intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khởi phát chuyển dạ bằng misoprostol ngậm dưới lưỡi trong thai trưởng thành ối vỡ non: Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

68
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả và tính an toàn của khởi phát chuyển dạ dùng 50 mcg misoprostol ngậm dưới lưỡi so với dùng oxytocin trong các trường hợp thai trưởng thành có ối vỡ non. Mời các bạn cùng tham khảo đề tài qua bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khởi phát chuyển dạ bằng misoprostol ngậm dưới lưỡi trong thai trưởng thành ối vỡ non: Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012<br /> <br /> KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG MISOPROSTOL NGẬM DƯỚI LƯỠI<br /> TRONG THAI TRƯỞNG THÀNH ỐI VỠ NON:<br /> THỬ NGHIỆM ĐỐI CHỨNG NGẪU NHIÊN<br /> Nguyễn Văn Trương*, Đỗ Văn Dũng**, Trần Sơn Thạch*, Nguyễn Tấn Phát*<br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: so sánh hiệu quả và tính an toàn của khởi phát chuyển dạ dùng 50 mcg misoprostol ngậm dưới<br /> lưỡi so với dùng oxytocin trong các trường hợp thai trưởng thành có ối vỡ non.<br /> Thiết kế: thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, 2 nhóm song song.<br /> Địa điểm: bệnh viện phụ sản Hùng Vương, 900 giường, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.<br /> Đối tượng: các sản phụ có thai > 37 tuần, đơn thai, ngôi thuận, và nhập viện vì ối vỡ non, chưa có dấu hiệu<br /> nhiễm khuẩn ối.<br /> Phương pháp: Sử dụng phương pháp ngẫu nhiên theo khối, do phần mềm tạo ra. Sau khi ký cam kết đồng<br /> ý tham gia, đối tượng nghiên cứu được phân nhóm ngẫu nhiên để được khởi phát chuyển dạ bằng 50 mcg ngậm<br /> dưới lưỡi hoặc truyền tĩnh mạch oxytocin. Misoprostol có thể được lặp lại sau mỗi 4 giờ nếu chưa có chuyển dạ<br /> tích cực, và giới hạn tối đa 4 liều. Oxytocin được truyền với liều bắt đầu là 2 mUI/phút, và được điều chỉnh mỗi<br /> 20 phút để đạt cơn gò phù hợp. Sau khởi phát 18 giờ, nếu chuyển dạ tích cực không xảy ra, thì xem như thất bại.<br /> Kết cục chính: mổ sanh, sanh ngã âm đạo trong 24 giờ, các hình thái rối loạn cơn gò tử cung.<br /> Kết quả: Có 1208 sản phụ được thu nhận và phân nhóm ngẫu nhiên trong thời gian nghiên cứu từ tháng<br /> 05/2008 đến tháng 11/2011. Tỉ lệ mổ sanh trong nhóm oxytocin và misoprostol lần lượt là 18,0% (109/605) và<br /> 17,4% (105/603), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (KTC 95%: -3,7% đến 4,9%). Tuy nhiên, mổ sanh<br /> vì khởi phát chuyển dạ thất bại trong nhóm oxytocin là 5,1% (31/605), trong khi nhóm misoprostol là 2,5%<br /> (15/603), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (KTC 95%: 0,5% đến 4,8%). Sanh ngã âm đạo trong 24 giờ ở<br /> nhóm oxytocin và misoprostol gần như tương tự, 81,3% (492/605) so với 80,1% (483/603). Trong nhóm<br /> misoprostol có 91 ca (15,1%) có các hình thái rối loạn cơn gò, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm oxytocin<br /> (khác biệt 12,3%, KTC 95%: 9,1% đến 15,4%). Giữa hai nhóm, không có khác biệt về cách sanh, can thiệp do suy<br /> thai hoặc các kết cục sơ sinh khác.<br /> Kết luận: misoprostol liều 50 mcg ngậm dưới lưỡi có thể là chọn lựa để khởi phát chuyển dạ trong thai<br /> trưởng thành có ối vỡ non. Sử dụng misoprostol làm giảm mổ sanh do khởi phát chuyển dạ thất bại, nhưng đi<br /> kèm với tăng nguy cơ bị rối loạn cơn gò.<br /> Từ khóa: khởi phát chuyển dạ, misoprostol, dưới lưỡi, ối vỡ non.<br /> <br /> *Bệnh Viện Hùng Vương<br /> ** Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh<br /> Tác giả liên lạc: BS Ngyễn Văn Trương<br /> ĐT: 0918.484.794<br /> <br /> 114<br /> <br /> Email: truong-bvhv@hcm.vnn.<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> ABSTRACT<br /> LABOR INDUCTION USING SUBLINGUAL MISOPROSTOL FOR PRELABOR RUPTURE OF<br /> MEMBRANES AT TERM: A RANDOMISED CONTROLLED TRIAL<br /> Nguyen Van Truong, Do Van Dung, Tran Son Thach, Nguyen Tan Phat<br /> * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No.2 – 2012: 114 - 123<br /> Objectives: To compare the effectiveness and safety of labor induction between 50mcg sublingual<br /> misoprostol and intravenous oxytocin drip among women with term prelabor rupture of the membranes<br /> (PROM).<br /> Design: parallel randomized controlled trial.<br /> Setting: Hung Vuong hospital, a tertiary-level, referral 900-bed maternity center at Ho Chi Minh City,<br /> Vietnam.<br /> Participants: Women with PROM and single, live and cephalic- presentation at completed 37 weeks of<br /> gestation or more, without sign of chorioamnionitis.<br /> Methods: a central, computer-generated, block-randomization scheme was adopted. After giving a written<br /> informed consent, an eligible participant was randomly assigned to receive either 50mcg sublingual misoprostol<br /> or intravenous oxytocin drip. Misoprostol was repeated, if necessary, four- hourly until total of 4 doses. Oxytocin<br /> drip initiated at 2mUI/minute was adjusted at twenty minutes basis until achievement of favorable contractions.<br /> Labor was managed using the standard treatment protocol. Labor induction was considered failed unless it<br /> achieved active phase 18 hours post-interventionally.<br /> Main outcomes: Cesarean delivery, vaginal delivery within 24 hours, excessive uterine activity.<br /> Results: a total of 1208 participants were randomized from May 2008 to Nov 2011. Cesarean section rate<br /> was 18.0% (109/605) in oxytocin group and 17.4% (105/603) in misoprostol group, yielding a difference rate of<br /> 0.6% (95% CI: -3.7% to 4.9%). However, significantly more women receiving oxytocin underwent cesarean<br /> delivery indicated for failed induction than misoprostol group (5.1% versus 2.5%) with an absolute difference of<br /> 2.6% (95% CI : 0.5% to 4.8%). In contrast, rate of excessive uterine activity was higher if labor was initiated by<br /> misoprostol with a difference of 12.3% (95% CI: 9.1% to 15.4%). There were no significant differences in rate of<br /> delivery mode, interventions for fetal distress or neonatal outcomes between the two groups.<br /> Conclusions: 50mcg sublingual misoprostol would be a promising labor induction option for term PROM<br /> women. Misoprostol reduced cesarean section indicated for failed labor induction, but was associated with an<br /> increased risk of excessive uterine activity.<br /> Key words: Labour induction, misoprostol, sublingual, premature rupture of membranes<br /> chuyển dạ ở thai đủ trưởng thành. So với biện<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> pháp trì hoãn đợi chuyển dạ tự nhiên, KPCD<br /> Vỡ ối trước khi chuyển dạ ở thai trưởng<br /> với oxytocin truyền tĩnh mạch không những<br /> thành (tuổi thai từ 37 tuần) chiếm tỉ lệ 8% (8), và<br /> không làm tăng tỉ lệ mổ sanh, mà còn giảm<br /> thời gian từ lúc vỡ ối đến lúc chuyển dạ càng<br /> nhiễm khuẩn ối ở mẹ(9). Khuyến cáo của Hội Sản<br /> kéo dài sẽ càng làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn<br /> phụ khoa Hoa Kỳ - ACOG - năm 2007 đề nghị<br /> cho cả mẹ lẫn thai. Ngược lại, đã có quan ngại<br /> KPCD ngay đối với các trường hợp này(1).<br /> rằng khởi phát chuyển dạ (KPCD) làm tăng<br /> Misoprostol, là một methyl ester của<br /> nguy cơ mổ sanh. Hiện nay đã có các bằng<br /> prostaglandin E1, được nghiên cứu như là một<br /> chứng đáng tin cậy ủng hộ việc KPCD ngay sau<br /> biện pháp KPCD trong thập niên qua. KPCD<br /> nhập viện đối với các trường hợp vỡ ối và chưa<br /> <br /> 115<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> dùng misoprostol đường âm đạo(10) và đường<br /> uống(2) đã được nghiên cứu rộng rãi. Trong các<br /> trường hợp vỡ ối trước khi chuyển dạ ở thai<br /> trưởng thành, 2 phương pháp đã nêu không ưu<br /> việt hơn KPCD dùng oxytocin. Bên cạnh những<br /> hiểu biết về sử dụng misoprostol đường uống<br /> và đường âm đạo, dược động học của<br /> misoprostol dùng đường ngậm dưới lưỡi và<br /> ngậm cạnh má cũng đã được khảo sát(3, 20). Các<br /> nghiên cứu này đều cho thấy misoprostol<br /> đường ngậm dưới lưỡi có sinh khả dụng lớn<br /> nhất trên các đối tượng chấm dứt thai kỳ ở tam<br /> cá nguyệt đầu.<br /> Sử dụng misoprostol đường âm đạo trong<br /> các trường hợp ối vỡ có thể có bất lợi như làm<br /> tăng nguy cơ nhiễm khuẩn ngược dòng do<br /> khám âm đạo nhiều lần và hiệu quả của thuốc<br /> có thể bị ảnh hưởng bởi dịch ối. Do đó, KPCD<br /> dùng misoprostol ngậm dưới lưỡi có thể phù<br /> hợp hơn trong các trường hợp ối vỡ.<br /> Cho đến nay, các thông tin về sử dụng<br /> misoprostol ngậm dưới lưỡi để KPCD còn hạn<br /> chế. Các thử nghiệm lâm sàng bước đầu có cỡ<br /> mẫu chưa đủ lớn để chọn được phác đồ và đánh<br /> giá độ an toàn(4,5,7,15,19). Hơn nữa, chưa có nghiên<br /> cứu nào đánh giá KPCD sử dụng misoprostol<br /> ngậm dưới lưỡi trong các trường hợp ối vỡ.<br /> Nghiên cứu này nhằm so sánh trực tiếp biện<br /> pháp KPCD sử dụng misoprostol ngậm dưới<br /> lưỡi, một biện pháp KPCD không xâm lấn, với<br /> KPCD bằng oxytocin trong các trường hợp ối vỡ<br /> ở thai trưởng thành. Giả thuyết của nghiên cứu<br /> là KPCD sử dụng misoprostol ngậm dưới lưỡi<br /> làm giảm mổ sanh so với oxytocin.<br /> PHƯƠNG PHÁP<br /> Đây là thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu<br /> nhiên gồm 2 nhóm song song, được tiến hành<br /> tại bệnh viện Hùng Vương, là bệnh viện chuyên<br /> khoa phụ sản 900 giường tại thành phố Hồ Chí<br /> <br /> 116<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012<br /> Minh. Nghiên cứu được Hội đồng khoa học và<br /> y đức của bệnh viện chấp thuận và cho phép<br /> tiến hành vào tháng 5/2008.<br /> Đối tượng nghiên cứu là các sản phụ đến<br /> sanh tại bệnh viện Hùng Vương. Sản phụ thỏa<br /> tiêu chuẩn thu nhận khi có ối vỡ, không có dấu<br /> hiệu nhiễm khuẩn ối, thai kỳ 37 tuần (xác định<br /> theo siêu âm quí 1 hoặc quí 2), đơn thai, ngôi<br /> đầu, sức khỏe sản phụ và thai nhi bình thường,<br /> chưa có chuyển dạ tích cực (định nghĩa là cổ tử<br /> cung - CTC >3cm, có 6 cơn gò đều / 20 phút).<br /> Tiêu chuẩn loại trừ gồm sản phụ không chấp<br /> nhận tham gia thử nghiệm sau khi đã được giải<br /> thích tường tận về mục đích nghiên cứu, đã có<br /> cố gắng KPCD trước đó, có chống chỉ định của<br /> KPCD như: vết mổ lấy thai cũ hoặc vết mổ bóc u<br /> xơ tử cung, nhau tiền đạo, thai to, đa ối, khung<br /> chậu giới hạn, khung chậu hẹp, ngôi bất<br /> thường, biểu đồ tim thai – cơn gò (CTG cardiotocography) có biểu hiện bất thường cho<br /> thấy có khả năng sức khỏe thai nhi bị đe dọa,<br /> như nhịp giảm muộn, nhịp giảm bất định trầm<br /> trọng, tim thai cơ bản nhanh trầm trọng, mất<br /> dao động nội tại, ối lẫn phân su đặc.<br /> Sản phụ có bệnh sử nghi ngờ ối vỡ sẽ<br /> được khám bằng mỏ vịt, nhằm xác định chẩn<br /> đoán (bằng cách xem dịch ối chảy qua CTC,<br /> và/hoặc thực hiện nitrazine test). Chỉ khám<br /> âm đạo bằng tay (nhằm đánh giá chỉ số<br /> Bishop, khám khung chậu) sau khi đã sát<br /> khuẩn âm đạo CTC với dung dịch povidone<br /> iodine 10%. Sau đó sản phụ được đo CTG 30<br /> phút nhằm phát hiện các bất thường.<br /> Các sản phụ thỏa tiêu chuẩn thu nhận và<br /> loại trừ được mời tham gia nghiên cứu. Sau khi<br /> ký giấy đồng ý tham gia, các sản phụ được phân<br /> ngẫu nhiên theo tỉ số 1:1 vào nhóm KPCD bằng<br /> oxytoxin truyền tĩnh mạch hoặc misoprostol<br /> ngậm dưới lưỡi.<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Sàng lọc đối tượng (n = 2478)<br /> Loại bỏ (n = 1269)<br /> Không thỏa tiêu chuẩn (n = 1098)<br /> Từ chối tham gia (n = 130)<br /> Lý do khác (n = 41)<br /> Phân ngẫu nhiên (n = 1209)<br /> <br /> KPCD với oxytocin (n = 605)<br /> Nhận can thiệp (n = 604)<br /> Không nhận can thiệp (n = 1)<br /> - có đủ 3 cơn gò/10 phút<br /> <br /> KPCD với misoprostol (n = 604)<br /> Nhận can thiệp (n = 603)<br /> Không nhận can thiệp (n = 1)<br /> - rút lui không tham gia<br /> <br /> Phân tích (n = 605)<br /> Loại bỏ khỏi phân tích (n = 0)<br /> <br /> Phân tích (n = 604)<br /> Loại bỏ khỏi phân tích (n = 0)<br /> <br /> Hình 1: Sơ đồ các giai đoạn của nghiên cứu.<br /> <br /> Trình tự phân bổ ngẫu nhiên được tác giả<br /> nghiên cứu tạo bằng phần mềm Stata, với các<br /> block có kích thước 4, 8, và 12. Dựa vào trình tự<br /> này, một nhân viên văn thư sẽ tạo một loạt các<br /> phong bì đủ dày có đánh số thứ tự, được dán<br /> kín, bên trong chứa thẻ ghi phương thức KPCD,<br /> hoặc oxytocin hoặc misoprostol ngậm dưới lưỡi.<br /> Sau khi thu nhận mỗi đối tượng, nhân viên<br /> nghiên cứu tại khoa sanh mở phong bì theo thứ<br /> tự tương ứng, và xác nhận phác đồ cần áp dụng.<br /> Oxytocin được pha 5 đơn vị (UI), 1 mL với<br /> 49 ml dung dịch glucose 5%. Các sản phụ thuộc<br /> nhóm oxytocin được truyền tĩnh mạch bằng<br /> bơm tiêm điện với liều bắt đầu 2 mUI/phút (1,2<br /> mL/giờ). Sau mỗi 20 phút, tăng liều thêm 2<br /> mUI/phút (1,2 mL/giờ) để đạt 3 cơn gò trong 10<br /> phút. Phác đồ này cũng đang được sử dụng tại<br /> bệnh viện Hùng Vương.<br /> Misoprostol ngậm dưới lưỡi được bắt đầu<br /> với liều 50 mcg (1/4 viên Cytotec 200mcg,<br /> Pfizer), được thực hiện lặp lại sau 4 giờ nếu<br /> chuyển dạ tích cực chưa bắt đầu. Phác đồ<br /> misoprostol trong nghiên cứu này giới hạn ở<br /> mức tối đa 4 liều. Trước khi lặp lại liều<br /> misoprostol, CTG được thực hiện trong 30 phút<br /> <br /> để đánh giá. Liều kế tiếp chỉ được cho khi chưa<br /> có đủ 6 cơn gò đều / 20 phút, hoặc chưa vào<br /> chuyển dạ tích cực.<br /> Sản phụ được hướng dẫn để góp phần phát<br /> hiện các rối loạn cơn gò. Trong nhóm<br /> misoprostol, nếu có xuất hiện rối loạn cơn gò<br /> như cơn gò nhanh (>5 cơn gò/ 10 phút, kéo dài<br /> trong 20 phút liên tục), cơn gò tăng trương lực<br /> (cơn gò kéo dài >2 phút), hội chứng tăng kích<br /> thích tử cung (cơn gò nhanh hoặc cơn gò tăng<br /> trương lực, kèm với các biến đổi bất thường tim<br /> thai), thì tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng, sản<br /> phụ có thể được giảm gò theo phác đồ đang sử<br /> dụng tại bệnh viện, dùng salbutamol truyền tĩnh<br /> mạch, cho đến khi có cơn gò phù hợp với giai<br /> đoạn chuyển dạ.<br /> Sau liều cuối misoprostol 5 giờ, hoặc sau khi<br /> bắt đầu đạt cơn co tốt với oxytocin 18 giờ, nếu<br /> chuyển dạ tích cực không xảy ra, thì xem như<br /> KPCD thất bại và chuẩn bị mổ sanh.<br /> CTG được thực hiện trong 30 phút ngay<br /> sau khi bắt đầu KPCD, và mỗi 4 giờ trong giai<br /> đoạn chuyển dạ tiềm thời. Sau khi vào chuyển<br /> dạ tích cực, tim thai và cơn gò được kiểm tra<br /> mỗi giờ. (bằng Doppler), đồng thời CTG được<br /> <br /> 117<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> thực hiện trong 30 phút mỗi 2 giờ. Nếu phát<br /> hiện nhịp tim thai bất thường, CTG được đo<br /> liên tục. Trong chuyển dạ, sản phụ được kiểm<br /> tra nhiệt độ mỗi 4 giờ và báo cáo những<br /> trường hợp có nghi ngờ nhiễm khuẩn ối như<br /> sốt, thay đổi màu sắc hay mùi nước ối hoặc<br /> những dấu hiệu khác. Các quyết định lâm<br /> sàng về theo dõi chuyển dạ và phương pháp<br /> sanh được xem xét bởi bác sĩ điều trị. Chuyển<br /> dạ được chẩn đoán ngưng tiến triển khi CTC<br /> không mở thêm và ngôi thai không xuống<br /> thêm sau >4 giờ theo dõi trong giai đoạn tích<br /> cực. Giảm đau sản khoa trong giai đoạn<br /> chuyển dạ tích cực sẽ được thực hiện nếu có<br /> chỉ định.<br /> Tất cả trẻ sơ sinh có mẹ vỡ ối hơn 18 giờ<br /> hoặc có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm khuẩn ối sẽ<br /> được bác sĩ Khoa Sơ sinh đánh giá để làm các<br /> khảo sát cần thiết chẩn đoán nhiễm khuẩn sơ<br /> sinh. Các trẻ này cũng sẽ được dùng kháng sinh<br /> dự phòng. Trong trường hợp cần thiết, trẻ sẽ<br /> được nhập Chăm sóc sơ sinh tăng cường theo<br /> quyết định của bác sĩ Khoa sơ sinh.<br /> Kết cục chính là mổ sanh. Các kết cục phụ là<br /> sanh ngã âm đạo trong vòng 24 giờ sau KPCD,<br /> hội chứng tăng kích thích tử cung, thời gian từ<br /> lúc KPCD đến lúc sanh, rối loạn cơn gò không<br /> kèm thay đổi tim thai, ối lẫn phân su trong<br /> chuyển dạ, chỉ số Apgar 5 phút
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2