intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kĩ năng ứng phó với nguy cơ bị lạm dụng tình dục của học sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: DanhVi DanhVi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

85
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung làm rõ thực trạng kĩ năng ứng phó của học sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thể hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ, hành vi, xác định một số nguyên nhân ảnh hưởng đến kĩ năng ứng phó của các em. Từ đó, bài viết đề xuất ba biện pháp nhằm rèn luyện kĩ năng ứng phó cho học sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kĩ năng ứng phó với nguy cơ bị lạm dụng tình dục của học sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 44-49<br /> <br /> KĨ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI NGUY CƠ BỊ LẠM DỤNG TÌNH DỤC<br /> CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN<br /> Lê Thị Phương Hoa, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên<br /> Nguyễn Phương Anh - Đỗ Minh Ngọc<br /> Lớp 11 Văn, Trường Trung học phổ thông chuyên Thái Nguyên<br /> Ngày nhận bài: 15/01/2018; ngày sửa chữa: 05/02/2018; ngày duyệt đăng: 07/02/2018.<br /> Abstract: The paper focused on clarifying the situation of skills for coping with the risk of sexual<br /> abuse of primary pupils in Thai Nguyen province in terms of awareness, attitudes and behaviors.<br /> Also, the article points out some main causes that affect these skills of the children. Since then, the<br /> paper proposed measures to train the skills for coping with the risk of sexual abuse for primary<br /> pupils in Thai Nguyen province with aim to prevent consequences from sexual abuse for children.<br /> Keywords: Primary school students, skills, sexual abuse, risk of sexual abuse, response.<br /> 2.2. Kết quả nghiên cứu<br /> 2.2.1. Thực trạng trẻ em bị lạm dụng tình dục trên địa<br /> bàn tỉnh Thái Nguyên<br /> Trước khi tìm hiểu kĩ năng ứng phó của HSTH trước<br /> nguy cơ bị LDTD, chúng tôi tìm hiểu thực trạng những<br /> vụ LDTD đã xảy ra trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Kết<br /> quả thu được như sau: Năm 2015 xảy ra 14 vụ, năm 2016<br /> là 10 vụ, nửa đầu năm 2017 là 7 vụ (Nguồn: Phòng điều<br /> tra tội phạm công an tỉnh Thái Nguyên).<br /> Có thể thấy, mặc dù số vụ LDTD trẻ em trên địa bàn<br /> tỉnh Thái Nguyên trong 3 năm gần đây (tính đến tháng<br /> 6/2017) có chiều hướng giảm dần; song qua tìm hiểu,<br /> chúng tôi được biết tính chất các vụ lại phức tạp hơn và<br /> giảm dần về số tuổi, trong đó có đến 80% nạn nhân thuộc<br /> độ tuổi từ 6-10 (HSTH). Đây thực sự là hồi chuông cảnh<br /> báo cho tất cả phụ huynh, nhà giáo dục, toàn xã hội. Đã<br /> đến lúc cần nghiêm túc nhìn nhận vấn đề về sự cần thiết<br /> phải trạng bị cho trẻ kĩ năng tự ứng phó, tự phòng vệ<br /> trước nguy cơ bị LDTD.<br /> 2.2.2. Thực trạng kĩ năng ứng phó của học sinh tiểu học trên<br /> địa bàn tỉnh Thái Nguyên trước nguy cơ bị lạm dụng tình dục<br /> - Thực trạng nhận thức của HSTH về nguy cơ LDTD:<br /> Để đánh giá mức độ kĩ năng ứng phó của HSTH trước<br /> nguy cơ bị LDTD, trước hết phải tìm hiểu nhận thức của<br /> các em về các vấn đề có liên quan như: Những hành vi<br /> được coi là LDTD trẻ em; Thủ đoạn LDTD trẻ em; Nạn<br /> nhân của LDTD trẻ em; Tình huống có nguy cơ xảy ra<br /> LDTD trẻ em; Đối tượng LDTD trẻ em; Hậu quả của<br /> LDTD trẻ em và nguyên nhân của LDTD trẻ em. Kết quả<br /> khảo sát cho thấy:<br /> + Nhận thức của trẻ tiểu học về những hành vi được<br /> coi là LDTD trẻ em chỉ đạt mức trung bình (ĐTB: 2,17).<br /> Nhìn chung, các em bước đầu đã có sự hiểu biết về những<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Vấn nạn lạm dụng tình dục (LDTD) trẻ em hiện nay<br /> đang ngày càng trở nên nhức nhối với tính chất ngày<br /> càng phức tạp. Trẻ bị LDTD có nguy cơ bị căng thẳng<br /> sau chấn thương, thường gặp phải những triệu chứng lo<br /> âu, trầm cảm và ý định tự tử. Những vấn đề này gây ảnh<br /> hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ. Học sinh<br /> tiểu học (HSTH) là một trong những nhóm trẻ có nguy<br /> cơ cao bị LDTD. Do nhận thức chưa đầy đủ, HSTH<br /> thường sống bằng cảm xúc, bằng niềm tin do người lớn<br /> gây dựng nên đôi khi các em dễ bị kẻ xấu lợi dụng, đưa<br /> các em vào những tình huống nguy hiểm. Đối tượng xâm<br /> hại gồm cả người quen, người thân và người lạ. Do đó,<br /> việc rèn luyện kĩ năng ứng phó với tình huống LDTD trẻ<br /> em, giúp HSTH tự bảo vệ mình là rất cần thiết và đòi hỏi<br /> sự chung tay của toàn xã hội.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu<br /> Nghiên cứu được thực hiện trên 220 học sinh (HS)<br /> thuộc Trường Tiểu học La Hiên (thuộc một huyện miền<br /> núi tỉnh Thái Nguyên), Tiểu học Đội Cấn (TP. Thái<br /> Nguyên) và Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt<br /> thòi tỉnh Thái Nguyên. Thời gian khảo sát từ ngày<br /> 15/08/2017 đến 15/12/2017.<br /> Để có được kết quả nghiên cứu khách quan, chúng tôi sử<br /> dụng phối hợp các phương pháp như: điều tra, quan sát, thực<br /> nghiệm, thống kê toán học, nghiên cứu trường hợp điển hình.<br /> Có 3 mức độ đánh giá kĩ năng ứng phó của HSTH trước nguy<br /> cơ bị LDTD là Yếu, Trung bình và Tốt. Mức “Yếu” được đánh<br /> giá bằng điểm trung bình (ĐTB) thấp nhất là 1 và mức “tốt” có<br /> ĐTB cao nhất là 3. Điểm càng cao thì mức độ biểu hiện kĩ năng<br /> ứng phó với nguy cơ bị LDTD càng tốt (mức Tốt: 2,41-3 điểm;<br /> mức Trung bình: 1,71-2,4 điểm; mức Yếu: 1-1,7 điểm).<br /> <br /> 44<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 44-49<br /> <br /> biểu hiện được xem là LDTD trẻ em, tuy nhiên sự nhận<br /> thức này chưa thực sự đầy đủ. Vẫn còn đến 43% HS<br /> nhầm lẫn hành vi “cầm tay trẻ” là một hành vi LDTD trẻ<br /> em và ngược lại, cũng có gần 60% em cho rằng hành vi:<br /> “cho trẻ xem phim, hình ảnh kích dục và cố tình phơi bày<br /> bộ phận sinh dục của người lớn” không phải là hành vi<br /> LDTD trẻ em. Kết quả này có thể cho phép kết luận về<br /> sự lơi là trong công tác trang bị kiến thức tự phòng vệ<br /> cho các em trước nguy cơ bị lạm dụng từ phía gia đình<br /> và nhà trường.<br /> + Để tìm hiểu về những tình huống có nguy cơ xảy<br /> ra LDTD ở trẻ em, chúng tôi đã xây dựng 06 tình huống<br /> có nguy cơ cao xảy ra LDTD trẻ em. Kết quả khảo sát<br /> cho thấy, nhận thức của HSTH về các tình huống có thể<br /> xảy ra LDTD chỉ đạt mức trung bình (ĐTB: 2,25). Tuy<br /> nhiên, sự nhận thức này không đồng đều giữa các khối<br /> lớp. HS khối 5 nhận thức tốt nhất với hơn 70% số ý kiến<br /> cho rằng, tình huống dễ xảy ra LDTD trẻ em là “đến<br /> những nơi vắng vẻ một mình”. Trong khi đó, HS khối 1<br /> và 2 chỉ có 30% nhận thức đúng về tình huống này. Trên<br /> thực tế, trong thời gian gần đây, liên tiếp xảy ra các vụ<br /> LDTD trẻ em, đặc biệt là xâm hại, dâm ô với trẻ em xảy<br /> ra ở những nơi vắng vẻ, nạn nhân đi một mình. Điểm<br /> đáng lo ngại ở câu hỏi này là 49% HS đã cho rằng, “đi<br /> vệ sinh một mình ở trường” không có nguy cơ xảy ra<br /> LDTD trẻ em. Trong thực tế, đã có rất nhiều vụ LDTD<br /> trẻ em xảy ra ở nhà vệ sinh khi các em đi vệ sinh một<br /> mình ở trường. Khu vực nhà vệ sinh thường tách biệt,<br /> vắng vẻ. Đối tượng LDTD trẻ em có thể lợi dụng điều<br /> này dễ dàng thực hiện hành vi của mình.<br /> + Đối tượng LDTD ở trẻ là ai? Tìm hiểu về vấn đề<br /> này, chúng tôi đã đưa ra 3 phương án cho HSTH lựa<br /> chọn: người lạ; người quen biết, hàng xóm; người thân<br /> trong gia đình. Kết quả thu được cho thấy, nhận thức của<br /> các em về vấn đề này chỉ đạt mức trung bình (ĐTB:<br /> 2,07). Nhiều lí do đã được chỉ ra, trong đó có lí do thuộc<br /> về niềm tin của trẻ đối với người thân quen: hơn 50% các<br /> em HS cho rằng, người thân trong gia đình không phải là<br /> đối tượng gây ra LDTD trẻ em. Sự tin tưởng này hoàn<br /> toàn có cơ sở, song trên thực tế con số về những vụ trẻ<br /> em bị lạm dụng bởi người thân quen đã cho thấy niềm tin<br /> của các em hoàn toàn bị chà đạp bởi dục vọng tầm<br /> thường của một bộ phận người được xem là người quen,<br /> thân của trẻ.<br /> + Về những thủ đoạn mà đối tượng LDTD trẻ em<br /> thường sử dụng: kết quả khảo sát cho thấy, nhận thức của<br /> các em về vấn đề này đạt mức trung bình (ĐTB: 2,17).<br /> Trong đó, 73% HS cho rằng, đối tượng hay sử dụng các<br /> thủ đoạn như cho bánh kẹo, tiền tiêu vặt… Đây cũng là hai<br /> trong số các thủ đoạn mà các đối tượng thường hay sử<br /> dụng nhất để thực hiện hành vi LDTD trẻ em. Các đối<br /> <br /> tượng sẽ lợi dụng sự non nớt, ngây thơ trong sáng của trẻ,<br /> cho các em quà bánh, tiền tiêu vặt, cho đi nhờ xe nhằm lôi<br /> kéo lòng tin, từ đó dụ dỗ trẻ nghe theo lời của mình.<br /> + Nhận thức của HSTH về những nạn nhân của<br /> LDTD trẻ em có nguy cơ bị LDTD. Ở nội dung này, nhận<br /> thức của các em cũng chỉ đạt mức trung bình (ĐTB:<br /> 2,23). Nhiều em vẫn chưa đánh giá đúng về mức độ nguy<br /> cơ bị LDTD của các em HS: 16% HS được phỏng vấn<br /> cho rằng “trẻ em khuyết tật” không có nguy cơ bị LDTD<br /> và 31% HS cho rằng “trẻ em bị nhiễm HIV” không có<br /> nguy cơ bị LDTD. Thực tế, tất cả các trẻ em đều có nguy<br /> cơ bị LDTD; trong đó trẻ em bị khuyết tật, trẻ em bị bỏ<br /> rơi, trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ em bị đánh đập bạo<br /> hành đặc biệt có nguy cơ cao bị LDTD do các em không<br /> có khả năng tự vệ. Có thể thấy rằng, hoàn cảnh đặc biệt<br /> của trẻ là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới nguy cơ<br /> trẻ em bị LDTD.<br /> + Về những hậu quả mà LDTD trẻ em gây ra cho<br /> thấy, nhận thức của các em cũng chỉ đạt mức trung bình<br /> (ĐTB: 2,3). Khảo sát cho thấy, nhìn chung đa số các em<br /> HS khối 4, 5 có nhận thức tốt hơn khi đánh giá mức độ<br /> nghiêm trọng của các hậu quả mà LDTD trẻ em gây ra.<br /> Ba hậu quả mà chủ yếu các em cho rằng rất nghiêm trọng<br /> là: có hành vi tiêu cực, hủy hoại bản thân, tự tử; mang<br /> thai ngoài ý muốn; trở nên xa lánh cộng đồng, sống khép<br /> mình. Nghiêm trọng hơn cả, sau khi bị LDTD, không ít<br /> em có suy nghĩ tìm đến cái chết do bị sốc về mặt tinh<br /> thần. Các em rơi vào trạng thái hoảng sợ và cảm thấy<br /> không có lối thoát, bởi nguyên nhân một phần do xấu hổ,<br /> một phần khác do bị kẻ lạm dụng đe dọa nên các em<br /> không dám thổ lộ cùng ai. Trẻ em là những người đang<br /> trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về mặt thể chất<br /> và tâm sinh lí. Vì vậy, khi trẻ bị LDTD sẽ dẫn đến những<br /> hậu quả lâu dài không chỉ cho trẻ em - nạn nhân trực tiếp<br /> - mà còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho gia đình<br /> trẻ bị LDTD và cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn<br /> 62% số trẻ khối 1 không nhận thức đúng về vấn đề này.<br /> + Về những nguyên nhân khiến trẻ em có nguy cơ trở<br /> bị LDTD: kết quả khảo sát cho thấy, nhận thức của các<br /> em đạt mức trung bình (ĐTB: 2,2). Có thể nói tình trạng<br /> LDTD trẻ em hiện nay có chiều hướng gia tăng và hết<br /> sức phức tạp, nếu không nói là rất nghiêm trọng. Một<br /> trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm hại tình<br /> dục đối với trẻ em là môi trường xã hội ngày càng tiềm<br /> ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến trẻ em bị xâm hại; những ấn<br /> phẩm đồi trụy, Internet, phim ảnh ngoài luồng có tính<br /> chất khiêu dâm... Chúng ta cũng không thể không kể đến<br /> một nguyên nhân nữa là tâm lí của người Á Đông nói<br /> chung, Việt Nam nói riêng thường kín đáo, không<br /> muốn đề cập đến những vấn đề nhạy cảm. Nhiều nguyên<br /> nhân khiến trẻ bị LDTD đã được chỉ ra, trong đó có<br /> 45<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 44-49<br /> <br /> nguyên nhân thuộc về sự hạn chế trong kĩ năng ứng phó,<br /> tự phòng vệ của chính các em trước nguy cơ bị LDTD.<br /> Như vậy, kết quả điều tra nhận thức của HSTH trên địa<br /> bàn tỉnh Thái Nguyên về các vấn đề có liên quan đến<br /> LDTD trẻ em cho thấy, nhận thức của các em còn nhiều<br /> hạn chế, chỉ đạt mức trung bình, dao động trong khoảng<br /> điểm từ 2,07-2,3. Trong đó, sự hạn chế nhất trong nhận<br /> thức là về đối tượng gây ra LDTD trẻ em với ĐTB chỉ đạt<br /> 2,07. Chính niềm tin ở các em đối với người quen và thân<br /> đã vô tình trở thành kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng, thực hiện<br /> hành vi LDTD với các em. Kết quả trên một lần nữa khẳng<br /> định sự cần thiết phải nâng cao nhận thức cho các em về<br /> nguy cơ xảy ra LDTD để các em có thể tự bảo vệ mình.<br /> So sánh giữa ba trường trong địa bàn tỉnh Thái<br /> Nguyên cho kết quả như sau (xem bảng 1):<br /> <br /> Khả năng tự kiềm chế của HSTH còn yếu, đặc biệt là rất dễ<br /> tổn thương. Trong số 107 HS còn lại, có 61 em (chiếm gần<br /> 28% tổng số khách thể khảo sát) sẽ kiên quyết chống trả và<br /> tìm cách thoát thân, còn lại sẽ bình tĩnh tìm người trợ giúp.<br /> Trong trường hợp này, do các em còn nhỏ, yếu đuối, vớ sức<br /> lực của mình, các em sẽ không thể chống trả, đối phó với<br /> đối tượng LDTD (các đối tượng thường là thanh niên khỏe<br /> mạnh). Do vậy, HS nên bình tĩnh và tìm sự trợ giúp từ<br /> những người có mặt ở gần đó bằng cách gào thét, gây sự<br /> chú ý của mọi người xung quanh. Trong mọi trường hợp,<br /> sự bình tĩnh luôn có vai trò quan trọng, giúp ta có thể tìm ra<br /> cách xử lí tốt nhất cho bản thân.<br /> So sánh giữa các trường trong việc xác định thái độ khi ứng<br /> phó với nguy cơ LDTD cho kết quả như sau (xem bảng 2):<br /> <br /> Bảng 1. So sánh nhận thức của HSTH ba trường về nguy cơ bị LDTD<br /> Điểm trung bình<br /> Trường<br /> Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6<br /> La Hiên<br /> 2,06<br /> 2,12<br /> 1,96<br /> 2,06<br /> 2,11<br /> 2,19<br /> Đội Cấn<br /> 2,27<br /> 2,38<br /> 2,15<br /> 2,29<br /> 2,35<br /> 2,43<br /> Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ<br /> 2,43<br /> 2,48<br /> 2,32<br /> 2,33<br /> 2,31<br /> 2,40<br /> em bị thiệt thòi<br /> Bảng 1 cho thấy, sự khác biệt giữa ĐTB của ba trường<br /> Tiểu học La Hiên, Đội Cấn và Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ<br /> em bị thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên. Trường Tiểu học La Hiên<br /> có ĐTB nhiều câu và ĐTB của tất cả 7 câu hỏi đều nằm ở<br /> mức Trung bình. Trong khi đó, Trường Tiểu học Đội Cấn và<br /> Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi lại có ĐTB các<br /> câu cao hơn, nằm ở mức khá, đặc biệt Trường Giáo dục và<br /> Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên có ĐTB cao nhất.<br /> Sở dĩ có sự chênh lệch này là do nơi sinh sống và học tập của<br /> các em. Các em HS ở thành phố có mức sống cao hơn, các<br /> em có nhiều cơ hội để được tiếp cận với thông tin, có nhiều<br /> điều kiện để được giáo dục, trau dồi cho nhận thức của mình<br /> về LDTD trẻ em. Đây là một thiệt thòi lớn đối với các em HS<br /> ở các huyện nói chung và ở Tiểu học La Hiên nói riêng. Còn<br /> về Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi tỉnh Thái<br /> Nguyên, HS khuyết tật có nguy cơ cao bị LDTD, trước<br /> những nguy cơ đó, các em được đặc biệt quan tâm, giáo dục<br /> thường xuyên về LDTD trẻ em. Vì lẽ đó, các em được đánh<br /> giá với ĐTB cao hơn hẳn so với hai trường còn lại.<br /> - Thực trạng thái độ của HSTH trước nguy cơ bị LDTD:<br /> Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, có tới 113 HS (chiếm tới<br /> hơn 51% tổng số khách thể khảo sát) cho rằng, các em có<br /> thái độ sợ hãi, khóc lóc, van xin đối tượng khi gặp phải tình<br /> huống có nguy cơ có thể bị LDTD. Dường như các em còn<br /> nhỏ, giàu cảm xúc và sống bằng cảm xúc. HSTH rất dễ xúc<br /> động trước các tác động của cuộc sống. Các em thường thể<br /> hiện cường độ cảm xúc mạnh mẽ, khóc cười rất hồn nhiên.<br /> <br /> Câu 7<br /> 2,09<br /> 2,28<br /> <br /> Tổng<br /> 2,07<br /> 2,29<br /> <br /> 2,45<br /> <br /> 2,37<br /> <br /> Bảng 2. So sánh giữa các trường trong việc<br /> xác định thái độ khi ứng phó với nguy cơ bị LDTD<br /> Bình<br /> Kiên quyết<br /> Sợ hãi, khóc<br /> tĩnh<br /> chống trả<br /> lóc van xin<br /> tìm<br /> Trường<br /> đối tượng<br /> người và tìm cách<br /> thoát thân<br /> lạm dụng<br /> trợ<br /> giúp<br /> La Hiên<br /> 61%<br /> 8%<br /> 31%<br /> Đội Cấn<br /> 47%<br /> 28%<br /> 25%<br /> Trường Giáo<br /> dục và Hỗ trợ<br /> 25%<br /> 50%<br /> 25%<br /> trẻ em<br /> bị thiệt thòi<br /> Bảng 2 cho thấy, HSTH tại Trường Giáo dục và Hỗ<br /> trợ trẻ em bị thiệt thòi có sự xác định thái độ đúng đắn<br /> hơn HS hai trường còn lại, đặc biệt là so với Trường Tiểu<br /> học La Hiên. Phần lớn các bạn HS Trường Tiểu học La<br /> Hiên và Đội Cấn sẽ sợ hãi, khóc lóc van xin đối tượng<br /> khi có nguy cơ bị LDTD. Ngược lại, 50% HS tham gia<br /> khảo sát của Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt<br /> thòi tỉnh Thái Nguyên lại chọn bình tĩnh tìm người trợ<br /> giúp. Phải chăng sự khác biệt này cũng liên quan với môi<br /> trường sinh sống và học tập của các em. Ở Trường Giáo<br /> dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên, HS<br /> khuyết tật có nguy cơ cao bị LDTD; trước những nguy<br /> 46<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 44-49<br /> <br /> cơ đó, các em được đặc biệt quan tâm, giáo dục thường<br /> xuyên về LDTD trẻ em. Vì lẽ đó, các em ở trường này có<br /> thái độ khác hẳn hai trường còn lại.<br /> Như vậy, có thể thấy, khi các em có nhận thức đúng đắn<br /> và đầy đủ về các vấn đề có liên quan đến nguy cơ bị LDTD,<br /> các em sẽ có thái độ đúng đắn và bình tĩnh khi đối diện với<br /> những tình huống này. Kết quả bảng 3 cho thấy, đa số các<br /> em vẫn có thái độ lo sợ, khóc lóc van xin đối tượng lạm<br /> dụng khi đối diện với nguy cơ bị xâm hại. Thiết nghĩ, song<br /> song với việc nâng cao nhận thức cho các em về các vấn đề<br /> có liên quan đến LDTD trẻ em thì việc định hướng cho các<br /> em biết bày tỏ thái độ đúng khi đối diện nguy cơ bị LDTD<br /> cũng là điều cần thiết, không thể không lưu tâm.<br /> - Thực trạng kĩ năng ứng phó của HSTH về các tình<br /> huống gây nguy cơ bị LDTD: Để đánh giá kĩ năng ứng phó<br /> với nguy cơ LDTD của HSTH, chúng tôi xây dựng 7 tình<br /> huống giả định với các đáp án cho sẵn về cách ứng phó trong<br /> từng tình huống để HS lựa chọn. Các tình huống chúng tôi<br /> xây dựng xoay quanh các khía cạnh của nguy cơ trẻ đối diện<br /> với LDTD. Cụ thể:<br /> Tình huống 1: Vào giờ ra chơi ở trường, bác bảo vệ đột<br /> nhiên tới gần bạn, cho bạn bim bim, kẹo, sữa... và rủ bạn vào<br /> phòng bảo vệ của mình. Bạn sẽ làm gì trong tình huống này?<br /> Tình huống 2: Tan học, khi bạn Vy đang chờ người<br /> thân đến đón, có người lạ đến gần và nhận là bạn của mẹ<br /> Vy. Chú ấy bảo rằng, mẹ nhờ đến đón Vy về. Nếu là Vy,<br /> bạn sẽ làm gì trong tình huống này?<br /> Tình huống 3: Trên đường đi học về, bạn bị một người<br /> đàn ông lạ mặt chặn lại. Bạn sẽ làm gì trong tình huống này?<br /> Tình huống 4: Khi bạn Hạnh đang ở nhà một mình thì<br /> có người lạ gõ cửa. Nếu là Hạnh, bạn sẽ làm gì?<br /> Tình huống 5: Khi ở nhà một mình, có hàng xóm,<br /> người quen gõ cửa, bạn sẽ làm gì?<br /> Tình huống 6: Nam và Lan quen nhau trên mạng xã<br /> hội. Hai bạn mới chỉ nói chuyện online chứ chưa bao giờ<br /> gặp mặt. Bỗng một hôm Nam nhắn tin rủ Lan gặp mặt và đi<br /> chơi. Nếu là Lan, bạn sẽ làm gì?<br /> Tình huống 7: Tuấn và Thảo là bạn bè trên mạng xã<br /> hội. Một hôm, Tuấn gửi cho Thảo một số hình ảnh clip<br /> khiêu dâm và rủ rê Thảo cùng thực hiện như trong clip. Nếu<br /> là Thảo, bạn sẽ làm gì?<br /> Chúng tôi kết hợp với quan sát những biểu hiện khi các<br /> em lựa chọn cách xử lí theo tiêu chí: Câu trả lời nhanh hay<br /> chậm, chính xác hay không, thái độ của các em khi trả lời.<br /> Kết quả cho thấy:<br /> - Ở tình huống 1: Có tới 39% chọn phương án sai:<br /> “đồng ý nhận quà và đi theo bác bảo vệ”. Các em cho rằng:<br /> Bác bảo vệ cũng là người thân thuộc, gần gũi với các em ở<br /> trường học. Sự lựa chọn trên hoàn toàn có thể lí giải như<br /> sau: HSTH còn non nớt, ngây thơ, luôn tin tưởng vào mọi<br /> người xung quanh nên các em không hề mảy may suy nghĩ<br /> <br /> về những trường hợp có thể xảy ra. Trong thực tế, có rất<br /> nhiều trường hợp bác bảo vệ lợi dụng sự quen biết để tiếp<br /> cận, sau đó thực hiện hành vi xấu của mình. So sánh giữa<br /> các trường cho thấy, HS Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ thiệt<br /> thòi có kĩ năng tốt hơn cả, sau đó đến Trường Đội Cấn và<br /> Trường La Hiên yếu nhất về kĩ năng ứng phó trong những<br /> tình huống đối diện với nguy cơ bị LDTD. Cụ thể: Trong số<br /> 100 HS của Trường Tiểu học Đội Cấn, có 48% chọn<br /> phương án “khéo léo từ chối và đi ra chỗ khác”; trong số 20<br /> HS của Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi tỉnh<br /> Thái Nguyên cũng có tới 50% chọn đáp án đó. Tuy nhiên,<br /> tại Trường Tiểu học La Hiên, tỉ lệ HS chọn phương<br /> án “đồng ý nhận quà và đi theo bác bảo vệ” lại chiếm con<br /> số cao nhất (37%).<br /> - Ở tình huống thứ 2: 67% chọn phương án sai đó là<br /> “nghe lời và lên xe”, chỉ có 33% số HS chọn phương án<br /> đúng “đề nghị gọi điện và cho bạn nói chuyện với mẹ”. So<br /> sánh giữa các trường cho thấy, Trường Tiểu học Đội Cấn<br /> có kĩ năng phòng vệ tốt nhất, sau đó đến Trường Giáo dục<br /> và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi và cuối cùng là HS Trường<br /> Tiểu học La Hiên. Cụ thể: Trong số 100 em HS của Trường<br /> Tiểu học La Hiên, có 77% các em chọn phương án thứ nhất<br /> nhưng chỉ có 23% chọn phương án thứ ba: “đề nghị gọi điện<br /> và cho bạn nói chuyện với mẹ”. Trường Giáo dục và Hỗ trợ<br /> trẻ em bị thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên cũng vậy, có tới 70%<br /> các em HS chọn phương án thứ nhất, chỉ có 30% chọn<br /> phương án thứ ba. Tuy nhiên, tỉ lệ HS chọn phương án thứ<br /> ba của Trường Tiểu học Đội Cấn là ở mức cao nhất (69%).<br /> - Ở tình huống thứ 3: Để các em một mình cũng là một<br /> trong những lí do khiến các em có nguy cơ cao bị LDTD.<br /> Do tuổi còn nhỏ và chưa có nhiều kĩ năng, khi gặp phải câu<br /> hỏi tình huống thứ ba, các em thường sẽ lo sợ, hét toáng lên<br /> và tìm cách thoát thân. Điều đó thể hiện ở con số 62% các<br /> em HS chọn phương án sai. Còn các em có thể bình tĩnh để<br /> đối diện chỉ có 11%. Đối với câu hỏi tình huống thứ ba, cả<br /> ba trường đều có tỉ lệ HS chọn phương án lo sợ, hét toáng<br /> lên và tìm cách thoát thân.<br /> - Ở tình huống thứ 4: Trẻ có thể tự ở nhà một mình hay<br /> không là một câu hỏi cho không ít bậc cha mẹ hiện nay.<br /> Đối với câu hỏi tình huống thứ tư, tỉ lệ HS chọn ba phương<br /> án đầu không có sự chênh lệch nhiều (32%; 30%; 28%)<br /> nhưng tỉ lệ HS chọn phương án cuối cùng lại chỉ có 10%.<br /> Tuy tỉ lệ các em chọn phương án “mở của cho người lạ vào”<br /> vẫn khá cao (33%) nhưng phương án “nhất quyết không mở<br /> cửa” cũng chiếm 30% và “nói dối rằng chìa khóa bố mẹ<br /> không để ở nhà” chiếm 28%. Điều này cho thấy, đối với<br /> người lạ, cha mẹ các em cũng đã có sự dạy dỗ nhất định để<br /> các em tự bảo vệ bản thân. Tuy nhiên, các em vẫn chưa thực<br /> sự có kĩ năng tốt khi chỉ có 10 % chọn phương án “quay vào<br /> nhà và gọi bố mẹ xem như bố mẹ đang ở nhà”. So sánh giữa<br /> các trường cho thấy, kĩ năng tốt hơn hẳn vẫn là các em HS<br /> 47<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 44-49<br /> <br /> Trường Tiểu học Đội Cấn, sau đó đến Trường Tiểu học La<br /> Hiên và yếu nhất là Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị<br /> thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên.<br /> - Ở tình huống thứ 5: Khi để các con ở nhà một mình,<br /> cha mẹ thường nhờ người thân, quen chăm sóc hoặc khóa<br /> cửa lại. Tuy nhiên, người quen, hàng xóm đôi khi lợi dụng<br /> sự quen biết, phụ thuộc, sự ngây thơ và sự tin tưởng của trẻ<br /> để dụ dỗ các em cho mở cửa vào và thực hiện hành vi<br /> LDTD của mình. Trong tổng số 220 em tham gia trả lời, có<br /> tới 49% các em chọn “mở của cho người quen, hàng xóm<br /> vào”, 11 % chọn phương án “nhất quyết không mở cửa”,<br /> 31% các em HS chọn “nói dối rằng không có chìa khóa cửa”<br /> và chỉ có 9% chọn phương án “nói với hàng xóm, người<br /> quen rằng chìa khóa bố mẹ không để ở nhà”. Có thể thấy<br /> rằng, ở tình huống này, các em bộc lộ sự hạn chế về kĩ năng<br /> ứng phó.<br /> - Ở tình huống 6 và 7: Xã hội ngày càng phát triển, điều<br /> kiện tiếp xúc của trẻ với mạng xã hội ngày càng nhiều. Bên<br /> cạnh nhưng mặt tích cực, mạng xã hội cũng có rất nhiều tiêu<br /> cực. Trong số 220 HS tham gia trả lời, tỉ lệ HS chọn phương<br /> án thứ hai (phương án an toàn): “từ chối và nói chuyện này<br /> với bố mẹ” là nhiều nhất. Đối với Trường Tiểu học Đội Cấn,<br /> HS có nhận thức tốt hơn nên kĩ năng cũng tốt hơn, tỉ lệ HS<br /> chọn phương án “không đồng tình” nhiều hơn so với<br /> Trường Tiểu học La Hiên và Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ<br /> em bị thiệt thòi tỉnh Thái Nguyên.<br /> Qua hệ thống câu hỏi tình huống, kết hợp với quan sát,<br /> chúng tôi nhận thấy, đa số các em có kĩ năng ứng phó trước<br /> nguy cơ bị LDTD ở mức khá. Trong đó, Trường Tiểu học<br /> Đội Cấn là trường có kĩ năng ứng phó tốt nhất. Có lẽ bởi các<br /> em có điều kiện sống tốt hơn, đã được gia đình và nhà<br /> trường thường xuyên quan tâm, giáo dục. Tiếp theo là các<br /> em HS của Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi<br /> tỉnh Thái Nguyên. Tuy rằng so với các bạn cùng trang lứa,<br /> các em có phần thiệt thòi cả về mặt thể chất và tinh thần,<br /> nhưng lại nhận được sự quan tâm đặc biệt từ nhà trường, gia<br /> đình và xã hội nên kĩ năng của các em cũng được nâng cao.<br /> Còn đối với Trường Tiểu học La Hiên, có thể do điều kiện<br /> sống còn chưa được cao, nhiều nơi dân trí còn thấp, các em<br /> chưa được giáo dục về vấn nạn này, đó cũng là một trong<br /> những lí do quan trọng ảnh hưởng đến kĩ năng ứng<br /> phó trước nguy cơ bị LDTD của các em.<br /> 2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng ứng phó của học<br /> sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trước nguy cơ<br /> bị lạm dụng tình dục<br /> Để tìm hiểu nguyên nhân khiến kĩ năng ứng phó của<br /> HSTH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chỉ đạt mức trung bình,<br /> chúng tôi tiến hành trò chuyện với 5 HS, 3 giáo viên Trường<br /> Tiểu học La Hiên; 05 HS, 2 giáo viên Trường Tiểu học Đội<br /> Cấn và trao đổi bằng cách viết câu hỏi ra giấy với ba HS, 01<br /> giáo viên của Trường Giáo dục và Hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi.<br /> <br /> Kết quả cho thấy: 82,4% số ý kiến cho rằng, các em yếu kĩ<br /> năng ứng phó với nguy cơ lạm dụng bởi bản thân các em<br /> không được trang bị kiến thức một cách có hệ thống về vấn<br /> đề này; 56,4% số ý kiến cho rằng, các em còn nhỏ, rất khó để<br /> nói cho các em hiểu sâu sắc vấn đề; 32,1% số ý kiến cho rằng,<br /> phụ huynh ít khi nói với con về vấn đề này. Khi chúng tôi đặt<br /> câu hỏi về việc nhà trường có tổ chức tuyên truyền cho HS<br /> thường xuyên không, cả 6 giáo viên được hỏi đều có chung<br /> quan điểm: Nhà trường có tổ chức tuyên truyền nhưng cũng<br /> không thường xuyên, chủ yếu là chỉ tổ chức vào một dịp lễ<br /> nào đó có lồng ghép nội dung này.<br /> Như vậy, có thể khẳng định: Nhận thức không đầy đủ<br /> chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến kĩ năng ứng phó với<br /> tình huống LDTD của HSTH hạn chế. Từ cách nhìn nhận<br /> này có thể thấy, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức<br /> cho các em còn hạn chế; tiếp đó là do yếu tố chủ quan từ<br /> chính các em - lứa tuổi tiểu học với đặc điểm nổi bật trong<br /> đời sống tâm lí là các em sống bằng cảm xúc, dễ tin người.<br /> Đây cũng chính là khoảng trống để đối tượng xấu lợi dụng<br /> thực hiện hành vi LDTD đối với trẻ.<br /> 2.2.4. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng ứng phó cho học<br /> sinh tiểu học trước nguy cơ bị lạm dụng tình dục:<br /> - Tổ chức tuyên truyền trực tiếp cho HS tại nhà<br /> trường: Thông qua các giờ chào cờ, sinh hoạt lớp, sinh<br /> hoạt sao và lồng ghép trong các giờ học kĩ năng sống.<br /> Việc tuyên truyền nhằm mục đích cung cấp cho các em<br /> kiến thức về LDTD như: đối tượng LDTD, tình huống<br /> có nguy cơ LDTD… Trên cơ sở đó, định hướng thái độ<br /> phản ứng tích cực cho HS trước nguy cơ bị LDTD;<br /> hướng dẫn, tư vấn cho các em cách để ứng phó khi đối<br /> diện với nguy cơ bị LDTD. Để HS biết cách phòng tránh<br /> LDTD, tự bảo vệ bản thân, hiệu trưởng cần chỉ đạo giáo<br /> viên tuyên truyền, giáo dục cho HS kĩ năng nhận biết và<br /> phòng tránh LDTD bằng các hình thức phong phú, linh<br /> hoạt như tích hợp trong các môn học, lồng ghép trong các<br /> hoạt động ngoài giờ lên lớp, trong tiết sinh hoạt sao. Qua<br /> buổi tuyên truyền, tuyên truyền viên dạy cho các em kĩ<br /> năng tự bảo vệ mình trước những LDTD. Những kĩ năng<br /> ấy có thể là: không để ai vào nhà khi cha mẹ vắng nhà,<br /> phải biết la lên khi bị ai đó ôm vai vuốt tóc, phải biết gây<br /> tiếng động cầu cứu đối với hàng xóm, phải biết hành<br /> động chống trả quyết liệt đối với kẻ muốn LDTD, tránh<br /> đi một mình vào chỗ vắng vẻ hay chỗ thiếu ánh sáng... Các<br /> trường cần tổ chức nhiều hơn những buổi nói chuyện<br /> chuyên đề, tuyên truyền, hướng dẫn cho HS những tình<br /> huống có thể khiến trẻ bị xâm hại và cách tự phòng vệ bản<br /> thân khỏi đối tượng xâm hại. Việc tuyên truyền cần được tổ<br /> chức thường xuyên; nhà trường cần mời những chuyên gia<br /> tâm lí có khả năng truyền tải thông điệp tốt để thu hút sự chú<br /> ý lắng nghe của các em. Ngoài ra, các thầy cô giáo cần lồng<br /> 48<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2