yên ổn như mặt hồ nước ngủ

61 Khí trời quanh tôi làm bằng tơ Nhị hồ

62 Khí trời quanh tôi là bằng thơ

63 Lá liễu dài như một nét mi

64 Em ác quá lòng anh như tự xé Hẹn hò

65 Vườn cười bằng bướm hót bằng chim Lạc quan

66 Những tiếng tung hô bằng ánh sáng

67 Gió qua như một khách thừa lương

68 Hoa cúc dường như thôi ẩn dật

69 Với bạn ân tình hay với cảnh Vô biên

70 Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Vội vàng

71 Như đứa trẻ con ôm cái bánh Giờ tàn

E dè tôi muốn giữ cho lâu

72 Giờ tàn như những cánh hoa rơi

73 Không gian như có giây tơ Chiều

74 Một bài thơ mênh mông như vũ trụ

Biệt ly êm ái

75 Không gì buồn bằng những buổi chiều êm

Tương tư chiều

76 Những chồng sách nặng khô như đá

Giới thiệu

77 Lòng ta trống lắm lòng ta sụp Bên ấy

bên này Như túp nhà không bốn vách xiêu

78 Thôi rồi em cũng chẳng thờ ơ nữa

Như đối cùng ta tự bấy nay

79 Như đối cùng ta giữa cảnh mưa

Mà lòng không hiểu trán bơ vơ

80 Có nhiều lúc gió kêu thê thiết quá

Tiếng gió Như gió đau một nỗi khổ vô hình

Như bao điều ảo não của nhân sinh

81 Trong khung xám của mùa đông bằng sắt

82 Đánh vào thân thể run như sậy

Muộn màng

83 Đem vứt đi, như trái chua cay Thở than

84 Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo Sắt

Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ

85 Ngày muốn hết buồn như đời muốn hết

86 Đất đen kêu như dưới chân giày

87

Chân đi nặng như mang xiềng xích; giam cầm

88 Tóc mịn đầy như suối mát Gửi trời

99 Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng Ca tụng

90 Ngươi vĩnh viễn như lòng trăng ý gió

91 Êm êm núi biếc xinh như ngọc Núi xa

92 Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà

93 Thấy núi yên như một miếng bìa

94 Tất tả tôi run rẩy tựa giây đàn Dối trá

95 Tôi như chiếc thuyền hư, không bến đỗ

96 Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi

97 Hỡi lòng dạ sâu xa như vực thẩm

98

Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình

Và như màu theo nắng nhạt, như hương

99 Trái tim buồn như một bãi tha ma

100 Tôi hưởng ứng bằng vạn lời say đắm

101 Không thấy người bằng không thấy mặt trời

102 Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

103 Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi....

104 Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết

Buồn trăng

Gửi hương cho gió

105 Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn

Lời kỹ nữ

106 Tôi dệt hồn tôi bằng ánh nguyệt Phơi trải

107 Tôi như con bướm đắm tình thương

108 Như tuyệt diệu bởi hồn tôi xanh quá

Chỉ ở lòng ta Và người ấy vẫn như bao kẻ lạ

109 Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách

110 Mà tình yêu như quán trọ bên đường

111 Đêm đêm như nhớ chị đò xưa

Buổi chiều

112 Ta cũng như em hết trẻ rồi

Tặng bạn

bây giờ

113 Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc Hư vô

114 Tôi run như lá, tái như đông

115 Như một chiêm bao rất mộng thơ Tình cờ

Bâng khuâng tôi nghĩ chuyện tình cờ

116 Hây hây thục nữ mắt như thuyền Thu

117 Hoa lau trắng đã kết bằng tiêu tao Bụi mưa

mờ cũ

118 Thư tình mỏng như suốt đời mộng ảo

Tình thứ nhất

119 Tình thì buồn như tất cả chia ly

120 Hương mới thấm bền ghi như thiết thạch

121 Chỉ một thơ đầu lông tuyết phủ

Như đầu xuân chỉ một hoa tươi Trò chuyện với thơ

thơ

122 Lá như con mắt cụm cây nhìn

Lưu học sinh

123 Trái tựa hình tim, chim hót xin

124 Ta như cô khách khoảng đìu hiu Nước đổ

lá khoai

125 Sương mông lung như giữa khoảng giang hà

Sương mờ

126 Sương lan mờ, cây gần cũng như xa

Sương lan bay, ngày đứng cũng như tà

127 Tình riêng lẩn khuất như bờ vì lau Im lặng

128 Không dấu giếm, như một con đường thẳng Tặng thơ

129 Em lúc ấy nhìn anh như lệ ứa Kỷ niệm

130 Êm ái như trong ngó có mùi hương

131 Hết ngày Còi thét như gươm, tay hoảng đứt

hết tháng

132 Yêu mến Chỉ vì nghe một lời hứa như chim

133 Sao rải rác như lệ vàng đêm nhỏ

134 Mưa lơ phơ như dạ khóc âm thầm

135 Như chim nặng nghĩa với bông hường Đi dạo

136 Du dương như gái thời xưa Ý thoáng

137 Mùa xuân bay lượn bướm như thơ

138 Cũng dịu dàng như thể một mùa thu! Mơ xưa

139 Ve thêm sầu- em cũng kém nhung nhan Hè

140 Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa

141 Thê lương đời như trải mấy binh đao

142 Ta nằm đây như một ải quan xa

Riêng tây

143 Ta buồn bã riêng tây như đứa nhỏ

144 Khi dung dằng như chẳng vội gì qua Truyện

cái thư

145 Mỗi phong bì như vẽ cả sơn khê

146 Son sẻ trời như mười sáu tuổi Rạo rực

147 Lòng tôi rung động như Chiều

đợi chờ Hoa hồng trong cốc nước

148 Khí lạnh như thu, hồn ngây ngất quá Sầu

149 Đất nồng thơm hương dương tráng tựa

Mênh mông chàng trai

150 Và lòng ta như vậy đó, nhân gian

151 Hình óng ả cũng mê như nét vặm

152 Và lòng ta như ngựa trẻ không cương

153 Mai yếu đuối, sao bằng mai mạnh mẽ? Đẹp

154 Dáng yêu kiều, sao bằng vẻ hùng anh?

155 Bước vạm vỡ như là đi chinh phục

156 Cặp mày xanh như rừng biếc chen cây

157 Em thanh thơi như buổi sáng đầu ngày

158 Em mạnh mẽ như buổi chiều giữa hạ

159 Ngươi ríu rít như một rừng chim núi

Thanh niên

160 Ngươi xôn xao như một vạn cây rừng

161 Nao lòng ta bằng muôn cánh yêu thương

Làm rợn ngợp như phất cờ trẻ mạnh

162 Ta liếc đời bằng những khóe ham mê

163 Sự sống như hương bỏ hoa chiều

164 A-B Tiếng mưa khóc, lời reo tia nắng động Cảm xúc

Thơ thơ

165 Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi

Nguyên đán

166 Cây cỏ bình yên; khuya tĩnh mịch Nhị hồ

167 Trăng, hoa vàng lay lắt tựa trời mây Ca tụng

168 Trăng, ngọc giữa mâm trời huyền bí

169 Người giai nhân: bến đợi dưới cây già

Lời kỹ nữ

Gửi hương cho gió

170 Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt

171 Sắc trời: sương đọng; non: mây tỏa Hết ngày

hết tháng Không biết lòng ta đi tới chốn nào

172 Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê

Nguyệt cầm

173 Lòng tôi đó, một vườn hoa cháy nắng Tặng thơ