(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:0)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:6) KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN (cid:2)(cid:2) (cid:2) (cid:3)

VĂN HÓA TINH THẦN

TRONG CA DAO NAM BỘ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC

THÁI THỊ HỒNG NHUNG

Hậu Giang – 2014

(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7) (cid:0)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:6) KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

(cid:2)(cid:2) (cid:2) (cid:3)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC

VĂN HÓA TINH THẦN

TRONG CA DAO NAM BỘ

Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:

TS. TRẦN VĂN NAM THÁI THỊ HỒNG NHUNG

MSSV: 1056010074

Lớp: Đại học Ngữ Văn

Khóa: 3

Hậu Giang – 2014

LỜI CẢM TẠ (cid:2)(cid:4)(cid:3) Bốn năm học tập dưới giảng đường đại học là khoảng thời gian giúp người viết tích

lũy được nhiều kiến thức quý báu về chuyên ngành, cũng như kinh nghiệm sống đó

sẽ là một hành trang vững chắc cho người viết khi bước vào đời. Để có thể hoàn

thành luận văn tốt nghiệp, người viết đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều từ gia đình,

thầy cô và bạn bè. Nhân dịp này người viết xin trân trọng gửi lời cám ơn sâu sắc nhất đến: * Thầy Trần Văn Nam, người đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tư liệu, giúp đỡ và

động viên người viết trong suốt quá trình làm luận văn. * Quý thầy cô Khoa Khoa Học Cơ Bản Trường Đại học Võ Trường Toản đã tạo

mọi điều kiện để giúp người viết hoàn thành luận văn. * Thư viện Trường Đại học Võ Trường Toản, Thư viện thành phố Cần Thơ đã

cung cấp cho người viết nhiều tài liệu quý giá và cần thiết cho luận văn. * Cùng gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, giúp đỡ và động viên tinh thần để người

viết có thể hoàn thành khóa học và luận văn tốt nghiệp.

Sinh viên thực hiện Thái Thị Hồng Nhung

LỜI CAM ĐOAN (cid:2)(cid:4)(cid:3)

Tôi xin cam đoan rằng đề tài này do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập

và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài

nghiên cứu khoa học nào.

Sinh viên thực hiện

Thái Thị Hồng Nhung

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2 3. Mục đích yêu cầu ......................................................................................... 6 4. Giới hạn vấn đề ............................................................................................ 6 5. Phương pháp và phương pháp nghiên cứu .................................................. 7

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 8

1.1. CA DAO VÀ CA DAO NAM BỘ ............................................................. 8

1.1.1. Khái quát ca dao .................................................................................... 8

1.1.2. Phân loại ca dao ..................................................................................... 10

1.1.2.1. Ca dao về tình yêu quê hương đất nước ............................................... 10

1.1.2.2. Ca dao về tình yêu đôi lứa .................................................................... 11

1.1.2.3. Ca dao về tình cảm gia đình ................................................................. 12

1.1.2.4. Ca dao về các mối quan hệ xã hội khác ............................................... 13

1.1.3. Khái quát ca dao Nam Bộ ..................................................................... 14

1.2. VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA NAM BỘ ...................................................... 18

1.2.1. Khái quát văn hóa ................................................................................. 18

1.2.2. Khái quát văn hóa Nam Bộ .................................................................. 23

CHƯƠNG 2. PHONG TỤC, TẬP QUÁN TRONG CA DAO NAM BỘ ... 29

2.1. LỄ HỘI VÀ LỄ TẾT .................................................................................. 29

2.1.1. Lễ hội ...................................................................................................... 29

2.1.2. Lễ tết ....................................................................................................... 32

2.2. PHONG TỤC HÔN NHÂN VÀ TANG MA ............................................ 36

2.2.1. Phong tục hôn nhân .............................................................................. 36

2.2.2. Phong tục tang ma ................................................................................. 42

2.3. MỘT SỐ TẬP QUÁN KHÁC ................................................................... 44

CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

TRONG CA DAO NAM BỘ .......................................................................... 51

3.1. TÍN NGƯỠNG ........................................................................................... 51

3.1.1. Thờ Trời ................................................................................................. 51

3.1.2. Thờ tổ tiên .............................................................................................. 55

3.1.3. Thờ thần Thành Hoàng và các nhân vật lịch sử ................................ 58

3.2. TÔN GIÁO ................................................................................................. 61

3.2.1. Phật giáo ................................................................................................. 61

3.2.2. Nho giáo .................................................................................................. 64

3.2.3. Thiên Chúa giáo .................................................................................... 68

Kết luận ............................................................................................................ 70

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học là một trong những bộ phận quan trọng và không thể tách rời của

văn hóa, cho nên hiện nay việc nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đang được

sự quan tâm chú ý của nhiều người. Ngay từ giữa thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu

tên tuổi trên lĩnh vực văn học và văn hóa như: Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Vũ

Ngọc Khánh… đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu về văn học dân gian hết

sức đồ sộ. Họ đã góp phần làm nên diện mạo của nền văn hóa Việt Nam cũng như

cung cấp thêm nhiều dữ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu và tìm hiểu văn học

dân gian.

Nam Bộ là một mảnh đất mới và phì nhiêu, được người Việt bắt đầu khai

hoang vào đầu thế kỷ XVII cách đây khoảng hơn 300 năm tuổi. Đó là một vùng đất

trải dài từ Đồng Nai cho đến tận mũi Cà Mau, thuộc lưu vực hai con sông Đồng Nai

và Cửu Long. Nam Bộ đã phải chịu khá nhiều biến cố của lịch sử dân tộc và đây

cũng là nơi cộng cư sinh sống của nhiều tộc người như: Kinh, Hoa, Khmer, Chăm,

Stiêng….

Văn học dân gian là một bộ phận của nền văn học Việt Nam. Đặc biệt, trong

đó ca dao là phần phong phú và gắn liền được chính quần chúng nhân dân sáng tác,

nuôi dưỡng. Ca dao không chỉ là tấm gương phản chiếu tất cả các phương diện của

đời sống xã hội mà nó còn là tiếng nói tâm tình trong cuộc sống sinh hoạt thường

ngày, qua đó nhằm gửi gắm những kinh nghiệm của nhân dân về đối nhân xử thế.

Tìm đến với ca dao là tìm đến với cội nguồn dân tộc, là tìm đến với tinh hoa văn

hóa của người đời trước truyền lại cho con cháu đời sau, qua đó ta sẽ thấy cách thể

hiện độc đáo và sâu sắc về tâm hồn người Việt Nam qua bao thế hệ. Khi đến với ca

dao Nam Bộ ta sẽ khám phá thêm nhiều nét văn hóa mới, đặc biệt là văn hóa tinh

thần của người dân Nam Bộ được thể hiện qua ca dao.

Lí do khiến người viết chọn vấn đề “Văn hóa tinh thần trong ca dao Nam

Bộ” để nghiên cứu, là vì bản thân người viết muốn tìm hiểu sâu hơn mối quan hệ

giữa văn học dân gian với văn hóa vùng miền cụ thể là văn hóa vùng đất Nam Bộ ở

khía cạnh tinh thần với thể loại ca dao. Thứ hai là người viết muốn biết rõ thêm về

1

nét văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ được thể hiện trong ca dao đặc sắc và

hay như thế nào, để từ đó có một cái nhìn mới về văn hóa tinh thần trong ca dao nói

chung và ca dao Nam Bộ nói riêng. Thứ ba là người viết muốn thông qua việc

nghiên cứu vấn đề này, sẽ mở rộng thêm vốn kiến thức của mình về vùng đất nơi

mà mình được sinh ra và lớn lên. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu trên còn giúp cho

người viết đúc kết thêm nhiều kiến thức khoa học cũng như góp phần hỗ trợ cho

công tác học tập và làm việc về sau.

2. Lịch sử vấn đề

Trước nay, văn học dân gian đóng một vai trò rất quan trọng trong sự hình

thành và phát triển của nền văn học dân tộc, nghĩa là sáng tác dân gian luôn là cơ sở

nền tảng vững chắc và là cốt lõi của văn học thành văn, văn học viết,… Việc nghiên

cứu văn học dân gian trong nhiều thập kỷ qua vẫn không ngừng được tiến hành và

phát triển. Đặc biệt là việc nghiên cứu ca dao Nam Bộ, một trong những đề tài hết

sức quen thuộc và gần gũi. Nhắc đến Nam Bộ là nhắc đến một mảnh đất thân

thương giàu nghĩa tình, tràn đầy những tấm lòng thân ái và chính nơi đây đã ươm

mầm cho hạt giống ca dao phát triển rất mạnh mẽ.

Lịch sử nghiên cứu ca dao Nam Bộ có thể chia thành ba giai đoạn: từ đầu

đến năm 1954, từ năm 1954 đến năm 1975 và từ năm 1975 cho đến nay.

Giai đoạn đầu: Đây được xem là giai đoạn khởi đầu cho việc sưu tầm những

giá trị văn hóa nói chung và ca dao ở Nam Bộ nói riêng. Nó chưa thật sự đi sâu vào

việc khai thác nhiều khía cạnh, góc độ của vấn đề cũng như chưa bao quát được nội

dung của ca dao giai đoạn này. Lí do đặt ra ở đây chính là việc sưu tầm chỉ là một

sự tự phát, theo ý thích và mang tính chất địa phương. Không những thế, do điều

kiện đi lại và sự giao lưu văn hóa giữa các vùng còn gặp nhiều khó khăn và chưa

được chú trọng nên những công trình nghiên cứu giai đoạn này chỉ mang tính chất

là tư liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này, chứ chưa có những bức

phá gì đậm nét. Giai đoạn thứ hai: Ta đã thấy những khởi sắc mới của các công trình nghiên

cứu về văn hóa dân gian Nam Bộ, do sự thay đổi về chất lẫn lượng. Đáng quan tâm

đó là sự rộng hơn, đa dạng hơn và khái quát hơn về phạm vi nghiên cứu. Một công

trình đáng chú ý là Ba trăm năm Văn học dân gian lục tỉnh, 2 tập của Nguyễn Văn

2

Hầu (năm 2004 nhà xuất bản Trẻ tái bản lại với tên mới là Diện mạo Văn học dân

gian Nam Bộ). Đây là công trình đầy tâm huyết và mang đậm dấu ấn cá nhân của

ông. Sách được ông sưu tầm và biên soạn tuy không thật đầy đủ nhưng thông qua

công trình phần nào đã giúp cho độc giả hiểu hơn về ca dao Nam Bộ, cũng như về

đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa xã hội của Nam Bộ trong vòng ba trăm năm qua.

Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu khác của Ngô Văn Phát, Nguyễn

Kiến Thiết,… cũng đã góp phần vào sự thay đổi của thời kỳ này.

Nhìn chung, giai đoạn này việc nghiên cứu văn hóa dân gian và ca dao Nam

Bộ đã góp phần vào sự thành công của nền văn học dân gian Nam Bộ, do có những

chuyển biến mạnh mẽ hơn so với thời kỳ trước nhưng vẫn chưa có công trình

nghiên cứu văn hóa dân gian nào thật sự có giá trị chuyên sâu.

Giai đoạn thứ ba: Nghiên cứu văn hóa dân gian có những bước tiến mới do

có nhiều công trình được công bố rộng rãi.

Đặc biệt là những công trình nghiên cứu ca dao có giá trị chuyên sâu. Tiêu

biểu là các công trình:

* Quyển Ca dao – dân ca Nam Bộ của nhóm tác giả Bảo Định Giang,

Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn, nhà xuất bản thành phố

Hồ Chí Minh 1984. Trong công trình này các tác giả nêu lên khái quát lịch sử hình

thành, điều kiện tự nhiên của vùng đất Nam Bộ. Đồng thời, qua phần sưu tập ca dao

– dân ca Nam Bộ, các tác giả đã chia ca dao dân ca thành bốn chủ đề: Tình yêu quê

hương đất nước, tình yêu nam nữ, tình cảm gia đình và các mối quan hệ xã hội

khác. Công trình trên sẽ là một ngữ liệu đáng tin cậy cho các nhà nghiên cứu khi

cần tìm hiểu về Nam Bộ nói chung và ca dao Nam Bộ nói riêng do đã công bố một

số lượng lớn các bài ca dao được sưu tầm ở Nam Bộ.

* Quyển Ca dao – dân ca Nam Kỳ lục tỉnh do Huỳnh Ngọc Trảng biên soạn,

nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai xuất bản lần 1 năm 1998. Công trình này, tác giả

Huỳnh Ngọc Trảng đã tập hợp sáu công trình của sáu nhà nghiên cứu được công bố

từ cuối thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX ở Nam Bộ. Bao gồm:

- Câu hát góp do Huỳnh Tịnh Của sưu tập và công bố lần đầu vào năm 1897,

3

tái bản năm 1901.

- Hát và hò góp do Nguyễn Công Chánh biên soạn, nhà xuất bản Thuận Hòa

xuất bản năm 1967 tại Chợ Lớn.

- Hò xay lúa do Hoàng Minh Tự sưu tập, nhà xuất bản Phạm Văn Cường

xuất bản tại Chợ Lớn.

- Câu hát đối đáp do Nguyễn Bá Thời sưu tập, nhà xuất bản Phạm Văn

Cường xuất bản năm 1959 tại Chợ Lớn.

- Câu hát huê tình do Đinh Thái Sơn sưu tầm, nhà xuất bản Thuận Hòa xuất

bản năm 1966 tại Chợ Lớn.

- Hò miền Nam do Lê Thị Minh sưu tầm, nhà xuất bản Phạm Văn Tươi xuất

bản năm 1956 tại Sài Gòn.

Trong số sáu công trình trên chỉ có phần Câu hát góp của Huỳnh Tịnh Của là

thuộc về ca dao, các phần còn lại đều là ngôn từ của các bài dân ca Nam Bộ. Qua

đó, khi khảo sát công trình này giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc sống tình cảm,

những quan niệm về thẩm mỹ, đạo lý,… của các thế hệ người Nam Bộ đi khai

hoang vùng đất mới.

* Quyển Ca dao Đồng Tháp Mười do Đỗ Văn Tân chủ biên (nhà xuất bản

Văn hóa – Thông tin Đồng Tháp in năm 1984). Qua công trình này, tác giả Đỗ Văn

Tân chủ yếu nghiên cứu các thể loại ca dao. Dù không trực tiếp nói đến văn hóa dân

gian nhưng ca dao thật sự là một tấm gương phản chiếu môi trường thiên nhiên, đời

sống tình cảm và tâm hồn đó chính là cách ghi nhận những yếu tố văn hóa vào nội

dung bài ca dao.

Đáng chú ý là công trình này có sự phân vùng để sưu tầm văn học dân gian,

từ đó lấy cơ sở phân vùng văn học dân gian được thực hiện ở miền Bắc từ thập niên

70 của thế kỉ XX, nhưng đối với Nam Bộ thì việc này không thấy nhắc đến trong

các công trình sưu tầm văn học dân gian Nam Bộ.

* Quyển Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ của nhóm tác giả Thạch

Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (nhà xuất bản Khoa học xã hội in

năm 1992). Quyển này gồm 11 chương: một chương tổng quan, một chương tổng luận và

chín chương trình bày các nội dung liên quan đến văn hóa người Việt Nam Bộ ở

4

nhiều khía cạnh như: Công cuộc khai phá đất đai và quá trình quần cư, hình thành

làng xã, thị tứ; dấu ấn thiên nhiên trong sinh hoạt văn hóa dân gian; đặc điểm và vị

trí của sinh hoạt lễ hội truyền thống trong đời sống tinh thần; phong tục tập quán;

các loại hình truyện kể trong nghệ thuật ngữ văn; các loại hình sinh hoạt diễn xướng

trong nghệ thuật ngữ văn dân gian; các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống và

nghệ thuật tạo hình dân gian; thú tiêu khiển, giải trí, trò chơi dân gian và phương

ngữ Nam Bộ. Đây chính là công trình nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ từ góc

độ văn hóa học thông qua sự kết hợp với văn học dân gian. Mỗi chương đề cập đến

một nét văn hóa khi là vật chất, khi là tinh thần. Đây là một trong những tài liệu cần

thiết cho những ai muốn nghiên cứu về văn hóa Nam Bộ.

* Quyển Cảm nhận ca dao Nam Bộ của Trần Văn Nam (nhà xuất bản Văn

nghệ in năm 2007). Sách tập hợp 15 bài viết của nhà nghiên cứu Trần Văn Nam về

ca dao Nam Bộ và văn hóa Nam Bộ. Trong đó chú ý những bài như “Từ ba yếu tố

nền tảng của văn hóa Nam Bộ đến ca dao”, “Ca dao Nam Bộ - ca dao của vùng đất

mới”, “Một nét văn hóa Nam Bộ qua hình ảnh cá, câu – cá trong ca dao”, “Biểu

trưng văn hóa trong ca dao Nam Bộ”.

Đặc biệt trong bài “Từ ba yếu tố nền tảng của văn hóa Nam Bộ đến ca dao”

tác giả đã xác định Nam Bộ là vùng “văn minh của cây lúa”, “văn minh miệt vườn”

và “văn minh kênh rạch”.

Chính những đặc điểm văn hóa nêu trên đã có ảnh hưởng đến văn hóa dân

gian nói chung, văn học dân gian Nam Bộ nói riêng để từ đó có thêm cách nhìn mới

về vùng văn minh đặc trưng sông nước khi hệ thống kênh rạch tự nhiên dày đặc đã

chi phối văn hóa Nam Bộ.

* Quyển Văn hóa sông nước Cần Thơ do Trần Văn Nam chủ biên (nhà xuất

bản Văn nghệ in năm 2009). Công trình này tập hợp những bài viết đã được đăng

trên các báo địa phương của một số tác giả ở Cần Thơ. Công trình được chia làm

bốn phần: mở đầu, văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và ẩm thực. Qua đó giúp cho

người đọc hiểu rõ hơn về vùng đất cũng như con người Nam Bộ trên một phạm vi

hẹp đó là văn hóa Cần Thơ.

Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi

trước, người viết tiếp tục phát triển theo hướng tiếp cận, tìm hiểu văn hóa người

5

Việt qua ca dao sưu tầm ở Nam Bộ đặc biệt là khía cạnh văn hóa tinh thần. Qua

những công trình trên đã giúp cho người viết rất nhiều trong việc tìm hiểu và nghiên

cứu về phương diện văn hóa tinh thần từ thể loại ca dao của một vùng đất trẻ.

3. Mục đích yêu cầu

Nghiên cứu đề tài này, trước hết người viết mong muốn giúp cho bạn đọc nói

chung và người viết nói riêng có thể hiểu sâu sắc hơn về kho tàng ca dao Nam Bộ,

trong đó đặc biệt là văn hóa tinh thần được thể hiện thông qua các bài ca dao. Từ đó

chúng ta sẽ có được một cái nhìn khái quát và hệ thống lại về nguồn ca dao của

Nam Bộ nhằm giữ gìn cũng như phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc.

Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, đây chính là cơ hội để người viết tìm

hiểu thêm về mối tương quan giữa văn hóa học và văn học dân gian. Đồng thời,

người viết sẽ tích lũy thêm cho mình những kiến thức bổ ích cũng như tăng thêm

kinh nghiệm nhận thức khoa học về một vấn đề sau khi hoàn thành việc nghiên cứu.

Để làm rõ được nội dung của đề tài nghiên cứu trên, người viết đã đọc và

tham khảo cũng như tìm hiểu những nguồn tư liệu có liên quan trên sách, báo,…đặc

biệt là các công trình nghiên cứu của những người đi trước để nhằm giới hạn vấn đề

và tránh đi quá xa với đề tài nghiên cứu.

4. Giới hạn vấn đề

- Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ ca dao được sưu tầm ở Nam Bộ. - Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này người viết chỉ nghiên cứu ca dao

có trong quyển Ca dao – dân ca Nam Bộ của nhóm tác giả Bảo Định Giang, Nguyễn

Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhi biên soạn và được nhà xuất bản thành phố

Hồ Chí Minh in năm 1984. Tuy nhiên, khi cần thiết người viết sẽ sử dụng thêm ca

dao có trong các tài liệu khác. Do thời gian và khả năng của bản thân nên trong quá

trình nghiên cứu, tìm hiểu người viết chỉ đề cập đến một số nét về văn hoá tinh thần

của người Việt ở Nam Bộ được phản ánh trong ca dao. Đồng thời, người viết chỉ sơ

lược và nhận xét khái quát về những nét văn hóa in đậm trong cuộc sống sinh hoạt

hàng ngày của người Việt Nam Bộ mà ca dao ít hoặc thậm chí không đề cập đến.

Khi tìm hiểu về nội dung của đề tài nghiên cứu, người viết chỉ dừng lại bằng

6

việc giới thiệu các bài ca dao trong đó có mặt của các yếu tố liên quan đến văn hóa

tinh thần của người Việt ở Nam Bộ, chớ không đi sâu vào việc phân tích nội dung,

nghệ thuật cũng như thi pháp của từng bài ca dao.

5. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu

Phương hướng: Đề tài nghiên cứu của người viết được tiến hành, dựa trên cơ

sở kế thừa những thành tựu cũng như kết quả của các công trình nghiên cứu của

người đi trước, từ đó tiếp tục phát triển sâu, rộng hơn theo đề tài của bản thân.

Người viết đi theo hướng tiếp cận nhằm làm rõ hơn mối quan hệ giữa văn học và

văn hóa, đặc biệt là văn hoá vùng miền Nam Bộ.

Để thực hiện đề tài nghiên cứu này người viết đã sử dụng các phương pháp

chính sau:

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp cho người viết liệt kê được

những đơn vị ca dao mà trong đó có chứa các yếu tố liên quan đến văn hóa tinh thần

cũng như biết được tình hình nghiên cứu và nguồn tài liệu liên quan đến đề tài.

- Phương pháp phân tích: Giúp cho người viết tăng thêm khả năng trong

việc phân tích đánh giá được những bài ca dao mà người viết khảo sát.

- Phương pháp tổng hợp – so sánh: Phương pháp này giúp người viết dễ

dàng tổng hợp tài liệu trong quá trình làm luận văn. Không những thế, khi văn hóa

Nam Bộ là một vấn đề rất rộng, nó chính là văn hóa Việt Nam trên một vùng đất

cho nên khi cần thiết người viết sẽ dùng phương pháp tổng hợp – so sánh văn hóa

Nam Bộ với các vùng văn hóa khác, hay văn hóa giữa tộc người Việt với các văn

hóa tộc người khác ở Nam Bộ (Khmer, Chăm, Hoa, Stiêng,…).

- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Trong quá trình làm luận văn, người viết

cũng phải sử dụng những kiến thức về lịch sử, địa lý… để góp phần giải thích và

7

làm cho luận văn được hoàn thiện hơn.

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. CA DAO VÀ CA DAO NAM BỘ

Văn học dân gian là một biểu hiện đẹp của nền văn học nước nhà. Từ ngàn

1.1.1. Khái quát ca dao

xưa, những người dân lao động đã có nhu cầu trong việc biểu lộ khả năng sáng tạo

cũng như đón nhận và tiêu thụ tất cả mọi của cải tinh thần mà cuộc sống đã để lại

cho họ. Trong sinh hoạt văn học dân gian có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt ca

hát, tiêu biểu nhất chính là việc diễn xướng ca dao. Ca dao là một bộ phận của văn

học dân gian được sáng tác bằng văn vần. Cũng như một số thể loại thuộc văn học

truyền miệng khác, cho đến ngày nay, vấn đề về nguồn gốc của ca dao vẫn là dấu

chấm hỏi của nhiều nhà nghiên cứu.

Bên cạnh đó, hiện tại vấn đề về khái niệm ca dao giữa các nhà nghiên cứu

của ta vẫn chưa có tiếng nói chung nào. Dưới đây là một vài khái niệm ca dao mà

Theo Đinh Gia Khánh: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách

người viết đã sưu tầm được.

hiểu thông thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những

tiếng đệm, tiếng láy…hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những

làn điệu dân ca.” [10; tr. 436].

Với Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc

Phi đồng chủ biên), “Ca dao (tiếng Pháp: chanson populaire) còn gọi là phong dao.

Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc

thi ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao là danh từ

ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có

khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca.” [8; tr. 31].

Còn Nguyễn Xuân Kính trong quyển Thi pháp ca dao, nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội cho rằng: “Ca dao được hình thành từ dân ca. Khi nói đến ca dao,

người ta thường nghĩ đến lời ca”. Ông định nghĩa ca dao: “Ca dao là những sáng

tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang

những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách. Và ca dao đã trở thành một

8

thuật ngữ dùng để chỉ một thứ thơ dân gian. Đối với ca dao, người ta không chỉ hát

mà còn ngâm, đọc và xem bằng mắt thường (khi ca dao đã được ghi chép, biên soạn

từ cuối thế kỉ XVII” [12; tr. 81].

Trong Giáo trình văn học dân gian Việt Nam của Nguyễn Bích Hà thì: “Ca

dao, dân ca (thuật ngữ quốc tế Folk Song) là khái niệm mang tính lịch sử. Về khái

niệm ca dao: Ca là những câu hát có khúc điệu, có làn điệu. Dao là những câu hát

tự do, gần với lời ngân nga hơn. Ca dao được hiểu như những câu thơ dân gian

hoặc phần lời của những câu hát dân gian (không có từ đệm). Tóm lại, ca dao dân

ca là những câu thơ, câu hát trữ tình dân gian.” [7; tr. 227].

Theo Triều Nguyên: “Ca dao là một loại hình văn học dân gian được phổ

biến rộng khắp và có tác dụng sâu sắc đối với đời sống tinh thần của mỗi cộng

đồng dân tộc hơn cả. Nó đồng thời cũng được xem là nơi có sự biểu hiện sinh động

của lời ăn tiếng nói, của quan niệm thẩm mĩ, nên đã huy động ở mức cao nhất các

cách tu từ, cách chơi chữ, so với các thể loại văn học dân gian khác.” [17; tr. 19].

Ngoài ra còn có một số cách hiểu khác nhau như: Ca dao là lời thơ trữ tình

dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả

thế giới nội tâm của con người hay ca dao là những câu hát ngắn thành khúc điệu

được phổ biến trong dân gian…

Bên cạnh đó, dân ca là một thuật ngữ thường xuất hiện cùng với ca dao, nó là

“một loại hình sáng tác dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động

tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong diễn xướng.” [8; tr. 105]. Ai cũng biết rằng ca

dao – dân ca là tấm gương phản ánh từ địa lý thiên nhiên, lịch sử xã hội, sinh hoạt

vật chất cũng như tinh thần cho đến tâm hồn, tư tưởng và khát vọng của một dân

tộc. Còn trong Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình của tác giả Phạm Việt Long:

“Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có tính trữ tình, có vần điệu (phần lớn là

thể lục bát hoặc lục bát biến thể) do nhân dân sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế

hệ dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tình cảm. Nhiều câu ca dao vốn

là lời của những bài dân ca, vào giai đoạn muộn về sau, ca dao cũng được sáng tác

độc lập.” [13; tr. 37]. Như vậy, về khái niệm ca dao hiện nay vẫn chưa có sự thống

nhất trong các nhà nghiên cứu, nhưng đều có chung một điểm: Ca dao là tiếng nói

9

của tâm tư, tình cảm về cuộc sống của nhân dân lao động. Ca dao là những sáng

tác nghệ thuật ngôn từ được lưu truyền trong dân gian từ thế hệ này sang thế hệ

khác.

Ca dao chính là sản phẩm của người bình dân, là tiếng nói tâm hồn của người

1.1.2. Phân loại ca dao

lao động. Cuộc sống của những người dân nghèo đặc biệt là người nông dân trong

xã hội xưa vô cùng vất vả và khốn khổ. Chính vì thế, họ đã nhờ ca dao nhằm truyền

tải tâm sự của mình, đó là lời than thân trách phận, là tiếng nói đồng điệu giữa đôi

bờ tình cảm, là tiếng lòng xao động trước cảnh sắc nên thơ, hữu tình…

Tính đến thời điểm hiện tại, việc nghiên cứu ca dao của các học giả đã đạt

được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nhưng do số lượng ca dao Việt Nam vô cùng

phong phú cho nên việc tập hợp thành một hệ thống là công việc không hề đơn

giản, dẫn đến việc phân loại ca dao cũng gặp nhiều khó khăn.

Chủ đề quê hương đất nước được tác giả dân gian thể hiện nhiều trong ca

Trong bài viết này, người viết phân loại ca dao theo hệ đề tài. 1.1.2.1. Ca dao về tình yêu quê hương đất nước

dao từ lúc khó khăn nhất của những buổi đầu khai hoang lập nghiệp, xây dựng đất

nước cho đến ngày nay.

U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường,

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.

[6; tr. 153] Đau khổ lại đến, bến bờ hạnh phúc ấm no với những người dân lúc này là

một điều gì đó quá xa xỉ khi lại tiếp tục gánh cảnh giặc ngoại xâm lấn áp. Hòa bình

lập lại, ta sẽ bắt gặp được những hình ảnh về quê hương đất nước rất nồng nàn, bình

dị và hiền hòa khi nhân dân đã gạt bỏ đi bao nhiêu đau thương, mất mát, chung tay

cùng nhau xây dựng lại quê hương.

Ai đi Châu Đốc, Nam Vang,

Ghé qua Đồng Tháp bạt ngàn bông sen.

[6; tr. 126]

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,

10

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.

[6; tr. 129] Qua đó ta thấy được tấm lòng sâu nặng của nhân dân ta đối với quê hương

đất nước, khi giặc ngoài xâm lấn bờ cõi tổ tiên thì tinh thần kháng chiến đã được

bùng phát mạnh mẽ. Nó kết tinh thành lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, sẵn sàng

vượt qua mọi khó khăn để có được một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn.

Tình yêu là đề tài muôn thuở mà các loại hình khác của văn học xem đó là

1.1.2.2. Ca dao về tình yêu đôi lứa

mảnh đất màu mỡ để khai thác. Ca dao cũng thế, nó xem tình yêu là một đề tài

không thể thiếu trong sáng tác và luôn luôn chiếm số lượng rất lớn so với các chủ đề

khác của ca dao vì đây là một vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Để bắt đầu cho cuộc tình chính là khúc dạo đầu, chàng trai phải chủ động

ngỏ lời cùng cô gái.

Cô kia xay gạo một mình,

Cho anh xay với chung tình cùng nhau.

[6; tr. 240] Có nhiều lúc chàng trai tỏ tình rất bạo dạn khiến cô gái phải ngại ngùng

nhưng cũng có lúc chàng trai rất lịch thiệp và tế nhị.

Áo anh rách lỗ bằng sàng,

Mẹ anh già yếu, cậy nàng vá may.

[6; tr. 175] Chàng trai thật thông minh khi ngầm cung cấp thông tin là anh chưa có vợ

với cô gái khi nhờ cô may áo, nhằm thăm dò ý kiến của nàng nhưng không khiến

nàng thẹn thùng, mắc cở. Một khi đã thật sự yêu nhau họ thường mượn lời thề để

đặt trọn vẹn niềm tin cũng như khẳng định lòng chung thủy của mình đối với người

yêu.

Bao giờ cho sóng bỏ gành,

Cù lao bỏ bể thì anh bỏ nàng.

[6; tr. 180] Nhưng nếu một ngày tình yêu tan vỡ, lời thề xưa giờ tan vào mây gió thì còn

đau khổ nào hơn. Trong tình yêu, không phải cuộc tình nào cũng đi đến hạnh phúc

như mình mơ ước. Những người yêu nhau lại không đến được với nhau vì rất nhiều

11

lí do, nhưng lí do sống giữa một xã hội còn mang nặng lễ giáo phong kiến thì môn

đăng hộ đối là vấn đề đau đớn nhất. Sự phân biệt sang hèn càng lớn thì chứng tích

về sự bất công càng đậm, còn một khoảng cách quá lớn giữa tầng lớp giàu có và

những người nghèo khổ, nên có bà mẹ đã khuyên con mình hãy biết thân biết phận.

Con ơi thân phận mình nghèo,

Ham chi vợ đẹp vợ giàu nó khinh.

[6; tr. 461] Tình yêu thật sự thì không dựa trên tiền bạc và phân biệt giai cấp, cái họ cần

ở người họ yêu là sự thông cảm, chia sẻ và luôn luôn bên cạnh họ để vượt qua mọi

khó khăn, thử thách dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, có như vậy thì mới có hạnh

phúc vì đó là một tình yêu chân chính.Ca dao về tình yêu đôi lứa thật sự đã phản

ánh được những tâm tư tình cảm cũng như nốt nhạc lòng xôn xao của nam nữ thanh

niên. Nó thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người dân qua những cung bậc yêu

thương trầm bổng để tạo nên một bài ca tình yêu thật lãng mạn và hạnh phúc. Qua

đó, góp phần điểm tô cũng như tạo nên một vẻ đẹp tinh khiết và trong sáng giữa

những chàng trai cô gái thôn quê mộc mạc và bình dị.

1.1.2.3. Ca dao về tình cảm gia đình

Ca dao chính là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng đằm thắm,

trữ tình chứa chan những tình cảm thiết tha của con người. Bên cạnh ca dao về tình

yêu quê hương đất nước cũng như ca dao về tình yêu đôi lứa, thì ca dao về tình cảm

gia đình cũng là một bộ phận phong phú trong kho tàng ca dao Việt Nam. Nó đã kết

hợp được một cách chặt chẽ và nhuần nhuyễn giữa chữ tình và chữ hiếu, gợi cho ta

bao kỷ niệm êm đềm về cha, về mẹ, về người chồng, người vợ,... Hình ảnh người

phụ nữ trong hoàn cảnh đất nước chống giặc ngoại xâm, vì chồng đã đi chinh chiến

nên mọi công việc cực nhọc và vất vả đều đè nặng trên đôi vai bé nhỏ của họ,

nhưng họ không hề than trách mà xem đó là bổn phận và trách nhiệm của mình, cố

gắn làm thật tốt để chồng có thể an tâm. Tất cả đều là sự hi sinh, hi sinh vì gia đình

và đất nước – một hình ảnh hết sức tiêu biểu.

Còn rất nhiều bài ca dao cho mảng đề tài này mà ta thấy xúc động khi mỗi

lần đọc nó:

Có chồng phải lụy cùng chồng,

12

Nắng mưa phải chịu, mặn nồng phải theo.

[6; tr. 432]

Lên non mới biết non cao,

Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.

[6; tr. 465]

Ngó lên nuộc lạt trên nhà,

Đếm bao nhiêu nuộc thương cha mẹ già bấy nhiêu.

[6; tr. 468] Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn,

ca dao về tình cảm gia đình chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng và triết lý đạo

đức của con người. Những giá trị của gia đình sẽ không bao giờ bị mất đi vì nó luôn

luôn được lưu giữ trong trái tim của mỗi người con đất Việt, đó là một trong những

tài sản quý giá cũng như một nét văn hóa đẹp của dân tộc Việt Nam. Qua những bài

ca dao về tình cảm gia đình ta càng thấy yêu hơn những tình cảm thiêng liêng ấy vì

nếu để mất đi thì khó lòng mà tìm lại được.

1.1.2.4. Ca dao về các mối quan hệ xã hội khác

Ca dao về các mối quan hệ xã hội khác chính là muốn đề cập đến tiếng nói

của những người dân lao động nghèo khổ, về thân phận bọt bèo trong xã hội còn

đầy những ê chề và tủi nhục.

Đại bộ phận chủ thể của đề tài này là những người làm thuê, người vợ lính,...

Họ phải gánh chịu một căn bệnh nan y không tài nào chữa khỏi đó là căn bệnh

“nghèo khổ”. Đó cũng là mong muốn của tầng lớp địa chủ, đó là bản chất của xã

hội, nếu xã hội không có những người làm thuê ở mướn thì tầng lớp địa chủ ăn bám

làm sau sống được. Sau đây là một vài dẫn chứng tiêu biểu:

Nghèo đến nỗi có giường không chiếu,

Lo nồi mơi sớm lại thiếu nồi chiều.

[6; tr. 496]

Cao su đi dễ khó về,

Khi đi trai tráng, khi về bủng beo.

[6; tr. 477] Tuy còn gặp chút ít khó khăn trong việc phân loại ca dao, nhưng tấm lòng

13

yêu quý nguồn ca dao phong phú của dân tộc đã làm động lực thúc đẩy các giới

nghiên cứu trong việc sưu tập và phân loại ca dao một cách chính xác nhất. Điều

này đã góp phần không nhỏ vào việc dễ dàng tiếp cận ca dao của những người yêu

thích, qua đó nhằm giữ gìn cũng như làm phong phú hơn kho tàng ca dao quý báu

của dân tộc. 1.1.3. Khái quát ca dao Nam Bộ

Từ sau khi đế quốc Phù Nam tan rã vào thế kỷ thứ VI, có một vùng đất giàu

đẹp đáng tự hào ngày nay lại bị bỏ hoang hàng ngàn năm. Bao thế kỷ trôi qua, cho

đến đầu thế kỷ XVII người Việt mới khai hoang vùng đất mới này – vùng đất thuộc

phủ Gia Định tức Nam Bộ ngày nay.

Vùng đất Nam Bộ trước khi có sự khai phá của những lưu dân đến từ miền

Trung và một ít cư dân miền Bắc thì ở đây chỉ là một vùng rừng rậm hoang vu, thú

dữ tràn đầy, tứ bề hiu quạnh. Cảnh tượng ban đầu ấy đã trực tiếp tác động vào tâm

tư, tình cảm của họ, họ cảm thấy sợ và quá xa lạ với những gì họ biết.

Sự hình thành và phát triển của ca dao Nam Bộ gắn liền với lịch sử khai khẩn

vùng đất này của người Việt trong vòng ba trăm năm trở lại đây. Đó không phải là

một khoảng thời gian quá dài cho sự phát triển của một bộ phận trong việc cấu

thành văn học dân gian. Nhưng thật sự Nam Bộ đã là mảnh đất màu mỡ ươm mầm

cho những hạt giống ca dao phát triển mạnh mẽ, từ đó mang tính chất lịch sử của ca

dao dân tộc. Ca dao Nam Bộ là một thể thức của văn hóa tinh thần, là tư tưởng, tình cảm

của người bình dân Nam Bộ. Nó là nơi phản ánh sinh hoạt hàng ngày và đời sống

tinh thần của con người, ẩn chứa đầy đủ những khát vọng của người đi mở đất. Ca

dao Nam Bộ còn được hình thành chủ yếu trên ba cơ sở.

Thứ nhất là cơ sở kế thừa những lời ca truyền thống từ miền Bắc, miền

Trung theo bước chân của những đoàn người Việt vào phương Nam mở đất, những

lời ca như một phần tâm hồn của những người con đi xa xứ nhớ về quê cha đất tổ.

Đây chính là cội nguồn và những vốn liếng ban đầu của ca dao Nam Bộ.

Thứ hai trên cơ sở kế thừa nhưng có sự cải biên (địa phương hóa) nhằm thích

14

nghi với hoàn cảnh mới, tâm trạng mới. Đây là một trong những phương thức sáng

tác mới dựa trên ca dao truyền thống, qua đó làm phong phú thêm vốn ca dao Nam

Bộ nói riêng và văn học dân gian Việt Nam nói chung.

Cơ sở thứ ba góp phần hình thành nên ca dao Nam Bộ chính là những lời ca

được sáng tác và lưu truyền ngay trên vùng đất mới này, in đậm dấu ấn của đất và

người Nam Bộ. Chính những điều kiện lịch sử, địa lí, văn hóa nơi đây đã chung tay

góp sức cùng những người đi khai hoang mở cõi làm nên những câu ca dao đầu tiên

thuần gốc Nam Bộ, góp phần làm cho ca dao Nam Bộ mang những đặc trưng riêng

so với ca dao các vùng miền khác.

Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về ca dao Nam Bộ, ta không chỉ biết về những cơ

sở hình thành nên nó mà còn phải tiếp nhận thêm những yếu tố nền tảng làm nên

văn hóa đi đến ca dao. Văn học và văn hóa có một quan hệ mật thiết và không thể

tách rời trong cái mạch nguyên vẹn ấy.

Trong bài nghiên cứu Từ ba yếu tố nền tảng của văn hóa Nam Bộ đi đến ca

dao, tác giả đã khẳng định Nam Bộ là một vùng văn hóa được hình thành trên ba

yếu tố nền tảng sau:

Đầu tiên Nam Bộ là một vùng “văn minh của cây lúa”. “Nhiều tài liệu về lịch

sử, văn hóa Nam Bộ đều cho rằng từ cuối thế kỷ XVIII, xứ Đàng Trong đã là một

vựa lúa lớn và bắt đầu xuất khẩu gạo sang một số nước trong khu vực. Khi chiếm

Nam Kỳ làm thuộc địa, người Pháp đã biết phát huy lợi thế nầy, và họ đã thành

công trong việc biến đổi nơi đây thành một vùng nông nghiệp thương phẩm. Biên

bản về cuộc họp ở Sài Gòn năm 1874 giữa thương nhân người Âu và người Hoa

nhằm chỉnh đốn thị trường lúa gạo đã chứng minh điều này. Biên bản còn đề cập

đến các loại gạo xuất khẩu thời kỳ đó là gạo Gò Công (gạo tròn), gạo Vĩnh Long

(gạo dài) và gạo Pye – chow (theo Hoàng Trang – Hoàng Anh, Xưa & Nay 3/97)”

[15; tr. 5 – 6]. Không những thế, người dân Nam Bộ rất quý những sản vật mà tạo

hóa ban cho đó là “hạt ngọc trời”, chính cây lúa đã gắn liền với người dân Nam Bộ

trong từng giọt mồ hôi vất vả, những vụ gặt, vụ cày. Họ yêu lắm mà lại trân trọng

lắm nên ngay cả trong cách đặt tên cho những giống lúa cũng mang đậm nét riêng

Nam Bộ. Giống lúa thời điểm ấy rất phong phú mà đa số tên lúa thường bắt đầu

bằng chữ “nàng” như: nàng Hương, nàng Thơm, nàng Quốc, nàng Rừng, nàng

15

Co,... nghe nhẹ nhàng và thân thương làm sao. Đặc biệt, trong đó có nàng Thơm

chợ Đào của Long An ngày nay là nổi tiếng ngon cơm nhất. Từ những điều đó,

trong ca dao Nam Bộ đã ghi nhận lại tên một số giống lúa trong nhóm này.

Cám ơn hạt lúa nàng co,

Nợ nần trả hết lại no tấm lòng.

[4; tr. 133]

Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi,

Gạo thơm nàng quốc em nuôi mẹ già.

[4; tr. 152] Thứ hai, Nam Bộ chính là mảnh đất phát sinh nền “văn minh miệt vườn”.

“Vườn ở Nam Bộ xuất hiện sớm và phát triển nhanh, qui mô rộng lớn và thường

trồng cây chuyên canh: bưởi Biên Hòa (miền Đông Nam bộ), xoài Cao Lãnh (miền

Tây Nam bộ)…” [15; tr. 8]. Làm vườn là công việc không hối thúc thời vụ như việc

trồng lúa nhưng nó đòi hỏi người làm vườn phải làm quanh năm và có một kinh

nghiệm về kỹ thuật canh tác ổn định. Trong khi đó, Nam Bộ là một vùng đất mới lại

chưa có một khảo sát khoa học, cũng như kỹ thuật tiên tiến nào giúp người làm

vườn Nam Bộ xác định trên mảnh đất này phù hợp với loại cây trồng nào, kỹ thuật

canh tác nào là hợp lí và đạt hiệu quả tốt nhất. Đó chính là khó khăn và thách thức

lớn nhất mà buộc người dân phải vượt qua để tồn tại.

Bên cạnh đó “văn minh miệt vườn” là một trong những tiền đề quan trọng

giúp cho nền kinh tế hàng hóa sớm được hình thành và phát triển ở Nam Bộ. Từ đó

phần nào giúp nâng cao và cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần của người

dân Nam Bộ khi đã thoát khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp. Ca dao lần nữa lại ghi

nhận hình ảnh “văn minh miệt vườn” qua những câu ca dao đằm thắm mà chất phác

như con người vùng đất mới.

Biên Hòa bưởi chẳng đắng the,

Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh.

[6; tr. 132]

Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh,

Vú sữa nào ngọt bằng vú sữa Cần Thơ.

[6; tr. 153]

Sầu riêng, măng cụt, chôm chôm,

16

Xoài ngon, mít ngọt, chuối thơm nghìn trùng.

[6; tr. 148] Thứ ba, Nam Bộ là vùng “văn minh kênh rạch”. Văn hóa Nam Bộ chịu sự tác

động trực tiếp của môi trường sông nước. “Trên các vùng lãnh thổ Việt Nam, Nam

Bộ mà đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long nhiều sông rạch hơn cả.” [15; tr.

8]. Ca dao Nam Bộ là ca dao xuất phát từ môi trường sông nước, nên dường như

những hình ảnh mang yếu tố sông nước đã quá quen thuộc và xuất hiện thường

xuyên trong ca dao nhằm diễn đạt những ý nghĩ và tình cảm của con người nơi đây.

Chính điều này đã chi phối mạnh mẽ đến phong tục, tập quán cũng như về sinh hoạt

gia đình và lao động của cư dân miền sông nước.

Do nét nổi bật của địa lí Nam Bộ là mạng lưới sông ngòi và kênh rạch chằng

chịt nên đường thủy là hệ thống giao thông cực kỳ quan trọng đối với Nam Bộ trong

mấy thế kỷ qua. Tất cả mọi hoạt động của người dân đều gắn với sông nước. Chẳng

hạn đám cưới ở đồng bằng sông Cửu Long thường đưa dâu bằng ghe.

Đưa dâu thì đưa bằng ghe,

Chớ đưa bằng bè ướt áo dâu đi.

[6; tr. 269] Và còn nhiều câu ca dao nữa gắn với vùng “văn minh kênh rạch” đó là

những hình ảnh của ghe, thuyền, sông, nước, đò, cá,…chiếm tỉ lệ rất lớn trong ca

dao dân ca Nam Bộ.

Sông dài cá lội biệt tăm,

Thấy anh người nghĩa mấy năm em cũng chờ.

[6; tr. 366]

Sông sâu biết bắc mấy cầu,

Khi thương thì anh thương vội,

Khi sầu anh để lại cho em.

[6; tr. 367] Những yếu tố của cuộc sống trên sông nước đã đi vào ca dao Nam Bộ, nó là

đối tượng để ca dao phản ánh, vừa là nghệ thuật để ca dao thể hiện nội dung. Điều

này cho ta thấy ca dao Nam Bộ gắn chặt với vùng sông nước đã sản sinh ra nó.

Qua sự phân tích trên, ta có thể thấy rằng các yếu tố nền tảng cấu thành văn

hóa Nam Bộ có một vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển bộ phận văn

17

học dân gian nơi đây nói chung và ca dao vùng đất này nói riêng. Nó chính là tấm

gương phản chiếu một cách trung thực về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của người

dân. Đó là cuộc sống cần cù, giản dị, chất phác và đậm đà phong vị dân tộc. Thông

qua ca dao của chính miền sông nước phương Nam, ta không chỉ hiểu thêm những

tâm tư tình cảm của người dân vùng đất trẻ mà còn biết được những giá trị văn hóa

1.2. VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA NAM BỘ

độc đáo của nơi này.

1.2.1. Khái quát văn hóa

Mỗi đất nước, mỗi dân tộc, mỗi vùng miền khác nhau đều có một nét văn

hóa đặc trưng riêng. Nói đến văn hóa thì đây quả là một lĩnh vực rất phức tạp và vô

cùng rộng lớn, phong phú và đa dạng. Vì thế, để hiểu khái quát về văn hóa một cách

trọn vẹn là việc làm không hề đơn giản từ đó dẫn đến việc có rất nhiều cách hiểu

cũng như nhiều cách nhìn nhận văn hóa ở những góc độ khác nhau. Để tìm hiểu về

văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa Nam Bộ ở khía cạnh tinh thần nói riêng ta

nên biết thêm những vấn đề liên quan đến thuật ngữ này.

Qua từng giai đoạn việc nhận định và quan niệm về văn hóa cũng có phần

khác nhau. Từ thế kỷ XVII – XVIII văn hóa được hiểu với nghĩa “canh tác tinh

thần” bên cạnh nghĩa gốc của nó là canh tác nông nghiệp và quản lí. Ta có thể thấy

dù văn hóa đã được chú ý đến nhưng vẫn còn quá sơ sài, chưa có một công trình

nào đi sâu vào khai thác tìm hiểu.

Đến thế kỷ XIX, thuật ngữ văn hóa đã được mở rộng hơn khi “được những

nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này

cho rằng văn hóa (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến

cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn

hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B. Taylo

(E.B. Taylor) là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm

hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng

và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.”

[22; tr. 18]. Sang thế kỷ XX đã có nhiều sự thay đổi và cái mới trong cách quan niệm về

18

văn hóa: “Khái niệm “văn hóa” thay đổi theo F. Boa (F. Boas), ý nghĩa văn hóa

được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao

siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không

phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa”. Văn hóa

không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.” [22; tr. 18].

Quan niệm về văn hóa đã được hiểu sâu và rộng hơn theo thời gian. Tùy vào

mục đích nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu đã khai thác vấn đề này ở nhiều khía

cạnh khác nhau, đem đến cho người đọc nhiều cách hiểu mới về văn hóa. Văn hóa

hiện nay là một đề tài gây ra nhiều cuộc tranh luận do có quá nhiều ý kiến định

nghĩa về văn hóa khác nhau, không một định nghĩa đơn thuần nào có thể khái quát

về văn hóa. Chỉ tính đến năm 1972, đã có đến 200 định nghĩa về văn hóa. Cho đến nay

chỉ riêng ở phương Tây đã lên đến trên 400 định nghĩa về văn hóa do các nhà

nghiên cứu văn hóa uy tín và chuyên nghiệp về khoa học đưa ra, chắc chắn số lượng

định nghĩa sẽ tiếp tục tăng lên và đương nhiên không phải lúc nào các định nghĩa

đưa ra cũng thống nhất hoặc hòa hợp, bổ sung cho nhau. Có thể dẫn chứng một số

định nghĩa cơ bản về văn hóa.

Định nghĩa của E. Hê-ri-ốt cho rằng: “Văn hóa là cái còn lại khi ta đã quên

đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả.” [19; tr. 13].

Theo định nghĩa của A.J. Phơ-li-ơ: “Văn hóa được người ta tiếp thu một

cách tự phát trong quá trình được nuôi dạy từ nhỏ qua giao tiếp với họ hàng, môi

trường xã hội, đồng nghiệp,… rồi được điều chỉnh trong suốt cuộc đời mỗi cá nhân

tùy theo mức độ tham gia của anh ta vào tiếp xúc, va chạm xã hội.” [19; tr. 14].

Định nghĩa của R.Linton và H.Poi-ri-ơ: “Văn hóa là một chỉnh thể những

nhân tố của mọi định chế: khái niệm, chuẩn mực, giá trị biểu tượng tạo nên bản thể

hay bản tính của một cộng đồng cư dân.” [19; tr. 15].

Hiện nay UNESCO là một tổ chức công nhận những văn hóa của toàn thế

giới cũng đã có một số ý kiến về văn hóa: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể

những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách

của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật

và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ

19

thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con

người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành

những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách

đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự

biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu

của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những

công trình vượt trội lên bản thân.” (Tuyên bố về những chính sách văn hóa – Hội

nghị Quốc tế do UNESCO chủ trì từ 26-7 đến 6-8-1982 tại Mêhicô) [22; tr. 23 –

24].

Như vậy ta có thể hiểu rằng văn hóa không phải đơn thuần là một lĩnh vực

riêng biệt mà văn hóa chính là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần

do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chiếc chìa khóa của sự phát triển.

Nói đến khái niệm văn hóa, thì Huỳnh Công Bá trên cơ sở những phân tích

đã đi đến một định nghĩa chung như sau: “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất,

tinh thần và ứng xử mang tính biểu trưng, do một cộng đồng người sáng tạo ra và

tích lũy được qua quá trình sinh tồn trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và lịch sử - xã hội của mình, cũng như sự hoàn thiện đối với bản

thân mình.” [1; tr. 20].

Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích

của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo

đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh

hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo

và phát minh đó tức là văn hóa.

Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt với biểu hiện của nó

mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi

của sinh tồn.” [19; tr. 15].

Định nghĩa của Đào Duy Anh: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung

tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: văn hóa

tức là sinh hoạt.” [19; tr. 15].

Còn theo Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng thì: “Nói tới văn hóa là nói tới một

20

lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là

thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển,

quá trình con người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với

nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và

tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái

mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề

kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh.” [22; tr. 21 –

22].

Còn theo Phan Ngọc cũng đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa mang tính

chất thao tác luận, khác hẳn với những định nghĩa trước đó: “Không có cái vật gì

gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là

một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan

hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so

với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm

cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả

mọi cái mà tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở

mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác.” [22; tr. 22].

Bên cạnh đó thì văn hóa được Trần Ngọc Thêm định nghĩa như sau: “Văn

hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với

môi trường tự nhiên và xã hội của mình.” [22; tr. 22].

Theo quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam do Trần Quốc Vượng chủ biên thì

nhóm tác giả cho rằng trong vô vàn cách định nghĩa và cách hiểu về văn hóa, thì có

thể tam quy về hai loại: “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ,

lối ứng xử… Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn…và tùy

theo từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ xét từ khía

cạnh tự nhiên thì văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người” hay “tất cả

những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”.” [22; tr. 23].

Ngoài ra, Nguyễn Từ Chi cũng đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa

theo hai góc độ: “Văn hóa hiểu theo góc rộng (góc nhìn “dân tộc học”) chính là

“toàn bộ cuộc sống (nếp sống, lối sống) cả vật chất xã hội và tinh thần của từng

21

cộng đồng” [20; tr. 23]; theo góc hẹp thì “đã hướng về lối sống hơn là về kiến thức

mà theo tác giả là lối sống gấp, đằng sau những biến động nhanh của xã hội.” [22;

tr. 23]. Theo một số học giả Mĩ thì “Văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời

sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc.” [22; tr. 21].

Tuy nhiên, trong rất nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa như trên

thì cũng còn định nghĩa ngắn gọn nhưng phản ánh được đầy đủ tất cả bản chất của

văn hóa. Có định nghĩa cho rằng: “Văn hóa là cái Tự nhiên được biến đổi bởi Con

người.” [1; tr. 17]. Bởi vì, để có thể tồn tại trong cuộc sống con người không thể

không tác động vào môi trường tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng cho

nhu cầu cuộc sống đó là: nhu cầu vật chất, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần. Văn

hóa chính là những sản phẩm do con người tạo ra.

Qua những quan niệm cũng như những định nghĩa về văn hóa của những nhà

nghiên cứu nổi tiếng, ta có thể thấy một điều rằng việc xác định khái niệm văn hóa

một cách cụ thể và thống nhất là không hề đơn giản. Sở dĩ có tình trạng khác nhau

về định nghĩa văn hóa giữa các tác giả bởi vì “văn hóa là một hiện tượng bao trùm

lên trên tất thảy các mặt của đời sống con người, khiến cho bất kỳ một định nghĩa

nào cũng đều khó có thể bao quát hết được các nội dung của nó.” [1; tr. 16]. Mỗi

định nghĩa của một nhà nghiên cứu chỉ có thể thâu tóm được một phương diện nào

đó của khái niệm văn hóa mà thôi, cũng như không có một ngôn ngữ nào có thể

phản ánh được hết toàn bộ giá trị của nó.

Nhưng dù là vấn đề gì thì vẫn có cái riêng của nó, văn hóa cũng không ngoại

lệ nó mang những đặc trưng hết sức riêng biệt: “một, văn hóa là cái phân biệt giữa

con người với động vật, là cái đặc trưng riêng của xã hội loài người; hai, văn hóa

không được kế thừa về mặt sinh học (di truyền), mà thông qua việc học tập, giao

tiếp để hình thành; ba, văn hóa là các ứng xử đã được mẫu thức hóa.” [1; tr. 17].

Văn hóa được xem là một trong những đặc trưng của mỗi cộng đồng người

và là một hoạt động thuộc thế giới loài người. Nó là chất keo liên kết các thành viên

của cộng đồng để tạo nên bản sắc dân tộc. Nó là điều kiện sinh tồn của mỗi con

người, là thành tựu của từng dân tộc đặc biệt nó vừa là vũ khí trí tuệ, động lực và

mục tiêu phát triển của một quốc gia nên việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc là

22

điều rất cần thiết của mỗi cá nhân.

Văn hóa được hình thành nên trong dân tộc, đất nước và trong chính những

con người bình dị chứ nó không cần làm nên từ những nguyên liệu đắt tiền hay

những người thợ giỏi. Trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều nền văn hóa cùng tồn

tại, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sự phong phú, đặc sắc của nền

văn hóa toàn dân tộc. Việc phát huy, giữ gìn và phát triển những giá trị văn hóa sẽ

là thước đo chính xác cho sự phát triển của một cộng đồng, xã hội cho nên ý thức

giữ gìn nền văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay là việc hết sức khó

khăn. Nếu ta không có một định hướng đầy đủ thì nguy cơ hòa nhập dễ bị hòa tan

mất hẳn bản sắc văn hóa dân tộc là điều không thể tránh khỏi. Những người con đất

Việt hãy cùng nhau giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc để hòa nhập nhưng

không hòa tan. Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm văn hóa là những giá trị vật chất và

tinh thần. Người viết rất đồng tình với ý kiến trên và đi theo hướng định nghĩa trên

để nghiên cứu ca dao Nam Bộ. Đặc biệt là khi người viết nghiên cứu về đề tài văn

hóa tinh thần trong ca dao Nam Bộ.

1.2.2. Khái quát văn hóa Nam Bộ

Đầu tiên người viết xin khái niệm sơ lược về văn hóa tinh thần: Văn hóa tinh

thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập

quán, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Hệ thống đó bị chi phối bởi trình

độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này

mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó.

Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á nổi tiếng với nhiều

nền văn hóa lớn đã được hình thành. Do đó nó cũng phần nào có ảnh hưởng rất sâu

sắc đến sự ra đời và phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Trong các vùng văn hóa

ở Việt Nam, thì Nam Bộ là vùng có những nét riêng và mang sắc thái đặc thù khó

nhầm lẫn với các vùng văn hóa khác nhưng vẫn giữ được tính thống nhất của nền

văn hóa dân tộc.

Có thể nhìn nhận khởi điểm lịch sử văn hóa Nam Bộ bắt đầu từ năm 1623,

lúc bấy giờ Nam Bộ chỉ là vùng đất hoang dại với hệ thống đất đai trũng, sình lầy

23

và sông rạch chằng chịt. Gần một thế kỷ sau, Nam Bộ mới được định hình là một

vùng văn hóa. Thời gian ấy không phải là dài cho một nền văn hóa vùng miền được

hình thành vững chắc, khi người Việt đến với vùng đất mới và mang theo những

hành trang cùng vốn văn hóa đúc kết hàng ngàn năm của dân tộc Việt, đã góp phần

tạo nên nền tảng của hệ giá trị văn hóa Nam Bộ. Những giá trị trải qua quá trình

tương tác với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, dần tạo nên những giá trị

của nền văn hóa Nam Bộ như hiện nay.

Nam Bộ hôm nay là địa bàn thuộc 19 tỉnh (thành phố) bao gồm: thành phố

Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu

thuộc miền Đông Nam Bộ; và các tỉnh miền Tây Nam Bộ: thành phố Cần Thơ,

Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Sóc Trăng,

Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Bạc Liêu và Cà Mau.

Nam Bộ là một vùng đồng bằng sông nước rất đặc trưng với hệ thống kênh

rạch chằng chịt và được mệnh danh là xứ sở của những dòng sông. Không những

thế, Nam Bộ còn là vùng đất nằm ở cuối cùng của quốc gia về phương Nam, nằm

trọn vẹn trong lưu vực của hai con sông Đồng Nai và Cửu Long lại là phần hạ lưu

hai con sông này. Đây là vùng đất cửa sông giáp biển nên từ đó tạo cho Nam Bộ

những đặc điểm riêng về văn hóa.

Nói tới Nam Bộ ta sẽ nghĩ ngay đến một cánh đồng tít tắp tận chân trời, một

khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt. Theo một số tài liệu về văn hóa, lịch sử Nam

Bộ là nơi có nhiều nền văn hóa cổ cũng như lớp cư dân đầu tiên đến khai phá và lớp

người đầu tiên đó là những người Việt từ miền Thuận – Quảng vào. Họ đa phần là

dân nghèo, trải qua quá trình đấu tranh với rừng thiên nước độc đã tạo nên một tính

cách đặc thù của người dân nơi đây. Quá trình giao lưu văn hóa đã diễn ra với một

tốc độ mau lẹ, vì trong một khoảng thời gian rất ngắn chừng hơn 300 năm nhưng

Nam Bộ đã định hình được rõ những đặc trưng văn hóa của mình. Đặc biệt đó chính

là sự tiếp biến văn hóa khi giữa các tộc người cùng sinh sống trên một địa bàn. Hiện

nay, “Nam Bộ là nơi cư trú của người Việt và các tộc người thiểu số là cư dân bản

địa: Stiêng, Chrau, Mạ, hoặc di dân: Khmer, Hoa, Chăm, Tày, Nùng, Mường,

Thổ…” [9; tr. 4].

Tuy nhiên, tộc người chủ thể có vai trò quyết định đến sự phát triển của vùng

24

đất là người Việt, “tộc người đa số mà dân số ở riêng Nam Bộ lên đến hơn 26 triệu

người, chiếm 90,9% dân số của vùng. Riêng ở tiểu vùng Tây Nam Bộ, chủ thể văn

hóa chính bên cạnh người Việt còn có người Khmer và người Hoa. Người Khmer là

một tộc người thiểu số đông dân, xếp thứ 5 trong 54 tộc người ở Việt Nam, và có

trình độ kinh tế - xã hội phát triển. Người Hoa cũng là một tộc người thiểu số đông

dân, xếp thứ 6 trong 54 tộc người ở Việt Nam, và có trình độ kinh tế - xã hội phát

triển” [9; tr. 5]. Như vậy, khi ta nói đến nền văn hóa Nam Bộ là nói đến văn hóa của

các tộc người trên vùng đất này. Gần như là một quy luật, văn hóa ở đây chính là

văn hóa của một vùng đất mới dù là của tộc người nào, “đều là sự kết hợp giữa

truyền thống văn hóa trong tiềm thức, trong dòng máu, và điều kiện tự nhiên, lịch

sử của vùng đất mới, nó phát triển trong điều kiện cách xa vùng đất cội nguồn cả về

không gian và thời gian. Nói khác đi là, những loài cây quen thuộc của vùng đất cũ,

được đem cấy trồng nơi đất mới. Cho nên nền văn hóa này, vừa có nét giống, lại

vừa có nét khác với nền văn hóa ở vùng đất cội nguồn, của cùng một tộc người.”

[22; tr. 271]. Trong quá trình mở cõi vào phương Nam, các lưu dân đã chọn địa bàn ven

sông rạch làm nơi cư trú bởi vì họ nhận thấy được tầm quan trọng của sông rạch

trong việc ổn định cuộc sống lâu dài. Có lẽ bởi địa hình Nam Bộ có mạng lưới kênh

rạch chằng chịt rất thuận tiện cho việc di chuyển bằng đường thủy, cùng với đó là

lượng phù sa bồi đắp quanh năm khiến đất đai màu mỡ, nước tưới tiêu ruộng đồng

luôn sẵn có và rất nhiều tiện ích khác của cuộc sống sinh hoạt gắn với dòng sông.

Nhà ở của người dân Nam Bộ luôn xuất hiện mô hình trước sông, sau ruộng.

Các cư dân sống tập trung theo dòng chảy của các con sông và những chỗ giáp

nước, nghỉ ngơi thường hình thành nên hệ thống chợ. Bên cạnh đó, tập quán dùng

ghe làm nhà ở lại rất phổ biến khi mọi sinh hoạt của gia đình đều diễn ra trên ghe.

Ngoài ra, người Nam Bộ còn làm loại nhà sàn và nhà bè (nhà trên mặt nước), đó là

nơi cư trú cũng như mưu sinh. Họ có thể buôn bán những thứ cần thiết cho những

người qua lại trên sông để tăng thêm thu nhập.

Trong cấu trúc ăn uống, người Nam Bộ cũng có những nét khác hơn so với

đồng bằng Bắc Bộ. Nếu như ở Bắc Bộ thì cơ cấu bữa ăn là cơm – rau – cá thì ở

Nam Bộ “cũng theo truyền thống bảo đảm cân bằng âm dương và theo quy luật ngũ

25

hành tương sinh tương khắc của người Việt nói chung. Tuy nhiên, do điều kiện địa

lý đặc thù và giao lưu tiếp biến văn hóa, cơ cấu bữa ăn thông thường của người

Việt nơi đây đã được điều chỉnh thành cơm – canh – rau – tôm cá” [9; tr. 15].

Đặc biệt do nguồn tài nguyên thủy sản dồi dào (như tôm, cua, rùa, cá, rắn,

nghêu, sò, ốc, hến, lươn,…) đạt tới sự sung túc, phong phú hơn tất cả mọi miền trên

đất nước nên việc sử dụng nguồn đạm thủy sản trong bữa ăn người Việt được chú

trọng hơn. Nam Bộ là vùng đất có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều cùng hệ thống sông

ngòi dày đặc là điều kiện thích hợp cho việc trồng cây ăn trái và rau củ. Từ nguồn

thủy sản kết hợp với các loại hoa màu phong phú đã tạo ra rất nhiều món ăn khác

nhau, nhưng điểm chung đều rất đảm bảo về chất lượng và với những hương vị độc

đáo riêng mang đậm chất Nam Bộ.

Thiên hướng trong bữa ăn của người Nam Bộ là chọn lựa các thức ăn có tác

dụng giải nhiệt nên dừa và các món ăn được chế biến từ dừa đã chiếm một vị trí rất

quan trọng trong các món ăn ở Nam Bộ.

Do sống trong môi trường sông nước, nên cả nam và nữ ở Nam Bộ đều chọn

chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn làm trang phục chủ yếu. Áo bà ba thuộc loại vải

dày rất thích hợp với mọi hoạt động của vùng sông nước như: chèo ghe, bơi xuồng,

lội đồng, tát mương, giăng lưới,… Chiếc áo bà ba rất bền và gọn nhẹ lại có túi dùng

để đựng những vật cần thiết khi lao động. Còn khăn rằn có thể lau mồ hôi, che

nắng, quấn cổ và thậm chí có thể quấn ngang người thay cho chiếc quần khi lội qua

sông.

Khi một mảnh đất gắn liền với sông nước thì có lẽ ghe, xuồng, vỏ lãi,.. là

những phương tiện quá đỗi quen thuộc và cần thiết đối với những cư dân nơi đây.

Đặc biệt hình ảnh của chiếc cầu khỉ bắt qua những con kênh rạch là điều không thể

thiếu. Một vùng đất mới với những con người mới cùng với nó là một miền kinh tế

mới đầy năng động, một miền văn hóa mới đầy cởi mở. Sự hỗn dung tiếp biến văn

hóa một cách rộng rãi cùng vốn văn hóa ẩn sâu trong tiềm thức của họ, cũng như sự

hội ngộ của những con người “tứ xứ” đã làm cho Nam Bộ trở thành một vùng văn

hóa với nhiều tôn giáo, tín ngưỡng cùng đan xen tồn tại với nhau. Nói khác đi là

diện mạo tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ khá đa dạng và phức tạp. Do “tiếp nối truyền

26

thống của người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, người Việt Nam Bộ

cũng dành ưu tiên cho đạo Phật, kết hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ

cúng tổ tiên”. [9; tr. 9 – 10].

Bên cạnh Phật giáo tiểu thừa lại có Phật giáo đại thừa. Ngoài ra còn có các

tôn giáo khác như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo,… với các tín ngưỡng dân gian,

chính các điều kiện tự nhiên, lịch sử của vùng đất mới đã khiến cho nó có những nét

khác biệt tuy chúng đã đi từ một cội nguồn là đồng bằng Bắc Bộ. Khi công cuộc

khai phá và làm hồi sinh Nam Bộ chưa được bao lâu Nam Bộ đã phải chấp nhận

cuộc giao thoa văn hóa lâu dài với phương Tây tư bản chủ nghĩa, khiến cho Nam Bộ

có sự đan xen giữa những đô thị hiện đại và hoang sơ của rừng ven biển. Qua đó, ta

có thể thấy Nam Bộ chính là cái nôi sinh thành những tín ngưỡng tôn giáo mới, là

vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam.

Về lễ hội ở Nam Bộ cũng rất phong phú và đa dạng tương đối với cách thức

hoạt động sản xuất và tín ngưỡng bao gồm: “lễ hội nông nghiệp – ngư nghiệp; lễ

hội tưởng niệm danh nhân – anh hùng dân tộc; lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo và hỗn

hợp.” [9; tr. 10]. Cụ thể là có các lễ hội Kỳ yên để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh…

hoặc ở vùng ven biển có lễ hội Nghinh Ông; lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam. Dù

các phong tục có nguồn gốc từ Trung và Nam Trung Bộ nhưng người Việt Nam Bộ

đã biết tiếp biến thêm nhiều yếu tố trong những phong tục của người Hoa, người

Khmer. Chẳng hạn như “người Việt Nam Bộ vẫn giữ tập quán giẫy mã vào ngày 25

tháng Chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30 tháng Chạp âm lịch, nhưng

một bộ phận người Việt Nam Bộ cũng theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh

tháng Ba âm lịch giống như người Hoa.” [9; tr. 10].

Đến Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng theo truyền thống để tổ

chức quần cư thành làng ấp. Tuy nhiên, “về nội dung và hình thức, làng ấp của

người Việt Nam Bộ có những điểm khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và

Trung Bộ. Về nội dung, làng ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tập hợp cư dân

đến từ nhiều vùng, nhiều họ tộc khác nhau, gắn bó với nhau không phải do quan hệ

dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng ấp

cũng thường xuyên biến động hơn, kẻ đến người đi đổi chỗ cho nhau, nên không có

sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư và dân ngụ cư. Về hình thức, để tiện cho

27

việc đi lại, làng ấp ở Nam Bộ thường hình thành dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ,

không có lũy tre làng đóng kín. Do đó tính cố kết cộng đồng của làng ấp Nam Bộ

lỏng lẻo hơn làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.” [9; tr. 8].

Ngoài ra Nam Bộ còn là nơi phát triển dòng văn hóa bác học rất mạnh mẽ.

Có nhiều trường học nổi tiếng được thành lập và khóa thi tuyển chọn người tài

phụng sự đất nước liên tiếp mở ra, giúp Nam Bộ đã có thêm một đội ngũ trí thức

Nho học mới xuất hiện góp phần vào việc nâng cao dân trí cũng như giúp văn hóa

Nam Bộ phát triển mạnh mẽ.

Văn hóa Nam Bộ còn được gọi là văn hóa đất phương Nam, là một nền văn

hóa có những đặc thù riêng so với các vùng văn hóa khác. Vùng đất vừa có bề dày

trong diễn trình lịch sử của văn hóa Nam Bộ, lại vừa là vùng đất giàu sức trẻ của cả

các tộc người. Văn hóa Nam Bộ đã trở thành trung tâm của quá trình tiếp biến và

giao thoa văn hóa, nó khiến cho văn hóa Nam Bộ tuy có nét tương đồng nhưng lại

có sự khác biệt. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là văn hóa Nam Bộ chỉ là con số

cộng của các luồng văn hóa đã hội tụ ở đây. Vì vậy, văn hóa Nam Bộ không tự đánh

mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hóa khi vùng đất thu nạp được nhằm phục vụ

cho nhu cầu của người Việt trên vùng đất mới. Tất cả đã tạo cho Nam Bộ một

28

phong cách văn hóa độc đáo riêng mà không nơi nào có được.

Chương 2. PHONG TỤC, TẬP QUÁN TRONG CA DAO NAM BỘ

Từ ngàn xưa, ông cha ta đã biết kết tinh và lưu giữ nhiều nét văn hóa độc đáo

cùng với những phong tục tập quán đặc sắc cho đến ngày hôm nay. Những phong

tục ấy, luôn tồn tại song song cùng với đời sống sinh hoạt của người dân một cách

mật thiết không thể tách rời, và đang không ngừng phát triển ngày càng vững chắc.

Dù cho có một số phong tục tập quán đã được thời đại hóa ảnh hưởng và tác động,

nhưng hiển nhiên nó vẫn sống mãi trong tiềm thức của mỗi người con đất Việt đặc

biệt là người dân Nam Bộ.

Theo dân gian phong tục tập quán chính là những thói quen, nếp sống do con

người đặt ra, được lặp đi lặp lại trong một cộng đồng nhất định hay nó còn là những

thói quen trong nếp sống sinh hoạt đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được đa số người

chấp nhận và làm theo rồi dần trở thành thuần phong mĩ tục.

Phong tục, tập quán có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống con người, đây

có thể xem là những giá trị văn hóa tinh thần quý báu của dân tộc. Một trong những

vùng đất ghi nhận lại những giá trị văn hóa tinh thần sâu đậm nhất chính là vùng đất

Nam Bộ. Nam Bộ đã sử dụng ca dao làm phương tiện phản ánh rất hay và đặc biệt

về văn hóa. Ca dao Nam Bộ mang nhiều âm hưởng và nhiều màu sắc khác nhau,

nhưng nó không hề lạc lõng mà nó lại quyện vào nhau để trở thành một bản hòa tấu

tuyệt vời, chỉ khi ta đọc và cảm nhận sâu sắc về nó mới thấy được cái hay và cái tài

của các tác giả dân gian.

Trong ca dao Nam Bộ đã có một mảng riêng phản ánh về khía cạnh phong

tục, tập quán trong đời sống người dân rất đa dạng và phong phú, tiêu biểu cho một

nét văn hóa quan trọng của người Việt Nam như: phong tục lễ hội, phong tục lễ tết,

phong tục hôn nhân, phong tục tang ma…và một số tập quán trong giao tiếp cũng

2.1. LỄ HỘI VÀ LỄ TẾT

như ẩm thực mà trong luận văn này sẽ được người viết đề cập đến.

2.1.1. Lễ hội Lễ hội được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ

nước của dân tộc Việt Nam, thì khoảng thời gian mở cõi trên dưới 300 năm ở Nam

29

Bộ chỉ là một đoạn đường quá ngắn ngủi. Lễ hội mang trong mình hầu như toàn bộ

những cảm nhận của con người về thiên nhiên, đất nước, cộng đồng và ngay chính

cả bản thân mình. Lễ hội còn là môi trường tỏa sáng màu sắc văn hóa dân tộc, là

một cuộc trình diễn văn hóa của cả cộng đồng nhằm thỏa mãn khát vọng của cộng

đồng. Vì thế, mỗi đất nước, mỗi vùng miền, mỗi tộc người đều có một lễ hội riêng

mang những nét riêng biệt mà các tộc người hay quốc gia khác đều không có được.

Đặc biệt vùng đất Nam Bộ với nhiều lễ hội đặc sắc đã được các tác giả dân

gian ghi nhận lại bằng hình thức ca dao, nhưng không có hình ảnh lễ nào được thể

hiện một cách cụ thể, chủ yếu lễ hội ở Nam Bộ được thể hiện thông qua những nghi

thức tế lễ ở làng xã có thờ các nhân vật anh hùng lịch sử. Qua ca dao ta có thể hình

dung được rất nhiều phong tục về lễ hội, có lẽ vì ca dao là hình thức diễn đạt rất dễ

đi sâu vào tâm hồn của mỗi con người.

Lễ hội được xem là một hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính chất tín

ngưỡng truyền thống của cộng đồng, dân tộc. Mỗi lễ hội thường bao gồm hai phần:

phần lễ và phần hội.

Lễ là những nghi thức thể hiện lòng tin, sự tôn kính của nhân dân đối với lực

lượng siêu nhiên tồn tại trong tâm linh con người. Nhân dân đều có một niềm tin và

hi vọng rằng hành vi tế lễ của mình sẽ mang đến những điều tốt lành như bản thân

mong muốn. Cũng có một số trường hợp, đối tượng thờ cúng là những nhân vật lịch

sử, văn hóa thì tế lễ mang ý nghĩa biết ơn và cầu mong bình an cho mọi người đối

với các bậc tiền nhân.

Hội là các hình thức vui chơi giải trí, các trò chơi dân gian hoặc hoạt động

văn hóa giúp cho người dân khi tham gia lễ hội có một sân chơi vui vẻ sau khi kết

thúc phần lễ. Trong thực tế, hằng năm có hàng trăm ngàn lượt người rời địa phương

để đi tham dự các lễ hội như: lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ hội Núi Bà Đen, lễ hội Nghinh

Ông…nhưng gần như các lễ hội này không để lại dấu ấn cũng như không được ca

dao lưu lại. Ca dao Nam Bộ chỉ ghi nhận một số câu ca dao có nội dung về những

anh hùng lịch sử địa phương thời cận đại, những người có công khai hoang mở đất,

bảo vệ quê hương tiêu biểu là.

Ai về Đồng Tháp mà coi,

Mộ ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng,

30

Bà con đùm đậu quanh vùng,

Tháng giêng ngày giỗ xin đừng ai quên.

[6; tr. 127] So với số lượng những lễ hội dày đặc và có gốc rễ lâu đời ở Bắc Bộ thì số

lượng lễ hội ở Nam Bộ lại càng khiêm tốn hơn nhiều, bởi lễ hội ở Nam Bộ ra đời

tương ứng với lịch sử khẩn hoang của vùng đất. Chính lẽ đó mà lễ hội ở Nam Bộ

đang có những bước phát triển mới, vừa kế thừa những di sản tinh thần và văn hóa

lâu đời của dân tộc, vừa phát huy và tiếp cận những nhân tố mới được hình thành từ

chính nơi này. Không những thế, lễ hội ở Nam Bộ sẽ là một chặng đường mới để

tiếp nối vào dòng chảy lễ hội truyền thống từ Bắc vào Nam nhằm nâng cao nét văn

hóa độc đáo và riêng biệt của dân tộc ta.

Bên cạnh đó, lễ hội ở Nam Bộ chịu sự chi phối rất lớn của các yếu tố lịch sử,

tín ngưỡng và cả tôn giáo, cho nên nó đã tác động mạnh mẽ vào đời sống tinh thần

của người dân Nam Bộ, tạo nên một màu sắc khá đặc trưng so với các vùng miền

khác. Vì thế, dẫn đến địa điểm tổ chức của lễ hội thường là ở Đình (Đình làng),

Miễu, Miếu... đây là nơi trang trọng và mọi người đều có thể tham gia. Đặc biệt

trong đó việc tham dự lễ hội ở đình làng đã ăn sâu vào trong con người của những

lưu dân. Ông đi đình làng lại dắt theo con cháu, khi ông mất thì con cháu đi dự lễ.

Họ xem dự lễ hội là một hình thức báo hiếu. Vả lại, đây chính là tập quán rất riêng

của mỗi cộng đồng. Yêu đình làng là yêu ông bà, cha mẹ, yêu bà con họ hàng chòm

xóm, quê hương, dần dần việc tham dự lễ hội ở đình làng đã trở thành một nhu cầu

thiết yếu của mỗi người dân Việt. Đặc trưng của lễ hội ở đình làng, nó mang tính

chất của thế tục là chủ yếu vì trong lễ đều cúng các món mặn như heo, vịt,... chứ

không cúng chay, ngoài ra còn cúng kèm theo rượu nếu không có rượu thì không ra

lễ hội. Những người tham dự lễ hội được khuyến khích ăn mặt sang trọng và lòe

loẹt. Trong lời khấn, họ có thể cầu xin phát đạt, bình an và làm giàu nhanh chóng.

Ai về Đồng Tháp mà coi

Miễu quan lớn Thượng trăng soi lạnh lùng

Bà con đùm đậu quanh vùng

Tháng ba ngày giỗ xin đừng ai quên.

[6; tr. 141]

Dù ai xa xứ sinh nhai

31

Nhớ ngày 17 tháng 2 thì về

Dù ai công việc bộn bề

Tháng 2. 17 nhớ ngày kỳ yên.

[2; tr. 813]

Lễ hội ở Nam Bộ gắn với hình thức sinh hoạt tinh thần của người dân nơi

đây. Tuy là một vùng đất mới được hình thành và phát triển nhưng những yếu tố

truyền thống trong lễ hội luôn được người dân Nam Bộ lưu giữ và phát huy. Bằng

chứng là việc những lễ hội không kém phần phong phú, qua đó giúp cho con người

có thể tái hòa nhập cộng đồng với những mối quan hệ giao tiếp và tình cảm cao

hơn, mới hơn, ý nghĩa hơn. Cùng đó là những cảm nhận sâu sắc về sự tái sinh, đổi

mới của con người, của tình làng nghĩa xóm và tình yêu quê hương đất nước. Tuy

nhiên ta có thể thấy, không phải tất cả các sinh hoạt lễ hội trong đời sống của cư dân

Nam Bộ đều được phản ánh vào ca dao, ca dao Nam Bộ chỉ có thể ghi nhận lại một

số nét mang tính chất khái quát. Cho nên ta càng phải giữ gìn những nét riêng vào

trong từng giai đoạn, và trở thành những tác giả dân gian góp thêm những câu ca

dao mới vào kho tàng ca dao Nam Bộ nói chung và đặc biệt ca dao về lễ hội ở Nam

Bộ nói riêng. 2.1.2. Lễ tết Chữ “Tết” là do biến âm của chữ “tiết” mà ra. “Tiết” gốc Hán có nghĩa là

khoảng thời gian được chia ra theo sự vận động có chu kì của khí trời đất trong một

năm. Có thể nói Tết là một trong những kiểu loại cuộc lễ với đối tượng chính yếu là

thời tiết để cầu thịnh vượng, an khang và tăng cường ý chí của người sản xuất nông

nghiệp. Nhưng số lượng những hình ảnh có liên quan đến Tết như: mai, bánh tét,

nêu,... xuất hiện rất ít trong ca dao Nam Bộ và gần như là không có. Dân tộc ta có

rất nhiều ngày Tết trong năm như tết: Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Thu, Nguyên

Tiêu,... nhưng đặc biệt ngày tết cổ truyền ở Việt Nam là ngày Tết Nguyên Đán.

Tết Nguyên Đán được xem là lễ hội lớn nhất trong các phong tục truyền

thống của Việt Nam. Một năm gồm bốn mùa, tám tiết, ngày đầu năm âm lịch thuộc

về Tết Nguyên Đán, đó chính là thời khắc đánh dấu sự chuyển dời từ năm cũ sang

năm mới, là một chu kì tuần hoàn mà tạo hóa đã ban cho con người, cỏ cây và vạn

vật. Tết Nguyên Đán có ở Việt Nam từ rất lâu đời, Tết là một ngày rất thiêng liêng

32

với tất cả mọi người Việt Nam từ hàng ngàn năm nay cả khi thăng cũng như những

lúc trầm. Tết là dịp đoàn tụ, sum họp gia đình, là dịp biểu lộ tình cảm giữa các

thành viên cũng như hỏi han về sức khỏe, công việc làm ăn và các vấn đề khác

trong cuộc sống. Tết còn là dịp để con cháu từ bốn phương trời tề tựu về quê hương

đất tổ, thắp lên những nén hương tưởng nhớ tri ân với tổ tiên, nguồn cội và những

người đã khuất với ước mong đất nước xã hội tốt đẹp hơn, mong ai cũng được đầy

đủ, ấm no. Tất cả mọi người đều rất háo hức trong dịp đầu xuân, cho dù có bận rộn

hơn hẳn những ngày thường mọi người vẫn phấn khởi chuẩn bị ăn Tết chơi Tết cho

thật đàng hoàng vui vẻ. Từ đó Tết đã hiện hữu như một giá trị nhân văn, văn hóa

đặc sắc bền vững theo thời gian không gì có thể thay thế được.

Tết Nguyên Đán là một trong những dịp thể hiện rõ và nhiều nhất những

phong tục mà ông cha ta đã truyền lại từ nhiều đời, tạo nên một nét văn hóa đẹp

trong kho tàng ca dao Việt Nam nói chung và ca dao Nam Bộ nói riêng.

Tết Nguyên Đán bắt đầu khi ta tảo mộ ông bà, người thân đã khuất và sau đó

vào ngày 23 thì đưa ông Táo về trời, ngày 30 (hoặc 29, tháng thiếu) thì diễn ra một

buổi lễ khá cảm động, cúng đơn sơ, thỉnh nguyện ông bà khuất mặt về với con cháu.

Đến giao thừa thì xem như là hết năm cũ bước sang một năm mới với những điều

tốt lành sắp đến.

Ai cũng biết ngày tết là ngày sum họp của mọi thành viên trong gia đình sau

một năm dài làm ăn vất vả. Dù giàu nghèo ra sao, dù lang bạt khắp bốn phương trời,

dù sống trong áo quần sang trọng, miệng ăn cao lương mỹ vị thì hỏi ai không khỏi

chạnh lòng mà nhớ quê hương. Nên ông bà ta thường nhắc nhở con cháu dù có bộn

bề công việc đến đâu đi chăng nữa, thì cũng phải giữ gìn truyền thống và quây quần

đoàn tụ với gia đình trong những ngày xuân. Ngày xuân được xem là ngày vui vẻ nhất, là sự mở đầu, niềm khởi hành, sự

xuất phát cho một năm sẽ ăn nên làm ra hay thất bại, niềm vui hay nỗi buồn, may

mắn hay xui xẻo,... vì thế mà không ai dám coi thường việc ăn Tết, dù gia đình có

nghèo khó đến đâu cũng phải cố gắn chu toàn tươm tất trong ba ngày tết, để cầu

mong năm sau được sung túc, đầy đủ hơn. Không những thế, vào những ngày này gia đình nào cũng sửa sang cho nhà

cửa gọn gàng, sạch sẽ, lau chùi bàn thờ tổ tiên và chuẩn bị hoa thơm, trà mứt, dưa

33

hấu,.. để đón tiếp khách. Đặc biệt, trong việc bày biện mâm ngũ quả ở Nam Bộ

cũng đã có sự thay đổi hơn nhiều so với vùng Bắc Bộ, mâm ngũ quả ở đây luôn có

những thứ quả ngon lành như: cầu, dừa, đu đủ, xoài hoặc có thêm quả sung nữa, nó

mang ý nghĩa rất sâu sắc đó chính là mong cho đất trời quê hương phò hộ gia đình

quanh năm không thiếu thốn, mong mọi chuyện đều đầy đủ và sung túc, mong cuộc

sống thường nhật được như ý nguyện, con người không phải quá lo toan vất vả với

miếng cơm manh áo hàng ngày.

Ngoài ra, phong tục gói bánh chưng làm bánh dày đã có từ thời các vua

Hùng mở nước thì vào đến miền Nam đã cải biên thành món bánh tét (có thể là do

gọi trại chữ “Tết” mà ra). Một lọai bánh mang chất lượng tương tự như bánh chưng,

tập trung những sản phẩm của chăn nuôi và nông nghiệp: nếp, đậu xanh, thịt lợn,

gia vị. Đó là thứ bánh dùng để dâng lên tổ tiên ông bà nhằm tỏ lòng thành kính.

Cây Nêu cũng là một trong những phong tục lễ tết khá đặc biệt của người

Việt chúng ta. Truyền thống này đã có từ lâu, theo quan niệm thì việc dựng. Nêu là

để trừ tà ma và khiến những thứ dơ bẩn không thể vào nhà được. Đến ngày mùng 7,

ta có quyền hạ Nêu xuống thì lúc ấy công việc được trở lại như bình thường.

Cu kêu ba tiếng cu kêu,

Cho mau đến tết dựng nêu ăn chè.

[6; tr. 486] Vào dịp Tết, con cháu thường đến chúc tết ông bà, cha mẹ hay hàng xóm đó

được xem là phong tục quá quen thuộc đặc biệt là người dân Nam Bộ. Khi đi họ

thường mang một ít lễ vật nhỏ xem như ngụ ý cầu mong phước lành và may mắn sẽ

đến với người được nhận lễ ấy, qua đó càng làm rõ thêm sự hiếu thảo và kính trọng

của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Đáp lại tình cảm ấy là những bao lì xì đỏ thắm

đầu năm, như một lời chúc tốt lành và hạnh phúc.

Hoa cũng là một biểu trưng dành cho mùa xuân bởi vì mùa xuân là mùa đẹp

nhất trong năm, trăm hoa đua nở, cảnh vật như hòa mình vào thời tiết se lạnh ấy.

Giang tay tỉa nhánh mai vàng,

Chợt nhìn thấy bạn, hai hàng lụy rơi.

[6; tr. 285] Người dân Nam Bộ nói chung đều rất chuộng hoa mai vàng, bởi màu vàng

của hoa thật tươi tắn, hài hòa với ánh nắng rực rỡ của vùng đất phương Nam. Và

34

tiếng “mai” nghe ý nghĩa lắm khi nó tượng trưng cho một sự tốt lành khi trong nhà

ngoài ngõ đều ngập tràn may mắn. Dù xã hội có phát triển theo thời gian, có tạo ra

nhiều giống hoa mai lạ nhiều màu, nhiều cánh nhưng lần hồi cũng trở về loại mai cổ

truyền có từ ngàn xưa. Chính điều đó đã góp phần vào việc giữ gìn những giá trị

truyền thống vốn có của dân tộc.

Ông bà ta ngày xưa có câu “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Thực ra vì tháng

giêng nông nhàn, người nông dân được rãnh rỗi thời gian cho việc vui chơi, tham

gia lễ tết, lễ hội: Tháng giêng là tháng ăn chơi,

Anh đi nằm bãi Hòn Khơi một mình.

[6; tr. 501] Tuy nhiên, theo phong tục tháng giêng là tháng của những ngày hội, có lẽ vì

lí do đó mà tất cả bà con nông dân đều hòa mình vào không khí của những ngày hội

đầu xuân, càng làm cho bản sắc văn hóa Nam Bộ thêm giàu đẹp và phong phú. Bên

cạnh đó, mùa xuân còn được xem là mùa của tình yêu, mùa của sự đơm hoa kết trái

nên trong không khí rộn ràng của mùa xuân ấy, những đôi trai gái có thể tỏ lòng và

thổ lộ tình cảm cùng nhau mà chẳng ngại ngần gì. Rồi mùa xuân đã đến, mang theo

một niềm hi vọng ông Tơ bà Nguyệt sẽ đưa duyên dẫn lối, se sợi chỉ hồng cho

những đôi lứa yêu nhau có thể đến được cùng nhau, sẽ không còn nữa cảnh chờ đợi

trong mòn mỏi mà phai mất tuổi xuân thì khi chợt nhìn lại cái già đã đến. Ngoài lễ Tết Nguyên Đán truyền thống, dân tộc ta còn có thêm lễ Tết Đoan

Ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đặc biệt trong ngày này người dân sẽ có tục

hái các loại lá vào giờ ngọ, nhằm thể hiện tính chất tiệt trùng của lá cây trong giai

đoạn chuyển mùa. Vì thế Tết Đoan Ngọ còn được người Việt ta gọi là Tết giết sâu

bọ. Thông thường Tết Đoan Ngọ thường rất ít có mưa xuất hiện, nhưng nếu có thì

đó chính là dấu hiệu may mắn cho một mùa vụ tốt tươi sắp đến, ấm no hạnh phúc và

đầy đủ. Thời gian đã đi qua dân tộc ta hàng ngàn năm các phong tục với nhiều nét

đẹp và những chi tiết khác nhau đang được sàng lọc để lấy lại những điều gì tốt đẹp

và loại bỏ những gì không phù hợp với đời sống hiện đại. Lễ Tết Nguyên Đán dù có

thay đổi gì đi chăng nữa thì nó vẫn được duy trì trên những nét đại thể, bởi con

35

người Việt Nam luôn sống có ân nghĩa, thủy chung. Tổ chức vui xuân cho một số

người Việt đang sinh sống ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, là ta đang góp phần

giữ vững và tôn trọng truyền thống quý báu của dân tộc, cũng như quảng bá phần

nào văn hóa Việt với các dân tộc khác. Đó là một điều đáng trân trọng dù hiện nay

có nhiều thay đổi từ đời sống văn hóa đến chính trị và kinh tế. Nhưng vói chúng ta,

mùa xuân càng vắt thêm nhiều suy nghĩ để xây dựng hiện tại và tương lai nhằm bảo

2.2. PHONG TỤC HÔN NHÂN VÀ TANG MA

tồn truyền thống văn hóa Việt đặc biệt là vùng đất nơi cuối cùng Tổ quốc.

2.2.1. Phong tục hôn nhân

Một trong các phong tục in dấu ấn sâu đậm vào đời sống tinh thần của người

Việt ở Nam Bộ là những nghi lễ trong cưới hỏi, đã được các tác giả dân gian khắc

họa lại qua ca dao hết sức cụ thể và sinh động, có 24 câu đề cập đến từ “cưới” khi

khảo sát 2638 câu trong Ca dao – dân ca Nam Bộ. Dựng vợ gả chồng là điều tối

quan trọng, tuy nó chỉ là hình thức nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại của

dân tộc, gia đình và con cái – tức thế hệ kế thừa.

Trong văn hóa người Việt, khi đôi trai gái thật sự yêu nhau và muốn kết

thành chồng vợ họ phải trải qua nhiều nghi lễ trong phong tục cưới hỏi. Lễ cưới hỏi

ở đây nhằm mục đích tạo ra sự gắn bó lâu dài giữa họ, tránh trường hợp bất hòa dẫn

đến ly dị. Vì vậy ta không thể nào bỏ qua những hình thức cơ bản. Việc thành hôn

không phải là một trò đùa, nó được pháp luật chứng kiến và thừa nhận. Cưới hỏi ở

Nam Bộ được ca dao nhắc đến gồm lục lễ (6 lễ).

Mảng nói chơi mà trời gần sáng,

Xin anh bỏ lảng duyên nợ đôi ta.

Dằn lòng về thưa với má ba,

Sắm lo sáu lễ đến nhà nói em.

[6; tr. 316]

Tôi về thưa với mẹ cha,

Chạy lo sáu lễ đem qua cưới nàng.

[6; tr. 396] “Sáu lễ” là một hình thức nghi lễ mà ông cha ta đặt ra từ xưa, nhằm kéo dài

thời gian cũng như tranh thủ cơ hội dò xét tình ý đôi bên có thật sự muốn đến với

36

nhau không. Ngoài ra, thời gian ấy còn có ý nghĩa rất lớn đối với những gia đình

không khá giả, để chờ dành dụm đủ tiền bạc làm cơ sở cho buổi lễ và tạo chút ít cơ

sở vật chất cho vợ chồng son trong tương lai. Trên thực tế, ít có cuộc hôn nhân nào

của người Nam Bộ áp dụng đủ sáu lễ, đó chính là nét riêng mà hầu như không có

vùng miền nào có được và nếu đủ sáu lễ thì không còn là Nam Bộ nữa.

Có lẽ vì người Nam Bộ nổi tiếng là phóng khoáng, thoải mái và ít chịu sự

ràng buộc. Họ chỉ chú trọng đến hạnh phúc của con cháu và tiết kiệm thời gian công

sức chứ không theo một khuôn khổ nào – do người Nam Bộ là cộng đồng người đi

tiên phong trong việc xóa bỏ những lề thói và hủ tục cũ. Phần lớn trong số họ rời

quê cha, đất tổ cũng vì không chịu được sự tù túng, đè nén theo một quy tắc nhất

định.

Văn hóa tỉ lệ thuận cùng với sự phát triển của xã hội. Theo xu hướng hiện

nay, phong tục cưới hỏi của người Việt đã có sự thay đổi rõ rệt trong việc giảm

thiểu cũng như đơn giản hóa lục lễ thành hai hoặc ba lễ, tùy theo sự thỏa thuận của

hai bên gia đình để lễ cưới không rườm rà, phức tạp. Tuy nhiên, sự thay đổi này

không hề làm mất đi những giá trị văn hóa tinh thần, mà đây chỉ là sự giảm lượt

những vấn đề không cần thiết nhằm chắc lọc nên những nét tinh túy nhất trong văn

hóa cưới hỏi của người Việt, cũng như vẫn giữ được vốn văn hóa truyền thống của

địa phương, dân tộc.

Nghi lễ là điều cần thiết và sính lễ cũng là vấn đề cực kỳ quan trọng trong

một cuộc hôn nhân. Trong hôn lễ ngày xưa, người Việt ở Nam Bộ rất chú trọng đến

lễ hỏi, trong dịp này nhà trai sẽ mang sính lễ sang nhà gái – sính lễ ngày cưới cũng

thể hiện sự giàu có hay tù túng của nhà trai. Điều đặc biệt sính lễ trong lễ hỏi đã tạo

ra một nét riêng cho văn hóa Nam Bộ, khi tất cả những sính lễ đều là số chẵn bao

gồm: khay trầu rượu, tiền cưới; cặp đèn hoàng lạp kết hoa, mâm trầu cau (gồm 36

trái cau và 64 lá trầu); mâm trà rượu (hoặc cặp ché rượu); mâm bánh; mâm trái cây.

Tuy nhiên, số sính lễ này có thể trở thành chướng ngại vật cản trở các đôi lứa

yêu nhau khi nhà gái thách cưới quá cao mà nhà trai thì không thể đáp ứng được, do

hôn nhân trong chế độ phong kiến luôn đặt nặng vấn đề “môn đăng hộ đối”.

Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, trong đời sống người bình dân

Nam Bộ đã dần xóa bỏ những lề lối cổ xưa, thay vào đó là sự quan tâm đến đôi trai

37

gái có thật sự hạnh phúc khi đến với nhau không và hôn nhân chính là kết quả của

một tình yêu đẹp. Dù hôn lễ có nghèo nàn, giản dị nhưng trong đó chứa đậm cả một

niềm hạnh phúc.

Tuy anh nghèo, dòng họ anh đông,

Người giúp một đồng cũng đủ cưới em.

[6; tr. 411] Dù có sự đơn giản hóa trong các sính lễ giữa hai bên gia đình thỏa thuận,

nhưng mâm trầu cau là sính lễ không thể thiếu và không thể giảm lượt được. Có lẽ

từ ngàn xưa, khi nhắc đến trầu cau là nhắc đến sự bền chặt trong hôn nhân, là biểu

tượng của gia đình hạnh phúc. Ca dao Nam Bộ cũng đã ghi nhân lại hình ảnh đó

một cách rất sinh động.

Ới em nho nhỏ bứt cỏ giữ trâu,

Bước qua năm nữa anh bưng trầu cưới em.

[6; tr. 353]

Em có mẹ cha,

Anh đến nhà thưa lại.

Riêng tình ân ái,

Nhân ngãi chẳng phai,

Sợ hiềm trắc trở duyên hài,

Phải cho có mối có mai lễ trầu.

[6; tr. 274]

Thương tôi rượu chén trầu cơi,

Đến cùng phụ mẫu đền nơi sanh thành.

[6; tr. 389]

Hồi buổi ban đầu,

Em biểu anh têm ba miếng trầu cùng ly rượu lạt,

Anh lắc đầu sợ tốn,

Giờ em đã có chồng, sao anh biểu trốn theo anh?

[6; tr. 298] Mâm rượu cũng được phản ánh vào ca dao, rượu có thể được xem là sợi dây

nối kết tình cảm thân thiết của gia đình càng bền chặt hơn.

Ai bưng trầu cau rượu trà tới đó, xin chịu khó bưng về,

38

Em quyết nghe lời cha mẹ trọn bề gái ngoan.

[6; tr. 458] Bên cạnh đó, tiền cưới là một trong những sính lễ quan trọng trong hôn nhân

và cũng chính nó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc những đôi lứa yêu nhau phải

xa nhau hoặc chờ nhau đến ngày không hứa hẹn.

Bước lên cầu, cầu oằn, cầu oại,

Bước xuống tàu, tàu chạy, tàu nghiêng,

Em ơi ở lại đừng phiền,

Anh đi làm mướn kiếm tiền cưới em.

[6; tr. 195 – 196]

Bước xuống đò, đò oằn, đò oại,

Bước xuống tàu, tàu chạy, tàu nghiêng,

Anh thương em bóp bụng chịu phiền,

Đợi xong mùa lúa kiếm tiền cưới em.

[6; tr. 197]

Mạ non bắt nhẽ cấy biền,

Anh thương em đứt ruột, chạy tiền không ra.

[6; tr. 314] Đôi khi hoàn cảnh gia đình cũng làm cho chàng trai gặp phải nhiều khó khăn

trong việc lo tiền lấy vợ. Ý nghĩa của việc đưa hình ảnh “tiền cưới” vào ca dao,

nhằm phản ánh lên một thực tại quá phủ phàng khi đồng tiền có một sức mạnh vô

hình ghê gớm, nó có thể giết chết đi bao nhiêu mối tình đẹp nhưng thử hỏi đồng tiền

làm sao có thể mua được một tình yêu đích thực xuất phát từ đôi trái tim, thì cần

làm chi việc đòi hỏi tiền cưới quá nhiều. Tuy nhiên đôi bông tai bằng vàng - một

trong những nữ trang của sính lễ - có lẽ là vật không thể thiếu được dù gia đình

chàng trai có nghèo khó đến đâu.

Bụi cỏ le the, bụi tre lúp xúp,

Em có nơi nào, anh giúp đôi bông.

[6; tr. 194]

Một mai thiếp có xa chàng,

Đôi bông thiếp trả, con chàng thiếp xin.

[6; tr. 443] Đối với người Việt ở Nam Bộ thì đôi bông tai được xem là vật đính ước cho

39

cuộc hôn nhân, là cái duyên của người con gái khi xuất giá theo chồng, việc thiếu

bông tai trong ngày cưới là điều không chấp nhận được. Không phải cuộc hôn nhân

nào cũng êm đẹp và hạnh phúc mà đôi khi nó có thể đổ vỡ. Lúc đó, cô dâu có thể trả

lại vật đính ước là đôi bông tai cho nhà trai xem như chấm dứt và không còn mối

liên hệ gì nữa. Điều đó cho thấy, đôi bông tai có ý nghĩa rất quan trọng trong hôn

nhân và trong cuộc sống gia đình đặc biệt là người Việt Nam Bộ.

Tuổi tác cũng là việc không kém phần quan trọng trong hôn nhân. Ông bà ta

ngày xưa rất quan tâm đến vấn đề tuổi tác của cô dâu, chú rễ.

Đường xa mượn áo mà đi,

Miễn cho tốt tuổi quản chi xa đường.

[6; tr. 272] Người xưa quan niệm rằng, tuổi tác vợ chồng hạp với nhau sẽ ăn nên làm ra,

gia đình đầm ấm, hòa thuận sống bên nhau đến răng long đầu bạc. Nhưng tình yêu

nào phải là chiếc máy định vị rằng ai là người hạp tuổi để biết mà yêu, người kỵ

tuổi để biết mà tránh. Ở cái thời văn minh này, đã có sự thay đổi một phần trong

cách nhìn nhận về tuổi tác, trời sinh thường đặt để nam nữ hạp nhau, chỉ cần họ đến

với nhau bằng một tình yêu thật sự thì dù tuổi có hạp hay không đó không còn là

vấn đề quan trọng nữa.

Chuồn chuồn đậu ngọn dưa leo,

Trông trời mau sáng mần heo cưới nàng.

[6; tr. 227]

Này anh bảy đó ơi,

Nhà họ giàu thì đầu heo nọng thịt

Còn đôi mình nghèo thì cặp vịt với bông tai.

[6; tr. 326] Vài câu ca dao thôi, nhưng có lẽ ta đã hiểu một phần nào trong việc chuẩn bị

nhân lực, vật lực của hai bên gia đình cho buổi hôn lễ. Điều chủ yếu, do cộng đồng

dân cư Việt rất quan tâm đến tiệc cưới, khi làng xóm có tiệc mừng họ thường đến để

chia vui bằng việc tham gia vào tiệc tùng của buổi lễ. Ngoài ra, đây cũng là dịp họp

mặt của bà con dòng họ hai bên chúc phúc cho đôi trẻ. Tùy vào khả năng từng gia

đình mà tiệc cưới được tổ chức hoành tráng hay đơn giản, ấm cúng nhưng chung

40

quy là sự cầu chúc cho vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc.

Phong tục tập quán của người Nam Bộ ngoài việc gắn với lịch sử khẩn hoang

vùng đất mới tạo nên sự đa dạng và riêng biệt trong văn hóa, thì Nam Bộ luôn chịu

sự chi phối của hệ thống giao thông đường thủy – con đường huyết mạch. Chính

yếu tố sông nước này đã được đưa vào ca dao, đặc biệt là phong tục cưới hỏi cũng

mang âm hưởng của miền sông nước phương Nam.

Đưa dâu thì đưa bằng ghe,

Chớ đưa bằng bè ướt áo dâu đi.

[6; tr. 269]

Chưa chồng ở vậy cho nguyên,

Đặng anh dọn chiếc thuyền quyên rước về.

[6; tr. 229] Tục rước dâu bằng ghe, xuồng,... đã có từ thuở khai hoang, mở cõi do nó

chính là phương tiện chủ yếu cho việc di chuyển trên sông. Đến ngày nay, hình thức

này vẫn còn được tồn tại và lưu giữ, tạo nên nét văn hóa đặc thù của sông nước

Nam Bộ. Hình ảnh những chiếc ghe, chiếc xuồng của hai họ tháp tùng cô dâu, chú

rễ chạy dọc đôi bờ sông đã trở nên quá đỗi quen thuộc với bao người Nam Bộ. Một

không gian thơ mộng, giản dị nhưng chứa đầy tình cảm bởi những tiếng reo hò vui

vẻ. Từ đây mở ra một hình ảnh đẹp về sông nước Nam Bộ đầy sự mộc mạc, chân

thành như chính con người nơi đây.

Cưới hỏi là một phong tục quan trọng trong đời sống của mỗi gia đình dân

tộc Việt Nam. Nó được tồn tại và lưu truyền cho đến ngày nay. Nó dường như đã in

sâu vào đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam nói chung và

Nam Bộ nói riêng. Nó không chỉ mang âm hưởng của một vùng đất mới mà nó còn

thể hiện một nét đẹp văn hóa riêng, phong phú và đặc sắc phù hợp với điều kiện

phát triển của xã hội.

Trong quá trình mở cõi phương Nam, ông cha ta không chỉ mang theo những

hành trang vật chất phục vụ cho cuộc sống mà còn mang theo cả những nét đẹp văn

hóa tinh thần. Qua quá trình cộng cư sinh sống cùng cư dân bản địa, nét văn hóa

tinh thần ấy đã có cơ hội giao lưu, trao đổi và dần sáng tạo nên những nét văn hóa

mới phục vụ cho cộng đồng cũng như góp phần vào sự phát triển của đời sống tinh

41

thần xã hội.

Tuy có sự thay đổi nhằm thích ứng với xã hội nhưng những giá trị truyền

thống của dân tộc vẫn giữ được nét riêng, càng ngày càng thêm phong phú và đa

dạng hơn. Minh chứng là phong tục cưới hỏi của người Việt Nam Bộ vẫn còn riêng

những nét đặc thù mà không nơi nào có được, nó vẫn là một nguồn tài nguyên văn

hóa bí ẩn và vô tận mà con người khó có thể khái quát hết được. Tuy nhiên, phong

tục cưới hỏi được ghi nhận trong ca dao chưa đặc tả lại cụ thể diễn tiến của một hôn

lễ, nhưng phần nào cũng giúp ta nhìn nhận được một số đặc điểm và nghi lễ cơ bản

trong hôn nhân của người Việt Nam Bộ.

2.2.2. Phong tục tang ma

Sau phong tục hôn nhân thì tang ma cũng là một phong tục cơ bản trong cuộc

đời của một con người, nó đã được ghi nhận và phản ánh vào trong ca dao Nam Bộ

khi khảo sát 2638 câu trong Ca dao – dân ca Nam Bộ có đến 09 lần từ “chế” với

nghĩa tang chế, 03 lần từ “tang” xuất hiện. Tang lễ vốn là vấn đề rất được coi trọng

trong văn hóa của người Việt. Tang lễ là biểu hiện của tính truyền thống và cách

sống của dân tộc ta. Qua hình thức tang lễ sẽ nói lên được tình cảm của những

người còn sống dành cho người đã khuất ở mức độ nào.

Ba năm tang chế mãn nguyền,

Đầu dơ em gội, chuỗi chuyền em đeo.

[6; tr. 475]

Sáng mai tôi đi chợ Gò Vấp,

Tôi mua một trái bắp,

Chân tôi đi, tay tôi lột,

Miệng tôi cạp, hàm tôi nhai.

Tôi lắng tai nghe hai đứa nhỏ nó nói:

Còn tang bà nội, tội lắm anh ơi,

Chờ cho tang hết đứng ngồi mới yên.

[6; tr. 365] Do người Việt đặc biệt là người dân Nam Bộ chủ yếu theo đạo Phật, nên

trong quan niệm về cái chết cũng có phần thiên về thuyết nhà Phật. Họ quan niệm

chết không phải là hết, không phải là chấm dứt tất cả, mà chết chỉ là về với thế giới

bên kia. Phần thân xác có thể mất nhưng tâm linh thì vẫn còn đó tuy mất đi nhưng

42

họ vẫn hiện hữu trong tâm trí của người thân, cho nên việc dự tang lễ của người

thân là điều rất cần thiết. Trong thời gian gia đình có người thân mất con cháu phải

quy tụ về đầy đủ nhằm tiến hành tang lễ. Mọi tục lệ khác như: cưới hỏi, sinh nhật,

thôi nôi,... của những thành viên khác trong gia đình đều phải ngưng lại, đến khi xả

tang thì mới được tiếp tục thực hiện. Ngoài ra, các thành viên chịu tang phải tránh

tham gia những cuộc vui chơi quá độ, làm đẹp,... nhằm thể hiện sự tiếc thương đối

với người đã khuất.

Cũng như hôn lễ, việc coi ngày của tang lễ cũng rất quan trọng. Nên ca dao

có câu Cò mẹ chết rũ trên cây,

Cò con giở sách coi ngày đưa tang.

[6; tr. 483] đã được ông cha ta mang theo từ miền đất tổ về với Nam Bộ và được lưu giữ cho

đến ngày nay. Theo quan niệm chủ yếu của người phương Đông, việc chọn được

ngày giờ tốt an táng người chết sẽ giúp cho hương hồn người chết được siêu thoát,

còn con cháu sẽ hưởng được phúc lành, làm ăn thuận lợi, gia đình bình an và cuộc

sống đầy đủ hơn. Nên vì vậy ông bà ta luôn nhắc nhở con cháu đời sau về ý nghĩa

thiêng liêng của việc coi ngày, từ đó tạo nên một nét văn hóa riêng của người Việt

từ xưa đến nay. Đây có thể xem là nghi thức có ảnh hưởng trực tiếp và liên quan

mật thiết đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam nói chung và người dân

Nam Bộ nói riêng.

Các phong tục, nghi lễ trong một đám tang luôn được tổ tiên ta truyền dạy

qua từng thế hệ, mang đậm tính huyền bí theo lễ xưa của người Trung Hoa. Ngày

nay, trong thời buổi hội nhập và phát triển của xã hội việc giảm bớt những hủ tục

trong tang lễ cho phù hợp với thời đại là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, vẫn

có một số tập tục được áp dụng rộng rãi tiêu biểu là vấn đề tang phục. Có lẽ chính

tang phục đã góp phần thể hiện nét văn hóa riêng của người Việt. Trang phục trong

tang lễ của ta có nhiều nét độc đáo hơn so với các dân tộc khác. Bên cạnh đó, đối

tượng mặc tang phục cũng phải là những người thân thuộc hoặc có quan hệ huyết

thống đối với người đã mất như: con ruột, cháu nội, cháu ngoại,... hoặc có quan hệ

do hôn nhân mang lại như: chồng/vợ, con dâu, con rể,...

43

Để chế cho ai, xé hai anh phân nửa,

Để chế cho chồng, chất lửa đốt đi.

[6; tr. 255]

Em để chế cho ai mà tóc mai rành rạnh,

Em để chế cho cha mẹ chồng hiếu hạnh của em.

[6; tr. 275] Tang lễ là một phong tục, cho dù nó có chịu sự chi phối mạnh mẽ của tôn

giáo thì phong tục ấy vẫn được dân tộc ta gìn giữ và thực hiện. Truyền thống của

dân tộc ta là đạo hiếu làm đầu, bổn phận và trách nhiệm của con cháu là phụng

dưỡng, chăm sóc và lo lắng cho ông bà, cha mẹ khi tuổi già sức yếu. Đến lúc ông

bà, cha mẹ qua đời thì tiến hành làm tang lễ cho thật đàng hoàng và nghiêm túc, đó

là nhiệm vụ mà không một ai có thể chối bỏ. Làm đúng theo quy tắc của một tang lễ

nhằm thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn, sự báo đền công lao sinh thành dưỡng dục

và cũng là thứ tình cảm đáng quý mà con cháu dành cho ông bà, cha mẹ. Hình thức

làm tang lễ của từng gia đình luôn có sự khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào gia đình

ấy đang theo tôn giáo và tín ngưỡng gì. Chính vì thế đã tạo nên sự đa âm đa sắc,

muôn màu muôn vẻ trong văn hóa của người Việt bởi dân tộc ta có nhiều tộc người

và ảnh hưởng nhiều tôn giáo khác nhau, dẫn đến những nét riêng không hề trùng lấp

trong nghi lễ tang ma với những dân tộc khác. Nhưng dù sao văn hóa tang ma ở

Nam Bộ luôn luôn mang trong mình một nét truyền thống riêng của dân tộc ta, nền

văn hóa của ông cha ta từ ngàn xưa sẽ là nền tảng vững chắc cho con cháu đời sau

tuy sống trong xã hội phát triển nhưng không quên đi cái gốc của mình.

Nam Bộ là nơi nuôi dưỡng hạt giống ca dao phát triển mạnh mẽ, ca dao Nam

Bộ chính là đứa con tinh thần được khôn lớn từng ngày qua chặng đường lịch sử

của vùng đất. Ca dao Nam Bộ về phong tục tang ma cũng giống như một số phương

diện văn hóa khác đó là việc ghi nhận, phản ánh chưa thật sự toàn diện tất cả các

sinh hoạt của đời sống thực tế vào ca dao. Các nghi lễ tang ma trong ca dao Nam Bộ

không đầy đủ như hiện thực cuộc sống điều đó cho thấy không phải mọi thứ thực tế

2.3. MỘT SỐ TẬP QUÁN KHÁC

Nam Bộ một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ, ruộng đồng

đều được các tác giả dân gian ghi nhận lại.

xanh ngắt cùng với những vườn cây trái trĩu đầy quả ngọt nhờ uống nước dòng sông

44

Hậu hiền hòa và cuồn cuộn phù sa. Con người Nam Bộ với một lòng hiếu khách,

tính tình cởi mở và đôn hậu trong giao tiếp, nặng nghĩa nhiều tình cũng như mang

đậm một nền văn hóa ẩm thực phong phú. Tất cả đã tạo nên nét đẹp, nét đẹp văn

hóa đặc trưng của người dân Nam Bộ. Nét đẹp đó đã được ông cha ta đúc kết, thể

hiện thật rõ nét qua ca dao với những vần điệu ngọt ngào và sâu lắng.

Hiếu khách là một trong những nét tính cách vô cùng độc đáo của người dân

Nam Bộ. Đặc biệt nó được thể hiện rõ nhất trong sinh hoạt láng giềng của người

dân nơi đây. Thông qua việc tham gia những buổi tiệc tùng hay lễ hội, họ đã đến

với nhau vì tình cảm, vì lòng hiếu khách của gia chủ.

Trong đời sống hàng ngày, đa số là dân nghèo tứ xứ nên họ luôn tỏ ra thái

độ hòa nhã khi gặp nhau. Dù thuộc tôn giáo gì, từ đâu đến, mối quan hệ đã thân

thiết hay sơ sài do mới gặp lần đầu tiên thì họ cũng xem nhau như bà con, bạn bè.

Họ luôn quan niệm, sống được là nhờ bạn bè, lúc gian nguy cũng nhờ bạn bè và

giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn chính là bổn phận. Họ không cần được trả ơn vì

họ nghĩ giúp người này hôm nay đến hôm sau sẽ có người khác giúp mình.

Khi đã trở thành chỗ bạn bè thân thiết, họ dễ dàng tâm sự cũng như chia sẻ

và giải bày những nỗi niềm sâu kín. Dần dần giữa họ đã nảy sinh ra nhiều mối quan

hệ tình cảm mới. Họ có thể kết nghĩa anh em, kết nghĩa thông gia hay kết nghĩa tri

âm tri kỷ,... Nên khi có khách hay bạn bè đến chơi nhà, dù gia cảnh có bần hàn đến

đâu, họ cũng cố gắn đãi đằng bạn một cách cho đàng hoàng, tươm tất.

Bắt con cá lóc nướng trui

Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa.

[6; tr. 475] Cá lóc nướng trui là một món ăn có cách chế biến đơn giản nhưng cũng cực

kỳ độc đáo. Cá lóc bắt ngay lúc ở ngoài đồng, rồi đâm vào họng cá một thanh tre

cấm đầu còn lại của thanh tre xuống đất, dùng rơm có sẵn ngoài ruộng chất lên và

đốt. Điều đặc biệt, có thêm xị rượu trắng cùng tí hạt muối ngồi nhâm nhi thì quả là

rất tuyệt vời. Một nét khác biệt nữa của Nam Bộ là anh em, bè bạn khi nhậu thường

uống chung một ly với nhau chứ không phải mỗi người một ly như của vùng Bắc

Bộ, điều đó càng tăng thêm sự thân thiết của những người trong xóm làng, nơi

mảnh đất mới vùng sông nước. Chính tâm lý như trên mà người dân Nam Bộ

45

thường được mọi người cho rằng là người có tính tình hào sảng, hiếu khách và

trọng nghĩa tình. Nghèo thì nghèo, tiền bạc có xá chi ở đời nhân nghĩa mới là điều

quan trọng phải lo lắng thật chu đáo khi có bạn đến chơi nhà, ít khi bận tâm, tính

toán cho cuộc sống ngày mai.

Có thể nói, tính phóng khoáng và hiếu khách của Nam Bộ được tạo ra từ

chính sự hào phóng của thiên nhiên. Sự phóng khoáng đã trở thành lối sống, thành

tập quán của cộng đồng người Nam Bộ. Cùng đó là các thiết chế xã hội không chặt

chẽ như ở Bắc và Trung Bộ việc khai phá làm ăn cũng thuận lợi và dễ dàng hơn cho

nên người Nam Bộ không cần dành dụm hay tích lũy của cải, làm được bao nhiêu

tiêu xài hết bấy nhiêu. Dù thất nghiệp nhưng họ vẫn có thể vui vẻ thức tận khuya,

đờn ca hát xướng chẳng lo ngại gì cho cuộc sống tương lai.

Cấy ba cây lúa cho chuôn

Bớ người nhơn nghĩa có buồn hát chơi,

Hát chơi cũng chịu hát chơi,

Có chồng mà lại hát chơi nỗi gì.

[6; tr. 211]

Tới đây bỏ phế việc quan,

Tới đây hò hát bỏ gia cang ở nhà.

[6; tr. 398]

Canh hãy còn khuya,

Đường về thăm thẳm,

Đôi ta xứng lắm,

Như kép với đào,

Hát chơi giải muộn, lẽ nào làm ngơ.

[6; tr. 204] Tấm lòng người Nam Bộ không chỉ có thế, họ còn rất vị tha và đôn hậu thể

hiện rõ nhất trong lối sống sinh hoạt hàng ngày, họ luôn chân tình và dễ hòa mình.

Đó chính là cội nguồn cho sự giao lưu hội nhập giữa cộng đồng các dân tộc Việt

Nam. Bên cạnh đó, người dân Nam Bộ luôn có tính tình bộc trực, ăn ngay nói

thẳng, nghĩ sao nói vậy không giữ kẻ quanh co, rào trước đón sau như người Việt ở

Bắc và Trung Bộ. Người Nam Bộ chuộng cách nói thẳng, nói thật nên ca dao Nam

Bộ cũng chính là lời ăn tiếng nói hàng ngày thẳng thắn, chân thành của người Nam

46

Bộ. Có nhiều câu ca dao đọc lên nghe thô ráp do phần lớn là “bê nguyên si” từ cuộc

sống chứ ít gọt giũa cho êm ái, bóng bẩy, tuy nhiên nó không kém phần ý vị và ẩn

chứa đầy ý nghĩa bên trong.

Năm ngoái anh còn kha khá,

Năm nay anh nghèo quá nên đội nón lá bung vành,

Hỏi cô công cấy bìa xanh,

Có tiền dư cho mượn, mua chiếc nón lành đội làm duyên.

Nón anh quai xanh, quai đỏ, đồ bỏ mái hè,

Phận anh đi cấy mướn đòi hoa hòe làm chi?

[6; tr. 327]

Cha tôi già, mẹ tôi yếu, con tôi còn nhỏ xíu, mắc nợ tứ giăng,

Muốn mượn anh vô trả thế, sợ anh nói nợ không ăn, anh phiền.

Thương em rồi anh dẹp lấy ưu phiền,

Nợ tao khang nặng nhất, đâu phải vì bạc tiền em ơi.

[6; tr. 212] Đó chính là nét đặc trưng của con người Nam Bộ cũng như ca dao Nam Bộ.

Cách sống thẳng thắn có phần ngang tàng đã tạo cho người Nam Bộ một tinh thần

nghĩa khí, sẵn sàng sả thân làm những việc mà họ cho là hợp với đạo lý. Họ không

chấp nhận cầu xin, không khuất phục trước bạo lực. Đó là một thái độ sống dứt

khoát, rõ ràng với cái tốt và cái xấu.

Ô rô tía, bạc hà cũng tía,

Ngọn lang giâm, ngọn mía cũng giâm.

Anh thấy em tốt mã anh lầm,

Bây giờ rõ lại, vàng cầm cũng buông.

[6; tr. 351] Thực ra người Nam Bộ cũng là những con người thực tế, trọng nội dung hơn

hình thức. Họ luôn yêu chuộng sự mộc mạc, giản dị, không cầu kỳ. Giao tiếp thích

diễn đạt một cách cụ thể hơn nói bóng gió, xa xôi.

Đèn tọa đăng đốt để bàn thờ,

Vặn lên cho nó tỏ, vặn nhỏ cho nó lờ,

Anh thương em vì bởi cái khờ của em.

47

[6; tr. 254]

Dù cô gái có khờ nhưng đó chính là điều mà chàng trai yêu nhất, chắc có lẽ

chỉ có ở Nam Bộ mới có chuyện tình yêu bày tỏ một cách chân thật và thẳng thắn

đến như thế. Trên tổng thể, ca dao Nam Bộ mang tất cả những đặc điểm chung của

ca dao Việt Nam, đồng thời nó còn là tiếng nói tâm tình của người dân miền sông

nước. Có những câu ca dao tuy chỉ nói về những món ăn rất dân dã và bình dị,

nhưng chứa sâu trong ấy là cả một niềm tự hào cũng như thể hiện nét văn hóa rất

đặc trưng mang đậm tính chất Nam Bộ.

Ẩm thực là một nhu cầu sinh tồn, một phản ứng tự nhiên tất yếu của con

người. Đặc biệt ăn uống ở con người không chỉ là nhu cần của phản ứng cơ thể theo

kiểu đói ăn, khát uống mà trên hết đó còn là bản sắc văn hóa của từng vùng miền,

quốc gia và dân tộc. Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn

hóa ẩm thực bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức món ăn, thức uống,

từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ mỹ vị và có sự pha trộn trong cách chế biến món

ăn

Canh chua điên điển cá linh,

Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon.

[6; tr. 133] làm nên sự đa chất, đa vị và đa sắc cho các món ăn. Chính điều này đã khiến cho

các món ăn ở Nam Bộ thêm phần hấp dẫn.

Đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế đã giúp văn hóa Nam Bộ định hình là

nền văn minh sông nước, thực phẩm chủ yếu là lúa, cá và rau (rau đồng, rau rừng).

Cho nên, trong mâm cơm của người Nam Bộ mang tính tổng hợp khi ít nhất phải có

ba món, đó là món xào, món kho và món canh. Do sự phong phú và dư dật ấy mà

trải qua suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, ẩm thực nơi đây dù trong hoàn cảnh

nào, thiếu thốn đạm bạc hay đầy đủ thì họ luôn tìm cách chế biến ra vô số miếng

ngon một cách có bài bản mang phong vị của địa phương.

Người Nam Bộ tỏ ra rất sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất

của món ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe do phong cách mùa nào thức nấy và quan niệm

ăn để mà sống nhằm cung cấp đầy đủ dưỡng chất để tái tạo sức lao động. Câu nói

“ăn được ngủ được là tiên” được người Nam Bộ đặc biệt quan tâm và xem trọng.

48

Khi vào bàn ăn, lúc chủ nhà giới thiệu món nào dù là cá thịt hay rau quả, kể cả rượu

họ thường nhắc nói rằng: ăn món này bổ xương, bổ máu, trị mất ngủ, đau

lưng,…Và không quên động viên khách gắp đũa nằm hoặc dùng muỗng múc vậy ăn

mới được nhiều. Họ muốn khách ăn tự nhiên và nhiệt tình thậm chí ép ăn thấy

khách ăn nhiều, ngon miệng làm cho chủ nhà hài lòng và sung sướng.

Khẩu vị của người Nam Bộ cũng mang những đặc trưng riêng so với các

vùng miền khác, ăn vị gì ra vị đó và phải tới tận cùng cảm giác của vị đó thì mới gọi

là ngon. Mặn thì phải mặn quéo lưỡi, cay thì phải hít hà, chua thì chua cho nhăn

mặt, ngọt thì ngọt ngây ngọt gắt, béo thì béo ngậy, đắng thì phải đắng như mật.

Ví dầu con cá nấu canh,

Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.

[6; tr. 504]

Buổi đầu khi những lưu dân đặt chân lên miền đất này thì thiên nhiên rất đỗi

hoang sơ, thường xuyên phải đối phó với vô vàn gian khổ, một mặt phải tay làm

hàm nhai, cho nên họ không dám hoang phí làm rơi vãi hạt cơm, hạt gạo nào. Họ

đâu dám nghĩ tới những món ăn thịnh soạn cầu kỳ. Họ gặp gì ăn nấy, từ những cây

cỏ trên bờ, con cá dưới sông, con chim trên trời, cho đến các loài sinh vật khác.

Điều dễ nhận thấy, họ ăn rất nhiều rau – loại thức ăn có sẵn ở ao hồ, sông nước,

ruộng vườn – dễ tìm và dễ hái như rau đắng, rau dền, rau răm, rau muống, rau dừa,..

Rau lang trổ ngọn hồng hồng,

Bởi thương người ngãi xuôi dòng đến đây

[6; tr. 361]

Chờ em anh cũng muốn chờ,

Bao giờ rau muống lên bờ trổ bông.

[6; tr. 226]

Gió đẩy đưa rau dừa quặn quịu,

Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên.

[6; tr. 286]

Rau đắng nấu với cá trê,

Ai đến Lục tỉnh thì mê không về.

[6; tr. 147] Môi trường ăn uống của người dân Nam Bộ thường có thói quen chế biến

49

món ăn và ăn ngay tại chỗ, nên món ăn thường gắn với không gian của một khoảng

vườn, mảnh ruộng, bờ ao. Những bữa ăn hàng ngày trong gia đình thì không hà

khắc trong việc chọn nơi ăn, chốn uống, miễn sao vui vẻ thoải mái là được, tùy điều

kiện căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lí: trên bàn, ngay trên sàn nhà, trên bộ ván

hoặc nếu có bạn bè thân đến rủ nhậu chơi thì có thể trải đệm ngồi dưới gốc cây

trong sân vườn hay ngoài đồng tùy thích.

Tuy nhiên, khi nhà có tiệc thì việc ăn uống không được xuề xòa mà phải bày

biện cỗ bàn cho thật nghiêm chỉnh, ngăn nắp và sạch sẽ chứ không được sơ sài như

trong bữa ăn hàng ngày. Điều đó cho thấy tinh thần quý trọng khách mời, tạo nên

một nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống

với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu như từng bước hoàn thiện nền văn hóa

ẩm thực độc đáo khi biết tận dụng, khai thác và chế biến của trời cho một cách kịp

thời, hợp lí. Đất nước ta ở mỗi vùng miền đều có một cách nói rất riêng trong quá trình

giao tiếp, đến vùng nào thì quốc ngữ lại phát sinh ra nét đặc trưng của vùng đó. Tất

cả đã góp phần làm giàu thêm, đẹp thêm cho sức sống mãnh liệt trong kho tàng

ngôn ngữ Nam Bộ. Bên cạnh đó, các món ăn của vùng sông nước phương Nam đã

được phủ lên một lớp áo sặc sỡ của văn hóa ẩm thực, là cốt lõi của đạo lí tình người

dân tộc Việt Nam.

Qua việc tìm hiểu những món ăn dân dã Nam Bộ, ta thấy được nét đẹp văn

hóa trong suy nghĩ và ứng xử của con người ở vùng quê sông nước. Đó là một nét

đẹp rất đời thường nhưng cũng chính là cái nền của dân tộc, quê hương. Người dân

quê hát lên những câu ca ấy cũng chính là cất lên tiếng nói tâm tình, nhằm bày tỏ

niềm tự hào về sự phong phú của những sinh vật mà thiên nhiên đã ban tặng cũng

như nói lên được sự gắn bó và tình yêu chân thành, sâu sắc của họ đối với quê

50

hương xứ sở.

CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

TRONG CA DAO NAM BỘ

3.1. TÍN NGƯỠNG

Tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống mà con người tin vào để giải thích

và để mang lại sự bình yên cho bản thân cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng còn thể

hiện giá trị của cuộc sống và có ý nghĩa của một cuộc sống bền vững. Tín ngưỡng

mang đậm tính dân tộc và dân gian. Cơ sở của tín ngưỡng chính là niềm tin, sự

ngưỡng vọng của con người vào những cái “siêu nhiên” hay còn gọi là “cái thiêng”

cái đối lập với cái “trần tục” , cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát

được. Điều đó đã có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến đời sống sinh hoạt của con

người, nhưng khó ai có thể giải thích được. Từ đó, tín ngưỡng đã trở thành yếu tố

quan trọng trong việc cấu thành thế giới tâm linh của con người, cũng như đời sống

vật chất hay đời sống tinh thần của mỗi cá nhân.

Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam rất phong phú và có nguồn gốc từ lâu đời,

dân tộc ta xem đó là một nét văn hóa truyền thống mà ông cha ta truyền lại. Các tộc

người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng mang những

nét đặc thù riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của họ. Không chỉ dân

tộc mà ngay cả trong từng địa phương việc tín ngưỡng cũng khác nhau.

Đặc biệt khi đến với Nam Bộ một vùng đất mới được khẩn hoang cách đây

vài trăm năm nhưng lại có những tín ngưỡng vô cùng đa dạng và phong phú, chủ

yếu do quá trình vào Nam mở cõi ông cha ta đã mang theo những hành trang tinh

thần từ nhiều vùng, miền khác nhau. Mặt khác, do Nam Bộ có sự giao lưu văn hóa

của nhiều tộc người cùng sinh sống, qua quá trình cộng cư và cận cư đã tạo cho

Nam Bộ một diện mạo mới trong văn hóa tín ngưỡng.

Trong quá trình phát triển của xã hội, tín ngưỡng ở Nam Bộ cũng có những

chuyển biến sâu sắc, nhưng vẫn thừa hưởng được những tinh túy mà ông cha ta từ

ngàn xưa còn lưu giữ cho đến hôm nay.

3.1.1. Thờ Trời

Thờ Trời một trong những tín ngưỡng cổ xưa và đặc biệt của cư dân nông

51

nghiệp. Dạng tín ngưỡng sùng bái tự nhiên này được xem là một dạng tín ngưỡng

sơ khai của con người, khi họ chưa thể giải thích được các hiện tượng tự nhiên.

Trong tâm thức của mỗi cư dân, các sự vật hiện tượng xung quanh đều bị chi phối

bởi các vị thần linh và Trời một vị thần có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lòng

dân chúng, đặc biệt là người dân Nam Bộ.

Tín ngưỡng thờ Trời đã được ghi nhận rất nhiều trong ca dao từ xưa đến nay,

ca dao Nam Bộ cũng không ngoại lệ khi đã ghi nhận lại được hình ảnh: “Trời” (216

lần), “ông Trời” (12 lần).

Ở Nam Bộ, hình thức thờ Trời được thể hiện rõ nhất bằng việc đâu đâu cũng

bắt gặp bàn thờ ông Thiên (thờ Trời) đặt trước sân nhà. Ta có thể thấy được vai trò

quan trọng của tín ngưỡng thờ Trời trong văn hóa tinh thần của cư dân miền sông

nước – một hình thức tín ngưỡng quen thuộc và gần gũi.

Trời là vị thần tối cao, linh thiêng mà ai ai cũng phải hướng về. Trời luôn

gắn liền với số phận và định mệnh của con người. Trời có quyền điều khiển, quyết

định, xui khiến cho con người giàu có, sung sướng hay nghèo khổ, cơ hàn...

Bốn mùa bông cúc nở xây,

Để coi trời khiến duyên này về ai.

[6; tr. 192]

Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng,

Đến đây trời khiến đem lòng nhớ thương.

[6; tr. 161] Không chỉ quyết định, xui khiến con người, Trời còn là người phán xét cho

những cuộc tình duyên.

Chỉ điều bốn mối xe lơi,

Đố em thoát khỏi lưới trời bủa giăng.

[6; tr. 216] Dân tộc ta nói chung và Nam Bộ nói riêng có rất nhiều tôn giáo và tín

ngưỡng khác nhau, nhưng chung quy mọi người đều tin tưởng ở Trời, còn được gọi

là Ngọc Hoàng hay Thượng Đế. Cư dân Nam Bộ từ khi chào đời đến lúc qua đời

đều nói và tôn sùng ông Trời một đức tin cao cả. Họ tin rằng ông Trời tạo dựng trời

đất và cai quản cả vũ trụ, tuy ông ở trên cao nhưng từng hành động của con người

52

đều có Trời chứng kiến và can thiệp.

Trời có một quyền năng siêu việt nhưng rất gần gũi với dân gian, ông là một

vị thần công lý nhất. Ai làm điều thiện sẽ được Trời ban phước, ai làm điều ác Trời

sẽ chẳng dung tha. Cho nên dân gian ta đã dành những tình cảm tôn kính khi gọi là

“Ông Trời”. Trăm lạy ông trời duyên nợ cho mau xong,

Ai giăng dây cũng dứt, ai thắt vòng cũng mở ra.

[6; tr. 402]

Cây da cũ, bến đò xưa,

Gặp mặt em đây con bóng đang trưa,

Ông trời vội tối phân chưa hết lời.

[6; tr. 208]

Thấy em hay chữ anh hỏi thử đôi lời,

Vậy em có biết ông trời họ chi?

Anh ghé tai kêu đất cho đất “ơi”,

Rồi em sẽ nói họ ông trời cho anh nghe.

[6; tr. 381]

Thấy anh ăn học phép tiên,

Tôi đây xin hỏi ông trời nghiêng mé nào?

Em không thương sao em hỏi kỳ cào,

Bốn mé trời đồng hết, có mé nào mà nghiêng.

[6; tr. 379] Người Việt Nam Bộ rất chú trọng chữ hiếu tức ăn ở phải hiếu thảo với cha

mẹ. Tục thờ Trời trong dân gian cũng có liên quan và gắn liền với đạo hiếu.

Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

[6; tr. 467] Ông Trời là đối tượng để con người hướng đến cầu cạnh, nhất là những

người có hoàn cảnh khó khăn. Bổn phận làm con luôn cầu mong cha mẹ sống lâu

gia đình được phước, nên họ từng đêm thường đến trước bàn thờ Trời ngay cửa sân

nhà cầu khẩn cho cha mẹ được bên con cháu suốt đời – một cách thể hiện đạo hiếu

53

của người con. Không những thế, nếu có người gặp chuyện chẳng lành trong cuộc

sống họ luôn kêu Trời để than thở, khi ốm đau bệnh tật thì van vái Trời cao cho

mau vượt qua cơn hiểm nghèo.

Trong buổi đầu hoang sơ đi khai hoang Nam Bộ, ông cha ta đã gặp và đối

mặt với rất nhiều khó khăn nguy hiểm. Lúc bấy giờ niềm tin và điểm tựa vào đấng

vô hình đã là động lực hun đúc cho cư dân Nam Bộ một tinh thần vững chắc nên

trong bất cứ việc gì cho dù là chuyện tình duyên, người dân Nam Bộ cũng cầu

mong Trời phò trợ và giúp đỡ.

Vái trời cưới được cô Năm,

Làm chay bảy ngọ mười lăm ông thầy.

[6; tr. 413]

Vái trời cho đặng vuông tròn,,

Trăm năm giữ vẹn lòng son cùng chàng.

[6; tr. 413] Họ cầu mong ông Trời sẽ giúp cho mọi việc làm ăn đều thuận buồm xuôi

gió. Ngay cả trong lao động sản xuất, người dân xem Trời là nhân tố quyết định cho

sự ấm no, được mùa hay thiếu thốn. Đó chính là một trong những nguyên nhân cư

dân Nam Bộ rất tín ngưỡng trong việc thờ Trời. Họ mang trong lòng một niềm tin

tuyệt đối, là một thế giới tâm linh, một nét văn hóa tinh thần của người dân Nam

Bộ.

Việc đặt bàn thờ ông Thiên trước sân nhà của mỗi gia đình Việt Nam nói

chung và Nam Bộ nói riêng là điều quá quen thuộc. Đó là nơi thờ vị thần cao nhất,

uy quyền nhất trong đời sống người dân Nam Bộ. Bàn thờ ông Thiên được làm

bằng một trụ cột cao khoảng 1,5m (bằng gỗ hay gạch), phía trên có bệ thờ vuông,

một lọ cắm nhang, một lọ hoa và ba chun nước lã. Tuy đơn giản nhưng bàn thờ ông

Thiên ở Nam Bộ luôn chứa đựng rất nhiều tình cảm thiêng liêng của con người đối

với đấng bề trên. Đó chính là nơi con người gửi gắm biết bao ước mơ cao đẹp của

mình, cầu mong cho mình và gia đình có một cuộc sống bình an và hạnh phúc.

Ca dao Nam Bộ đã ghi nhận lại tín ngưỡng thờ Trời với tần số xuất hiện rất

cao, điều đó cho thấy ca dao Nam Bộ luôn lưu giữ được một nét văn hóa vô cùng

đặc sắc của dân tộc. Bàn thờ ông Thiên mang đậm tính mộc mạc, giản dị, chân

54

thành của người dân vùng sông nước. Cũng chính điều này đã tạo nên một nét sống

đẹp làm cho con người càng xích lại gần nhau, giáo dục con người trong từng cách

ứng xử với gia đình và phát huy những giá trị truyền thống vốn có của dân tộc.

3.1.2. Thờ tổ tiên

Ngoài bàn thờ ông Thiên (thờ Trời) mỗi gia đình Việt Nam đều có bàn thờ tổ

tiên đặt ở trong nhà. Tín ngưỡng này chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống

tâm linh của dân tộc Việt Nam, được ông bà ta từ ngàn xưa truyền lại cho thế hệ

con cháu đời sau. Đây cũng là cách để con cái thể hiện đạo hiếu với cha mẹ, ông bà

và những người thân đã khuất.

Chính lẽ đó mà tục thờ cúng tổ tiên đã được phản ánh rất nhiều vào văn học

mà đặc biệt là mảng ca dao của nền văn học dân gian. Minh chứng cho điều ấy là

việc ca dao Nam Bộ đã ghi lại sự xuất hiện của khá nhiều hình ảnh liên quan đến

việc thờ cúng tổ tiên như: “bàn thờ” ((“trang thờ”) 8 lần), “lư đồng” (4 lần),

“nhang” (4 lần), “lư hương” (1 lần).

Trong tín ngưỡng của người dân Nam Bộ, thờ tổ tiên là việc vô cùng quan

trọng và việc đặt bàn thờ tổ tiên ở giữa nhà – nơi tôn nghiêm nhất lại là một điều

thiết yếu. Bởi khi thông qua nơi bàn thờ sẽ phản ánh được truyền thống của dòng họ

cũng như về mặt đạo đức của gia đình.

Thắp nhang cho sáng bàn thờ,

Kẻo cha mẹ quở không nhờ rể con.

[6; tr. 470] Trên bàn thờ thường bày nhang, đèn, lư hương, bình bông, ảnh của người

quá cố,... và con cháu hàng ngày phải thắp nhang nhằm tưởng nhớ đến người đã

khuất. Bàn thờ chính là chỗ linh thiêng của gia đình cho nên nghèo thì bàn thờ mộc,

giàu thì bàn thờ sơn son thếp vàng, các đồ thờ được làm bằng đồng luôn luôn hơn

những vật dụng khác trong nhà bởi bàn thờ là biểu tượng cho nguồn cội của gia

đình. Xã hội luôn có những chuyển biến sâu sắc và sự du nhập của những tôn giáo

khác vào Việt Nam bắt buộc ta phải thay đổi để thích ứng. Nhưng đối với tấm lòng

hiếu thảo của cư dân người Việt, việc thờ cúng tổ tiên ông bà là một bổn phận, một

cách thể hiện đạo hiếu, một cách thể hiện trách nhiệm của mỗi người đối với gia

đình và dòng họ.

55

Ngó lên nhang tắt đèn mờ,

Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh.

[6; tr. 467] Đối tượng được thờ không chỉ giới hạn ở ông bà, cha mẹ hay bà con thân tộc

mà còn có các đối tượng khác như: vợ, chồng, người yêu và bạn bè,... nói chung là

những người có mối quan hệ mật thiết với gia chủ lúc sinh thời.

Anh thờ em dĩa mắm, dĩa rau,

Anh nghèo, em khó, có đâu mâm cao cỗ đầy.

[6; tr. 169] Tình yêu đôi lứa trong ca dao Nam Bộ thường kết hợp với tín ngưỡng thờ

cúng người đã khuất, nhằm tạo nên nét đẹp truyền thống về lòng chung thủy, sắt

son.

Biết mấy năm qua tấm hình cũ em vẫn thờ,

Lòng em thương ai biết, dạ em chờ ai hay?

[6; tr. 190]

Trăm năm tượng rách còn thờ,

Lỡ duyên chịu lỡ, cũng chờ đợi anh.

[6; tr. 402]

Tượng linh dầu rách cũng thờ,

Lỡ thì chịu lỡ cũng chờ đợi anh.

[6; tr. 412] Theo quan niệm của người Nam Bộ, chết không phải là hết mà linh hồn của

tổ tiên chỉ khuất về với thế giới bên kia, luôn luôn ở quanh ta để chia sẻ buồn vui và

giúp đỡ con cháu. Vì thế, tiếng thơm ngàn đời mà ông bà để lại cho con cháu đời

sau là điều rất cần thiết. Sống ở đời phải biết suy nghĩ, hành động mang tính chừng

mực và tu tâm tích đức để thế hệ sau được hưởng phước tổ tiên.

Tôi theo anh lập lấy cơ đồ,

Để sau thác xuống mả mồ ấm cao.

[6; tr. 395] Nhắc đến mồ mả thì không thể nào quên được truyền thống an táng, làm mồ

mả cho người đã khuất – một nghi thức quan trọng và không thể thiếu được trong

những buổi tang ma. Trong văn hóa người Việt xưa rất xem trọng việc này, khi

chôn cất người chết gia đình phải chọn hướng đất, ngày giờ cho thích hợp vì nó có

56

ảnh hưởng đến sự thịnh vượng hay suy vong của cả dòng họ và con cháu đời sau.

Không chỉ tín ngưỡng mà ngay cả trong luật pháp của nước ta cũng có những quy

định cụ thể về việc xử phạt những trường hợp xâm phạm lên mộ phần của người đã

khuất. Từ đây có thể thấy được tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã có ảnh hưởng rất sâu

sắc trong đời sống tâm linh cũng như văn hóa tinh thần dân tộc.

Thông thổ mồ tổ anh ở đâu?

Anh tới đây, anh bủa lưới giăng câu một mình?

[6; tr. 385]

Chiều chiều xách giỏ hái rau,

Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần.

[6; tr. 460] Hình ảnh mồ mả còn tượng trưng cho những lời thề sắt son chung thủy, một

tình yêu thiết tha mãnh liệt nguyện sống chết cùng nhau.

Chẳng thà anh chết một mình,

Để em ở lại cắt tranh đậy mồ.

Sống làm chi kẻ Hớn, người Hồ,

Nghiêng mình nằm xuống một mồ với anh.

[6; tr. 213]

Chẳng thà dắt thẳng nhau vô,

Phụ mẫu có giết, thác một mồ cũng ưng.

[6; tr. 214] Nhắc đến thờ cúng tổ tiên người ta thường nghĩ ngay đến ngày giỗ mỗi năm

một lần. Ngày giỗ thức ăn sẽ được bày biện lên bàn thờ, nhà nào không có giỗ hoặc

không làm được giỗ thì coi như bất hạnh. Việc cúng giỗ là biểu lộ cách ứng xử của

con cháu đối với tổ tiên đã khuất như khi còn sống.

Bữa nay có đám giỗ gần,

Trong bụng bần thần không muốn đi xa.

[6; tr. 476] Đạo thờ tổ tiên không chỉ đơn thuần là những bữa cúng giỗ để con cháu cùng

nhau hưởng thụ thực phẩm, mà nó còn có nhiều hệ quả đối với xã hội. Đây là dịp

thể hiện mối quan hệ với người đã khuất giúp khoảng cách giữa họ rút ngắn lại, tạo

cho người đã khuất với người còn sống một không khí gặp gỡ, sinh hoạt như lúc

57

sinh thời. Cho nên khi trong gia đình có việc gì xảy ra như đám cưới, đám hỏi, sự

kiện quan trọng hay có chuyện khó khăn không giải quyết được con cháu sẽ thắp

lên bàn thờ một nén hương như ngụ ý thông báo với tổ tiên và cầu mong được

chứng giám, giúp đỡ. Lễ vật cúng tổ tiên tùy theo dịp và sự kiện lớn nhỏ, có khi thì

mâm cao cổ đầy, có khi là dĩa trái cây và cũng có khi chỉ là ly trà và nén hương là

đủ.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng và có một số

lượng lớn người sùng bái tôn thờ. Người Việt Nam xem thờ tổ tiên như một truyền

thống đạo đức của văn hóa dân tộc nhằm thể hiện lòng thành kính biết ơn những

người đã khuất trong gia đình và họ tộc. Việc thờ cúng tổ tiên giúp cho việc nuôi

dưỡng tinh thần và hun đúc trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với những thành quả,

công lao mà tổ tiên để lại. Dù đã trải qua thời gian khá dài chịu tác động trước

những ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài nhưng tục thờ tổ tiên không vì thế mà bị

diệt. Ngày nay, nó là một yếu tố đức tin để đi vào tìm hiểu sinh hoạt tâm linh của

người Việt, là nhân tố quan trọng bồi dưỡng tinh thần yêu nước của người Việt

Nam nói chung và cư dân Nam Bộ nói riêng qua hàng ngàn năm lịch sử.

3.1.3. Thờ thần Thành Hoàng và các nhân vật lịch sử Nếu tín ngưỡng thờ Trời là niềm tin của dân vào đấng tối cao cai quản cả vũ

trụ trong đó có loài người, tín ngưỡng thờ tổ tiên là niềm tin vào sự phò trợ của

những người thân đã khuất trong họ tộc thì tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng và

các nhân vật lịch sử là cách thể hiện lòng tin của con người vào sự linh thiêng của

những vị thần ở địa phương. Chính khía cạnh văn hóa tinh thần này của người dân

Nam Bộ đã được các tác giả dân gian ghi nhận và phản ánh vào trong ca dao thông

qua hình ảnh: “đình” (23 lần), “miễu” (18 lần), “miếu” (1 lần).

Miễu linh chẳng dám đứng gần,

Đứng xa mà vái thánh thần chứng tri.

[6; tr. 494] Nếu chùa là nơi thờ Phật, thì đình sẽ là cơ ngơi riêng biệt, là nơi thờ thần

Thành Hoàng do nhà nước phong kiến sắc phong cho các vị có công với nước. Các

vị thần Thành Hoàng đều có nguồn gốc xuất thân từ các nhân vật có thật trong lịch

sử hoặc có thể là nhân vật huyền thoại hay các vị quan được vua “ban sắc phong

58

thần”. Dù có nguồn gốc rõ ràng hay không nhưng trong tâm thức của người Việt

Nam nói chung và cư dân Nam Bộ nói riêng, thần Thành Hoàng là vị thần cai quản,

che chở, bảo vệ, yêu thương và giúp đỡ người dân tránh những tai họa xâm lược,

thiên tai. Cho nên hàng năm chính quyền làng xã luôn có phận sự tổ chức tế lễ thần

Thành Hoàng cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.

Lễ hội đình làng đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong cộng đồng dân

tộc Việt Nam đặc biệt là vùng đất Nam Bộ. Nó sẽ là cầu nối giữa con người với thế

giới tâm linh, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Người đến lễ hội trước hết là để

biểu thị lòng tôn kính, biết ơn các vị thần và tiền nhân đã khuất, sau là dịp để thể

hiện ý thức tôn trọng văn hóa truyền thống dân tộc, hưởng thụ hình thái sinh hoạt

tinh thần cộng đồng vốn có nhiều gắn bó với phong tục, tập quán và tín ngưỡng dân

gian mà mỗi năm chỉ diễn ra một lần. Đó là việc vô cùng thiêng liêng, nói lên được

nhận thức sâu rộng trong đời sống tinh thần và đời sống tâm linh của người dân

Nam Bộ.

Việc không phân biệt đối tượng được tôn làm thần Thành Hoàng nên ở Nam

Bộ cũng không phân biệt miếu (nơi thờ danh nhân), đình (nơi thờ thần Thành

Hoàng). Đình Nam Bộ luôn thờ thần Thành Hoàng, phúc thần và những danh nhân

sinh tiền có công dựng làng, lập ấp và xây dựng địa phương. Bên cạnh đình thì miếu và miễu cũng xuất hiện rất nhiều trong ca dao. Miếu

thường là nơi thờ những nhân vật không có tên tuổi và có đóng góp nhỏ cho cộng

đồng, hay thờ những người chết trẻ, những oan hồn vô chủ. Tuy nhiên khi khảo sát

2638 câu trong Ca dao – dân ca Nam Bộ, miếu chỉ xuất hiện một lần duy nhất đi

kèm với mộ. Anh về sao đặng mà về,

Miếu mộ chưa dựng, lời thề còn đây.

[6; tr.174]

Không chỉ là nơi biểu hiện tín ngưỡng, hình ảnh miễu còn gắn liền với những

lời thề chung thủy của các đôi trai gái trong tình yêu hoặc biểu hiện lòng hiếu thảo

của con cái với ông bà, cha mẹ mong thần thánh linh thiêng mà chứng giám.

Miễu thần gà gáy tiếng đôi,

Trông bậu trông đứng trông ngồi,

59

Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan.

[6; tr. 321]

Quyết lòng lập miễu chạm rồng,

Đền ơn phụ mẫu ẵm bồng ngày xưa.

[6; tr. 470]

Chiếc ghe kia nói có,

Chiếc ghe nọ nói không,

Phải chi miễu ở gần sông,

Em thề một tiếng kẻo lòng anh nghi.

[6; tr. 216 – 217] Ngoài thần Thành Hoàng thì nhân vật lịch sử cũng là đối tượng được thờ

cúng ở đình làng Nam Bộ và chiếm một số lượng khá lớn. Đó là nhóm nhân vật có

công khai phá vùng đất Nam Bộ từ buổi sơ khai, nhóm các vị khai quốc công thần

của triều Nguyễn tiếp theo là các vị anh hùng chống Pháp,...và những vị có công lập

làng, lập xã ở Nam Bộ từ lúc mới khai khẩn. Mỗi năm một lần các nghi lễ được tổ

chức định kỳ gắn liền với vùng Nam Bộ.

Ai về Đồng Tháp mà coi,

Mộ ông Thiên Hộ trăng soi lạng lùng,

Bà con đùm đậu quanh vùng,

Tháng giêng ngày giỗ xin đừng ai quên.

[6; tr. 127]

Ba phen quạ nói với diều,

Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.

[6; tr. 129] Thờ thần Thành Hoàng và các nhân vật lịch sử là tín ngưỡng mang đậm nét

đặc thù của vùng đất Nam Bộ do hoàn cảnh địa lý, lịch sử địa phương quy định. Tín

ngưỡng này là một tập tục lâu đời của dân tộc ta. Nó thể hiện sự tưởng nhớ về cội

nguồn dân tộc và có quan hệ chặt chẽ với nét văn hóa truyền thống. Đây cũng là

một hình thức tín ngưỡng tâm linh làm cho tâm thức người dân Nam Bộ mang nặng

tính đạo lý của người Việt “Uống nước nhớ nguồn”, góp phần vào việc phát triển

60

nền văn hóa Nam Bộ ngày càng phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc.

3.2. TÔN GIÁO

Tôn giáo là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức

mạnh siêu nhiên, từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người hay tôn giáo còn được

xem là sự phản ánh hư ảo của những lực lượng bên ngoài chi phối đến cuộc sống

hàng ngày của con người. Ngoài ra, tôn giáo còn là một hình thức gần giống như tín

ngưỡng đều tin vào một đức tin nào đó hay một thế lực siêu nhiên, tùy vào từng tôn

giáo sẽ có sự thay đổi cho phù hợp.

Nam Bộ một vùng đất với nhiều tôn giáo khác nhau, quá trình hình thành, du

nhập và phát triển của các tôn giáo đều gắn liền với lịch sử thăng trầm cũng như

tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đầy biến động của vùng đất này. Tuy

nhiên từ đó đã tập hợp và tạo thành những nét đặc thù riêng trong tôn giáo mà

không nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam có được. Các tôn giáo khác nhau sẽ có những

giáo lý, giáo luật, giáo lễ khác nhau nhưng chung quy đều chịu sự chi phối của

truyền thống dân tộc Việt Nam: khoan dung, độ lượng, nhân ái, đoàn kết, phải sống

lương thiện, không làm điều ác và hướng con người đến con đường tốt đẹp.

So với các quốc gia khác trên thế giới, tôn giáo ở Việt Nam nói chung và

Nam Bộ nói riêng luôn có được sự ổn định, không có chiến tranh tôn giáo xảy ra.

Không những thế người Việt Nam ta sẵn sàng chấp nhận việc chung sống hòa

quyện giữa các tôn giáo với nhau, dẫn đến việc hỗn dung trong tôn giáo đặc biệt là

người dân Nam Bộ có thể chấp nhận cả: Thần, Thánh, Tiên, Phật,... và có thể tham

gia nhiều nghi lễ tôn giáo khác nhau. Mỗi tôn giáo đều có sự bình đẳng và sống

dung hòa giúp đỡ lẫn nhau đã tạo nên một cộng đồng tôn giáo ngày càng vững

mạnh, đó như một di sản về mặt tinh thần để xây dựng một đời sống tâm linh trên

vùng đất mới. 3.2.1. Phật giáo Phật giáo có thể được xem là quốc giáo của nước ta. Nam Bộ là nơi có số

lượng tín đồ Phật giáo đông đảo so với các tôn giáo khác. Chính vì thế, dấu ấn của

Phật giáo đã có ảnh hưởng rất lớn vào nền văn học dân gian, cụ thể là ca dao.

Thực tế này đã đi vào ca dao dưới dạng những hình ảnh: “chùa” (17 lần),

61

“chuông” (8 lần), “Phật” (8 lần), “mõ” (3 lần). Hình ảnh đại diện cho Phật giáo

thường xuất hiện là: Phật và Bụt (hai hình ảnh đầy quyền năng, giúp đỡ con người

qua cơn nguy hiểm và làm nên những điều kỳ diệu cho dân lành).

Lâm râm khấn vái Phật trời,

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

[6; tr. 465]

Nấu chè van vái Phật Bà,

Khiến cho chung hiệp một nhà phụng loan.

[6; tr. 328] Trong chiến tranh, Phật giáo chính là hậu phương vững chắc, đắc lực cho

dân tộc ta. Phật giáo đã đi sâu vào lòng người đặc biệt hơn khi dùng ca dao làm

hình thức truyền tải giáo lý kinh Phật rất hay và thích hợp. Thông qua ca dao, Phật

giáo đã dạy bảo ta những giáo lý ở đời, về đạo làm con, về đạo vợ chồng và gắn với

ước mơ hạnh phúc trong tình yêu, hôn nhân khi được đấng bề trên chứng giám, phò

hộ.

Một biểu hiện khác cho thấy Phật giáo đã tồn tại, phát triển mạnh mẽ và để

lại dấu ấn trong văn hóa dân gian cư dân Nam Bộ là hình ảnh những ngôi chùa. Nếu

“Phật” gắn với đạo lý ở đời và khát vọng tình yêu thì “chùa” là nơi con người thể

hiện niềm tin tuyệt đối, lòng tin vô hình của mình. Đây là nơi chứng giám cho

những lời thề nguyền chung thủy trong tình yêu nam nữ.

Anh xa em chưa đầy một tháng,

Nước mắt lai láng hai mươi tám đêm ngày

Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,

Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.

[6; tr. 175]

Ở dưới sông sóng vận cát đùa,

Gá duyên không đặng, vô chùa em tu.

[6; tr. 352]

Rủ nhau xuống biển bắt cua,

Lên non bắt nhạn, vô chùa nghe kinh.

[6; tr. 499] Chữ “duyên” thường xuất hiện rất nhiều trong ca dao và được nhìn nhận ở

62

hai góc độ. “Duyên” trong dân gian vốn dùng để chỉ sự hòa hợp của vạn vật một

cách tự nhiên, không ép buộc và không sắp đặt được – đó là “duyên” trong tình yêu

nam nữ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết lứa đôi với nhau.

Sông dài cá lội biệt tăm,

Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.

Sông sâu cá lội vào bờ,

Phải duyên thì lấy đợi chờ nhau chi.

[6; tr. 366]

Ngó lên trời thấy mây trong lại trắng,

Ngó xuống nước thấy nước trắng lại trong.

Nhỏ nhỏ như em chắc dạ bền lòng,

Lỡ duyên chịu lỡ, đóng cửa loan phòng đợi anh.

[6; tr. 334]

Đèn tọa đăng đốt để bàn thờ,

Chúng mình duyên nợ bao giờ không hay.

[6; tr. 254] Còn theo thuyết nhà Phật, chữ “duyên” luôn nằm trong vòng luân hồi của

con người, nếu có duyên có nợ với nhau sẽ gặp nhau. Người Nam Bộ cho rằng chia

cắt là do hết duyên, được gặp gỡ nhau là có duyên và duyên là do trời định.

Còn duyên anh cưới con heo,

Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi.

[6; tr. 240] Đi tu cũng là một giải pháp thường được các tín đồ Phật giáo chọn khi hết

duyên nợ do định mệnh an bài. Đi tu để lánh đời, tránh khỏi thất tình lục dục và

mong kiếp sau được cải hóa tốt hơn. Ca dao cũng đã phản ánh khía cạnh này thật cụ

thể.

Củi đậu nấu đậu ra dầu,

Lấy em không đặng, cạo đầu đi tu.

[6; tr. 242]

Đèn cầu tàu cái xanh cái đỏ,

Đèn Cây Gõ cái tỏ cái lu,

Nước ròng bỏ trái mù u,

63

Lỗi duyên cạo trọc đi tu chùa Bà.

[6; tr. 252] Không chỉ đi tu do lỡ duyên lỡ nợ mà với đạo hiếu của một người con đi tu

là cầu phúc cho cha mẹ và người thân. Đi tu một phương thức đền ơn đáp hiếu cho

đấng sinh thành.

Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ hơn là đi tu.

[6; tr. 472]

Lên chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đền.

[6; tr. 465] Đạo Phật dạy ta làm điều thiện, tránh điều ác cho nên việc giúp đỡ người là

việc tu hành mà ai cũng có thể dễ dàng làm được. Một cách thể hiện sự tín ngưỡng

đối với đạo Phật chính là tên gọi của những môn đệ, đệ tử tu hành (sư, tăng, ni)

được xuất hiện trong ca dao. Đặc biệt, cư dân Nam Bộ có tín ngưỡng thờ Phật trong

nhà nên hình ảnh Phật dường như đã quá quen thuộc và gần gũi với mỗi gia đình

Nam Bộ. Việc thờ Phật sẽ giúp cư dân Nam Bộ gửi gắm lòng tin và cầu mong bình

an, hạnh phúc khi sống trên một vùng đất mới đầy sự nguy hiểm luôn đe dọa. Phật

giáo đã đi sâu vào đời sống tinh thần con người Nam Bộ từ rất lâu như một nét văn

hóa tinh thần. Ca dao Nam Bộ đã phản ánh hệ tư tưởng Phật giáo vào lời ca của

mình với nhiều cung bậc khác nhau. Tính chất nhập thế “học Phật tu thân” là nét nổi

bật nhất của Phật giáo ở Nam Bộ.

3.2.2. Nho giáo Ngoài Phật giáo, Nho giáo cũng là một tôn giáo có phạm vi ảnh hưởng rộng

trên lãnh thổ Việt Nam, chi phối trực tiếp đến mọi mặt của đời sống tinh thần đặc

biệt là văn hóa. Nho giáo đã được ca dao Nam Bộ ghi nhận lại rất nhiều. Tư tưởng Nho giáo

khi được các tác giả dân gian kế thừa đều mang tính nhân bản, đó là sự trân trọng

giữ gìn và cùng nhau tu dưỡng đạo đức, ca ngợi các nhân vật, sự kiện có liên quan

đến nhân nghĩa và đạo đức ở đời.

Nho giáo ở Nam Bộ được hình thành và phát triển khi ông cha ta mang theo

64

những hành trang Nho giáo từ phía Bắc vào mở mang vùng đất Nam Bộ, cũng như

do quá trình tiếp nhận văn hóa Hán học từ các cư dân Trung Hoa đến Nam Bộ lập

nghiệp. Từ đó, một diện mạo tôn giáo mới – Nho giáo – được xác lập.

Quân tử là khái niệm thường đi kèm khi nhắc đến nho giáo. Ban đầu, khái

niệm này dùng để chỉ người đứng đầu thiên hạ - vua, về sau nó trở thành danh từ

chung chỉ một tầng lớp người có học thức, đạo đức, tài giỏi hơn người, dùng tài

năng của mình để phò vua, cứu đời.

Hình ảnh “quân tử” đã xuất hiện 23 lần trong 2638 câu trong Ca dao – dân ca

Nam Bộ.

Cá rô ăn móng, dợn sóng dưới đìa,

Chờ người quân tử trở về kết hôn.

[6; tr. 201]

Chiều chiều ra đứng ngó trông,

Nhớ người quân tử biệt tăm, biệt hình.

[6; tr. 219]

Chim chuyền nhành ớt líu lo,

Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn.

[6; tr. 221]

Ngọc lành ai lại bán rao,

Chờ người quân tử mà trao ngọc lành..

[6; tr. 335]

Sự xuất hiện này khá nhiều bởi miền Nam là nơi hội tụ và chịu ảnh hưởng

sâu sắc của các nền văn hóa khác nhau. Bên cạnh đó, do người Nam Bộ luôn mơ

ước và tin tưởng vào một mẫu người lý tưởng, trí dũng và nhân ái như Lục Vân

Tiên – người anh hùng thời đại luôn giúp đỡ người nghèo và trừ gian diệt ác.

Đạo vợ chồng anh phải xét cho xa,

Anh Vân Tiên mù mắt, chị Nguyệt Nga còn chờ.

[6; tr. 435]

Làm trai không xét cho xa,

Kìa xem anh Vân Tiên bóng quáng mà chị Nguyệt Nga còn chờ.

65

[6; tr. 307]

Người quân tử trong ca dao Nam Bộ luôn sống và tuân theo những chuẩn

mực đạo đức nhất định mà Nho giáo đã nâng lên thành một triết lý sống, được cộng

đồng chấp nhận và nhắc nhở nhau.

Chẳng tham rộng ruộng lớn vườn,

Ham vì nhơn ngãi, cang thường mà thôi.

[6; tr. 214] Cang thường là những phạm trù đạo đức, nhân sinh quan của người quân tử

do Nho giáo đề xướng, tuy nhiên có nhiều mặt không phù hợp với thực tế đời sống

của người bình dân Nam Bộ. Cho nên ca dao Nam Bộ khi phản ánh về đạo cang

thường luôn thông qua mối quan hệ tình yêu đôi lứa.

Nhạn trên trời nhạn lạc kêu sương,

Ngàn năm ly biệt đạo cang thường chớ quên.

[6; tr. 446]

Đi ngang lá mía thơm đường,

Muốn vô kết ngãi cang thường với em.

[6; tr. 262]

Đêm nằm lưng chẳng bén giường,

Còn lo một nỗi cang thường chưa xong.

[6; tr. 259] Bên cạnh những đức tính trong ngũ thường như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín

(đặc biệt Nhân, Nghĩa có tần số xuất hiện rất cao trong ca dao Nam Bộ) thì Trung,

Hiếu trong tâm cang cũng được nhắc đến với mật độ cao.

Đầu đội trời vai mang chữ hiếu,

Sau lưng còn bận chữ tình,

Mình thương tôi thì dễ, tôi thương mình, khó thương.

[6; tr. 250]

Thấy em hay chữ anh hỏi thử đôi lời,

Chữ trung, chữ hiếu, chữ hòa,

Chữ nào em để thờ cha,

Chữ nào thờ mẹ, còn chữ thứ ba em để làm gì?

66

[6; tr. 381]

Người Nam Bộ đã dung hòa được những chuẩn mực cứng nhắc của Nho giáo

bởi những quan niệm đạo đức truyền thống có sẵn trong cộng đồng, khi xem hiếu là

trách nhiệm chung của cả con trai lẫn con gái. Hiếu là một tiêu chuẩn đạo đức và

làm cơ sở đánh giá hành vi cư xử của mỗi con người. Còn Trung trong ca dao cũng

có sự chuyển hướng cho phù hợp với suy nghĩ và quan niệm sống của người lao

động.

Hiếu còn thể hiện qua sự biết ơn – cù lao chín chữ, bản thân mỗi con người

cần phải sống, phải tu thân đó là những biểu hiện cụ thể về mặt tình cảm cũng như

trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội. Để làm tròn đạo hiếu người con

cần phái cố gắn phấn đấu thành đạt trong cuộc sống, làm cho cha mẹ nở mày nở mặt

với người đời thì mới là trọn hiếu.

Đi ra có cặp lọng vàng,

Hiển vinh ba má, rỡ ràng đôi ta.

[6; tr. 262]

Ru con con ngủ cho hời,

Công cha như núi ngất trời,

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.

[6; tr. 470] Nếu người quân tử luôn phấn đấu vì tam cang ngũ thường, thì người phụ nữ

cũng bị ràng buộc bởi tam tùng (tòng) tứ đức.

Khuyên em xét kỹ, em nghĩ cho cùng.

Trung trinh liệt nữ, quân tử anh hùng.

Làm sao cho vẹn tam tùng,

Gái ngoan chẳng lấy hai chồng bỏ anh.

[6; tr. 441] Tam tùng một chuẩn mực đạo đức đã ràng buộc người phụ nữ suốt cuộc đời,

bởi nó quy định cụ thể từng hành vi ứng xử của họ. Hành vi ấy phải tuân thủ theo

bốn chuẩn mực gọi là tứ đức (công – dung – ngôn – hạnh).

Chữ hạnh trong tứ đức được xem xét bằng việc giữ gìn trinh tiết, một vấn đề

67

rất được xem trọng trong xã hội phong kiến xưa và kể cả ngày nay. Trinh tiết là tiêu

chuẩn đạo đức của người phụ nữ, việc giữ gìn trinh tiết là sự tự ý thức và lòng tự

trọng.

Chị Hạnh Ngươn thủ tiết

Ai có biết chăng là,

Sống nhơ không chịu, chẳng thà chết thơm.

[6; tr. 478] Những hình ảnh nêu trên đã cho ta thấy phần nào dấu ấn Nho giáo trong đời

sống tinh thần của người bình dân Nam Bộ. Ca dao không chỉ ghi nhận lại mà nó

còn phản ánh thực tế quá trình tiếp nhận cũng như hình thành Nho giáo trong tâm

thức người dân Nam Bộ. Đó là sự tiếp nhận một cách tự giác, có định hướng và lựa

chọn, góp phần vào việc hình thành một hệ tư tưởng Nho giáo riêng biệt của vùng

đất mới.

3.2.3. Thiên Chúa giáo

Bên cạnh Phật giáo và Nho giáo thì Thiên Chúa giáo là một tôn giáo khá phổ

biến ở Nam Bộ với số lượng tín đồ tương đối đông đảo. Tuy nhiên, có một nghịch

lý là việc ghi nhận lại hình ảnh của Thiên Chúa giáo trong ca dao Nam Bộ rất ít, gây

nhiều khó khăn trong việc sưu tầm và nghiên cứu.

Khảo sát 2638 câu trong Ca dao – dân ca Nam Bộ thì chỉ tìm thấy duy nhất

một câu có sử dụng hình ảnh nhà thờ - nơi sinh hoạt của tôn giáo này – giống như

chùa đối với đạo Phật.

Kiểng nhà thờ vội đổ,

Trống thư bộ hồi quân,

Nhìn anh nước mắt rưng rưng,

Xuống lên không đặng vì chưng em có chồng.

[6; tr. 305]

Thiên Chúa giáo là một tôn giáo được du nhập từ phương Tây do công cuộc

khai thác thuộc địa của các nước tư bản mà nơi đến đầu tiên là vùng đất Nam Bộ.

Nó diễn ra trong bối cảnh lịch sử xã hội hết sức đặc biệt gắn liền với sự xâm lăng từ

bên ngoài của Pháp và Mỹ. Nhờ chính con đường này cùng với sự hỗ trợ đắc lực

của tư bản, Thiên Chúa giáo đã len lõi và có mặt hầu như trên khắp đất nước Việt

68

Nam, được nhân dân ta tiếp nhận và phát triển cho đến ngày nay.

Tuy nhiên Thiên Chúa giáo do du nhập sau, khi đó người Việt đã có sự định

hình và phát triển tôn giáo trong thời gian dài nên cho dù có xảy ra nhiều sự giao

lưu những yếu tố văn hóa mới trong đó có Thiên Chúa giáo, người Việt đặc biệt là

Nam Bộ cũng khó có thể tiếp nhận thêm giáo lý mới. Vì thế, Thiên Chúa giáo dù là

tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng dấu ấn về Thiên Chúa giáo trong ca dao Nam Bộ

cũng rất mờ nhạt và giáo lý của tôn giáo này cũng không được phổ biến trong đời

69

sống tinh thần của người dân Nam Bộ.

Kết luận Văn học và văn hóa có một mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và không thể tách

rời. Nếu văn hóa là một yếu tố quan trọng không thể thiếu thì văn học lại chính là

tấm gương phản ánh trung thực về đời sống trong đó bao gồm cả văn hóa. Văn học

dân gian đặc biệt là ca dao Nam Bộ một bộ phận không nhỏ của văn học nước nhà.

Qua ca dao giúp cho người nghiên cứu cũng như các độc giả có thể hình dung lại

tiến trình lịch sử, diện mạo của nền văn hóa Việt Nam nói chung và vùng đất Nam

Bộ nói riêng một cách cụ thể và sinh động bởi đó là những bằng chứng lịch sử rất

đáng tin cậy còn lưu giữ cho đến ngày nay.

Nam Bộ một vùng đất mới đầy màu mỡ, tuy hoang sơ nhưng đã thu hút

nhiều lưu dân từ các vùng miền khác nhau đến đây lập nghiệp. Họ đến và mang

theo những nét văn hóa truyền thống riêng, cho nên Nam Bộ dù hình thành sau so

với những vùng miền khác trên đất nước nhưng nền văn hóa Nam Bộ vẫn vô cùng

phong phú và đa dạng, từng bước khẳng định được vai trò, tầm vóc và vị trí quan

trọng của mình. Ca dao Nam Bộ đã ghi nhận lại những giá trị vật chất và tinh thần

vô cùng quý báu mà ông cha ta đã để lại cho con cháu đời sau. Chính ca dao cũng là

tài sản quý báu ấy, nó như một giá trị tinh thần mãnh liệt tiềm tàng trong mỗi con

người. Ca dao Nam Bộ chính là tiếng nói tâm tình của người dân Nam Bộ. Qua ca

dao ta càng hiểu và yêu hơn những con người nơi vùng đất mới với tính tình hào

sảng, trọng nghĩa khinh tài, nhân hậu và chất phác, tất cả đã được phô diễn một cách

đặc sắc và đầy tình cảm. Đặc biệt Nam Bộ là vùng đất với nhiều phong tục tập quán

khác nhau, mang đậm màu sắc của những người dân miền sông nước nên không thể

nào bị pha tạp được với văn hóa của vùng đất khác, một nét riêng Nam Bộ. Bên

cạnh đó, Nam Bộ là nơi có nhiều tôn giáo cùng song song tồn tại và phát triển do

quá trình giao lưu tiếp biến gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Qua đó cho ta

thấy, người dân Nam Bộ đã cùng nhau chung sống trong không gian văn hóa hết

sức đa dạng và đang chung tay xây dựng nên một nền văn hóa mới.

Tóm lại văn hóa Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng đã thấm sâu vào

trong những giá trị tinh thần của mỗi con người. Văn hóa đã làm nên diện mạo của

70

vùng đất mới, một xã hội, một dân tộc vì vậy khi tiến hành tìm hiểu về văn hóa ta

phải đi sâu vào nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau mới có được một cách tiếp

cận chính xác nhất.

Qua việc nghiên cứu về những giá trị của văn hóa tinh thần trong ca dao

Nam Bộ đã giúp cho người viết hiểu rõ hơn về nơi mà mình được sinh ra, lớn lên và

học tập. Để từ đó giúp người viết yêu và gắn bó hơn với vùng đất Nam Bộ. Văn hóa

tinh thần của Nam Bộ là một tài sản vô giá của dân tộc cũng như góp phần vào việc

71

tạo nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Công Bá (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa. 2. Chu Xuân Diên (2011), Văn học dân gian Bạc Liêu, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

3. Chu Xuân Diên chủ biên (2012), Văn học dân gian Sóc Trăng: Tuyển Chọn Từ

Tài Liệu Sưu Tầm, Điền Dã, Nxb Văn hóa – Thông tin.

4. Hồng Diệu sưu tầm tuyển chọn và giới thiệu (2010), Vũ Ngọc Phan toàn tập,

Nxb Văn học.

5. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội. 6. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca

dao dân ca Nam Bộ, Nxb TP Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Bích Hà (2010), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học

Sư phạm.

8. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2010), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.

9. Lý Tùng Hiếu (2009), “Vùng văn hóa Nam Bộ: Định vị và đặc trưng văn hóa”,

http://www.vanhoahoc.edu.vn.

10. Đinh Gia Khánh chủ biên (1962), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục. 11. Đinh Gia Khánh (1992), Ca dao Việt Nam, Nxb Tổng hợp. 12. Nguyễn Xuân Kính (2012), Thi pháp ca dao, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 13. Phạm Việt Long (2004), Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình, Nxb Đại học

Quốc gia.

14. Sơn Nam (2009), Đình miếu và Lễ hội dân gian miền Nam, tái bản lần 3, Nxb

Trẻ.

15. Trần Văn Nam (2007), Cảm nhận ca dao Nam Bộ, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí

Minh.

16. Trần Văn Nam (2009), Văn hóa sông nước Cần Thơ, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí

Minh.

17. Triều Nguyên (2013), Tìm hiểu các cách tu từ ngữ nghĩa được sử dụng trong ca

dao người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.

18. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa dân

72

gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội.

19. Nguyễn San, Phan Đăng (2012), Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, in lần thứ

5, Nxb Đại học Sư phạm.

20. Đỗ Văn Tân chủ biên (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Nxb Văn hóa và Thông

tin Đồng Tháp.

21. Huỳnh Ngọc Trảng (2006), Ca dao dân ca Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb Tổng hợp

Đồng Nai.

22. Trần Quốc Vượng chủ biên (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản lần 8, Nxb

73

Giáo dục.