Kinh nghiệm triển khai quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu tại một số quốc gia và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết "Kinh nghiệm triển khai quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu tại một số quốc gia và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam" trên cơ sở nghiên cứu nội hàm của quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, thực tiễn cũng như định hướng áp dụng của một số quốc gia (đặc biệt các nước có điều kiện tương tự như Việt Nam), sẽ đánh giá một số tác động và đưa ra giải pháp ứng xử phù hợp đối với Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kinh nghiệm triển khai quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu tại một số quốc gia và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
- KINH NGHIỆM TRIỂN KHAI QUY TẮC THUẾ TỐI THIỂU TOÀN CẦU TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính Với mục tiêu phát triển kinh tế toàn cầu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo tính công bằng của hệ thống thuế giữa các quốc gia và chống thất thu thuế, từ năm 2013, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã khởi xướng và được Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) thông qua Sáng kiến chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (Base Erosion and Profit Shifting - BEPS) với 2 nội dung chính: (1) Phân chia quyền đánh thuế, thực hiện đánh giá về phân bổ lợi nhuận và các nguyên tắc phân bổ lợi nhuận; (2) Đảm bảo rằng tất cả các doanh nghiệp hoạt động quốc tế phải trả mức thuế tối thiểu. Ngày 08/10/2021, Diễn đàn hợp tác toàn cầu về BEPS (IF) đã ban hành tuyên bố về “Khung giải pháp Hai trụ cột để giải quyết các thách thức phát sinh từ nền kinh tế kỹ thuật số”. Trong đó, Trụ cột I về phân bổ thuế đối với hoạt động kỹ thuật số và Trụ cột II quy định về thuế suất tối thiểu toàn cầu. Trụ cột II đưa ra 2 quy tắc chính là nội luật kết hợp (GloBE) và quyền đánh thuế của nước nguồn (STTR). Trong đó, quy tắc GloBE bao gồm 2 quy tắc: Thuế suất tối thiểu (IIR) và khoản thanh toán chịu thuế dưới mức tối thiểu (UTPR). Tính đến thời điểm hiện nay, 142 quốc gia thành viên đã đồng thuận việc triển khai Khung giải pháp Hai trụ cột, trong đó có Việt Nam - thành viên thứ 100 của BEPS từ năm 2017. Một số quốc gia đã đưa ra lộ trình triển khai luật hóa quy tắc thuế suất tối thiểu toàn cầu ngay sau khi có tuyên bố chung (điển hình là Liên minh châu Âu -EU). Thuế tối thiểu toàn cầu là chính sách thuế quốc tế nên sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam với tư cách là một quốc gia thu hút và tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu nội hàm của quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, thực tiễn cũng như định hướng áp dụng của một số quốc gia (đặc biệt các nước có điều kiện tương tự như Việt Nam), bài viết sẽ đánh giá một số tác động và đưa ra giải pháp ứng xử phù hợp đối với Việt Nam. 1. Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu 1.1. Mục tiêu Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng với mục tiêu chính là đảm bảo các tập đoàn đa quốc gia phải trả mức thuế tối thiểu bất kể họ đặt trụ sở chính ở đâu hoặc khu vực pháp lý mà họ hoạt động. Ngoài ra, các mục tiêu đan xen khác bao gồm: (i) Đảm bảo mức thuế tối thiểu trong khi tránh đánh thuế hai lần hoặc đánh thuế khi 11
- không có lợi nhuận kinh tế; (ii) Đối phó với các thiết kế hệ thống thuế khác nhau của các khu vực pháp lý cũng như các mô hình hoạt động khác nhau của các doanh nghiệp; (iii) Đảm bảo tính minh bạch và sân chơi bình đẳng; (iv) Giảm thiểu chi phí hành chính và tuân thủ. 1.2. Đối tượng và phạm vi áp dụng Đối tượng áp dụng của thuế tối thiểu toàn cầu là các tập đoàn đa quốc gia có doanh thu hợp nhất toàn cầu từ 750 triệu EUR hằng năm trở lên theo báo cáo từng quốc gia trong ít nhất 2 năm của 4 năm liền kề trước thời điểm thực hiện nghĩa vụ thuế tối thiểu toàn cầu. Các cơ quan chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức phi lợi nhuận, quỹ hưu trí hoặc quỹ đầu tư mà công ty mẹ tối cao của các tập đoàn đa quốc gia (MNEs) hoặc bất kỳ hình thức nào của các công ty, tổ chức hoặc quỹ đó đều không chịu điều chỉnh của quy tắc GloBE. Ngoài ra, quy tắc GloBE đưa ra loại trừ tối thiểu đối với các quốc gia mà ở đó các công ty thành viên có doanh thu ít hơn 10 triệu EUR và thu nhập ròng ít hơn 1 triệu EUR hoặc lỗ ròng trung bình trong 3 năm (bao gồm năm soát xét và 2 năm liền kề trước đó). Quy tắc GloBE cho phép loại trừ quy tắc UTPR đối với các MNEs đang trong giai đoạn đầu của các hoạt động quốc tế, cụ thể là các MNEs có tối đa 50 triệu EUR tài sản hữu hình ở nước ngoài và hoạt động tại không quá 06 quốc gia. Việc loại trừ này được giới hạn trong 5 năm sau khi MNEs lần đầu thuộc đối tượng của quy tắc GloBE. Đối với các MNEs thuộc đối tượng của quy tắc GloBE, khi các quy tắc này có hiệu lực thì thời gian 5 năm sẽ được bắt đầu kể từ khi quy tắc UTPR có hiệu lực. 1.3. Nội hàm các quy tắc Quy tắc nội luật kết hợp - GloBE (i) Quy tắc thuế suất tối thiểu (gộp thu nhập) - IIR (Income Inclusion Rule) Đây là quy tắc đánh từ trên xuống, cho phép quốc gia nơi đặt trụ sở của công ty mẹ tối cao được đánh thuế công ty mẹ tối cao đối với thu nhập của công ty con chịu thuế ở dưới mức thuế tối thiểu 15%. Quy tắc thuế suất tối thiểu toàn cầu IRR được ưu tiên áp dụng trước cho công ty mẹ tối cao tại quốc gia nơi công ty mẹ tối cao đặt trụ sở chính. Như vậy, thực chất IIR là cơ chế đánh thuế bổ sung nhằm đưa phần thuế bổ sung trở lại quốc gia nơi có trụ sở của công ty mẹ tối cao. Công ty mẹ tối cao là chủ thể phải nộp phần thuế bổ sung thay cho công ty con đang hoạt động tại quốc gia khác nếu trong kỳ tính thuế, mức thuế suất hiệu quả áp dụng cho một công ty con thấp hơn 15%. Khi đó, quốc gia nơi đặt trụ sở của công ty mẹ tối cao sẽ nhận được phần thuế bổ sung theo mức thuế suất bổ sung tính trên phần thu nhập của công ty con đã bị đánh thuế thấp hơn mức thuế suất tối thiểu toàn cầu. Công thức tính mức thuế suất bổ sung: 12
- [Mức thuế suất bổ sung] = [Mức thuế suất tối thiểu (15%)] - [mức thuế suất hiệu quả đã nộp] Trong trường hợp quốc gia nơi công ty mẹ tối cao không áp dụng quy tắc IIR thì quốc gia nơi có công ty mẹ trung gian1 kế tiếp sẽ thực hiện quy tắc IIR đối với công ty mẹ trung gian này. (ii) Quy tắc khoản thanh toán chịu thuế dưới mức tối thiểu - UTPR (Undertaxed Payment Rule) Đây là quy tắc bổ trợ cho quy tắc IIR áp dụng trong trường hợp công ty con đang chịu thuế ở mức thấp hơn tối thiểu nhưng chưa bị đánh thuế bổ sung đối với phần thu nhập của công ty con có thuế suất thấp hơn mức tối thiểu 15%. Ví dụ, trong trường hợp quốc gia (gọi là A) nơi có công ty mẹ (gọi là X) và quốc gia khác (gọi là C) nơi công ty con hoạt động (gọi là Z) không áp dụng Trụ cột II, thì quốc gia khác (gọi là B) nơi có công ty con khác hoạt động (gọi là Y) được áp dụng quy tắc UTPR để thu thêm phần thuế bổ sung đối với công ty Y bằng phần thuế dưới mức tối thiểu của công ty Z. Có thể thấy rằng, quy tắc GloBE là giải pháp của các nước lớn có dòng vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm mục tiêu làm chuyển hướng hoạt động đầu tư sản xuất - kinh doanh của các MNEs quay trở lại quốc gia nơi có trụ sở của công ty mẹ, từ đó hạn chế việc tránh thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của các MNEs và tạo lập lại một sân chơi bình đẳng cho tất cả các quốc gia. Quy tắc quyền đánh thuế của nước nguồn - STTR (The Subject to Tax Rule) Quy tắc STTR cho phép quốc gia nguồn nơi phát sinh thu nhập được quyền đánh thuế ở mức thuế suất tối thiểu là 9% đối với một số khoản thanh toán nhất định cho bên liên kết chịu thuế ở dưới 9%. Các khoản thanh toán bao gồm: Lãi tiền vay, tiền bản quyền và một số khoản thanh toán khác. Số thuế phải nộp theo nguyên tắc STTR được coi là một loại thuế được bao gồm theo quy tắc GloBE. Thứ tự ưu tiên trong thực hiện các quy tắc của Trụ cột II như sau: Quy tắc STTR được ưu tiên áp dụng trước quy tắc GloBE, trong đó số thuế đã nộp theo quy tắc STTR sẽ được tính vào số thuế của quy tắc GloBE. Trong quy tắc GloBE, quy tắc IIR được ưu tiên áp dụng trước cho công ty mẹ tối cao tại quốc gia nơi công ty mẹ tối cao đặt trụ sở chính. Trong trường hợp không có quy tắc IIR được áp dụng thì quy tắc UTPR sẽ được áp dụng cho công ty con. 1.4. Hướng dẫn triển khai Về cơ bản, các quốc gia thành viên của IF không bị bắt buộc phải thực hiện quy tắc GloBE nhưng nếu các nước đồng thuận áp dụng sẽ phải triển khai quy tắc một 1 Công ty mẹ trung gian là bất kỳ một pháp nhân nào của tập đoàn mà trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu một phần hoặc toàn bộ các pháp nhân khác trong cùng tập đoàn. 13
- cách thống nhất và phù hợp với hướng dẫn của IF. Các quốc gia có thể áp dụng cơ chế thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (Qualified Domestic Minimum Top-up Tax - QDMTT) để giảm thiểu ảnh hưởng của Trụ cột II. Định nghĩa về QDMTT được nêu trong Điều 10.1 của các quy tắc GloBE. Theo đó, QDMTT là đưa thuế tối thiểu vào quy định luật trong nước (nội luật hoá) và phải được triển khai và quản lý theo cách phù hợp với các quy tắc của GloBE mà không có các lợi ích khác được cung cấp. Ngày 02/02/2023, Khuôn khổ bao trùm của OECD/G20 về BEPS đã công bố Hướng dẫn kỹ thuật để hỗ trợ các chính phủ thực hiện cải cách mang tính bước ngoặt đối với hệ thống thuế quốc tế, nhằm đảm bảo MNEs sẽ phải chịu mức thuế suất tối thiểu hiệu quả là 15%2. Theo đó, OECD đã phát triển các quy trình để giúp các chính phủ và cơ quan thuế đánh giá liệu mức thuế bổ sung tối thiểu được đề xuất có cấu thành QĐMTT hay không. 2. Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu và định hướng áp dụng của một số quốc gia 2.1. Tác động của quy tắc GloBE Tác động đến nguồn thu thuế toàn cầu Nguồn thu thuế toàn cầu được dự báo đạt được khá lớn khi áp dụng quy tắc GloBE do đối tượng chủ yếu bị tác động là các MNEs đang có lợi nhuận bị đánh thuế thấp sẽ phải nộp thêm phần thuế bổ sung và vấn đề chuyển dịch lợi nhuận của các MNEs cũng gián tiếp bị suy giảm do sự khác biệt về thuế suất hiệu quả giữa các khu vực pháp lý không còn đáng kể. Bảng 1. Khái quát về tác động đến nguồn thu thuế toàn cầu khi áp dụng GloBE Ước tính tăng nguồn thu thuế toàn % nguồn thu thuế TNDN Giá trị cầu toàn cầu (%) (Tỷ USD) Phần thuế bổ sung trực tiếp 0,9 - 1,7 23 - 42 Nguồn thu bổ sung từ việc giảm chuyển 0,8 - 1,1 19 - 28 dịch lợi nhuận Tổng nguồn thu thuế từ GloBE 1,7 - 2,8 42 - 70 Nguồn: OECD (2020)3 2 https://www.oecd.org. 3 OECD (2020), Tax Challenges Arising from Digitalisation - Economic Impact Assessment Inclusive Framework on BEPS. 14
- Nguồn thu thuế ước tính có xu hướng tăng cao tại nhóm nước thu nhập cao do phần thuế bổ sung được chuyển về các quốc gia nơi có công ty mẹ tối cao đặt trụ sở. Tuy nhiên, nhóm các nước thu nhập trung bình và thấp có thể được hưởng lợi từ việc giảm chuyển dịch lợi nhuận của MNEs do cùng áp dụng mức thuế tối thiểu. Tác động đến hoạt động đầu tư toàn cầu Quy tắc GloBE chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến đầu tư, đổi mới và hoạt động kinh tế của các MNEs thông qua nhiều kênh tác động: (1) Kênh trực tiếp nhất là các MNEs phải nộp thêm phần thuế bổ sung; và (2) Kênh thứ hai là chi phí đầu tư (sau thuế) của các MNEs sẽ tăng. Tuy nhiên ảnh hưởng của kênh thứ hai được ước tính tương đối nhỏ, dưới 0,1% GDP toàn cầu trong trung và dài hạn. Sự tăng chi phí đầu tư có thể tác động tương đối nhỏ đến các MNEs có quy mô lớn và lợi nhuận cao do các công ty này được đánh giá là ít nhạy cảm hơn với thuế TNDN trong các quyết định đầu tư của họ so với các công ty có lợi nhuận thấp hơn. Ví dụ, các công ty thuộc nhóm MNEs có tỷ suất sinh lợi trên 10% được cho là nhạy cảm với thuế TNDN bằng một nửa so với các công ty thuộc nhóm MNEs có tỷ suất sinh lợi 0 - 10%. Bên cạnh đó, các MNEs có lợi nhuận cao cũng có nhiều khả năng được hưởng lợi từ yếu tố liên quan đến sức mạnh thị trường và yếu tố này được cho là ít ảnh hưởng đến đầu tư của doanh nghiệp so với thuế suất đánh trên lợi nhuận. Các MNEs có lợi nhuận thấp hơn sẽ giảm đầu tư vào các quốc gia mà có chi phí đầu tư tăng và tiến tới phân bổ lại khoản đầu tư này cho các quốc gia khác. Quy tắc GloBE sẽ buộc các MNEs đánh giá lại các chiến lược đầu tư và sản xuất - kinh doanh trên toàn cầu. Các MNEs cũng phải xem lại chiến lược chuyển dịch lợi nhuận ở các quốc gia do lợi ích của kế hoạch chuyển dịch lợi nhuận không còn xứng đáng với chi phí bỏ ra (ví dụ, chi phí tài chính và tư vấn của các kế hoạch, chi phí danh tiếng...). Tuy nhiên, kế hoạch chuyển dịch lợi nhuận cũng như địa điểm đầu tư của các MNEs sẽ trở nên khó dự đoán do đặc thù của từng công ty con. Quy tắc GloBE cũng có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư tại các quốc gia do tác động dây chuyền tiềm ẩn đối với cơ sở tính thuế TNDN và các cơ sở tính thuế khác (ví dụ thuế thu nhập cá nhân). Tuy nhiên đối với các quốc gia có thuế suất cao hơn mức tối thiểu sẽ không gặp phải tổn thất đầu tư, thậm chí có thể được hưởng lợi từ đầu tư của các MNEs. 2.2. Định hướng áp dụng của một số quốc gia (i) Các quốc gia đầu tư - quốc gia nguồn Hiện nay, hầu hết các nước thuộc EU; Thụy Sỹ, Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Indonesia, HongKong, Úc… đã xác nhận sẽ áp dụng quy tắc IRR bắt đầu từ năm 2024 và quy tắc UTPR từ năm 2024 hoặc 2025. Trong đó, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản… là các nước có số vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt Nam và là các nước có nhiều doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng của thuế tối thiểu toàn cầu. 15
- Một số quốc gia dự kiến sẽ áp dụng QDMTT như Thụy Sỹ, Đài Loan (2024), Singapore (2025). (ii) Các quốc gia nhận đầu tư Đối với các quốc gia nhận đầu tư trong khu vực ASEAN có điều kiện tương đồng như Việt Nam (Malaysia, Indonesia, Thái Lan) đều đã có kế hoạch triển khai thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu. Malaysia4 dự kiến thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu 15% từ năm 2024 theo khuyến cáo từ OECD. Malaysia sẽ tiến hành rà soát lại các chế độ ưu đãi thuế, trong đó có các công ty được hưởng thuế suất 0% hoặc thuế suất dưới 15% để tránh chuyển thuế về các quốc gia nơi đặt trụ sở của công ty mẹ tối cao. Malaysia sẽ thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu bằng 3 bước như sau: (1) Áp dụng hai quy tắc là IIR và UTPR; (2) Áp dụng cơ chế QDMTT; (3) Xem xét điều chỉnh luật pháp và chính sách trong nước để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng nguyên tắc GloBE. Đối với bước (1), quy tắc UTPR sẽ được Malaysia thực hiện như sau: Thuế phát sinh từ việc áp dụng UTPR có thể được thu dưới dạng nhóm các công ty bất kể chúng có phải là công ty mẹ hay không. Tiền thuế UTPR sẽ được tính dựa trên tỷ lệ giữa số lượng nhân viên và giá trị tài sản hữu hình ở Malaysia. Tuy nhiên, quy tắc GloBE không quy định cách tính và thu thuế của các quốc gia. Trong trường hợp một tập đoàn đa quốc gia có nhiều công ty con ở Malaysia, Malaysia có quyền quyết định cách phân bổ và tính trách nhiệm nộp thuế giữa các công ty con. Hai phương án được dự tính như sau: Phương án 1: Từ chối khoản khấu trừ thuế thu nhập đối với các chi phí được khấu trừ trước đây của nhóm MNEs, với các quy tắc cụ thể, nhằm tạo ra một khoản thuế bổ sung bằng với thuế được phân bổ cho Malaysia. Ví dụ, nếu nhóm MNEs cần bổ sung một nghĩa vụ thuế trị giá 1.000 MYR thì khoản thuế này sẽ được Malaysia chuyển thành từ chối khấu trừ cho 4.166 MYR chi phí được khấu trừ trong năm tài khóa có liên quan đến khoản thuế được bổ sung (thuế suất thuế TNDN tại Malaysia là 24%). Nếu các khoản khấu trừ trong năm đó nhỏ hơn 4.166 MYR thì phần thiếu hụt sẽ được chuyển sang để giảm các khoản khấu trừ trong năm tiếp theo. Phương án 2: Coi cách tính thuế theo quy tắc GloBE và bất kỳ nghĩa vụ thuế phát sinh nào là một nghĩa vụ thuế riêng biệt độc lập với thuế thu nhập. Điều này áp dụng chung cho UTPR và IIR. Trong trường hợp này, nghĩa vụ thuế sẽ là trách nhiệm chung và liên đới của tất cả các công ty con thuộc MNEs ở Malaysia. 4 https://www.thesundaily.my. https://budget.mof.gov.my. https://www.ey.com. https://www2.deloitte.com. 16
- Đối với bước (2), Malaysia sẽ thực hiện QDMTT như sau: Việc đưa QDMTT vào văn bản pháp luật sẽ đảm bảo rằng bất kỳ khoản thuế bổ sung nào đối với các hoạt động kinh tế được thực hiện ở Malaysia và lợi nhuận tạo ra ở Malaysia, sẽ vẫn ở lại Malaysia. Về cơ bản, theo QDMTT, thay vì cho phép quốc gia đặt trụ sở công ty mẹ thu khoản thuế bổ sung của thuế tối thiểu toàn cầu (dưới quy tắc IIR và UTPR) thì Malaysia sẽ áp dụng chính mức thuế bổ sung đó và giữ lại khoản thuế này ở lại Malaysia. Điều quan trọng của QDMTT là chính sách này chỉ áp dụng cho các loại thuế tối thiểu trong nước đủ điều kiện, nghĩa là dựa trên quy tắc GloBE và được thiết kế để thu cùng loại thuế bổ sung theo Trụ cột II. Đối với bước (3), Malaysia đang đưa ra 2 lựa chọn để áp dụng quy tắc GloBE: Phương án 1: Đưa thẳng các điều của quy tắc GloBE vào Luật Thuế thu nhập 1967 của Malaysia. Phương án 2: Thông qua quy tắc GloBE trong các văn bản luật pháp khác ngoài Luật Thuế thu nhập và các Nghị định hướng dẫn Luật. Indonesia5 là một trong số các quốc gia thành viên của nhóm G20 nhất trí với hai trụ cột chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận của OECD/G20 để áp dụng cho các quốc gia trên thế giới. Indonesia đã thông báo sẽ áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu trong năm 2023. Hiện tại, thuế suất thuế TNDN của Indonesia là 22%, cao hơn nhiều so với mức tối thiểu toàn cầu là 15%, nhưng quốc gia này cũng có nhiều hiệp định thương mại với các quốc gia đối tác nên cũng có các MNEs được hưởng ưu đãi thuế. Vì vậy, đến nay, Indonesia đã có 2 thay đổi về luật pháp nhằm tạo đà cho áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu: Trong cùng tháng với Tuyên bố từ OECD IF (tháng 10/2021), Indonesia đã ban hành Luật Hài hòa hóa các quy định về thuế (Luật HPP). Điều 32A của Luật HPP về thuế thu nhập quy định, Chính phủ có thẩm quyền thực hiện các thỏa thuận thuế với các quốc gia đối tác hoặc vùng lãnh thổ đối tác, cả song phương và đa phương. Đồng thời Luật cũng quy định các thỏa thuận thuế này phải nằm trong khuôn khổ tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn thuế, ngăn chặn xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận, trao đổi thông tin thuế, hỗ trợ thu thuế và bất kỳ hợp tác thuế nào khác, tạo tiền đề cho việc áp dụng Trụ cột II thuế tối thiểu toàn cầu. Tháng 12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định Chính phủ số 55 (GR-55) để thực hiện các sửa đổi Luật Thuế thu nhập theo Luật HPP. GR-55 bao gồm 2 chủ đề thuế quốc tế: Các biện pháp chống trốn thuế và các hiệp định thuế quốc tế. GR-55 cũng thừa nhận một khái niệm mới về phân bổ quyền đánh thuế đã được thiết kế để 5 https://www.internationaltaxreview.com. https://mucglobal.com. 17
- trao quyền đánh thuế rộng hơn cho quốc gia nguồn nơi đặt trụ sở của công ty mẹ. Trong khi đó, có những giải pháp khác được thiết kế để chấm dứt việc chuyển lợi nhuận sang các khu vực pháp lý miễn thuế hoặc thuế thấp và để đảm bảo các MNEs trả mức thuế tối thiểu toàn cầu theo quy định trong hiệp định. GR-55 là cơ sở pháp lý để áp dụng phương pháp Trụ cột II như sau: Nhóm MNEs nằm trong phạm vi của hiệp định thuế quốc tế sẽ phải chịu mức thuế tối thiểu toàn cầu được thu tại Indonesia dựa trên hiệp định nói trên. Việc triển khai chi tiết giải pháp các trụ cột ở Indonesia sẽ được quy định thêm thông qua các quy định của Bộ Tài chính Indonesia. Lộ trình được đưa ra như sau6: Trong nửa đầu năm 2023, Indonesia sẽ hoàn thành các thay đổi về chính sách và lập pháp trong nước để tạo đà cho việc áp dụng các trụ cột thuế; đến cuối năm 2023 - đầu năm 2024, Indonesia sẽ áp dụng IIR; UTPR sẽ được áp dụng trong năm 2024. Thái Lan7 là một trong 138 quốc gia đã thông qua BEPS 2.0 bao gồm cách tiếp cận hai trụ cột vào năm 2021. Hiện tại, Thái Lan đang thực hiện những bước đầu tiên để áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Nước này có mức thuế suất tiêu chuẩn của thuế TNDN là 20%. Tuy nhiên, Thái Lan đang áp dụng một số ưu đãi thuế đặc biệt theo Đạo luật Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư, do đó sẽ có nhiều doanh nghiệp MNEs có công ty con ở Thái Lan sẽ bị ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu toàn cầu8. Ngày 07/3/2023, Chính phủ Thái Lan đã phê duyệt về nguyên tắc việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu ở Thái Lan và giao cho các đơn vị triển khai thực hiện như sau: Cục Thuế Thái Lan: (i) Soạn thảo luật để thu thuế bổ sung dựa trên khuôn khổ Trụ cột 2 của Tuyên bố OECD IF, dự kiến dự thảo đầu tiên sẽ được xem xét vào năm 2023 và có hiệu lực vào năm 2025; (ii) Phân bổ 50 -70% số thuế bổ sung thu được theo Trụ cột 2 cho Quỹ nâng cao năng lực cạnh tranh của Ủy ban Đầu tư (BOI); (iii) Chia sẻ thông tin chi tiết về người nộp thuế bổ sung với BOI. Quỹ nâng cao năng lực cạnh tranh của Ủy ban Đầu tư: (i) Sửa đổi Đạo luật nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cho các ngành mục tiêu B.E. 2560 (2017) để tăng nguồn tài trợ cho Quỹ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cho các ngành mục tiêu (Quỹ tăng cường), với việc sử dụng nguồn phân bổ từ việc thu thuế bổ sung theo Trụ cột II nhằm hỗ trợ thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước; (ii) Đề xuất các biện pháp xúc tiến đầu tư để tăng cường khả năng cạnh tranh của quốc gia, bằng cách cung cấp hỗ trợ tài chính cho các khoản đầu tư hoặc chi phí của các nhà đầu tư nhằm tăng cường khả 6 https://www.pajak.com. 7 https://news.bloombergtax.com. https://www.ey.com. 8 https://oecdpillars.com/thailands-tax-incentive-regime-and-pillar-two. 18
- năng cạnh tranh và đầu tư bền vững trong nước theo Đạo luật nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cho các ngành mục tiêu B.E. 2560 (2017) gửi Ủy ban Chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cho các ngành mục tiêu (Ủy ban chính sách nâng cao năng lực) để xem xét phê duyệt; (iii) Đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động của thuế tối thiểu toàn cầu theo Đạo luật Xúc tiến đầu tư B.E. 2520 (1997) đối với BOI. Philippines9 cũng như đa số các quốc gia đang phát triển khác sử dụng ưu đãi thuế để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là đối với các MNEs lớn. Trong những năm qua, các nhà hoạch định chính sách và lập pháp Philippines đã thực hiện các ưu đãi thuế khác nhau trong chương trình cải cách thuế toàn diện. Đáng chú ý nhất là Luật Phục hồi doanh nghiệp và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp. Các ưu đãi về thuế hiện tại của Philipines duy trì thời gian miễn thuế thu nhập và thuế TNDN đặc biệt (SCIT) là 5%. Cả hai biện pháp khuyến khích này về cơ bản đều làm giảm thuế suất thực xuống thấp hơn nhiều so với mức thuế tối thiểu toàn cầu 15%. Giả sử thuế suất thực khoảng 5% (dựa trên 5% SCIT), công ty mẹ tối cao của các công ty con địa phương sẽ buộc phải trả khoản thuế bổ sung khoảng 10% tại quốc gia của họ. Thuế bổ sung làm giảm đáng kể sức hấp dẫn của SCIT, hay nói cách khác, làm giảm sức hấp dẫn của việc đầu tư vào Philippines. Tại Philippines, các công ty niêm yết có thể được hưởng ưu đãi thuế tối đa 17 năm. Sau đó, họ sẽ phải chịu thuế TNDN thông thường 25%, cao hơn nhiều so với mức thuế tối thiểu toàn cầu 15%. Một số thông tin cho rằng, Philippines có nguy cơ sẽ mất một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn do các doanh nghiệp rút vốn khỏi nước này khi không còn được hưởng ưu đãi thuế. Nhưng cho đến nay, Chính phủ Philippines vẫn chưa có động thái trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã cam kết áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. 3. Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đối với Việt Nam và khuyến nghị chính sách 3.1. Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đối với Việt Nam Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể suy giảm Trong thời gian qua, Việt Nam đã điều chỉnh thuế suất thuế TNDN phổ thông từ mức 32%, xuống các mức 28%, 25%, 22% và hiện tại là 20%; đồng thời áp dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế TNDN. Đối với các doanh nghiệp thuộc diện ưu đãi cả về thuế suất và thời gian thì mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%. Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành một nơi đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế, đã thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao của nhiều tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia đến đầu tư kinh doanh với mức vốn đầu tư cam kết và thực hiện ngày càng tăng. Lũy kế trong giai đoạn 2017 - 2022, Việt Nam đã thu hút được gần 200 tỷ USD, 9 https://www.bdblaw.com.ph. 19
- trong đó vốn thực hiện đạt khoảng 119 tỷ USD. Năm 2022, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 27,72 tỷ USD, mức vốn FDI thực hiện đạt kỷ lục 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm (2017 - 2022). Với thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu, các doanh nghiệp FDI thuộc đối tượng điều chỉnh sẽ phải nộp phần thuế bổ sung về quốc gia của công ty mẹ tối cao, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn cũng như kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp này, đồng thời ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, từ đó tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tác động đến số thu ngân sách nhà nước (NSNN) Thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến số thu thuế TNDN của Việt Nam đối với các MNEs có công ty con đang hoạt động tại Việt Nam theo quy định về thuế TNDN hiện hành, nhưng sẽ tác động đến dòng vốn FDI vào Việt Nam và gián tiếp ảnh hưởng nguồn thu NSNN từ thuế đối với các doanh nghiệp FDI trong tương lai. Theo ước tính, có khoảng hơn 1.000 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thuộc đối tượng của thuế tối thiểu toàn cầu. Tác động đến công tác quản lý thuế đối với các MNEs tại Việt Nam Trong bối cảnh nền kinh tế số và toàn cầu hóa thì công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế đối với các MNEs nói riêng là một thách thức lớn, ảnh hưởng đến kết quả thu NSNN. Thuế tối thiểu toàn cầu được kỳ vọng là giải pháp làm giảm động cơ trốn, tránh thuế của các MNEs thông qua việc sử dụng cơ chế giá nội bộ để chuyển giá. Theo đó, thất thu NSNN do các hành vi chuyển giá của các MNEs ở Việt Nam có khả năng được giảm thiểu. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các MNEs, các hành vi giao dịch giữa các công ty thành viên vẫn là thách thức lớn đối với cơ quan thuế. Thách thức này càng lớn hơn khi xuất hiện các mô hình kinh doanh mới, lấn át hoặc thay thế các mô hình kinh doanh truyền thống, đòi hỏi cơ quan thuế phải thay đổi phương thức quản lý, đồng thời tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin với các cơ quan thuế trên thế giới. 3.2. Một số khuyến nghị chính sách Việt Nam hiện nay là một quốc gia đang phát triển, có độ mở của nền kinh tế lớn, chủ yếu tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài nên cho dù Việt Nam có tham gia hay không tham gia thì các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu vẫn có tác động đến Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần điều chỉnh chính sách để thích ứng với bối cảnh mới. Việc điều chỉnh chính sách cần đảm bảo: (1) Phù hợp với các quy tắc chung của thuế tối thiểu toàn cầu; (2) Tiếp tục tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài; (3) Hài hòa lợi ích của nhà đầu tư và quyền thu thuế của Việt Nam để đảm bảo nguồn thu NSNN. Trên cơ sở đó, xin khuyến nghị như sau: Thứ nhất, bổ sung quy định về cơ chế QDMTT. Theo quy tắc GloBE, các MNEs có doanh thu hợp nhất 750 triệu EUR trở lên phải chịu mức thuế suất thực tế 15% tại nơi hoạt động. Theo đó, các quốc gia tiếp 20
- nhận vốn đầu tư - nơi tạo ra nguồn thu nhập được quyền ưu tiên thu thuế bằng cách áp dụng cơ chế QDMTT. Trong trường hợp thu nhập gộp của MNEs tại một quốc gia có mức thuế suất thực tế thấp hơn 15% thì quy tắc GloBE cho phép các quốc gia có công ty con được quyền thu thuế bổ sung đối với phần chênh lệch. Vì vậy, để đảm bảo quyền thu thuế của Việt Nam đối với các MNEs đang có hoạt động đầu tư tại Việt Nam mà có mức thuế suất thực tế tối thiểu dưới 15%, Việt Nam cần có quy định về cơ chế QDMTT theo nguyên tắc GloBE đối với các MNEs là đối tượng của thuế tối thiểu toàn cầu. Thứ hai, giữ nguyên mức thuế suất phổ thông 20%. So với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì mức thuế suất thuế TNDN hiện tại của Việt Nam (20%) cao hơn Singapore (17%), tương đương với Thái Lan (20%) và thấp hơn một số nước trong khu vực châu Á và trên thế giới (Trung Quốc 25%; Hàn Quốc 27,5%; Nhật Bản 29,74%; Malaysia 24%; Philippines 25%; Myanma 22%…). Do đó, mức thuế suất pháp định phổ thông 20% tại Việt Nam không cần thiết phải xem xét điều chỉnh. Thứ 3, rà soát, hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế nhằm tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chính sách ưu đãi thuế tuy không phải là yếu tố quan trọng nhất nhưng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế TNDN cần xác định mục tiêu rõ ràng là không chỉ nhằm phù hợp với việc thực thi thuế tối thiểu toàn cầu mà còn nhằm thiết kế lại các chính sách ưu đãi thuế một cách đồng bộ với các chính sách khác ngoài thuế nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư. Đồng thời, cần rà soát, chỉnh sửa các quy định của Luật Đầu tư liên quan đến hình thức ưu đãi đầu tư, đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, ngành nghề và địa bàn ưu đãi đầu tư... Thứ tư, hoàn thiện chính sách khác ngoài thuế Theo nghiên cứu của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO, 2011), ổn định kinh tế, ổn định chính trị, chi phí nguyên liệu, thị trường nội địa, chi phí lao động, tính minh bạch của khung pháp lý tại quốc gia tiếp nhận đầu tư được các nhà đầu tư đánh giá cao hơn ưu đãi thuế10. Nhiều nghiên cứu khác của các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB…) cũng đã chỉ ra rằng, ưu đãi thuế chỉ là một trong các yếu tố mà các nhà đầu tư xem xét khi quyết định đầu tư. Do đó, cùng với việc xem xét sửa đổi chính sách ưu đãi thuế hợp lý hơn thì Việt Nam cũng cần nghiên cứu, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư về các chính sách ngoài thuế (như miễn, giảm tiền thuê đất, cải cách thủ tục hành chính nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp…). 10 UNIDO (2011a), Africa Investor Report: Towards Evidence-based Investment Promotion Strategies. 21
- Đồng thời, Việt Nam cần phát huy lợi thế về ổn định chính trị; kiên định, chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ kết hợp với chính sách tài khóa, vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa hỗ trợ doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh tiếp cận với nguồn vốn hợp lý cho sản xuất - kinh doanh. Thứ năm, tăng cường hợp tác về thuế giữa các quốc gia nhằm chia sẻ thông tin, phối hợp hành động trong quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu NSNN. Tài liệu tham khảo Tiếng Anh 1. Carmel Peters (2015), Developing Countries’ Reactions to the G20/ OECD Action Plan on Base Erosion and Profit Shifting, Bulletin for International Taxation”. 2. Deloitte (2023), Malaysia Budget 2023 Snapshot Developing Malaysia MADANI. 3. OECD (2020), Tax Challenges Arising from Digitalisation - Economic Impact Assessment Inclusive Framework on BEPS. 4. OECD (2022), Tax Incentives and the Global Minimum Corporate Tax: Reconsidering Tax Incentives after the GloBE Rules, OECD Publishing, Paris. 5. OECD (2023), Tax Challenges Arising from the Digitalisation of the Economy - Administrative Guidance on the Global Anti - Base Erosion Model Rules (Pillar Two). 6. Tax Division, Ministry of Finance Malaysia (2022), Public Consultation Paper for Budget 2023: The Implementation of GloBE Rules in Malaysia. Tiếng Việt 7. Ngô Thế Chi (2013), Giải pháp hạn chế các thủ thuật chuyển giá trong điều kiện hiện nay của các công ty đa quốc đang hoạt động tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính. 8. Vũ Nhữ Thăng (2017), Gói hành động về xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS): Khả năng áp dụng tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính. 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khoa học thống kê 2
12 p | 227 | 72
-
Hoàn thiện quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị hiện nay ở Việt Nam
5 p | 71 | 8
-
Quản lý các khoản thu từ đất: Bài học kinh nghiệm từ Nam Định và Hải Dương
6 p | 43 | 6
-
Xây dựng quy tắc cứng cho hệ thống tuân thủ hình sự của doanh nghiệp
8 p | 29 | 4
-
Quản lý người đại diện: Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại các tập đoàn/Tổng công ty nhà nước ở Việt Nam
6 p | 73 | 3
-
Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 tỉnh Hà Giang
272 p | 12 | 3
-
Phương pháp xác định danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Ninh Thuận
11 p | 9 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn