BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN QUỐC BẢO KINH TẾ HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN THỜI KỲ 1802 - 1884
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGHỆ AN - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN QUỐC BẢO
KINH TẾ HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN DƯỚI TRIỀU NGUYỄN THỜI KỲ 1802 - 1884
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9229013
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS NGUYỄN QUANG HỒNG
2. PGS.TS TRẦN ĐỨC CƯỜNG
NGHỆ AN - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu sử
dụng trong Luận án hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan, có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng. Những kết luận của Luận án chưa được công bố trong công trình nào khác.
Tác giả Luận án
Trần Quốc Bảo
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 4
5. Đóng góp của luận án ............................................................................................... 7
6. Bố cục của luận án ................................................................................................... 7
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................................ 8
1.1. Những nghiên cứu về kinh tế Việt Nam nói chung .............................................. 8
1.2. Những nghiên cứu về kinh tế Nghệ An và huyện Nam Đàn .............................. 15
1.3. Những kết quả nghiên cứu được luận án kế thừa ............................................... 22
1.4. Những vấn đề cần giải quyết của luận án ........................................................... 23
Chương 2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH TẾ HUYỆN
NAM ĐÀN .................................................................................................................... 24
2.1. Quá trình hình thành............................................................................................ 24
2.2. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................... 28
2.2.1. Vị trí địa lý .................................................................................................... 28
2.2.2. Địa hình, đất đai ............................................................................................ 28
2.2.3. Khí hậu .......................................................................................................... 31
2.2.4. Đồi núi, sông ngòi ......................................................................................... 33
2.2.5. Đường giao thông ......................................................................................... 37
2.3. Bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế ở huyện Nam Đàn trước năm 1802 .............. 41
2.4. Những chính sách, biện pháp của nhà Nguyễn thực thi ảnh hưởng đến
kinh tế Nghệ An, huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 .................................... 43
2.4.1. Đối với nông nghiệp ..................................................................................... 43
2.4.2. Đối với thủ công nghiêp, thương nghiệp ...................................................... 46
2.4.3. Một số chính sách khác ................................................................................. 47
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 51
Chương 3. NÔNG NGHIỆP ....................................................................................... 52
3.1. Tình hình sở hữu, sử dụng ruộng đất .................................................................. 52
3.1.1. Ruộng đất công làng xã ................................................................................ 57
3.1.2. Ruộng đất tư nhân ......................................................................................... 63
3.2. Trồng trọt ............................................................................................................ 71
3.2.1. Thời vụ và giống, cây trồng .......................................................................... 71
3.2.2. Các loại nông cụ, dụng cụ, kỹ thuật canh tác ............................................... 75
3.2.3. Công tác trị thủy - thủy lợi ............................................................................ 80
3.2.4. Nghề làm vườn, trại ...................................................................................... 82
3.2.5. Năng suất và tô thuế ..................................................................................... 86
3.3. Chăn nuôi, khai thác thủy sản ............................................................................. 92
3.3.1. Chăn nuôi ...................................................................................................... 92
3.3.2. Khai thác thủy sản ........................................................................................ 93
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 95
Chương 4. THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG NGHIỆP ................................... 96
4.1. Thủ công nghiệp .................................................................................................. 96
4.1.1. Khái quát tình hình thủ công nghiệp ............................................................ 96
4.1.2. Một số nghề thủ công tiêu biểu..................................................................... 98
4.2. Hoạt động thương nghiệp .................................................................................. 108
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................... 118
Chương 5. ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT ................................................................. 119
5.1. Trong thời kỳ 1802 - 1884, kinh tế Nam Đàn phát triển trong điều kiện
không thuận lợi về tự nhiên và xã hội .............................................................. 119
5.2. Tình hình sở hữu ruộng đất huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884, phản
ánh thực trạng sở hữu ruộng đất ở trấn/tỉnh Nghệ An nói riêng và cả
nước nói chung ................................................................................................. 123
5.3. Nông nghiệp Nam Đàn phản ánh rõ nét bức tranh kinh tế tiểu nông tự
cung tự cấp lỗi thời và lạc hậu ......................................................................... 129
5.4. Tác động của kinh tế Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 đến các hoạt động
văn hóa, xã hội.................................................................................................. 133
5.5. Những hạn chế mà nhà Nguyễn thực hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội là nguyên nhân sâu xa đẩy nông dân làng xã Nam Đàn vào tình cảnh mất mùa đói kém, phiêu tán và thậm chí là nổi dậy khởi nghĩa, chống lại triều đình ........................................................................ 141
Tiểu kết chương 5 .................................................................................................... 145
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 152
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT Mục từ viết tắt Nguyên nghĩa
Cb 1 Chủ biên
CTQG 2 Chính trị quốc gia
KHXH 3 Khoa học xã hội
Nxb 4 Nhà xuất bản
Tp 5 Thành phố
6 TTLTQG I Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Tr 7 Trang
VHTT 8 Văn hóa thông tin
9 34623.4.11.0.0 34623 mẫu 4 sào 11 thước 0 tấc 0 phân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Phân bố ruộng đất huyện Nam Đàn (1802 - 1884) .................................... 55
Bảng 3.2. Phân bố công điền trong các xã thôn ......................................................... 58
Bảng 3.3. So sánh mức độ phổ biến của ruộng công ................................................. 59
Bảng 3.4. Chất lượng công điền ................................................................................. 60
Bảng 3.5. Phân loại ruộng đất tư ................................................................................ 63
Bảng 3.6. Chất lượng tư điền ..................................................................................... 66
Bảng 3.7. Quy mô sở hữu ruộng tư ............................................................................ 68
Bảng 3.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa ......................................................... 69
Bảng 3.9. So sánh bình quân sở hữu giữa huyện Nam Đàn với một số huyện
khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ .................................... 71
Bảng 3.10. Thuế ruộng đất công, tư ở khu vực II thời Gia Long ................................ 87
Bảng 3.11. Thuế ruộng công, tư ở khu vực II thời Minh Mệnh .................................. 88
Bảng 3.12. Thuế ruộng đất công, tư ở khu vực IV thời Tự Đức .................................. 88
Bảng 4.1. Một số nghề tiểu thủ công nghiệp ở Nam Đàn .......................................... 97
Bảng 4.2. Một số loại đá ong được khai thác ở mỏ đá làng Kiền, Thanh Thuỷ
và một số mỏ đá khác ở Nam Đàn ........................................................... 101
Bảng 4.3. Các chợ có quy mô lớn ở Nam Đàn ở thế kỷ XIX .................................. 108
Bảng 5.1. Phân bố sở hữu tư điền ............................................................................ 124
Bảng 5.2. Tổng hợp tình hình sở hữu ruộng đất của chức dịch ............................... 127
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 3.1. Cơ cấu ruộng đất huyện Nam Đàn (1802 - 1884) .................................. 56
Biểu đồ 3.2. Phân bố công điền ở một số địa phương nửa đầu thế kỷ XIX ................ 57
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu ruộng đất tư nhân ........................................................................ 64
Biểu đồ 3.4. Quy mô các loại hình đất đai trong sở hữu tư nhân ................................ 65
Biểu đồ 5.1. Sở hữu chủ nữ, phân canh, phụ canh ở một số địa phương thời
Nguyễn (1802 - 1884) ........................................................................... 125
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Kinh tế là hoạt động sản xuất của cải vật chất, là toàn bộ phương thức sản
xuất và trao đổi của một chế độ xã hội; là tổng hòa các mối quan hệ sản xuất dựa trên
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo nên kết cấu kinh tế của chế độ xã
hội hay cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Kinh tế với các lĩnh vực hoạt động gồm nông
nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp có mối quan hệ không thể tách rời với nhu cầu
vật chất, sinh hoạt trong đời sống của các cộng đồng cư dân, các mục tiêu nhằm phát
triển kinh tế bao gồm trong đó mục tiêu xây dựng tiến bộ xã hội được đặt ra. Mặt khác,
kinh tế còn đóng vai trò quan trọng tạo nên dấu ấn trong nền văn hóa dân tộc, góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa vùng miền trong bức tranh đa sắc màu của văn hóa Việt
Nam. Do vậy, nghiên cứu lịch sử kinh tế có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhằm đem
lại những hiểu biết chính xác và toàn diện hơn về lịch sử dân tộc.
1.2. Trong vài thập niên gần đây, nghiên cứu, đánh giá về thời kỳ các chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX
đã, đang nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Với
nguồn tư liệu cụ thể của địa phương, đặc biệt là tài liệu Hán Nôm, tư liệu địa bạ dưới
triều Nguyễn, việc lựa chọn những nội dung liên quan đến kinh tế làm đối tượng
nghiên cứu góp phần tái hiện lại một cách có hệ thống kinh tế địa phương trong mối
tương quan với kinh tế nhà nước trong thời kỳ này. Đồng thời góp phần minh họa
thêm trong việc nghiên cứu lịch sử làng xã nói riêng, lịch sử chế độ phong kiến nói
chung trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
1.3. Trấn Nghệ An (gồm Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) từ thế kỷ XVI cho đến
trước thế kỷ XIX là một trong những địa bàn tranh chấp chính của chiến tranh Nam -
Bắc triều, chiến tranh Trịnh - Nguyễn giữa các thế lực phong kiến. Nơi đây, vừa cung
cấp nguồn lực vật chất, con người... cũng là nơi phải gánh chịu nhiều hậu quả do các
biến động chính trị - xã hội mang lại. Nghệ An là đất tổ của anh em nhà Tây Sơn, nơi
“địa linh nhân kiệt” này đất rộng, người đông có thể giúp nhà Nguyễn dựng nghiệp
bền lâu, hoặc có thể làm cho cơ đồ họ Nguyễn đối diện với nhiều thách thức. Nhận
thức rõ điều đó, các vị vua Gia Long (1802 - 1820), Minh Mệnh (1820 - 1840), Thiệu
Trị (1840 - 1847), Tự Đức (1847 - 1883), đã kiên quyết xoá bỏ những thành quả của
2
Tây Sơn trên đất Nghệ An (phá bỏ Sùng chính Thư viện, cho lập trại Hữu Biệt để quản
thúc những người giúp đỡ hoặc có họ hàng với Tây Sơn) [78]… Đồng thời ban hành
các chính sách, biện pháp để cư dân xứ Nghệ đứng về phía nhà Nguyễn. Do đó, việc
lựa chọn địa bàn cụ thể là huyện Nam Đàn (thuộc trấn/tỉnh Nghệ An) để nghiên cứu là
góp phần thiết thực vào việc làm rõ được những chính sách vừa kiên quyết vừa khéo
léo mà nhà Nguyễn đã thực thi trên vùng đất thuộc lưu vực sông Lam, trước khi người
Pháp chiếm thành Nghệ An (7/1885) nhưng lại chưa được đề cập trong các công trình
đã nghiên cứu.
1.4. Nam Đàn nằm ở vùng hạ lưu sông Lam, là vùng đất có truyền thống lịch
sử, văn hóa lâu đời của trấn/tỉnh Nghệ An. Theo tiếp cận của chúng tôi, đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu về huyện Nam Đàn, nhưng chưa có một công trình nào
nghiên cứu về phương diện kinh tế. Việc tái hiện lại một cách hệ thống kinh tế huyện
Nam Đàn, dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884 sẽ góp phần làm rõ quá trình ra đời,
phát triển của kinh tế Nam Đàn trong mối tương quan với kinh tế của cả nước trong
cùng bối cảnh lịch sử. Đồng thời làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của kinh tế Nam
Đàn và ảnh hưởng, tác động của kinh tế đối với đời sống văn hóa vật chất và tinh thần
của cộng đồng cư dân nơi đây.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, chúng tôi chọn đề tài “Kinh tế huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884” làm luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An dưới triều
Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884. Tuy nhiên, để tái hiện bức tranh kinh tế Nam Đàn một
cách có hệ thống, toàn diện, đảm bảo tính khách quan, khoa học cả về lịch đại và đồng
đại, chúng tôi có dành một phần nội dung khái lược những nhân tố ảnh hưởng đến kinh
tế Nam Đàn cũng như thực trạng kinh tế trên địa bàn trước năm 1802. Bên cạnh việc tập
trung làm rõ về bức tranh nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp trên địa bàn
huyện Nam Đàn (1802 - 1884), chúng tôi còn hướng tới việc đưa ra một số nhận xét
đánh giá, chỉ rõ tác động của kinh tế đối với đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của
các giai tầng trên vùng đất Nam Đàn trong khoảng thời gian đề tài xác định.
3
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, theo sách: “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các
tỉnh Nghệ Tĩnh trở ra” [215] do Viện nghiên cứu Hán Nôm tổ chức biên soạn, huyện
Nam Đường có 8 tổng, 90 xã, thôn, phường, trại, sách, giáp, vạn. Dưới triều Nguyễn
thời kỳ 1802 - 1884, diên cách địa lý, địa danh huyện Nam Đàn sau nhiều lần cắt
chuyển, điều chỉnh với huyện Thanh Chương (phủ Anh Đô) có nhiều thay đổi và rộng
hơn nhiều so với địa giới hành chính huyện Nam Đàn ngày nay. Năm 1886, vì kỵ huý
tên vua Đồng Khánh, nên huyện Nam Đường đổi tên thành huyện Nam Đàn.
Đến năm 1911, chính quyền thuộc địa và triều Nguyễn quyết định sắp xếp lại
địa giới hành chính của huyện Thanh Chương và huyện Nam Đàn. Theo đó, tổng Nam
Kim thuộc huyện Thanh Chương, nằm ở hữu ngạn sông Lam cắt về huyện Nam Đàn.
Hai tổng Đại Đồng và Xuân Lâm của huyện Nam Đàn, nằm ở tả ngạn sông Lam sáp
nhập vào huyện Thanh Chương. Sau điều chỉnh địa giới hành chính này, huyện Nam
Đàn còn 6 tổng, 65 làng xã, thôn, trang, phường, vạn, giáp, vạn, sở, tương ứng với địa
giới hành chính ổn định của huyện Nam Đàn từ năm 1911 đến nay.
Do những thay đổi về diên cách địa lý, tên gọi qua nhiều thời kỳ, cùng nguồn tư
liệu địa bạ, văn bia, gia phả... thất thoát, trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi xin
phép giới hạn không gian nghiên cứu trong địa giới hành chính gồm 6 tổng với 65
làng, xã, trang, phường, vạn, giáp, tương ứng với địa giới hành chính của huyện Nam
Đàn từ năm 1911 đến ngày nay. Đồng thời, chúng tôi xin phép được dùng danh gọi
Nam Đàn chứ không dùng danh gọi Nam Đường.
Về thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu kinh tế huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An
thời kỳ 1802 - 1884. Chúng tôi lấy năm 1802 làm mốc mở đầu cho công trình nghiên cứu
vì đây là năm Nguyễn Phúc Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, đặt niên hiệu Gia Long năm
thứ nhất, xác lập vai trò của nhà Nguyễn đối với lịch sử dân tộc. Còn năm 1884 là mốc kết
thúc nghiên cứu vì sau khi ký Hiệp ước Giáp Thân (06/6/1884) nhà Nguyễn chính thức
thừa nhận và chấp thuận nền bảo hộ của nước Pháp đối với vương quốc Đại Nam, thực
chất là đánh mất quyền độc lập của đất nước vào tay thực dân Pháp.
Về nội dung, luận án nghiên cứu về kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 -
1884 trên các phương diện: Những nhân tố tự nhiên, xã hội ảnh hưởng đến kinh tế
Nam Đàn; Nông nghiệp với tình hình sở hữu ruộng đất, cơ cấu ngành nghề, giống cây
trồng, công cụ, nông cụ, cách thức canh tác, hệ thống thủy lợi và năng suất, tô thuế ở
4
địa phương; Thủ công nghiệp, thương nghiệp với hoạt động của các nghề, làng nghề
thủ công truyền thống và hệ thống chợ trên địa bàn huyện Nam Đàn. Ngoài ra, luận án
còn có những so sánh, đối chiếu huyện Nam Đàn với các huyện lân cận trong tỉnh và
mở rộng ra một số địa phương khác ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Từ những kết
quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số nhận xét và đánh giá về thực trạng và những
ảnh hưởng của kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong suốt 82 năm (1802 -
1884) đối với đời sống xã hội, văn hóa của các tầng lớp, giai cấp trên địa bàn huyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế và thực trạng nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, luận án nhằm khôi phục bức tranh kinh tế
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884; Nhận xét và
đánh giá những đặc điểm về kinh tế; Mặt khác cũng khẳng định vai trò của kinh tế đối
với tình hình xã hội và văn hóa trong tiến trình lịch sử của vùng đất này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là:
- Tiếp cận các công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước có nội dung liên
quan đến đề tài luận án, chỉ rõ việc kế thừa những kết quả từ các công trình nghiên cứu
trước đó, nhất là những nội dung trọng yếu cần được tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ.
- Nêu rõ các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và
thực trạng kinh tế Nam Đàn trước khi vương triều Nguyễn được thiết lập.
- Nghiên cứu kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 trên các phương
diện: nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Dựa trên kết quả so sánh đồng đại
chỉ ra những đặc điểm chung và riêng của kinh tế huyện Nam Đàn so với một số
huyện lân cận ở trấn/tỉnh Nghệ An và một số tỉnh ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ dưới
triều Nguyễn (1802 - 1884).
- Nhận xét và đánh giá về kinh tế Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 -
1884 nhằm làm rõ ảnh hưởng của kinh tế đối với đời sống vật chất, đời sống tinh thần
của các tầng lớp, giai cấp trên địa bàn huyện.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Luận án khai thác các tư liệu có liên quan đã được công bố từ trước đến nay bao
gồm các thư tịch, công trình khoa học, các sách, báo, tạp chí:
5
- Nguồn tài liệu thư tịch cổ gồm: Hoàng Việt luật lệ thời Gia Long, các bộ sách
lịch sử do Quốc sử quán và Nội các triều Nguyễn biên soạn như Đại Nam thực lục
(Chính biên), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Chính biên và Tục biên), Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí...
Nguồn tài liệu này được khai thác, sử dụng triệt để trong quá trình nghiên cứu và trình
bày nội dung luận án. Bởi đây là cơ sở khoa học giúp chúng tôi khảo sát về huyện
Nam Đàn thời Nguyễn.
Trong quá trình thu thập, phân loại tài liệu, chúng tôi nhận thấy các sách ghi chép
về trấn/tỉnh Nghệ An như: Hoan Châu phong thổ ký (Trần Danh Lâm), Nghệ An ký (Bùi
Dương Lịch), Thanh Chương huyện chí (Nguyễn Điển), An Tĩnh cổ lục (H. Le Breton)...
đã bổ cứu thêm cho chúng tôi những tư liệu quan trọng về lịch sử hình thành vùng đất,
đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế huyện Nam Đàn trong thế kỉ XIX.
- Nguồn tài liệu lưu trữ: Đây là tài liệu quan trọng nhất của luận án, chủ yếu
gồm các thư tịch về địa bạ, thần tích, thần sắc, văn bia... Chúng tôi đã khai thác gần
3.000 trang tài liệu thư tịch tại TTLTQG I, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trong đó,
đáng chú ý hơn cả là 40 tập địa bạ lập vào các thời điểm Gia Long, Minh Mệnh, Tự
Đức. Số địa bạ này được phân bố ở 5 tổng: Non Liễu, Lâm Thịnh, Hoa Lâm, Nam
Kim, Bích Triều. Nguồn tài liệu trên là cơ sở chủ yếu giúp chúng tôi giải quyết một số
nhiệm vụ khoa học và thực tiễn mà đề tài đặt ra.
- Các công trình nghiên cứu chuyên khảo thời cận đại, hiện đại đã được xuất
bản trong và ngoài nước của nhiều tác giả đi trước về tình hình sở hữu ruộng đất, kinh
tế như: Nguyễn Đức Nghinh, Trương Hữu Quýnh, Phan Huy Lê, Vũ Huy Phúc, Phan
Đại Doãn, Nguyễn Đình Đầu, Vũ Văn Quân, Đỗ Bang… Đây là những tài liệu tham
khảo quan trọng giúp chúng tôi so sánh, đối chiếu nhằm có những đánh giá mang tính
khách quan, khoa học đối với những nội dung về kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884.
Một nguồn tài liệu quan trọng khác gồm các công trình biên soạn về lịch sử địa
phương, trong đó có lịch sử các xã thôn của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; Lý lịch
các di tích văn hóa, lịch sử trên địa bàn huyện; Những công trình nghiên cứu về văn
hóa dân gian của các nhà nghiên cứu văn hóa tiêu biểu ở Nghệ An như: Ninh Viết
Giao, Chu Trọng Huyến đã làm phong phú thêm những thông tin về các nội dung liên
quan đến huyện Nam Đàn.
6
- Nguồn tài liệu điều tra, điền dã tại địa phương: Gồm sắc phong, phổ hệ, khoán
ước, hương ước, địa chí của làng xã, các bài văn tế, gia phả một số dòng họ lớn ở các
làng, những dấu tích ngành nghề, nhân vật, sản phẩm... Đây là nguồn tài liệu tham
khảo cần thiết, giúp chúng tôi so sánh, đối chiếu với các tài liệu thư tịch đã thu thập
được ở TTLTQG I, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Qua đó, làm phong phú thêm nguồn
thông tin, đặc điểm riêng của kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An dưới triều
Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884.
Tài liệu truyền miệng: Truyền thuyết, ca dao, hò vè, chuyện kể của những
người lớn tuổi. Đây là nguồn tài liệu rất phong phú, phản ánh cách nhìn nhận, tâm thức
của cư dân địa phương trong đời sống và sản xuất, nên chúng tôi cố gắng so sánh, đối
chiếu với các nguồn tài liệu khác nhằm chắt lọc những thông tin có giá trị.
Nguồn tài liệu thu thập được thông qua việc phỏng vấn những người lớn tuổi ở
các dòng họ, tại các làng nghề trong địa bàn huyện Nam Đàn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, chủ yếu là phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgíc nhằm giải quyết các nhiệm vụ khoa học của đề tài
đặt ra. Hai phương pháp này giúp chúng tôi khai thác hiệu quả nguồn tài liệu chính
thống (các bộ sử của triều Nguyễn), nguồn tài liệu thư tịch cổ (địa bạ, thần tích, thần
sắc, gia phả, văn bia, hương ước) để làm rõ kinh tế huyện Nam Đàn trên các phương
diện: nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Đồng thời vận dụng phương pháp
so sánh đồng đại, lịch đại để đối chiếu, phân tích đánh giá về ảnh hưởng của kinh tế
đối với đời sống vật chất và tinh thần của các giai tầng trong không gian địa giới
huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp tiếp cận của cách ngành
khác như Dân tộc học, Kinh tế học, Xã hội học, Văn hoá học, để làm rõ bối cảnh lịch
sử, các điều kiện tự nhiên, xã hội ảnh hưởng đến kinh tế và đánh giá một số tác động
của kinh tế đối với đời sống cộng đồng cư dân huyện Nam Đàn.
Thực hiện đề tài nghiên cứu về kinh tế địa phương, trong phạm vi không gian
địa lý hành chính một huyện thuộc phủ Anh Đô dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884
không phải lúc nào nguồn tư liệu gốc cũng có sẵn. Do vậy, để khắc phục sự thiếu
khuyết đó, chúng tôi sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn điều tra, hồi cố, chọn mẫu
7
trong nghiên cứu thực địa nhằm bổ sung thêm tư liệu. Đồng thời, sử dụng phương
pháp định lượng để phân tích, xử lý địa bạ kết hợp so sánh, đối chiếu các nguồn tài
liệu nhằm khôi phục một cách chân thực diện mạo kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884.
5. Đóng góp của luận án
Đề tài đạt được mục đích nghiên cứu đề ra sẽ có những đóng góp sau đây:
Về mặt khoa học:
- Bổ sung nguồn tư liệu về kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884. Kết
quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng để đối chiếu, so sánh cho việc nghiên cứu
về kinh tế ở trấn/tỉnh Nghệ An và một số tỉnh thành khác ở Bắc Trung Bộ, Bắc Bộ,
cũng như nghiên cứu về kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ sau năm 1884.
- Tái hiện lại bức tranh kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884, qua đó làm
rõ quá trình phát triển, một số đặc điểm cơ bản và tác động của kinh tế đối với tình
hình phát triển chính trị, xã hội và văn hóa của địa phương.
- Góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử kinh tế trên các phương diện: nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp ở địa phương.
Về mặt thực tiễn:
- Góp phần nghiên cứu lịch sử địa phương huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và cả nước.
- Đề tài là cơ sở khoa học đề xuất những biện pháp nhằm tận dụng các nguồn
lực, bảo tồn, khôi phục, phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Nam Đàn cho phù hợp
với tiềm năng của địa phương trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế huyện Nam Đàn
Chương 3: Nông nghiệp
Chương 4: Thủ công nghiệp và thương nghiệp
Chương 5: Nhận xét và đánh giá
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những nghiên cứu về kinh tế Việt Nam nói chung
Nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp: Theo tiếp cận của chúng tôi, nghiên cứu về
kinh tế Việt Nam nói chung, nông nghiệp nói riêng đã được các học giả trong và ngoài
nước tiến hành từ thời Pháp thuộc. Đầu tiên là các chuyên khảo của một số học giả
người Pháp tiến hành nghiên cứu kinh tế nông nghiệp thuộc các xứ Bắc Kỳ và Trung
Kỳ dưới nhiều góc độ chuyên môn khác nhau, với các công trình tiêu biểu của: P. Ory
(1894) với La commune annamite au Tonkin [266], Y. Henry (1932) với Économie
agricole de l’Indochine [268], P. Bernard (1934) với Le problème économique
Indochinois [265], Charles Robequain (1939) với L’Évolution économique de
l’Indochine francaise [260], P. Gourou (1940) với L’Utilisation du sol en Indochine
francaise [166]. Trong những công trình này, các học giả người Pháp đặc biệt quan
tâm nghiên cứu tình hình sở hữu, phương thức sử dụng ruộng đất trong canh tác, phân
tích một số giống cây trồng, vật nuôi và năng suất, sản lượng nông nghiệp ở một số
tỉnh thuộc Bắc Trung Kỳ và Trung Kỳ trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp.
Liên quan đến kinh tế nông nghiệp ở một số địa phương có địa bàn tiếp giáp,
mang nhiều đặc điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, xã hội với tỉnh Nghệ An thuộc
xứ Trung Kỳ, đã có một số chuyên khảo có giá trị được công bố. Đáng chú ý có tác giả
Le Breton (1924) La province de Thanh Hoa [264], R. Bulateau (1925) La province de
Ha Tinh [172], Charles Robequain (1929) Le Thanh Hoa [16]. Các công trình này chủ
yếu đề cập cụ thể về điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa, xã hội của các huyện ở Thanh
Hóa, Hà Tĩnh, là tư liệu quan trọng giúp chúng tôi đối chiếu, so sánh rút ra những
điểm tương đồng với tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, do nghiên cứu dưới góc độ chủ quan
gắn với công cuộc khai thác thuộc địa của tư bản Pháp, cho nên trong một số công
trình các quan điểm phân tích còn thiếu khách quan, mang tính đề cao vai trò của chế
độ thuộc địa.
Ngoài ra, một số tập san như Bulletin des Amis du Vieux Hue (1931) [132] số
đặc biệt về Trung Kỳ đã đăng tải nhiều bài viết giới thiệu khái quát về kinh tế trên các
9
phương diện: canh nông, kinh tế đồn điền... Đáng chú ý có các công trình nghiên cứu
của các kỹ sư canh nông, các nhà quản lý về nông nghiệp ở Bắc Trung Kỳ đăng trên
các tập san kinh tế như: Bulletin économique de l’Indochine (1898 - 1944) [260],
Annuaire économique de l’Indochine (1927) [259], L’Eveil économique de l’Indochine
(1918 - 1935) [262], Journal officiel de l’Indochine francaise (1889 - 1951) [263]...
Đây là những bộ tài liệu được các tác giả người Pháp ghi chép rất nhiều khía cạnh về
kinh tế ở Đông Dương, nhất là Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa. Những nội dung
được ghi chép và miêu tả từ các tạp chí trên sẽ là nguồn tư liệu tham khảo tin cậy đối
với đề tài của luận án.
Ngoài các công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp của các học giả nước
ngoài, từ những năm 40 của thế kỷ XX bắt đầu xuất hiện một số công trình nghiên cứu
của các tác giả người Việt có đề cập đến một số vấn đề về kinh tế nông nghiệp và tình
hình sở hữu ruộng đất trong nông thôn, làng xã Việt Nam. Đáng kể nhất là tác giả Vũ
Văn Hiền (1940) với La propriété communale au Tonkin [84] có đề cập đến vấn đề
công điền công thổ của một số làng xã nước ta ở Bắc Kỳ.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là sau 1954 vấn đề kinh tế nông
nghiệp trong nông thôn, làng xã Việt Nam thời quân chủ mới thực sự được các học giả
trong nước quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý có nhiều tác phẩm chuyên khảo đề cập
đến sở hữu ruộng đất dưới chế độ phong kiến Việt Nam của các tác giả: Phan Huy Lê
(1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ [100]; Vũ Huy Phúc
(1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX [147]; Trương Hữu
Quýnh (1982, 1983), Chế độ ruộng đất Việt Nam [168], [169] 2 tập; Tình hình ruộng
đất nông nghiệp và đời sống nhân dân dưới thời Nguyễn [170] do Trương Hữu Quýnh,
Đỗ Bang (cb, 1997)... Những cuốn sách trên đã đề cập đến tình hình sở hữu, chế độ
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước, thông qua khối lượng tư liệu
địa phương gồm: địa bạ, văn bia, gia phả… Các công trình này đã có những đóng góp
lớn về mặt tư liệu cũng như phương pháp nghiên cứu về sở hữu ruộng đất, kinh tế
nông nghiệp thời quân chủ.
Liên quan đến vấn đề kinh tế nông nghiệp và tình hình sở hữu ruộng đất dưới
triều Nguyễn, trong gần 6 thập kỷ qua Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử đã liên tục đăng tải
nhiều bài viết và thông tin tư liệu đề cập đến vấn đề ruộng đất, kinh tế, tình hình xã hội
10
và văn hóa trong làng xã Việt Nam như của: Nguyễn Khắc Đạm (1964), Góp mấy ý
kiến về vấn đề ruộng đất tư trong lịch sử Việt Nam [43] và (1981), Vấn đề ruộng đất
công và ruộng đất tư trong lịch sử Việt Nam [44]; Phan Đại Doãn (1981), Về tính chất
sở hữu ruộng đất công làng xã [26]; Bùi Quý Lộ (1986) Thêm một số ý kiến về chế độ
ruộng đất ở Tiền Hải nửa đầu thế kỷ XIX [109]; Vũ Văn Quân, Nguyễn Quang Ngọc
(1994), Diễn biến sở hữu ruộng đất ở một số làng buôn tiêu biểu thuộc vùng đồng
bằng Bắc bộ (đầu thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) [150]... Một số tạp chí như Tạp chí Dân
tộc học, Tạp chí Khảo cổ học, Tạp chí Hán Nôm cũng công bố nhiều bài viết có giá trị
khoa học của các chuyên gia trong lĩnh vực ruộng đất và kinh tế nông nghiệp. Giá trị
khoa học và thực tiễn của những công trình, bài viết kể trên, là cơ sở giúp chúng tôi
định hướng phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, khai thác nguồn tư liệu lưu trữ gồm:
địa bạ, hương ước, gia phả, văn bia, liên quan đến huyện Nam Đàn nhằm giải quyết
các nội dung mà đề tài đặt ra. Bên cạnh đó, còn giúp chúng tôi có những so sánh, đối
chiếu và đánh giá tổng quan về bức tranh kinh tế nông nghiệp nông thôn của một số
trấn/tỉnh ở Việt Nam trong thế kỷ XIX có liên quan đến đề tài.
Ngoài những chuyên khảo, công trình khoa học được in ấn xuất bản thành sách,
đăng tải trên các tạp chí, hội thảo khoa học, các dự án hợp tác nghiên cứu kinh tế nông
nghiệp, còn có một số luận án Tiến sĩ nghiên cứu tình hình sở hữu ruộng đất, kinh tế
nông nghiệp được công bố, góp phần làm rõ thực trạng kinh tế nông nghiệp trên bình
diện cả nước nói chung, một số địa phương nói riêng dưới triều Nguyễn. Tiêu biểu có:
Vũ Văn Quân (1991) Chế độ ruộng đất - kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX [149]; Phan Phương Thảo (2003), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định
qua tư liệu địa bạ [193]. Đáng chú ý, các công trình nghiên cứu của Trịnh Thị Thủy
(2002), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) nửa
đầu thế kỷ XIX [200]; Thái Quang Trung (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX [205]; Lê Hiến Chương (2012), Kinh tế,
văn hóa huyện La Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) nửa đầu thế kỷ XIX [22]; Mai Phương Ngọc
(2014), Cơ cấu kinh tế - xã hội và văn hoá xã Hoằng Lộc (Hoằng Hoá, Thanh Hoá)
thời kỳ trung đại [122]. Đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về tình hình
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của các huyện: Đông Sơn, xã Hoằng Hóa (Thanh
Hóa), Thừa Thiên Huế, La Sơn (Hà Tĩnh), thuộc những địa phương nằm trong khu vực
11
Bắc Trung Bộ và Trung Bộ, nơi có nhiều đặc điểm tương đồng với tỉnh Nghệ An,
huyện Nam Đàn. Dựa trên nguồn tư liệu lưu trữ đáng tin cậy, phương pháp nghiên cứu
khách quan, các công trình này là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng giúp chúng tôi
so sánh, đối chiếu nhằm lý giải những vấn đề khoa học liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu về thủ công nghiệp: Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nghiên
cứu về thủ công nghiệp ở Việt Nam bắt đầu thu hút được sự quan tâm của nhiều học
giả. Cuốn sách Sơ thảo Lịch sử phát triển Thủ công nghiệp Việt Nam [11] của Phan
Gia Bền (1957) được xem là một trong những tác phẩm đầu tiên trình bày đầy đủ và hệ
thống về lịch sử phát triển của thủ công nghiệp nước ta qua các thời kỳ. Với phương
pháp giám định tư liệu, tác giả đã trình bày một cách hệ thống sự ra đời, phát triển của
một số nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu trên phạm vi cả nước, đưa ra những nhận
định về thủ công nghiệp trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Những kết quả nghiên
cứu trong công trình này, góp phần cung cấp nguồn tư liệu bổ ích cho việc nghiên cứu
về thủ công nghiệp ở các địa phương, trong đó có tỉnh Nghệ An.
Nghiên cứu tình hình thủ công nghiệp nước ta thời Nguyễn giai đoạn độc lập và
thuộc Pháp từ năm 1802 đến năm 1945, chúng tôi quan tâm một số công trình chuyên
khảo về kinh tế liên quan đến thủ công nghiệp. Đáng chú ý có tác giả Nguyễn Thế Anh
(1971) với tác phẩm Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn [2] đã đề
cập đến kinh tế, xã hội Việt Nam trong bối cảnh trước và sau khi thực dân Pháp đô hộ,
đặc biệt xem xét và đánh giá tình hình phát triển thủ công nghiệp khá đầy đủ. Trong
tác phẩm của mình, tác giả còn trình bày khá rõ sự xuất hiện và những tác động của
nhân tố sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với hoạt động sản xuất thủ công nghiệp nước ta
từ năm 1802 đến năm 1945.
Liên quan đến quá trình hình thành, phát triển của thủ công nghiệp, tác giả
Nghiêm Phú Ninh (1986) trong công trình Con đường phát triển tiểu công nghiệp, thủ
công nghiệp Việt Nam [119] đã trình bày khái quát về sự hình thành và phát triển của
tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp Việt Nam. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu
chuyên sâu của tác giả, đã chỉ ra được các nhân tố tác động đến sự ra đời, phát triển
của thủ công nghiệp và vai trò, tác động tương hỗ của thủ công nghiệp với các ngành
kinh tế khác. Qua đó, đưa những nhận định, đánh giá về vai trò của tiểu thủ công
nghiệp trong sự đối sánh với tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội trên bình diện
cả nước nói chung, của từng địa phương nói riêng qua các thời kỳ.
12
Liên quan đến những vấn đề trên, nhưng nghiên cứu chuyên sâu hơn được đề
cập trong cuốn sách Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 - 1945 [148] của tác giả Vũ
Huy Phúc (1996). Công trình nghiên cứu về quá trình phát triển tiểu thủ công nghiệp
Việt Nam trong giai đoạn 1858 - 1945. Từ việc phân chia sự phát triển của tiểu thủ
công nghiệp Việt Nam thành các thời kỳ, tác giả đi sâu phân tích tình hình phát triển
tiểu thủ công nghiệp của từng vùng miền, đưa ra những nhận định, kết luận mang tính
đối sánh giữa các thời kỳ và giữa các địa phương theo từng khu vực trong cả nước.
Thủ công nghiệp tỉnh Nghệ An nói riêng với một số nghề, làng nghề, sản phẩm thủ
công nghiệp, được tác giả đề cập trong các nội dung liên quan đến tình hình tiểu thủ
công nghiệp của xứ Trung Kỳ.
Chuyên khảo về Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam
dưới triều Nguyễn [191] của các tác giả Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998) là công
trình nghiên cứu chuyên sâu về tình hình thủ công nghiệp dưới triều Nguyễn. Tác
phẩm đã đề cập đến một số chính sách của nhà Nguyễn đối với thủ công nghiệp và
những nhân tố tác động đến quá trình chuyển biến của tình hình thủ công nghiệp, mô
tả các làng nghề thủ công chuyên nghiệp ở địa phương với một số nghề, làng nghề thủ
công cùng sản phẩm thủ công tiêu biểu. Trong bức tranh tổng thể của kinh tế thủ công
nghiệp dưới triều Nguyễn, tình hình thủ công nghiệp tỉnh Nghệ An nói chung, một số
địa phương trong tỉnh nói riêng trong đó có huyện Nam Đàn cũng được các tác giả đề
cập đến. Đây là cơ sở mang tính khách quan, góp phần làm rõ vai trò của thủ công
nghiệp địa phương trong mối tương quan chung về tình hình thủ công nghiệp nước ta
dưới triều Nguyễn.
Liên quan đến kinh tế thủ công nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc, công trình
nghiên cứu chuyên sâu của tác giả Nguyễn Văn Khánh (1998) về Cơ cấu kinh tế - xã
hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 - 1945) [91] đã để cập đến cơ cấu kinh tế - xã hội
nước ta nói chung, các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp nói riêng thời thuộc địa.
Cuốn sách đã luận giải về thực trạng và những biến đổi trong cơ cấu kinh tế xã hội
Việt Nam thời Pháp đô hộ, qua đó làm sáng tỏ quá trình phá vỡ kết cấu cổ truyền, dẫn
đến sự hình thành, xác lập và mở rộng các yếu kinh tế - xã hội thuộc địa mang tính
chất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Cơ cấu kinh tế - xã hội của Nghệ An từ
sau năm 1858 cũng nằm trong bối cảnh chung thời bấy giờ.
13
Đáng chú ý, một số tác giả còn nghiên cứu thủ công nghiệp Việt Nam dưới góc
độ các nghề, làng nghề thủ công truyền thống như: Nghề và làng nghề thủ công truyền
thống [197] của Nguyễn Hữu Thông (1994); Làng nghề thủ công truyền thống Việt
Nam [216] của Bùi Văn Vượng (2002); Làng nghề truyền thống Việt Nam [185] của
Phạm Côn Sơn (2009); Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam [81] gồm 6
tập của Trương Minh Hằng (Cb, 2012)... Các công trình này hầu hết đều tập trung làm
rõ đặc điểm tình hình thủ công nghiệp, trình bày một cách hệ thống và chi tiết về quá
trình hình thành, phát triển của các nghề, làng nghề truyền thống ở một số địa phương
và trên cả nước.
Nghiên cứu về thương nghiệp: Thương nghiệp nói chung, hoạt động buôn bán
trao đổi hàng hóa nói riêng, ra đời và tồn tại qua các phương thức sản xuất xã hội, như
một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu nền kinh tế. Vai trò của thương nghiệp
(gồm nội thương và ngoại thương) trong nền kinh tế là kích thích phát triển lực lượng
sản xuất, thúc đẩy sản xuất đối với các ngành kinh tế khác, đáp ứng nhu cầu về lưu
thông, tiêu thụ hàng hóa... Nghiên cứu về thương nghiệp đã được sự chú ý quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu, đáng chú ý có tác giả Đỗ Bang (1996) với công trình Kinh
tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn [8] đã tập trung tìm hiểu các điều kiện
giao lưu hàng hóa, các chính sách của triều Nguyễn đối với kinh tế thương nghiệp, mô
tả hoạt động thương nghiệp với hai bộ phận gồm nội thương và ngoại thương... Qua
tác phẩm, tình hình thương nghiệp tại Nghệ An cũng đã được đề cập trong mối quan
hệ với nông nghiệp, thủ công nghiệp nội vùng dưới triều Nguyễn.
Ngoài những công trình nghiên cứu là sách, bài viết trên các tạp chí về tình hình
thương nghiệp Việt Nam dưới thời Nguyễn, còn có một số luận án Tiến sĩ nghiên cứu
về thương nghiệp ở các địa phương trong các giai đoạn lịch sử. Luận án Tiến sĩ Chính
sách thương nghiệp của Triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX [218] của Trương Thị Yến
(2004) đã nghiên cứu về thực trạng chính sách thương nghiệp của triều Nguyễn nửa
đầu thế kỷ XIX. Qua nghiên cứu chuyên sâu các chính sách về thương nghiệp, tác giả
đã có những đánh giá về ảnh hưởng và vai trò của chính sách nhà nước đối với hoạt
động thương nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung trong thời kỳ
này. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu về tình hình kinh tế thương nghiệp trên bình
14
diện chung của cả nước, chúng tôi có điều kiện đối chiếu, so sánh và cụ thể hóa đối
với tình hình thương nghiệp tỉnh Nghệ An, trong đó có huyện Nam Đàn.
Để khảo sát và nghiên cứu hệ thống chợ nhằm làm rõ hoạt động buôn bán trao
đổi hàng hoá ở các địa phương và trên cả nước, chúng tôi đã tiếp cận công trình Chợ
quê Việt Nam [103] của tác giả Trần Gia Linh (2008). Trong cuốn sách này, tác giả đã
nghiên cứu hệ thống 42 chợ từ Bắc Giang đến Phú Yên. Để làm rõ các loại hình của
chợ - nơi trung tâm trao đổi, mua bán hàng hóa ở các địa phương chúng tôi còn tiếp
cận tác phẩm Chợ Việt [27] của tác giả Huỳnh Thị Dung (2011). Qua tác phẩm, tác giả
đã phân loại các loại hình chợ truyền thống như: chợ tỉnh, chợ phiên, chợ hôm, chợ
nổi, chợ chiều, chợ tâm linh... Đồng thời tác giả còn đưa ra một số nhận xét về hoạt
động, vai trò của chợ truyền thống trong đời sống kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Liên quan đến vấn đề trên, nhưng phân tích chuyên sâu hơn được đề cập đến
trong cuốn sách Chợ truyền thống Việt Nam qua tư liệu văn bia [113] của tác giả Trịnh
Khắc Mạnh (2015). Từ việc khai thác nguồn tư liệu văn bia, tác giả đã tái hiện bức
tranh chợ truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ...
Cách tiếp cận, nghiên cứu về chợ truyền thống qua nguồn tư liệu văn bia và một số
nguồn tư liệu khác của tác giả Trịnh Khắc Mạnh đã góp phần giúp chúng tôi các
phương pháp tiếp cận tư liệu thư tịch cổ khi nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát
triển và hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá của hệ thống chợ trên địa bàn huyện
Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884.
Các công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp trong nông thôn làng xã nói
riêng, hoạt động thương nghiệp Việt Nam nói chung, là những tư liệu có giá trị khoa
học và thực tiễn trong quá trình thực hiện luận án. Tuy nhiên, những tác phẩm nêu trên
chủ yếu trình bày về tình hình thủ công nghiệp dưới hình thức giới thiệu tổng quan,
nhiều tác phẩm tập trung nghiên cứu cụ thể tình hình thủ công nghiệp và thương
nghiệp ở những trung tâm kinh tế, xã hội với đặc thù ngành nghề rõ nét, có điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và trực tiếp chịu ảnh hưởng bởi các chính sách phát triển kinh
tế của nhà nước. Riêng đối với những địa phương khác, thuộc các trấn/tỉnh xa nơi
trung tâm thì chưa được quan tâm nghiên cứu. Đây là một trong những khó khăn mà
chúng tôi gặp phải khi sử dụng những tư liệu này trong quá trình thực hiện luận án.
Để tìm hiểu về bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế Việt Nam trong đó có
huyện Nam Đàn dưới triều Nguyễn, chúng tôi còn tham khảo một số tập trong bộ sách
15
Lịch sử Việt Nam như: Lịch sử Việt Nam, tập 5 Từ năm 1802 đến năm 1858 [213] do
Viện Sử học, Trương Thị Yến (Cb, 2017) thực hiện; Lịch sử Việt Nam, tập 6 Từ năm
1858 đến năm 1896 [214] do Viện Sử học, Võ Kim Cương (Cb 2017) tái bản lần thứ
nhất có bổ sung.
1.2. Những nghiên cứu về kinh tế Nghệ An và huyện Nam Đàn
Liên quan đến nông nghiệp ở khu vực Bắc Trung Kỳ, trong đó có tỉnh Nghệ
An, chúng tôi có tiếp cận một số chuyên luận của giới chức người Pháp phụ trách các
lĩnh vực nông nghiệp, các công trình của G. M. Castagnol - Giám đốc hạt canh nông
Trung Kỳ, M. H. Gilbert và H. Cucherousset - Thanh tra nông nghiệp Trung Kỳ.
Chúng tôi tiếp cận nguồn tài liệu này thông qua các bản dịch bằng tiếng Việt lưu ở
Phòng Địa chí của Thư viện các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Công trình
Chuyên luận về nông nghiệp tỉnh Nghệ An [261] của G. M. Castagnol (1930) đã mô tả
về điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, diện tích, năng suất và cơ cấu cây trồng, sản lượng
lương thực và các loại hoa màu khác của tỉnh Nghệ An thời Pháp thuộc. Ngoài ra còn
có một số bài viết đề cập đến hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp ở các
địa phương trong tỉnh như Diễn văn của Toàn quyền Đông Dương nhân dịp khánh
thành dẫn thủy nhập điền ở miền Bắc Nghệ An [13] của tác giả J. Brévié (1937)… Tất
cả những bài viết trên đề cập đến kinh tế nông nghiệp trên nhiều phương diện, đã cung
cấp thông tin về tư liệu, các phương pháp nghiên từ các góc độ chuyên môn khác
nhau, giúp chúng tôi có cơ sở liên hệ, đối chiếu, so sánh về những nội dung liên quan
đến kinh tế nông nghiệp Nghệ An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884.
Công trình nghiên cứu Le vieux An Tinh [99] của học giả người Pháp Le Breton
(1936) về vùng đất An Tĩnh đã bước đầu tái hiện diện mạo lịch sử, văn hóa truyền
thống khá sinh động của vùng đất Nghệ Tĩnh. Đáng chú ý, trong Le vieux An Tinh tác
giả H.Le Breton đã dành một phần nội dung quan trọng để phân tích về vùng hạ lưu
sông Lam, trong đó địa bàn huyện Nam Đàn gồm khu vực Sa Nam và một số xã thôn
như: làng Dương Liễu, xã Non Hồ, xã Nộn Liễu, xã Nhạn Tháp, xã Hồng Long, vùng
Tràng Đen, được tác giả tìm hiểu, nghiên cứu tương đối chi tiết về điều kiện tự nhiên,
quá trình canh tác, mùa vụ, giống cây trồng trong nông nghiệp. Theo đánh giá khách
quan, công trình Le vieux An Tinh dù còn nhiều hạn chế về phương pháp tiếp cận vấn
16
đề cùng tư liệu minh chứng, nhưng có thể khẳng định đây là công trình nghiên cứu tiêu
biểu, có giá trị khoa học cao nhất trong số những tác phẩm của các học giả nước ngoài
nghiên cứu về khu vực Nghệ Tĩnh nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng trước năm
1945.
Liên quan đến tỉnh Nghệ An dưới thời Pháp thuộc, công trình Địa - dư tỉnh
Nghệ An [89] của tác giả Đào Đăng Hy (1938) với 9 chương nội dung đã đề cập đến
các vấn đề: vị trí, giới hạn, diện tích, địa chất, địa thế, khí hậu, sông ngòi, nhân chủng,
dân số, phong tục, chính trị, sản vật, công nghệ, thương mại, đường giao thông, thành
thị và thương cảng của tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này chủ yếu
tập trung trên một số phương diện về địa lý, lịch sử, văn hóa, tôn giáo và đời sống xã
hội ở khu vực Nghệ An (gồm cả tỉnh Hà Tĩnh).
Trong nhiều năm qua, công tác sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa
phương trong tỉnh Nghệ An được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, với các công trình
được công bố của: Ban NCLS tỉnh Nghệ Tĩnh (1984) với cuốn sách Lịch sử Nghệ
Tĩnh, tập 1 [7]; Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh [17] của tác giả Nguyễn Đổng
Chi (Cb, 1995)... Đây là những công trình có quy mô nghiên cứu lớn, được biên soạn
công phu về lịch sử, địa chí Nghệ An - Hà Tĩnh. Từ những nguồn tư liệu đáng tin cậy,
các tác giả đã bước đầu khôi phục lại quá trình hình thành và phát triển của vùng đất
Nghệ Tĩnh qua các thời kỳ lịch sử. Trong một số nội dung của các công trình trên, bức
tranh về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Nghệ An trong thế kỷ XIX được
mô tả khá rõ nét, tuy nhiên những vấn đề liên quan đến tình hình kinh tế ở các địa
phương cụ thể trong tỉnh lại không được đề cập đến.
Đối với địa bàn tỉnh Nghệ An, tập hợp các công trình của nhà nghiên cứu văn
hóa Ninh Viết Giao như: Hương ước Nghệ An [73]; Nghề (làng nghề) truyền thống ở
Nghệ An [74]; Tục thờ thần và thần tích Nghệ An [75]; Văn bia Nghệ An [76]; Nghệ
An - Lịch sử, văn hóa [77] đã đề cập đến các vấn đề về kinh tế, văn hóa - xã hội ở các
làng xã. Tuy nhiên, những nội dung mà các công trình trên phản ánh còn mang tính
khái quát về các địa phương trong tỉnh Nghệ An.
Tác giả Trần Viết Thụ (Cb, 2006) với cuốn sách Địa danh lịch sử, văn hóa
Nghệ An [198] đã giới thiệu khá toàn diện về tỉnh Nghệ An trên các phương diện: địa
17
danh, lịch sử, văn hóa, xã hội... Trong nội dung cuốn sách, tác giả trình bày theo từng
mục từ (gồm phần tên gọi, giải thích tên gọi), chứa đựng một dung lượng khá lớn về
lịch sử, văn hóa, xã hội của các làng xã, khu vực trong tỉnh, đặc biệt trong đó có nhiều
nội dung liên quan hoặc trực tiếp đề cập đến huyện Nam Đàn và được xem là một
cuốn từ điển về địa danh lịch sử, văn hóa địa phương.
Công trình Lịch sử Nghệ An [201] gồm 2 tập do Trần Văn Thức (Cb, 2012) là bộ
sách đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lịch sử hình thành, phát
triển của tỉnh Nghệ An từ nguồn gốc đến năm 2005. Trong tập 1, Lịch sử Nghệ An (từ
nguyên thủy đến năm 1945), ở Chương VI: Nghệ An thời Nguyễn - Giai đoạn độc lập
(1802 - 1884), các tác giả đã trình bày một cách khái quát về kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội ở Nghệ An trong suốt 82 năm (1802 - 1884) trong đó có đề cập đôi nét về tình
hình kinh tế, văn hóa giáo dục ở Nam Đàn… Tuy nhiên, xét trên khía cạnh cụ thể liên
quan đến địa phương là huyện Nam Đàn thì những nội dung được đề cập đến còn mang
tính chất sơ lược, khái quát trên tổng thể về các vấn đề của lịch sử tỉnh Nghệ An.
Năm 1997, Tạp chí Thông tin Khoa học - Công nghệ và Môi trường Nghệ An
đăng tải bài viết của hai tác giả Hoàng Văn Lân, Nguyễn Quang Hồng Nguyên liệu xây
thành Nghệ An dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1840) [97]. Bài viết cung cấp về
cách thức khai thác đá ong, dụng cụ để khai thác đá ong, phương thức vận chuyển đá
ong từ làng Kiền, thuộc xã Thanh Thuỷ, huyện Nam Đàn ra bến đò Sa Nam để đưa về
cầu Cửa Tiền phục vụ cho công cuộc xây dựng thành Nghệ An. Các thông tin trong
nội dung bài viết là tài liệu tham khảo quý để chúng tôi tìm hiểu thêm về một nghề thủ
công truyền thống ở huyện Nam Đàn trong thời kỳ 1802 - 1884.
Trong bài viết: Thêm một số ý kiến về nội dung, tính chất và diễn biến của khởi
nghĩa Giáp Tuất (1874) [98] của các tác giả PGS Hoàng Văn Lân, Nguyễn Quang
Hồng (1998) đã cung cấp thêm những tư liệu về căn cứ làng Thành, đình làng Thanh
Thuỷ, từng là đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn và Đặng Như Mai tổ
chức, lãnh đạo. Bài viết cũng lý giải thêm nguyên nhân khiến đông đảo nhân dân làng
xã ở Nam Đàn, Thanh Chương, Hưng Nguyên ủng hộ cuộc khởi nghĩa này và những
hậu quả mà cư dân làng xã Nam Đàn phải hứng chịu trước cuộc đàn áp thảm khốc từ
phía triều đình Tự Đức và cả người Pháp. Đây là một trong những tài liệu hữu ích để
chúng tôi phân tích ảnh hưởng của những chính sách mà vương triều nhà Nguyễn thực
18
thi, cụ thể là chính sách cấm đạo, sát đạo, đàn áp thẳng tay những cuộc nổi dậy của
nông dân làng xã trên phạm vi vương quốc Đại Nam nói chung, Nghệ An và Nam Đàn
nói riêng ở nửa sau thế kỷ XIX.
Chúng tôi dành sự quan tâm đặc biệt đối với bài viết: Hệ thống chợ Nghệ An
thế kỷ XIX [85] của tác giả Nguyễn Quang Hồng (2004). Trong bài viết tác giả đã trình
bày hệ thống chợ ở các huyện đồng bằng miền núi trung du Nghệ An bao gồm cả chợ
làng xã, phủ huyện, trấn tỉnh… Bước đầu trình bày quy mô trao đổi buôn bán các loại
hàng hóa tại các chợ ở Nghệ An trong suốt thế kỷ XIX. Ngoài ra, tác giả còn bổ sung
thêm một số chợ làng xã trên địa bàn huyện Nam Đàn mà Quốc sử quán triều Nguyễn
chưa đề cập tới như: chợ Chùa (làng Xuân Hồ), chợ Giếng (làng Thanh Thuỷ), chợ
Sáo (làng Hữu Biệt), chợ Rồng (làng Trung Cần), chợ Cần Bụt (làng Hùng Nhẫn)...
Những tư liệu này giúp chúng tôi có điều kiện tìm hiểu về hệ thống chợ làng xã ở 6
tổng, 65 làng xã trong không gian địa giới hành chính đề tài xác định, nhằm làm rõ
thêm về hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá của các thế hệ cư dân làng xã ở Nam
Đàn trong thời kỳ 1802 - 1884.
Dưới góc độ chuyên sâu nghiên cứu về tỉnh Nghệ An, luận văn Thạc sĩ của
Trần Thị Thanh Hà (2008) về Chợ ở Nghệ An từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1945 [79] đã
có những khảo cứu khá công phu về hệ thống chợ làng xã đến chợ phủ, huyện, chợ
trấn/tỉnh Nghệ An, đưa ra cách phân chia hệ thống chợ ở Nghệ An từ thế kỷ XIX đến
năm 1945 theo quy mô: chợ làng xã, chợ phủ, huyện và bước đầu cho biết thời gian
họp chợ, hàng hoá trao đổi ở các chợ. Tuy nhiên, do khuôn khổ của một luận văn Thạc
sĩ, tác giả chưa có điều kiện để khảo cứu hệ thống chợ ở một số địa phương thuộc
huyện Thanh Chương, huyện Nam Đàn, cũng như chưa có được những phân tích, đánh
giá về ảnh hưởng của chợ đối với đời sống văn hoá vật chất, tinh thần của các tầng lớp
nhân dân ở Nghệ An nói chung, Nam Đàn nói riêng. Luận văn Thạc sĩ của Trần Anh
Đức (2011) về Kinh tế ở Nghệ An từ năm 1802 đến năm 1884 [52] mặc dầu chỉ trình
bày những nét khái quát về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp ở Nghệ
An từ năm 1802 đến năm 1884, song những kết quả nghiên cứu của tác giả cũng là
một tài liệu tham khảo, giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan về bức tranh kinh tế Nghệ
An trong cùng một thời gian mà đề tài nghiên cứu.
Dưới góc độ nghiên cứu chuyên sâu về tình hình kinh tế, xã hội của một huyện,
trấn sở ở tỉnh Nghệ An, chúng tôi quan tâm tới luận án Tiến sĩ lịch sử của Nguyễn
19
Quang Hồng (2000), Thành phố Vinh - Quá trình hình thành và phát triển (từ năm
1804 đến trước cách mạng Tháng Tám năm 1945 [86]. Trong nội dung luận án, tác giả
công trình ngoài việc làm rõ quá trình chuyển dời lỵ sở Nghệ An từ Lam Thành - Phù
Thạch về Vĩnh Yên và Yên Trường (thành phố Vinh ngày nay) vào tháng 5 năm 1804,
còn cho biết rõ việc vua Minh Mệnh huy động cư dân ở xã Thanh Thủy và một số làng
xã lân cận khai thác, vận chuyển đá ong tại mỏ đá ong làng Kiền để xây dựng thành
Nghệ An. Điều này giúp chúng tôi đối sánh các nguồn tư liệu khác để tìm hiểu về nghề
khai thác đá ong, cách thức vận chuyển đá ong của cư dân làng xã trên địa bàn huyện
Nam Đàn trong thời kỳ 1802 - 1884.
Bên cạnh đó, trong Chương 1, tiểu mục 1.2. Tình hình kinh tế ở trấn thành
Nghệ An từ năm 1804 đến năm 1830, tỉnh thành Nghệ An từ năm 1832 đến trước năm
1899 từ trang 28 đến trang 40, tác giả luận án trên cơ sở khai thác nguồn tư liệu địa bạ,
hương ước, văn bia ở làng Vĩnh Yên, Yên Trường, Yên Lưu, Yên Giang thuộc tổng
Ngô Trường huyện Chân Lộc, đã làm rõ quá trình ẩn lậu, bao chiếm, mua bán ruộng
đất của bộ máy chức dịch ở làng xã. Tác giả cũng chỉ rõ một số nguyên nhân dẫn đến
tình trạng bấp bênh của kinh tế nông nghiệp ở huyện Chân Lộc (Nghi Lộc), huyện
Hưng Nguyên, huyện Nam Đàn thuộc trấn/tỉnh thành Nghệ An (1804 - 1884). Đây là
một trong những tài liệu giúp chúng tôi so sánh, đối chiếu trong quá trình nghiên cứu
về kinh tế huyện Nam Đàn với một số huyện lân cận như: Thanh Chương, Hưng
Nguyên, Nghi Lộc.
Luận án Tiến sĩ của Đặng Như Thường (2013) về Kinh tế, xã hội huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An thời Nguyễn (1802 - 1884) [202] đã trình bày một cách có hệ thống
kinh tế, xã hội ở huyện Nghi Lộc trong bối cảnh chung của kinh tế, xã hội ở Nghệ An
thời Nguyễn (1802 - 1884). Dựa trên nguồn tư liệu lưu trữ đáng tin cậy, tác giả đã đi
sâu phân tích các vấn đề liên quan đến kết cấu kinh tế huyện Nghi Lộc như: Tình hình
ruộng đất; Kinh tế nông nghiệp; Các ngành kinh tế khác. Ngoài ra, luận án còn mô tả
một cách rõ nét xã hội huyện Nghi Lộc thời Nguyễn trên các phương diện: Tổ chức
hành chính; Bộ máy quản lý xã thôn; Kết cấu xã hội và đời sống nhân dân… Qua đó
phân tích, lý giải ảnh hưởng của kinh tế đối với đời sống xã hội của các giai tầng trong
phạm vi không gian địa giới hành chính huyện Nghi Lộc. Kết quả nghiên cứu trong
luận án là sản phẩm của việc sử dụng logic các phương pháp nghiên cứu mang tính
20
khoa học, thực tiễn, trong đó đáng chú ý là cách thức tiếp cận, xử lý nguồn tư liệu thư
tịch cổ gồm địa bạ, gia phả, văn bia, sắc phong, thần tích, thần sắc liên quan đến huyện
Nghi Lộc, một huyện có địa giới gần kề với huyện Nam Đàn.
Đề cập đến lịch sử - văn hoá của một số làng, xã nổi tiếng trên địa bàn huyện
Nam Đàn, ở những góc độ nghiên cứu là các luận văn Thạc sĩ chúng tôi quan tâm tới
luận văn: Lịch sử - văn hóa làng Trung Cần (xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, nghệ
An) từ thế kỷ XIX đến năm 1945 [72] của Nguyễn Thị Giang (2009); Lịch sử - văn hóa
làng Hoành Sơn, xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, Nghệ An từ 1802 - 1945 [80] của
Nguyễn Thị Hằng (2010); Lịch sử - văn hóa làng Xuân Hồ (xã Xuân Hòa, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An) từ thế kỷ XIX đến năm 1945 [112] của Lương Thị Thanh Mai
(2011)… Các công trình trên đã trình bày khá chi tiết về đời sống văn hóa vật chất và
tinh thần của cư dân các làng gồm: Trung Cần, Hoành Sơn, Xuân Hồ trên địa bàn
huyện Nam Đàn từ đầu thế kỷ XIX đến khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công.
Tuy không phải là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế Nam
Đàn thời kỳ 1802 - 1884, song từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, việc biên
soạn lịch sử Đảng bộ huyện Nam Đàn, lịch sử Đảng bộ các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện, hay một số công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hoá Nam Đàn được xuất bản
cũng là nguồn tài liệu chúng tôi quan tâm. Chẳng hạn cuốn sách Lịch sử Đảng bộ
Đảng Cộng Sản Việt Nam huyện Nam Đàn [6] do Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nam
Đàn biên soạn (1990). Cuốn sách đã trình bày khái quát về đặc điểm địa lý, kinh tế,
văn hóa xã hội ở huyện Nam Đàn, đồng thời điểm qua về một số cuộc khởi nghĩa của
Nguyễn Hữu Cầu, Lê Duy Mật trong thời gian hoạt động trên vùng đất Nam Đàn vào
cuối thế kỷ XVIII; Khởi nghĩa của Nguyễn Tuân năm 1811; Khởi nghĩa của Lê Quang
Chấn năm 1823; Khởi nghĩa Giáp Tuất năm 1874 của Trần Tấn và một số cuộc khởi
nghĩa khác trên vùng đất Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884.
Tác giả Nguyễn Văn Trương (Cb, 2000) cùng các cộng sự khi biên soạn cuốn
sách Nam Đàn xưa và nay [206] dựa trên nguồn tư liệu đa dạng gồm thư tịch cổ, tư
liệu truyền miệng, khảo sát, điều tra điền dã đã mô tả lịch sử hình thành và phát triển
của huyện Nam Đàn trên các phương diện địa lý, lịch sử, truyền thống văn hóa và
những thành tựu của người dân Nam Đàn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Trong công trình này, một số nội dung có đề cập đến tình hình kinh tế huyện
21
Nam Đàn trên các mặt nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp gắn với các địa
danh như: Làng Hoành Sơn, xã Non Liễu, chợ Sa Nam, chợ Chùa, chợ Vạc... Tuy
nhiên, những nội dung trên chỉ mang tính khái quát, sơ lược mà chưa đi sâu nghiên
cứu cụ thể về các lĩnh vực trong cơ cấu kinh tế của huyện Nam Đàn.
Liên quan đến vấn đề trên, nhưng trình bày khái quát mang tính đa chiều liên
quan đến huyện Nam Đàn được đề cập trong cuốn sách Nam Đàn Quê hương Chủ tịch
Hồ Chí Minh [78] của tác giả Ninh Viết Giao (Cb, 2013). Công trình nghiên cứu khá
công phu, đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến huyện Nam Đàn trong lịch sử như:
Diên cách địa lý hành chính qua các đời, phong cảnh, hình thế đất đai, khí hậu, núi
sông, dấu vết lịch sử, nghề nghiệp cư dân, truyền thống hiếu học, văn học dân gian,
nghệ thuật, kiến trúc... Cuốn sách có trình bày một số nội dung liên quan đến kinh tế
Nam Đàn ở thế kỷ XIX, đề cập đến một số nghề thủ công truyền thống trong các làng
xã như: nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải ở làng Khoa Trường, làng Tàm Tang, làng
Hoành Sơn; nghề ép mía làm mật ở làng Phú Thọ, làng Khoa Trường; nghề khai thác
đá ong ở làng Kiền (Thanh Thuỷ). Một số hoạt động thương nghiệp nội vùng cụ thể là
trao đổi, mua bán giao thương diễn ra tại chợ Sa Nam, chợ Rồng, chợ Hữu Biệt cũng
được tác giả nhắc đến.
Để hiểu rõ hơn về địa giới hành chính, dân cư, kinh tế, xã hội ở một số làng, xã
trên địa bàn huyện Nam Đàn, chúng tôi còn tiếp cận một số công trình lịch sử xã, lịch
sử Đảng bộ xã như: Lịch sử Đảng bộ xã Kim Liên (1930 - 2000) [32] của Đảng ủy,
Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã Kim Liên (2000);
Lịch sử Đảng bộ xã Nam Thanh [38] của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã Nam Thanh (2003); Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Thị
trấn Nam Đàn (1930 - 2005) [40] của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,
Ủy ban Mặt trận tổ quốc Thị trấn Nam Đàn (2005); Lịch sử Đảng bộ xã Nam Lĩnh
(1930 - 2005) [35] của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt
trận tổ quốc xã Nam Lĩnh (2006); Lịch sử xã Nam Cát [34] của Đảng ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã Nam Cát (2008); Lịch sử
Đảng bộ xã Nam Thái [37] của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy
ban Mặt trận tổ quốc xã Nam Thái (2011)… Các công trình lịch sử Đảng bộ hay lịch
sử xã mà chúng tôi tiếp cận đã cung cấp thêm một số tư liệu về thay đổi địa giới, địa
danh, tên gọi, dân cư ở địa phương.
22
Như vậy, về cơ bản các công trình cứu kể trên đã cung cấp những thông tin
tương đối chi tiết liên quan đến kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nông thôn, làng
xã trên địa bàn tỉnh Nghệ An qua các giai đoạn lịch sử. Trong đó, một số công trình
nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến các lĩnh vực về kinh tế của huyện Nam Đàn dưới
triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884. Những kết quả nghiên cứu đó là cơ sở khoa học có
giá trị để chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu, chọn lọc, tổng hợp, phân tích, đánh giá dưới
góc độ sử học, làm tiền đề giải quyết các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
1.3. Những kết quả nghiên cứu được luận án kế thừa
Các công trình đã đề cập trên đây cùng với nguồn tài liệu lưu trữ, tài liệu thu
thập trong quá trình điều tra điền dã là những tư liệu quý, giúp ích rất nhiều cho chúng
tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Trước hết, lịch sử của vùng đất Nghệ An nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng
qua các thời kỳ đã được trình bày có hệ thống. Cùng với đó, các điều kiện về tự nhiên,
kinh tế, chính trị, xã hội được đề cập khá đầy đủ và chi tiết. Đây là những tư liệu quan
trọng giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện một số nội dung của luận án.
Các công trình nghiên cứu về kinh tế Việt Nam đã phản ánh bức tranh kinh tế
nước ta dưới triều Nguyễn trên nhiều phương diện. Đây là nền tảng giúp chúng tôi có
được góc nhìn tổng quan về kinh tế Việt Nam nói chung, kinh tế Nghệ An nói riêng
qua nhiều giai đoạn lịch sử. Từ đó, đối sánh với kinh tế huyện Nam Đàn trong phạm vi
thời gian nghiên cứu của đề tài.
Những công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và
thương nghiệp dưới triều Nguyễn, đặc biệt là thời kỳ 1802 - 1884 đã đi sâu phản ánh
đặc điểm của các ngành, nghề trong cơ cấu kinh tế Việt Nam. Thông qua hệ thống tư
liệu gồm các ấn phẩm là sách, bài viết trên các tạp chí, niên giám thống kê, đã tập
trung phân tích được những nhân tố tác động đến sự chuyển biến về kinh tế và một số
thành tựu, hạn chế chủ yếu trong giai đoạn lịch sử này. Những kết quả nghiên cứu trên
giúp chúng tôi có được những tư liệu tổng quan, từ đó so sánh, đối chiếu, rút ra những
đặc điểm của kinh tế huyện Nam Đàn trong mối tương quan với kinh tế Việt Nam qua
các thời kỳ. Quan trọng hơn, một số tác phẩm đã đề cập trực tiếp đến các phương diện
cụ thể của kinh tế tỉnh Nghệ An trong thế kỷ XIX như: Tình hình nông nghiệp với các
đặc trưng về mùa vụ, giống, cây trồng, vật nuôi; Chính sách nông nghiệp của nhà
23
nước; Phương thức, dụng cụ, công cụ canh tác; Thủ công nghiệp với các nghề, làng
nghề thủ công truyền thống; Thương nghiệp với hoạt động mua bán, trao đổi ở
trấn/tỉnh Nghệ An dưới triều Nguyễn, đã giúp cho chúng tôi có được những tư liệu quý
giá khi nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu về huyện Nam Đàn đã tập trung nghiên cứu lịch sử
vùng đất, điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị - xã hội, văn hóa và nghề nghiệp của
cư dân ở vùng đất thuộc hạ lưu sông Lam. Kinh tế huyện Nam Đàn với một số nghề
nghiệp của cư dân trong làng xã đã được đề cập đến nhưng còn mang tính sơ lược.
Đây là nền tảng cơ bản để nghiên cứu về kinh tế huyện Nam Đàn trong giai đoạn tiếp
theo từ năm 1802 đến năm 1884 mà luận án tập trung giải quyết.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến tỉnh Nghệ An, huyện Nam Đàn là
những tư liệu làm nền tảng để chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu, chọn lọc, tổng hợp,
phân tích, đánh giá dưới góc độ sử học, làm tiền đề giải quyết những mục tiêu nghiên
cứu mà đề tài đã đề ra.
1.4. Những vấn đề cần giải quyết của luận án
Trong nội dung luận án, chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu nhằm làm rõ
những vấn đề sau:
- Những nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884.
Khái quát về tình hình kinh tế Nam Đàn trước năm 1802 để có cái nhìn hệ thống, toàn
diện theo lịch đại thực trạng kinh tế Nam Đàn.
- Phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về kinh tế huyện Nam Đàn Đàn thời kỳ
1802 - 1884, trên các phương diện: Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp
trong mối tương quan so sánh, đối chiếu với tình hình kinh tế của các địa phương
thuộc trấn/tỉnh Nghệ An và một số tỉnh ở Bắc Trung Bộ, Bắc Bộ ở thế kỷ XIX.
- Nhận xét và đánh giá kinh tế Nam Đàn, làm rõ những ảnh hưởng của kinh tế
đối với đời sống chính trị, xã hội và văn hóa của các tầng lớp, giai cấp trong làng xã ở
vùng hạ lưu sông Lam mà phạm vi nghiên cứu đã xác định.
24
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH TẾ HUYỆN NAM ĐÀN
2.1. Quá trình hình thành
Huyện Nam Đàn nằm ở hạ lưu sông Lam, xưa là trung tâm của bộ Việt Thường
thuộc nước Văn Lang. Trong suốt chiều dài lịch sử các triều đại phong kiến ở Việt
Nam, huyện Nam Đàn có nhiều sự thay đổi về diên cách địa lý, địa danh các đơn vị
hành chính cho phù hợp với quản lý hành chính của nhà nước. Nhà Nguyễn trong thời
kỳ độc lập (1802 - 1884) từng bước xác lập vai trò quản lý của vương triều về mặt
hành chính đối với cư dân nước Việt Nam bằng việc tiến hành các cuộc cải cách lớn,
trong bối cảnh đó tỉnh Nghệ An nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng có những thay
đổi quan trọng về mặt địa lý.
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh
trở ra) [215] của Viện Nghiên cứu Hàn Nôm (1981), đầu thế kỷ XIX huyện Nam
Đường gồm: 8 tổng, 90 xã, thôn, phường, trại, sách, giáp, vạn. Trong đó, tổng Non
Liễu có 20 xã, thôn, giáp; tổng Lâm Thịnh có 15 xã, thôn, phường, giáp; tổng Đại
Đồng có 6 xã, thôn, giáp; Tổng Hoa Lâm có 5 xã, thôn; Tổng Đô Lương có 24 xã,
thôn, giáp; Tổng Thuần Trung có 6 xã, thôn; Tổng Bạch hà có 5 xã; Tổng Lãng Điền
có 9 xã, vạn, sách, thôn [215, Tr.134 ].
Căn cứ vào sách Thanh Chương huyện chí, do dịch giả Nguyễn Thị Thảo dịch,
Nguyễn Phương Thoan hiệu đính, từ nguyên bản viết tay bằng chữ Hán gồm 38 trang
khổ 29 x 16 lưu trữ ở Thư viện Viện Hán Nôm - Ký hiệu A97 BIS, in trong sách:
Thanh Chương đất và người, trang 38 cho biết: “Năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), vâng
lệnh triều đình đã tách tổng Đặng Sơn gồm 23 xã, thôn, phường để hợp với các tổng
Lãng Điền, Đô Lương, Thuần Trung, Bạch Hà của huyện Nam Đường để lập huyện
Lương Sơn như hiện nay, gồm 5 tổng” [131, tr.38 - 42].
Như vậy, từ cuối thế kỷ XVIII cho đến đầu thế kỷ XIX, không gian địa giới
hành chính của huyện Nam Đường chạy dọc theo bờ tả sông Lam, suốt từ làng Hữu
Biệt (Nam Giang ngày nay), lên tận Đô Lương và một phần đất huyện Anh Sơn ngày
nay. Đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), toàn bộ 44 xã, thôn, trang, phường, giáp,
25
thuộc 4 tổng: Lãng Điền, Đô Lương, Thuần Trung, Bạch Hà của huyện Nam Đường
đã cắt nhập về huyện Lương Sơn. Sau đợt chia cắt sáp nhập này, huyện Nam Đường
chỉ còn lại 4 tổng với 45 làng, xã, thôn, trang, phường, giáp, sở, vạn gồm: Tổng Non
Liễu có 20 xã, thôn, giáp; Tổng Lâm Thịnh có 15 xã, thôn, phường, giáp; Tổng Đại
Đồng có 6 xã, thôn, giáp; Tổng Hoa Lâm có 5 xã, thôn.
Theo Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam nhất thống chí, có ghi “Huyện
Nam Đường: đời Đông Ngô là huyện Đô Giao; đời Đường là đất Hoan Châu; đời Tiền
Lê là châu Hoan Đường; thời thuộc Minh là châu Thạch Đường, các huyện Kệ Giang
và Sa Nam đều là đất này; đầu đời Lê đổi tên hiện nay; bản triều vẫn theo như thế, năm
Gia Long thứ 12 đổi do phủ kiêm lý. Nay lãnh 4 tổng, 45 xã thôn” [154, tr.139].
Đối chiếu với một số nguồn tư liệu khác, số tổng và các đơn vị hành chính làng,
xã, thôn, trang, phường, vạn, trang, sách ở huyện Nam Đường từ năm Minh Mệnh thứ
20 (1839) đến năm 1886, không có nhiều thay đổi. Như vậy, không gian địa giới hành
chính của huyện Nam Đường từ năm 1839 đến trước khi đổi tên thành huyện Nam
Đàn vì kỵ huý tên vua Đồng Khánh (1886) hoàn toàn nằm dọc theo bờ Tả ngạn sông
Lam, tương ứng với các xã, thị hiện tại của huyện Nam Đàn ngày nay.
Căn cứ theo phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài, vị trí huyện Nam Đàn
mà chúng tôi khảo sát, nghiên cứu còn có tổng Nam Hoa (Nam Kim) và một số làng
xã thuộc tổng Bích Triều thuộc huyện Thanh Chương. Để làm sáng rõ, chúng tôi lấy
hai tài liệu dưới đây để so sánh, đối chiếu về các làng xã, thôn, trang, phường, giáp sở
thuộc tổng Bích Triều và tổng Nam Hoa (Nam Kim) vốn thuộc huyện Thanh Chương,
chuyển về huyện Nam Đàn. Cụ thể:
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh
trở ra) [215] đầu thế kỷ XIX, huyện Thanh Chương thuộc phủ Đức Quang. Huyện
Thanh Chương có 6 tổng, 105 xã, thôn, trang, sách, giáp, sở, vạn, nậu. Trong 19 xã,
thôn, vạn, sở thuộc tổng Bích Triều có xã Bích Triều (thôn Triều, thôn Bàng Thị, thôn
Cẩm Nang), xã Lâm Triều (thôn Phù Lập, giáp Hà Xá, giáp Phi Nha, giáp Thái Bình),
xã Văn Điền (thôn Điền Lao, thôn Thu Cẩm), các làng, xã, giáp này, ngày nay thuộc
các xã Thanh Giang, Thanh Xuân, Thanh Lâm... thuộc huyện Thanh Chương, không
nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
26
Các xã, thôn, sở, vạn, thuộc tổng Bích Triều gồm: Vũ Nguyên, Chi Cơ, Lương
Trường (thôn Trường, thôn Phú Thọ, thôn Vạn Lộc, thôn Đặng Xá, thôn Ngũ Nhược,
vạn Võng Nhi Cây Trà, thôn Cây Trà, thôn Lương Giai, sở Lương Trường, Tàm
Tang), nằm trong giới hạn không gian nghiên cứu của đề tài. Các xã, thôn, sở, vạn này
sau khi cắt chuyển về Nam Đàn (1911) thuộc địa bàn các xã Nam Thượng, Nam Tân,
Nam Lộc, đến tháng 6 năm 2020, nhập thành xã Thượng Tân Lộc, nằm ở hữu ngạn
sông Lam, dưới chân núi Thiên Nhẫn [215, tr.99 - 100], [78, tr.485 - 487].
Tổng Nam Hoa có 21 xã, thôn, sở: Nam Hoa Thượng (thôn Hoành Sơn, thôn
Dương Liễu), Nam Hoa Tứ, Xuân Hoa (thôn Đông Đồn, thôn Trung Hội, thôn Tứ
Trành), Tiên Hoa (thôn Xuân Mĩ, thôn Thiên Lộc, thôn Khánh Lộc, thôn Bạch
Sơn), Xuân Phúc, Trung Cần, Nam Hoa Đông (thôn Đông Viên, thôn Hoàng Cung,
thôn Dương Phổ Đông, thôn Vạn Thọ, thôn Quần Xá, thôn Dương Phố Tứ), sở
Nam Hoa, sở Hạ Phú, sở Xuân Lôi [213], [78]. Toàn bộ các thôn, làng, xã, sở,
thuộc tổng Nam Hoa (huyện Thanh Chương) ở thế kỷ XIX đều nằm ở phía hữu
ngạn sông Lam, dưới chân núi Thiên Nhẫn, chúng tôi xác định trong phạm vi
không gian nghiên cứu của đề tài.
Trong Thanh Chương huyện chí, cho biết thêm: “Trú sở (huyện lỵ) huyện ở phía
trên bến đò, xứ đất công (công thổ), thuộc địa phận xã Lương Trường, tổng Bích
Triều... Nay phía sau bên trái là núi Thiên Nhẫn, phía trước bên phải là sông Lam,
gần đó có chợ Lương Trường và xa ra phía ngoài là trường huyện, bao quanh là dân
cư Thanh Trai thưa thớt” [131, tr.37]. Ngoài ra, Thanh Chương huyện chí, còn cho
biết cụ thể: đến cuối đời vua Thiệu Trị, đầu đời vua Tự Đức, huyện Thanh Chương có
5 tổng là: Bích Triều, Nam Kim (còn gọi là Nam Hoa), Cát Ngạn, Võ Liệt, Thổ Hào.
Toàn huyện có 86 xã, thôn, phường trại. Tổng Bích Triều gồm có 19 xã thôn, trong đó:
Xã Lương Trường (thôn Khoa Trường, thôn Phú Thọ, thôn Đặng Xá, thôn Vạn Lộc),
thôn Vũ Nguyên, thôn Chi Cơ, thôn Tàm Tang, thôn Ngũ Phúc, Vạn chài Thanh Trai
(xưa gọi là vạn Cây Trai, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) đổi thành Vạn Thanh Trai,
gồm: thôn Thanh Trai, thôn Lương Giai). Các thôn này chuyển về Nam Đàn, thuộc
giới hạn nghiên cứu của đề tài (tương ứng với phần đất xã Nam Tân, Nam Lộc, Nam
Thượng, từ tháng 6/2020 nhập thành xã Thượng Tân Lộc).
27
Tổng Nam Kim (nguyên gọi là tổng Nam Hoa, năm đầu Thiệu Trị (1841)
vâng mệnh đổi thành Nam Kim), tổng này gồm 22 xã thôn khi chuyển về huyện Nam
Đàn tương ứng với phần địa giới hành chính các xã: Khánh Sơn, Nam Kim, Nam
Phúc, Nam Cường, Nam Trung của huyện Nam Đàn. Đến tháng 6 năm 2020, sáp
nhập 3 xã Nam Phúc, Nam Trung, Nam Cường thành lập xã Trung Phúc Cường [78,
tr.282 - 283].
Theo Danh sách xã thôn Trung Kỳ tài liệu lưu ở thư viện Huế được hai nhà
nghiên cứu Ninh Viết Giao và Trần Thanh Tâm xác định được soạn vào cuối đời vua
Duy Tân sang đời vua Đồng Khánh, theo danh sách này địa giới Nam Đàn gồm 4 tổng:
Tổng Xuân Liễu: 15 xã thôn; tổng Lâm Thịnh: 30 xã thôn; tổng Xuân Khoa: 16 xã
thôn và tổng Nam Kim: 16 xã thôn.
Căn cứ phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đi đến xác định các
đơn vị hành chính ở địa phương thuộc huyện Nam Đàn làm đối tượng nghiên cứu gồm
các tổng, xã, thôn, phường, giáp, vạn như sau:
Tổng Hoa Lâm gồm 2 xã, thôn: xã Đông Liệt, thôn Đồng Điên.
Tổng Non Liễu gồm 20 xã, thôn, giáp: xã Nghĩa Động, xã Thanh Tuyền, xã Vân
Đồn, xã Hương Lãm (thôn Khả Lãm, thôn Đông, thôn Nam, thôn Tạo Lễ), xã Hồng
Nhiễm, xã Thịnh Lạc (thôn Trung Lâm, thôn Nhân Hậu, giáp Đồng Nhân, thôn Xuân
Lâm, Giáp Hạ), thôn An Lạc, thôn Thượng Hồng, xã Chung Tháp, xã Gia Lạc, xã Yên
Lạc, xã Nộn Hồ, xã Nộn Liễu.
Tổng Lâm Thịnh gồm 15 xã, thôn, giáp, vạn: xã Lâm Thịnh, xã Chung Mỹ, xã
Chung Cự (giáp Kính Kị, giáp Khoa Cử, thôn Hoàng Trù, thôn Vân Hội, phường Tiểu
Ca, thôn Kim Liên, giáp Tính, thôn Ngọc Đình), xã Duyên La, xã Tràng Cát, xã Hữu
Biệt, xã Gia Lạc, vạn thủy cơ Duyên La (làng vạn chài trên sông).
Tổng Bích Triều gồm 11 xã, thôn, vạn, sở: thôn Chi Cơ, xã Võ Nguyên, vạn Võng
Nhi Cây Trà, thôn Cây Trà, thôn Lương Giai, sở Lương Trường Tàm Tang, xã Lương
Trường (thôn Trường, thôn Phú Thọ, thôn Vạn Lộc, thôn Đặng Xá), thôn Ngũ Nhược.
Tổng Nam Kim gồm 16 xã, thôn: xã Tiên Hoa (thôn Khánh Lộc, thôn Xuân Mỹ,
thôn Thiên Lộc), xã Xuân Hoa (thôn Đông Đồn, thôn Trung Hội, thôn Tứ Trành), xã
Nam Hoa Thượng (thôn Hoành Sơn, thôn Dương Liễu), xã Trung Cần, xã Nam Hoa
28
Tứ, xã Xuân Phúc, xã Nam Hoa Đông (thôn Đông Viên, thôn Quần Xá, thôn Vạn Thọ,
thôn Dương Phổ Tứ, thôn Dương Phổ Đông).
Tổng Phù Long huyện Hưng Nguyên gồm 1 thôn: Thôn Đông Châu (nay thuộc
xã Nam Cường).
Từ những trình bày trên cho thấy, phạm vi không gian địa giới hành chính mà
đề tài nghiên cứu xác định thuộc địa bàn huyện Nam Đàn và huyện Thanh Chương
trong thế kỷ XIX (1802 - 1884) gồm 6 tổng, 65 xã, thôn, làng, trang, phường, vạn,
sách, thuộc địa giới hành chính huyện Nam Đàn từ năm 1911. Dĩ nhiên, từ năm 1911
đến năm 2020, tên gọi, địa giới hành chính các làng xã, thuộc huyện Nam Đàn có
nhiều lần thay đổi, nhưng ranh giới tự nhiên giữa huyện Nam Đàn với huyện Thanh
Chương ở phía Tây và Tây Nam, huyện Đô Lương ở phía Tây Bắc, huyện Nghi Lộc ở
phía Bắc, huyện Hưng Nguyên ở phía Đông và Đông Nam, huyện Đức Thọ ở phía
Nam đều ổn định. Địa giới hành chính đó tương xứng với vị trị địa lý huyện Nam Đàn
mà chúng tôi trình bày ở trên [78].
2.2. Điều kiện tự nhiên
2.2.1. Vị trí địa lý
Huyện Nam Đàn ngày nay nằm ở hạ lưu sông Lam, có vị trí địa lý kéo dài từ
18034′ đến 18047′ vĩ độ Bắc và trải rộng từ 105024′ đến 1050 37′ kinh độ Đông. Phía
Đông giáp huyện Hưng Nguyên, phía Đông Bắc giáp huyện Nghi Lộc, phía Tây và
Tây Nam giáp huyện Thanh Chương, phía Tây Bắc giáp huyện Đô Lương, phía Nam
giáp huyện Hương Sơn và huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Diện tích tự nhiên
294,3 km², phần lớn nằm ở tả ngạn sông Lam và một phần ở hữu ngạn sông Lam,
trong đó 48% đất nông nghiệp, còn lại là đất lâm nghiệp và đồi núi [206, tr.6].
2.2.2. Địa hình, đất đai
Huyện Nam Đàn nằm ở hạ lưu sông Lam, có địa hình nửa đồng bằng nửa đồi
núi, diện tích đồng bằng nhỏ hẹp, phân bố rải rác hầu khắp các làng xã, thường bị chia
cắt bởi các hệ thống đồi núi, sông ngòi, ao hồ. Các kiến trúc tân kiến tạo trong quá
trình phát triển địa chất lâu dài đã tạo nên lãnh thổ của huyện có hướng nghiêng từ
phương Tây Bắc xuống Đông Nam với dạng địa hình có hình thái thay đổi từ Tây sang
Đông, trong đó: trung du đồi núi tập trung ở phía Tây, phía Tây Bắc còn đồng bằng
chủ yếu ở phía Đông và phía Nam. Tuy nhiên, ở một số làng như: Kim Liên, Chung
29
Cự, Hữu Biệt, Yên Lạc, Đa Lạc, Hùng Nhẫn... vẫn có nhiều đồi núi xen lẫn giữa vùng
đồng bằng như Chung sơn, Tán sơn, Nhuệ sơn... và cả một phần dãy Đại Huệ.
Theo nghiên cứu của Hippolyte Le Breton trong sách An Tĩnh Cổ Lục ghi rằng:
Lịch sử cấu tạo về địa chất, mặt địa chất gần đây của “thung lũng sông Lam” lại càng
làm cho chúng ta hiểu thêm về thời kỳ xa xưa của thung lũng này. Vào thời đệ tứ kỷ,
biển ăn sâu vào tận chân các ngọn núi cuối cùng của dãy núi lớn lúc đó nước sông
Lam bao phủ mênh mông cả bốn “xứ”. Tiếp đến một thời kỳ lục địa nổi lên. Sau lúc
xảy ra hiện tượng đó, xuất hiện các bãi bồi, dấu vết của “lòng sông đầy”, ngày nay đã
biến thành ruộng lúa, và sông Lam đã đổi dòng về phía dưới. Hệ thống thủy đạo bị giải
thể, nhưng các dấu tích của lòng sông cạn cũ của sông Lam ngày nay còn biểu hiện bởi
các “lòng sông chết” đã biến thành ao hồ. Trong tất cả các lòng sông chết ấy, đáng
chú ý hơn cả là “Xuân Hồ” (hồ của mùa xuân” (Hình CXXII ở trên), một trong những
làng ven sông ngày nay vẫn còn mang tên ấy: Xuân Liễu [99, tr.152 - 153].
Vùng phía Tây và Tây Bắc, chủ yếu là địa hình bán sơn địa, rừng núi xen lẫn
với các thung lũng đồng bằng. Núi đồi ở vùng này hầu hết có độ dốc lớn, từ 350 - 400
và bị xói mòn nặng, nền đất bị rửa trôi chỉ còn lại sỏi đá nên thảm thực vật ở đây chỉ
có loại cây bụi nhỏ và rất ít động vật. Khoáng sản tuy có các loại như: sắt, đồng, măng
gan... song trữ lượng và chất lượng thấp, giá trị công nghiệp không cao. Trong diện
tích bán sơn địa, phần đất chiếm tỷ lệ không nhiều, bị phủ dày sỏi đá, nghèo chất mùn
và chất hữu cơ, thung lũng đồng bằng vì gián tiếp với đồi núi nên bị chia cắt nhỏ, tỷ lệ
đất sét cao. Quá trình đá ong hoá diễn ra từ hàng vạn năm trước tạo nên những mỏ đá
ong thuộc địa bàn các làng xã như: Đông Liệt, Ngọc Trừng, Trang Đen, Trang Ri,
Thanh Thuỷ... Nổi tiếng nhất là mỏ đá ong làng Kiền (Thanh Thuỷ nay thuộc xã Nam
Thanh, dưới triều Minh Mệnh từ năm 1830 - 1832, đã cung cấp hàng vạn tảng đá ong
làm nguyên liệu chủ yếu để xây dựng thành Nghệ An [97].
Vùng phía Đông và Đông Nam, nằm ở hạ lưu sông Lam nên đất đai khá màu
mỡ. Phía tả ngạn và hữu ngạn sông Lam chủ yếu là đất bãi bồi, hình thành bởi phù sa
sông Lam, nên thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là cát pha đất sét, hàm lượng mùn khá cao,
thích nghi với nhiều loại cây trồng, nhất là lúa, ngô, lạc, đậu... So với vùng tả ngạn,
phía hữu ngạn sông Lam có địa hình thấp hơn nên khu vực này thường xuyên bị ngập
úng về mùa mưa lũ khiến sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
30
Đặc thù về địa hình đất đai huyện Nam Đàn được chia thành 2 nhóm: đất phù sa
do sông Lam bồi đắp, đất sét và đất Feralit.
Nhóm đất do phù sa bồi đắp và đất sét: Đây là nhóm đất có ý nghĩa quan trọng
chiếm khoảng 40% diện tích trong thổ nhưỡng ở Nam Đàn, gồm có ba nhóm nhỏ là:
đất phù sa, đất nâu vàng và đất lúa ở vùng đồi núi, trong đó đáng kể nhất là đất phù sa.
Các cánh đồng ở Xuân Hồ, Xuân Liễu, Chung Tháp, Đa Lạc, Yên Lạc, Hữu Biệt, Kim
Liên, Hồng Nhiễm, Tự Trì… thuộc nhóm đất phù sa bồi đắp, đất sét, rất thích hợp cho
việc canh tác lúa mùa và màu.
Nhóm đất Feralit: chiếm khoảng 60% trong diện tích thổ nhưỡng, đất này tập
trung ở các làng, xã như: Ngọc Trừng, Đông Liệt, Trang Đen, Trang Ri, Diên Lãm,
Khả Lãm, Xuân Hồ, Xuân Liễu, Thanh Thuỷ, Diên Lãm… tóm lại là các xã có diện
tích đất phân bố dọc các sườn đồi núi. Nó có các nhóm nhỏ: như đất feralit đỏ vàng,
đất xói mòn trơ sỏi đá, đất màu vàng trên núi… những loại đất này thích hợp với trồng
cây ăn quả, cây chè, cây sắn [78, tr.28].
Với địa hình, đất đai gồm hai nhóm đất để trồng lúa, các loại cây lương thực,
khai thác thủy sản, trồng cây ăn quả, sắn, chè... cư dân Nam Đàn dưới triều Nguyễn
thời kỳ 1802 - 1884, nối đời kế tục trong lao động sản xuất, phát huy các giá trị văn
hóa mà cha ông đã để lại từ ngàn xưa.
Liên quan đến địa hình đất đai ở một số làng xã thuộc tổng Bích Triều và toàn
bộ các thôn, trang, phường, giáp, vạn thuộc tổng Nam Kim nằm dưới chân núi phía
Bắc dãy Thiên Nhẫn ngoảnh mặt ra sông Lam. Đất đai ở đây bao gồm đất phù sa do
sông Lam bồi tụ, những hồ (bàu) ngập nước quanh năm và phần đất đai feralit phân bố
dọc theo dãy Thiên Nhẫn. Có thể nói các cánh đồng ở Phúc Trung Cường, Thượng
Tân Lộc, Khánh Sơn, Nam Kim (ngày nay) phần lớn là đất phù sa của sông Lam. Từ
nhiều thế kỷ trước, các thế hệ cư dân ở Nam Đường đã khai thác vùng đất phù sa dọc
bờ hữu sông Lam (từ làng Chi Cơ, Tàm Tang, Phú Thọ đến làng Hoành Sơn, Trung
Cần...) để trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, hay trồng lúa và các loại hoa màu khác. Tuy
nhiên, thành quả lao động mà cư dân làng xã ở bờ hữu sông Lam thuộc địa giới hành
chính huyện Nam Đàn mà chúng tôi nghiên cứu có thể bị lũ lụt cuốn trôi bất cứ lúc
nào vì chính sách không đắp đê ngăn lũ từ thời Lê sơ đến thời nhà Nguyễn.
Riêng phần đất dọc theo sườn dãy Thiên Nhẫn được cư dân làng xã Nam Kim,
Hoành Sơn, Vạn Lộc, Khoa Trường, Chi Cơ… cư dân dùng đá núi chèn ghép thành
các bậc theo hình vòng cung để trồng chè, chanh, cam, ngô, khoai, kê...
31
Do ảnh hưởng của yếu tố địa hình, sự thay đổi dòng chảy liên tục của sông Lam
trong nhiều thế kỷ trước, các biến cố về địa chất, cùng quá trình khai hoang, đắp đê
của cư dân bản địa, tạo nên đặc điểm dễ nhận thấy của đồng ruộng Nam Đàn là: ruộng
đồng canh tác chỗ thấp, chỗ cao; có nơi đất đai bằng phẳng màu mỡ, cũng có nơi chật
hẹp bị chia cắt bởi các gò, đồi. Khắp vùng đồng bằng thuộc địa bàn huyện Nam Đàn
không có những cánh đồng thẳng cánh cò bay, trên cùng một cánh đồng cư dân làng
xã có thể canh tác nhiều loại hoa màu khác nhau, có rất ít diện tích ruộng chuyên canh
trồng duy nhất một loại hoa màu, cho nên nông sản thu hoạch được của nông dân
trong làng xã dù không đạt năng suất cao, nhưng sản phẩm rất đa dạng, phong phú đáp
ứng các nhu cầu trong đời sống của cư dân trong địa bàn.
Như vậy, khác với các huyện giáp ranh như Hưng Nguyên ở phía Đông, Đức
Thọ ở phía Nam, Nghi Lộc, Diễn Châu ở phía Bắc là những vùng có diện tích đồng
bằng với xứ đồng rộng lớn, ruộng đất của đồng bằng ở huyện Nam Đàn ngoài diện tích
của các xứ đồng canh tác lúa nước còn xen lẫn nhiều đầm, đìa, ao, hồ, các vùng gò đồi,
bán sơn địa... với các đặc điểm khác nhau về độ cao, khả năng canh tác, chất đất.
Khái quát về địa hình, đất đai ở huyện Nam Đàn Lịch triều hiến chương loại
chí, phần Dư địa chí (Quyển 2 nói về sự khác nhau về phong thổ các đạo), sử gia Phan
Huy Chú nhắc đến địa danh huyện Nam Đường (Nam Đàn) thuộc phủ Anh Đô ở về
miền thượng du, tiếp giáp với huyện Thanh Chương. Huyện Hưng Nguyên đất ở miền
dưới, phía Nam giáp huyện Thiên Lộc [20, tr.82]. Huyện Nam Đường (Nam Đàn)
được ông ca ngợi là đất “Cổ tích, thần thiêng” với Miếu Tam Tòa, đền Hắc Đế, cửa ải
Khả Lưu, núi Hồ Cương đều là di tích của các triều đại trước đó, về phong cảnh có núi
Hải Thủy, Sài Sơn, Am Sơn, Viện Sơn... cảnh trí thanh u tao nhã, là đất đáng xem thời
bấy giờ. Đặc biệt, ở cụm Nam Kim (Nam Hoa) bên hữu ngạn sông Lam và dưới chân
núi Thiên Nhẫn, bốn làng gồm Đông Sơn, Hoành Sơn, Dương Liễu, Trung Cần đều có
đình làng được ghi vào thư tịch cổ, đây là những công trình có giá trị kiến trúc, nghệ
thuật tinh xảo, chứng minh cho bề dày phát triển về văn hóa, thẩm mỹ, vật chất và tinh
thần của cư dân vùng lưu vực sông Lam nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng.
2.2.3. Khí hậu
Là một huyện của tỉnh Nghệ An, Nam Đàn nằm chung trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của nhiều hệ thống thời tiết. Theo thống kê hàng năm,
32
tổng bức xạ nhiệt ở Nam Đàn là 138,4 kcal/cm²/năm, cán cân bức xạ là 87,3
kcal/cm²/năm, số giờ nắng trung bình năm là 1637 giờ, chế độ nhiệt trung bình năm là
23,9°C. Khí hậu huyện Nam Đàn được chia thành hai mùa rõ rệt:
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến hết tháng 10 dương lịch, mùa này nhiệt độ
trung bình là 25°C, thời điểm nóng nhất là tháng 7. Đây cũng là thời gian gió phơn
Tây Nam (còn gọi là gió Lào) từ vịnh Băng Gan vượt Trường Sơn mang theo khí
nóng, khô làm cho nhiệt độ nắng nóng lên tới hơn 40°C. Mùa nóng thường có hạn hán,
có những năm hạn hán kéo dài ba tháng, thậm chí có năm kéo dài sáu đến bảy tháng
liền. Trong những ngày hè, gió Lào thổi mạnh cả ngày lẫn đêm khiến cho cỏ cây khô
héo, ruộng đồng nứt nẻ, sau mỗi đợt như vậy thường 5 đến 10 ngày… lại có những
trận giông đột ngột làm hạ nền nhiệt, dịu sức nóng, nước chảy lênh láng lại làm bào
mòn đi mùn đất, mùn lá do sức gió trước đó cày lên khiến cho đất đai thêm cằn cỗi,
ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp [78, tr.25 - 26].
Hàng năm, thường từ tháng 7 đến tháng 9 ở Nghệ An hay có bão, với vị trí
được xem là đất trung tâm xứ Nghệ, Nam Đàn thường chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
những cơn bão. Bão thường có cường độ mạnh, một năm có một đến hai cơn, có
những năm ba đến bốn cơn nối tiếp nhau, kèm với bão là lũ lụt làm cho nước sông
Lam dâng tràn mênh mông, làm ngập úng hoa màu, vỡ đê kè cuốn phăng nhiều xóm
làng, nhà cửa. Một số làng xã ở vùng hữu ngạn thuộc tổng Nam Hoa (Nam Kim) cũ
như làng: Dương Liễu, Hoành Sơn, Trung Cần… hay ở Thịnh Lạc (xã Hùng Tiến),
Xuân La (xã Xuân Lâm) ở vùng tả ngạn sông Lam thường phải đối mặt với nhiều nguy
cơ của lũ lụt bất thường. Vào mùa hè, nhiều khi đang giữa tiết khí khô hạn, lốc xoáy
kèm theo mưa đá lại đột ngột nổi lên làm tung bay nhà cửa, tan nát cả vật dụng và hoa
màu gây nhiều khó khăn cho cư dân bản địa [78, tr.26].
Mùa lạnh ở Nam Đàn nói riêng, toàn xứ Nghệ nói chung, thường đến muộn hơn
so với vùng khác với thời gian kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 dương lịch
năm sau. Vào giữa chu kỳ của mùa lạnh, nhiệt độ trung bình từ 18 - 20°C, ngày thấp
nhất khoảng 6°C. Trong những tháng mùa đông, trời thường nhiều mây và sương mù
bởi gió mùa Đông Bắc (do áp suất thấp ở vùng Xi-bê-ri) tràn qua Thái Bình Dương
mang theo nhiều hơi nước khi vào địa phận huyện Nam Đàn bị chặn bởi các đỉnh núi
thuộc dãy Đại Huệ, Hùng Sơn, Thiên Nhẫn, điều này làm xuất hiện thêm hiện tượng
33
mưa dầm kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Mưa dầm trong mùa đông kèm gió mùa
Đông Bắc khiến cho nền nhiệt càng hạ thấp giá rét bao phủ toàn vùng [78, tr.27].
Về chế độ mưa: Theo thống kê, lượng mưa bình quân ở xứ Nghệ thay đổi theo
từng tiểu vùng khí hậu, lượng mưa trung bình ở Nghệ An khoảng 1.800mm, mùa nóng
chiếm khoảng 70%, mùa lạnh chiếm 30%, trong đó ở huyện Nam Đàn đo được:
Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.900 mm.
Năm mưa ít nhất: 1.100 mm.
Năm mưa nhiều nhất: 2.600 mm.
Độ ẩm trung bình: 86% [78, tr.28].
Khí hậu, thời tiết nắng lắm mưa nhiều tập trung theo mùa, lại thêm gió phơn
Tây Nam, gây không ít khó khăn cho việc duy trì và phát triển kinh tế ở lưu vực sông
Lam nói chung, Nam Đàn nói riêng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông tự
cung tự cấp và chính sách không đắp đê được Gia Long đến Tự Đức duy trì suốt hơn
tám thập kỷ.
2.2.4. Đồi núi, sông ngòi
2.4.1.1. Đồi núi
Hệ thống đồi núi ở Nam Đàn được biết đến rõ nhất với ba dãy núi lớn là núi
Đại Huệ (Rú Nậy), núi Hùng Sơn hay Độn Sơn (rú Đụn) nằm toàn bộ trong phạm vi
huyện và núi Thiên Nhẫn nằm một phần trong huyện. Ngoài ra còn có hàng chục ngọn
núi nhỏ khác phân bố rải rác xen lẫn ở vùng đồng bằng.
Núi Đại Huệ nằm ở phía Bắc huyện Nam Đàn thuộc địa phận hai xã Nộn Liễu và
Thanh Tuyền cũ, nay là các xã Nam Thanh, Nam Anh và Nam Xuân. Phía Đông, Đại
Huệ gắn với các ngọn Đại Bàn, Đại Tứ, Đại Hải; phía Bắc liền với ngọn Đại Quắc (núi
Vạc), phía Tây nối liền với ngọn Hải Thủy và Hồ Cương… tạo nên một dãy kéo dài
chạy dọc theo phía Tây Bắc huyện từ Đông sang Tây, ngăn cách huyện Nam Đàn với
huyện Đô Lương, có truông Băng đi từ xã Thanh Thủy đến miền Trù Ú của huyện Nghi
Lộc, có truông Hến đi từ xã Xuân Liễu đến vùng xã Đoài huyện Nghi Lộc và Truông
Bồn đi qua Tràng Đen lên huyện Đô Lương. Hình núi Đại Huệ tựa quả chuông úp với
đỉnh cao nhất là 454m. Đứng dưới trông lên, thế núi làn làn, đá nằm tựa như xếp, các
ngọn núi kế tiếp nhau cao thấp trùng trùng, cây cỏ chen chúc xanh tươi, sườn núi phía
Tây Bắc và Đông Bắc là một vườn chè lớn, mầm tươi non trải rộng [78, tr.32].
34
Núi Hùng Sơn (rú Đụn) nằm trong phạm vi ba xã Đông Liệt (nay là xã Nam
Thái) và Khả Lãm (nay là xã Nam Thượng) xã Diên Lãm ở phía Tây - Bắc huyện,
cạnh đường quốc lộ 46 Vinh - Đô Lương và cách thị trấn Sa Nam chừng 3km, thế núi
dốc thoai thoải với đỉnh cao nhất khoảng 300m. Núi có rào Gang vòng ở phía Bắc và
sông Lam vòng ở phía Nam. Bao quanh rú Đụn, khe suối nước chảy róc rách, cách
ngày nay vài trăm năm núi bỗng dưng nứt làm đôi, vết nứt dài mấy trăm mét, sâu dăm,
bảy chục mét. Hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên này gắn với lời sấm truyền lưu hành trong
dân gian Nghệ - Tĩnh từ thời Hậu Lê: “Đụn Sơn phân giới, Bò Đái thất thanh, Thủy
đáo Lam thành, Nam Đàn sinh thánh” [106, tr.119 - 120].
Núi Thiên Nhẫn bắt đầu từ huyện Tương Dương của tỉnh Nghệ An kéo dài đến
tận Ngạn Sơn (rú Nghèn) huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, phần núi nằm trên địa bàn
huyện Nam Đàn chạy từ phía Tây sang phía Nam, nằm trong vùng giáp giới với huyện
Thanh Chương và hai huyện Đức Thọ, Hương Sơn của tỉnh Hà Tĩnh. Đỉnh cao nhất
của núi là Hòn Tây (cột đá do Pháp xây dựng vào đầu thế kỉ XX để làm mốc ngắm vẽ
bản đồ) cao 287m, ngoài ra còn vô số những ngọn núi đất với những đỉnh tròn, nối
nhau như muôn ngàn con ngựa nối nhau, khí thế rất hùng vĩ. Trong dãy núi Thiên
Nhẫn chạy qua địa phận xã Nam Kim còn có dấu tích thành Lục Niên do Bình Định
Vương Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn xây dựng (1424 - 1426) ở núi Động
Chủ và ngọn núi Hoàng Tâm [106, tr.107 - 109].
Ngoài ba dãy núi lớn bao quanh huyện là núi Đại Huệ ở phía Đông - Bắc, núi
Đụn ở phía Tây - Bắc, núi Thiên Nhẫn ở phía Nam, trong địa bàn huyện còn có nhiều
ngọn đồi, núi lớn, lớn, nhỏ, cao thấp khác nhau nổi lên giữa các vùng đồng bằng phì
nhiêu. Trong đó có thể kể đến như:
Núi Hồ (Hồ Cương) ở xã Thanh Thủy được bao quanh bởi một vùng nhiều đồi
núi như: Ngũ Liên Châu, rú Nghè, rú Họ, rú Co, rú Đồng Nhôn, rú làng Kiền…; rú
Đai (tên chữ Hán là Ngọc Đái sơn - rú Đai Ngọc) là một ngọn núi thấp thuộc địa phận
xã Vân Diên ngày nay; rú Voi (tên chữ Hán là Ngọc Tượng sơn - rú Voi Ngọc) ở xã
Lương Trường nay thuộc xã Nam Tân; rú Tán, rú Nhuệ Sơn, rú Trăn, rú Chung Sơn,
nằm trong tổng Xuân Hồ, Lâm Thịnh mà Bùi Dương Lịch ví như tán, như lọng hay
như các quân cờ trong bức tranh sơn thuỷ mà tạo hoá đã ban tặng cho các thế hệ cư
dân Nam Đường - Nam Đàn từ nhiều thế kỷ trước [106, tr.121 - 122].
35
Huyện Nam Đàn, phía Đông Bắc, Tây Bắc và phía Nam được bao bọc bởi các
dãy đồi, núi lớn, nhỏ nối tiếp nhau cũng là nơi phân định địa giới với các huyện: Hưng
Nguyên, Nghi Lộc, Thanh Chương (Nghệ An) và Đức Thọ, Hương Sơn (Hà Tĩnh).
Đồi, núi chiếm một phần diện tích lớn gắn liền với việc khai thác nguồn lợi đất đai để
phát triển nông nghiệp, khai thác lâm sản, đá ong... hay là địa bàn của những phường
săn trong những ngày nông nhàn. Bên cạnh đó, núi Thiên Nhẫn, núi Đại Huệ, núi
Hùng Lĩnh( Hùng Sơn, núi Đụn), Ngũ Liên Châu... còn góp phần che chắn gió bão,
đặc biệt là có vị thế địa chiến lược quân sự - chính trị đối với toàn bộ lưu vực sông
Lam nói riêng, cả nước nói chung. Đại bản doanh Vạn An - kinh đô Vạn An, xây
dựng dưới chân núi Đụn, chân núi Ngọc Đái Sơn (713 - 723); thành Hồ Vương do cha
con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương xây dựng vào cuối năm 1406 dưới chân núi Đại Huệ;
thành Lục Niên nơi Bình Định Vương Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn
đóng (1424 - 1426) dưới chân núi Động Chủ và núi Hoàng Tâm thuộc dãy Thiên
Nhẫn; đại bản doanh làng Thành (Thanh Thuỷ, Nam Thanh ngày nay) do Trần Tấn,
Đặng Như Mai xây dựng trong cuộc khởi nghĩa năm Giáp Tuất 1874; hay căn cứ của
nghĩa quân Cần Vương dưới cờ của Cử nhân Vương Thúc Quý, Vương Thúc Mậu
được xây dựng trên núi Chung Sơn, thuộc làng Kim Liên (1886 - 1887)...
2.4.1.2. Sông ngòi
Hệ thống sông ngòi với lưu lượng nước lớn nhất (không kể đến các bàu, hồ nằm
rải rác trên địa phận huyện Nam Đàn) phải kể đến là sông Lam và sông Gang.
Sông Lam (còn có tên gọi là sông Cả, sông Rum) ở giữa hai phủ Đức Quang và
Anh Đô, là một trong hai con sông lớn nhất ở Bắc Trung Bộ. Khởi nguồn từ núi Puloi
cao 2.060m ở Thượng Lào chảy qua một vùng gọi là thung lũng sông Lam ở huyện Kỳ
Sơn, qua các huyện Tương Dương, Anh Sơn, Đô Lương, Thanh Chương, phía Bắc
huyện Nam Đàn, rồi theo hướng chung là Tây Bắc - Đông Nam trong địa phận huyện
Nam Đàn xuống đến phía Nam huyện trên một chiều dài khoảng 16km, rồi tiếp tục
chảy qua địa phận huyện Hưng Nguyên ngoặt lên hướng Bắc chảy qua huyện Nghi
Lộc và Nghi Xuân (Hà Tĩnh) rồi đổ ra biển Đông ở cửa Hội Thống (gọi tắt là Cửa Hội
- Nghi Xuân) [106, tr.163]. Tên gọi sông Lam mang vẻ yên bình xanh biếc vào mùa
khô, sang mùa mưa lũ thì cuồn cuộn đục ngầu bởi phù sa từ thượng nguồn đổ về, hai
36
bên bờ thuộc tả ngạn và hữu ngạn chứng kiến sự bồi đắp, cũng như khoét sâu bởi sự
thay đổi dòng chảy ở phía hạ nguồn của lưu vực. Trong thế kỷ XIX nói chung, dưới
đời Tự Đức (1847 - 1883) nói riêng, cư dân Nam Đàn đã chứng kiến những trận lũ lụt
khiến cho làng Dương Liễu bị chia cắt làm đôi rồi tàn phá hoàn toàn làng đó, cũng
chính sông Lam đã bồi đắp ở phía dưới bên hữu ngạn, một dải phù sa mà trên đất này
cư dân làng Dương Liễu cũ đã dời đến ở hình thành nên làng Dương Liễu mới.
Sông Cương Giang (rào Gang), từ huyện Đô Lương chảy về qua địa phận
Thanh Chương, nhập vào sông Lam ở địa phận xã Đông Liệt cũ (nay là xã Nam
Thái) cắt đường quốc lộ 46 ở cầu Rào Gang rồi rào Băng (Băng Giang), phát nguyên
từ dãy Đại Huệ chảy xuống xã Thanh Thủy, chảy ra xã Xuân Liễu đổ vào rào Nón
(Nộn Giang) rồi chảy xuống phía Đông đến xã Hưng Chính (Hưng Nguyên) chuyển
sang phía Nam rồi hòa vào sông Lam trên địa phận huyện Hưng Nguyên ở gần núi
Dũng Quyết.
Sông suối, khe cừ trên địa bàn huyện Nam Đàn, ngoài vị trí là ranh giới tự
nhiên giữa các làng xã, tổng huyện còn có tác dụng bồi đắp phù sa, cung cấp nguồn
nước cho sản xuất nông nghiệp, đem lại nguồn thủy sản tự nhiên phong phú cho cư
dân địa phương. Đây còn là tuyến giao thông thuỷ nối liền các địa phương trong
huyện, phủ, trấn/tỉnh. Tuy vậy, do nằm ở vùng hạ lưu sông Lam cùng với đặc điểm địa
hình nhiều sông suối, khe cừ, ao hồ nên tình trạng lũ lụt, ngập úng hàng năm vẫn
thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng đến sản xuất nói riêng và toàn bộ đời sống xã hội của
cư dân trong vùng nói chung.
Hồ (Bàu): Trên địa bàn huyện Nam Đàn ở thế kỷ XIX, ngoài hệ thống sông
ngòi, khe suối còn có những hồ (tiếng địa phương gọi là Bàu - chỉ vùng đất thường
xuyên ngập nước) như: bàu Ngan (Ngọc Trừng), bàu Lầm (Diên Lãm), bàu Sen (Diên
Lãm), bàu Nón (Hồ Nón) thuộc xã Nộn Liễu, bàu Láng (thuộc các làng Chi Cơ, Tàm
Tang, Phú Thọ, Khoa Trường), bàu Sen (Kim Liên)... Trong đó, nổi tiếng có bàu (hồ
Nón). Bùi Dương Lịch trong sách Nghệ An ký, chép về Hồ Nón như sau: “Hồ Nón ở
xã Nộn Liễu, huyện Nam Đường. Các dòng khe (suối) của núi Thanh Thuỷ hợp lưu
đến đây làm thành hồ lớn chừng vài ngàn mẫu. Mùa xuân, mùa hạ nước cạn có thể làm
ruộng cấy lúa rất tốt; mùa thu, mùa đông nước lên to, sóng dữ dội, chẳng khác gì biển
37
cả. Cửa hồ có cầu Đại Đồng. Nước hồ đổ vào kênh Chân Đích, huyện Hưng Nguyên
chảy vào sông Lam, việc vận tải thông suốt. Tương truyền, xưa kia có hồ nước rất sâu,
làm sao huyệt cho thuồng luồng, thời Lê khoảng niên hiệu Dương Hoà (1635 - 1643)
Thần Tông Uyên hoàng đế, có người xã Hương Lãm là Thị lang Hương Lâm hầu
Nguyễn Văn Mệnh mới đào [cửa hồ], sau đấy mới thành ruộng” [106, tr.225].
Từ những trình bày trên cho thấy, cư dân 6 tổng 65 làng xã ở Nam Đàn thời kỳ
1802 - 1884, vừa được sử dụng tuyến đường giao thông theo dọc đôi bờ tả hữu sông
Lam để mở rộng giao thương buôn bán hàng hoá với các huyện phủ trong trấn/tỉnh
Nghệ An; vừa có cả một vùng đất đai rộng lớn do sông Lam bồi đắp phù sa dọc hai
bên bờ tả/hữu. Bên cạnh đó, còn có các hồ (bàu) để khai hoang mở rộng diện tích canh
tác, khai thác nguồn lợi thuỷ sản hay sử dụng nguồn nước để tưới tiêu.
Tuy nhiên, cư dân làng xã ở Nam Đàn cũng phải đối mặt với mưa lũ, ngập lụt
do chính sông Lam, sông Rào Gang (Cương Gang), cả hồ Nón, bàu Lầm, bàu Ngan,
bàu Láng... gây nên trong suốt các thời kỳ lịch sử.
2.2.5. Đường giao thông
Trong thế kỷ XIX, theo Đại Nam nhất thống chí, huyện Nam Đàn: ở cách phủ
Anh Sơn 8 dặm về phía Đông; Đông Tây cách nhau 85 dặm, Nam Bắc cách nhau 28
dặm, phía Đông đến địa giới huyện Hưng Nguyên 65 dặm, phía Tây đến địa giới
huyện Lương Sơn 20 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Thanh Chương 13 dặm, phía
Bắc đến địa giới huyện huyện Lương Sơn 15 dặm [154, tr.139].
Huyện Nam Đàn thuộc vùng hạ lưu sông Lam, có vị trí tiếp giáp với nhiều địa
phương phía Tây Nam của trấn/tỉnh Nghệ An, dưới triều Nguyễn nơi đây có hệ thống
đường giao thông khá phong phú với cả hệ thống đường bộ và đường thủy.
Căn cứ theo Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ (hiện lưu ở văn khố Shido (Tư Đạo
văn khố, 斯道文庫), Đại học Keio, Tokyo, Nhật Bản) do tác giả Lê Văn Ất dịch và
nghiên cứu, cho biết: Trong bản đồ nhật trình vẽ đường đi từ Kinh đô (Thăng Long)
đến khu vực Chiêm Thành xưa theo đường bộ (60 ngày), có mô tả lộ trình ngày nghỉ
thứ 14 tại La Sơn (Hà Tĩnh) có tuyến đường bộ đi qua khu vực huyện Nam Đường
(Nam Đàn). Bản đồ có chú thích rõ đường đi, gắn với các địa danh như: Cầu Đức, núi
38
Đao, Quán. Dựa trên bản đồ có thể thấy, con đường bộ đoạn đi qua địa bàn huyện
Nam Đàn là một phần của tuyến đường giao thông huyết mạch trong hành trình từ
Thăng Long vào đến Chiêm Thành [5].
Sách Hoàng Việt nhất thống địa dư chí (do Lê Quang Định biên soạn xong năm
1806) cho biết có tuyến đường thủy: Từ bến Lương Trường (nơi thu nộp thuế lương
thực) ở cửa Nam trấn thành Nghệ An theo đường thủy đến rạch Hoang Hùy thuộc
huyện Nam Đường [49].
Sách Đồng Khánh địa dư chí ghi rõ: Về đường bộ thuộc phủ Anh Sơn từ huyện
Nam Đường đến các xã, huyện, phủ khác có các tuyến đường chủ yếu như sau:
- Một con đường quan báo từ phủ lỵ đi về phía Đông, qua Lương Sơn, Nam Đường,
đến cầu Đích huyện Hưng Nguyên rồi đến tỉnh lỵ, dài 86 dặm 51 trượng, rộng 6 thước.
- Một con đường quan báo từ phủ lỵ đi về phía Tây, đến địa giới phủ Tương
Dương, dài 51 dặm 13 trượng, rộng 6 thước.
- Một con đường nhỏ từ phủ lỵ đi về phía Nam, đến địa giới huyện Thanh
Chương, dài 120 trượng, rộng 4 thước.
- Một đường nhỏ từ phủ lỵ đi về phía Bắc, đến địa giới phủ Diễn Châu, dài 1
dặm 115 trượng, rộng 4 thước [165, tr.1237].
Các tuyến đường bộ lớn nhỏ có chiều rộng 4 - 6 thước, tính theo phép đo chiều
dài thời Nguyễn 1 thước = 0,425 m, thì các tuyến đường có chiều rộng từ 1,7 - 2,55 m,
chủ yếu phục vụ nhu cầu đi lại của cư dân và các loại hình phương tiện nông nghiệp
trên địa bàn huyện Nam Đàn.
Các tuyến đường quan báo nối liền từ trấn/thành Nghệ An lên huyện lỵ Hưng
Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Lương Sơn... đây là huyết mạch giao thông đường
bộ quan trọng nhất đối với cư dân Nam Đàn ở thế kỷ XIX. Ngoài ra, còn có tuyến
đường bộ đi từ xã Thanh Thuỷ (Nam Thanh) qua truông Băng (núi Đại Huệ) đến vùng
Trù Ú, Đại Sơn (Đô Lương ngày nay). Từ Xuân Hồ, Xuân Liễu, cư dân Nam Đàn còn
vượt truông Hến (thuộc xã Nam Xuân ngày nay) đến vùng Nghi Công, Nghi Kiều
(Nghi Lộc). Trong cuộc hành binh thần tốc cuối năm 1788 Hoàng đế Quang Trung và
ba quân tướng sĩ đã đi từ Lam Thành, qua Nam Đường vượt truông Hến và truông
Băng thẳng tiến ra Bắc [206].
39
Vùng Đông Liệt, Ngọc Trừng, Trang Ri, Trang Đen... cư dân làng xã còn theo
tuyến đường bộ vượt qua dốc Kỳ Lợn đến truông Bồn (xã Nam Hưng ngày nay), đến
xã Minh Sơn, Đại Sơn (Đô Lương ngày nay). Riêng cư dân các làng xã ở tổng Bích
Triều và tổng Nam Kim có thể đi theo tuyến đường bộ thuộc làng Hoành Sơn, Vạn
Lộc qua khe Su đến xã Sơn Tiến (huyện Hương Sơn) hoặc tuyến đường bộ từ xã Nam
Kim vượt qua thung lũng hẹp thuộc dãy Thiên Nhẫn để đến xã Sơn Hoà, Sơn Tiến
(huyện Hương Sơn) hay con đường bộ nối liền với xã Đức Trường (Đức Thọ) đi lên
bến đò Linh Cảm.
Với mật độ phân bố, kích thước độ rộng của các tuyến đường, đường bộ đóng
vai trò quan trọng đáp ứng nhu cầu đi lại, phục vụ sản xuất nông nghiệp và vận chuyển
giao thông nội vùng. Liên quan đến giao lưu thương mại, đường bộ giữ vị trí khá
khiêm tốn trong vận chuyển hàng hóa bởi sự thô sơ về công cụ chuyên chở, các tiểu
thương chủ yếu là gồng gánh, hoặc sử dụng xe thồ đưa hàng hóa ra chợ làng, chợ tổng,
huyện trao đổi, mua bán. Trong thời kỳ này, xe ngựa chủ yếu được sử dụng vào chức
năng hành chính, quân sự, thông tin liên lạc hơn là kinh tế.
Với điều kiện địa hình độ dốc khá lớn, nhiều sông suối, khe cừ chia cắt ngang
dọc, đường bộ không thể tiến hành dài ngày bằng phương tiện vận chuyển thô sơ vì
cầu cống hiếm nơi có được, chủ yếu là đò ngang, đò dọc trên sông. Ngoài ra, việc vận
chuyển, giao thương hàng hóa trên các tuyến đường bộ còn nhiều nguy cơ bị ách tắc
do lũ lụt làm sụt lở đường sá, sự đe dọa của thú dữ hay trộm cướp do sơn tặc thường
xuyên xảy ra. Đó là thực tế không chỉ ở Nam Đàn mà còn là tình trạng chung của giao
thông đường bộ trên khắp cả nước trong thế kỷ XIX.
Dưới triều Nguyễn, Nhà nước rất quan tâm đến việc đào sông vừa tiện đường
thông thương vừa phát triển thủy lợi. Việc tu bổ ghe thuyền trở thành phép nước, được
quy định trong Hội điển: “Hàng năm thuyền nào cần đại tu, tiểu tu và quang xãm thì
cứ theo Thánh dụ, thượng ty ấy khám cho thực tại thế nào, nói đủ nguyên do tâu lên
xin làm”. Dưới thời Tự Đức (1848), để khuyến khích vận tải hàng hóa cho Nhà nước,
nhà vua kêu gọi các thuyền buôn chuyển vào ngạch vận tải sẽ được miễn binh dịch,
tạp dịch, cấp lương thực cho chủ và các tay chèo [8; tr.18 - 21].
Từ nhiều thế kỷ trước, cư dân ở lưu vực sông Lam đã khai thác triệt để hệ thống
sông nhánh, sông phụ của sông Lam như: sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông La (Hà
40
Tĩnh), sông Giăng, sông Cương Gang, sông Hiếu, sông Con... (Nghệ An) để phát triển
mạng lưới giao thông đường sông nhằm vận chuyển các loại lâm đặc sản, nông phẩm
từ miền ngược đến miền xuôi. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, trấn thành Nghệ An
nằm ở Lam Thành - Phù Thạch, do đó cư dân huyện Hưng Nguyên, Nam Đường,
Thanh Chương, Đức Thọ, Hương Sơn có nhiều thuận lợi khi khai thác tuyến đường
thuỷ dọc sông Lam. Đầu thế kỷ XIX, lỵ sở Nghệ An chuyển về Vĩnh Yên và Yên
Trường (Vinh ngày nay), cảng sông Bến Thuỷ, sông Vinh, sông Cửa Tiền, kênh nhà
Lê trở thành mạng lưới đường sông phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá, giao
thương buôn bán, giao lưu văn hoá của cư dân ở trấn/tỉnh Nghệ An. Theo khảo sát của
chúng tôi, trên địa bàn các tổng của huyện Nam Đàn dọc hai bờ tả/hữu sông Lam có
các bến đò dọc và đò ngang sau đây: bến đò chợ Liễu nối Tuần La sang Hoành Sơn -
Trung Cần, Dương Liễu; bến đò Vạn rú và bến đò rú Gềnh nối liền cư dân các làng, xã
ở tổng Lâm Thịnh, tổng Non Liễu với cư dân ở tổng Nam Kim. Bến đò Sa Nam bao
gồm đò dọc và đò ngang nối liền huyện lỵ Nam Đàn với các làng xã thuộc tổng Bích
Triều (Chi Cơ, Tàm Tang, Phú Thọ, Vũ Nguyên). Bên cạnh đó, từ bến đò Sa Nam cư
dân Nam Đàn còn có thể lên đò Phuống, đò Rộ, đò Giăng ở huyện Thanh Chương,
thậm chí lên tận đò Lường ở huyện Lương Sơn. Việc vận chuyển gỗ, tranh, tre, nứa
mét và các loại lâm sản, nông sản khác từ Lương Sơn, Thanh Chương về Nam Đàn hết
sức thuận lợi. Cư dân các huyện, Hương Sơn, Đức Thọ (Hà Tĩnh) còn có thể theo dòng
sông La sau đó ngược dòng sông Lam đến tất cả các bến đò và chợ trên địa bàn huyện
Nam Đàn để buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá.
Thậm chí, cư dân các làng xã ven biển từ Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc
còn có thể chở các thuỷ hải sản, muối, nước mắm, sản phẩm nghề gốm, rèn... theo
kênh nhà Lê, hoặc men theo dọc bờ biển vào cửa Hội Thống sau đó đi lên cảng sông
Bến Thuỷ ngược dòng sông Lam lên tận bến đò Sa Nam để mua bán, trao đổi. Sông
Lam trở thành một trong những tuyến đường giao thông thuỷ nối liền cư dân Nam Đàn
với cư dân nhiều huyện ở hạ lưu sông Lam.
Lưu thông bằng đường thủy, đặc biệt là việc chuyên chở hàng hóa vào thế kỷ
XIX cũng luôn bị đe dọa và thiếu an toàn về nạn cướp biển, bão tố, đá ngầm… Ở
Nghệ An, năm 1846 xảy ra vụ đắm thuyền đã nhấn chìm 290 chiếc thuyền là một trong
những tổn thất rất lớn [8, tr.21].
41
Tóm lại, trong thế kỷ XIX hệ thống giao thông ở nước ta nói chung, Nghệ An,
Nam Đàn nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo mối liên kết hạ tầng
Nông - Công - Thương. Đường thủy đóng vai trò chủ lực trong vận tải dân dụng,
đường bộ đóng vai trò quan trọng liên kết giao thông phục vụ chức năng hành chính,
quân sự, thông tin liên lạc vùng miền và nhu cầu đi lại, sản xuất của nhân dân.
2.3. Bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế ở huyện Nam Đàn trước năm 1802
Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều diễn ra ở thế kỷ XVI đã đẩy đại bộ phận cư
dân làng xã ở Nghệ An nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng vào vòng xoáy của cuộc
nội chiến. Nghệ An, Nam Đàn nhiều lần trở thành bãi chiến trường trong các cuộc giao
tranh khốc liệt kéo dài. Trong sách Thanh Chương huyện chí, Bùi Dương Lịch có ghi
rằng: Thái phó Tấn quốc công Nguyễn Cảnh Hoan (còn có tên gọi khác là Nguyễn
Cảnh Mô), Lai quận công Phan Công Tích, cùng nhiều tướng lĩnh khác chiêu tập dân
binh ở Nghệ An, trong cuộc chiến với Mạc tướng Thạch quận công Nguyễn Quyện
(1575) đã lấy vùng đất ở Thanh Thủy, Nam Đường làm nơi đồn trú, vùng tả ngạn sông
Lam đi qua huyện Nam Đường cùng với các địa điểm rào Gang, rú Nguộc là nơi giao
tranh của các tập đoàn phong kiến [118, tr.109]. Cuộc chiến giữa lực lượng thân nhà
Mạc với lực lượng trung thành với vua Lê - chúa Trịnh trên đất Nghệ An kết thúc,
nhưng hậu quả do cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ấy để lại cho cư dân làng xã ở
Nghệ An hết sức nặng nề. Khắp nơi trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung, huyện Nam
Đàn nói riêng, làng mạc điêu tàn, ruộng đất bị bỏ hoang, dân cư làng xã buộc phải bỏ
nhà cửa phiêu tán khắp nơi để tránh nạn binh đao khói lửa, nền kinh tế rơi vào tình
trạng đình đốn. Theo Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký toàn thư: “Các huyện, đồng
ruộng bỏ hoang, nhân dân đói khổ. Dịch tễ lại phát sinh, người chết đói đến gần nửa.
Dân phiêu tán hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ An đìu hiu, vắng tanh”
[109, tr.262].
Từ thế kỷ XVII, cuộc nội chiến giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn đã ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống kinh tế, văn hoá xã hội của toàn bộ cư dân Đàng trong và Đàng
ngoài. Nghệ An và Hà Tĩnh trở thành bãi chiến trường trong bảy lần giao tranh khốc
liệt giữa quân đội của các chúa Nguyễn và quân đội của chính quyền Lê - Trịnh. Cư
dân làng xã ở Nghệ An, Hà Tĩnh phiêu tán hoặc bị bắt đưa vào Đàng trong (trường
42
hợp gia tộc của anh em Tây Sơn ở Hưng Đạo (Hưng Nguyên) đã minh chứng cho điều
đó). Trong bối cảnh đó, kinh tế ở Nghệ An, Nam Đàn sa sút. Việc quản lý đất đai vượt
ra ngoài khả năng của chính quyền Lê - Trịnh. Tình trạng ruộng đất bị bỏ hoang hoặc
ngập lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra. Bộ máy quan lại địa phương cấu kết với nhau
chiếm đoạt mua bán ruộng đất công của làng xã. Nông dân ở Nghệ An, Nam Đàn bị
đẩy vào tình cảnh điêu đứng, liên tục vùng dậy khởi nghĩa hoặc ủng hộ Nguyễn Hữu
Cầu, Lê Duy Mật... chống lại chính quyền Lê - Trịnh. Theo Đại Việt sử ký tục biên cho
biết: Tháng 6 năm 1705, bấy giờ Thanh, Nghệ luôn năm mất mùa đói kém, lính phần
nhiều trốn và thiếu không bổ sung được. Chúa Trịnh Căn sai phụ thần họp bàn về việc
nên đối xử khoan hòa hay cứng rắn. Bọn Tham tụng Nguyễn Quán Nho cho rằng dân
tình ai cũng tránh nặng cầu nhẹ, nơi phiêu tán thì ương bướng, nơi giàu có thì che giấu.
Nếu thảy đều giảm ngạch thì chỉ làm lợi rộng rãi cho hương thôn, nếu thảy đều cho
hoãn kỳ hạn thì họ sẽ đua nhau kêu là nghèo khổ. Nay xin ra lệnh cho những nơi có
lính trốn, đặt trách nhiệm cho các viên thổ mục cùng lĩnh ở Kinh phải dẫn người đến
thế (những lính trốn), nếu không thay thế được thì ủy cho trấn quan đòi bắt. Xin đình
chỉ ngay cái lệ cho binh phiên bắt bớ để giảm phiền phí [29, tr.57].
Sách Lịch triều tạp kỷ có ghi rằng: Tháng 3 năm Ất Mùi, năm (Vĩnh Thịnh) thứ
11 (1715), Phủ liêu bàn rằng: xứ Nghệ An có dịch bệnh lưu hành, nhân dân phần nhiều
bị đau khổ. Chính là lúc nên thăm viếng, lo lắng, cầu đảo cho dân. (Chúa Trịnh) bèn
truyền các quan hai ty Thừa chính và Hiến sát chọn lấy chỗ đất sạch, lập đàn thờ, trích
tiền công, mua sắm lễ vật... tế chung các thần linh thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng
ở xứ Nghệ An để cầu thần phù hộ cho dân [94, tr.199 - 200].
Chính sự sa sút về kinh tế, khủng hoảng về chính trị - xã hội đã tạo điều kiện
cho quan lại, cường hào ra sức cướp đoạt ruộng đất, bóc lột dân nghèo. Ruộng đất tư
trên đà phát triển mạnh. Nhiều chủ sở hữu có đến hàng chục héc ta ruộng đất. Trong
khi đó, đa phần nông dân mất ruộng, rơi vào cảnh đói kém liên miên, phải bán vợ, bán
con hoặc đem thân đi ở đợ để sống qua ngày. Bên cạnh đó, sách Nghệ An ký của Bùi
Dương Lịch, còn cho biết thêm: Thôn có 9 mẫu đất thì 7 mẫu bỏ hóa, có 118 mẫu
ruộng thì 112 mẫu ruộng bỏ hóa và ruộng mạ. Tình trạng ruộng đất hoang hóa, xóm
làng tiêu điều, nông dân đói khổ, phải bỏ làng đi phiêu tán khắp nơi ngày càng phổ
43
biến. “Chỉ có các huyện Nam Đường, Thanh Chương và Hưng Nguyên ở vùng bãi ven
sông thường trồng ngô để bổ cứu sự thiếu hụt đó. Những huyện Thạch Hà, Nghi Xuân,
Chân Lộc, nhiều đất xốp, thường dành một nửa đất để trồng khoai ăn độn…” [106,
tr.220].
Cuối thế kỷ XVIII, khủng hoảng kinh tế, chính trị - xã hội ở cả Đàng Trong và
Đàng Ngoài đến đỉnh điểm. Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ, nhanh
chóng lật đổ nền thống trị của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1786, Nguyễn
Huệ đưa quân ra Bắc, lật đổ nền thống trị của họ Trịnh, kết tình thông gia với nhà Lê.
Năm 1788 - 1789, cả dân tộc phải đối mặt với cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Mãn
Thanh. Từ năm 1789 đến năm 1792, Hoàng đế Quang Trung thực thi nhiều chính sách
nhằm phục dựng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội từ Phú Xuân trở ra Bắc. Tuy nhiên,
sau khi Hoàng đế Quang Trung mất (1792) vương triều Tây Sơn lún sâu vào khủng
hoảng và sụp đổ (1801). Trong bối cảnh đó, kinh tế ở Nghệ An nói chung, Nam Đàn
nói riêng không có những chuyển biến đáng kể. Tình trạng bao chiếm, mua bán ruộng
đất công của làng xã hay tình trạng cư dân làng xã đói kém phiêu tán trở nên phổ biến.
Quan lại, địa chủ và những người giàu có ở làng xã câu kết với nhau chiếm hữu đất
đai, đẩy nông dân Nghệ An, Nam Đàn vào tình cảnh khốn cùng. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự sụp đổ của vương triều Tây Sơn.
Như vậy, đến trước năm 1802, kinh tế nông nghiệp lỗi thời và lạc hậu vẫn bao
trùm lên toàn bộ làng xã ở Nghệ An nói chung và huyện Nam Đàn nói riêng. Quan lại
địa phương và những người có thế lực ở làng xã nắm quyền sở hữu đất đai. Tiểu thủ
công nghiệp vẫn chỉ có quy mô nhỏ trong làng xã, sản phẩm chủ yếu phục vụ nhu cầu
sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân trong vùng. Hoạt động buôn bán trao đổi
hàng hoá chủ yếu diễn ra ở hệ thống các chợ từ làng xã đến phủ, huyện.
2.4. Những chính sách, biện pháp của nhà Nguyễn thực thi ảnh hưởng đến
kinh tế Nghệ An, huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884
2.4.1. Đối với nông nghiệp
Năm 1802, sau khi giành thắng lợi trong cuộc nội chiến với vương triều Tây
Sơn, Nguyễn Ánh lập đàn hợp tế trời đất cáo việc đặt niên hiệu Gia Long (tháng 5 năm
1802), đại xá thiên hạ, xác lập vai trò của vương triều Nguyễn đối với lịch sử dân tộc
44
[135; tr.491]. Nhà Nguyễn lên nắm quyền trong điều kiện đất nước thống nhất về mặt
lãnh thổ nhưng kinh tế nước ta bị giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt là nông nghiệp.
Nông nghiệp rơi vào tình trạng đất đai hoang hoá nhiều, thuỷ lợi không được
củng cố, từ làng xã đến trấn/tỉnh dân tình bỏ quê phiêu tán, tha phương cầu thực khắp
nơi. Ở Bắc thành, theo lời tâu của quan lại cho hay: “Bắc hà trải qua loạn lạc, dân
nhiều người phiêu tán. Binh có thiếu ngạch thì quan thường bắt làng lân cận cấp thế.
Vì thế ruộng đất của dân phiêu tán bị làng lân cận chiếm lấy để bù lại” [170, tr.81].
Tình trạng kiện tụng về sở hữu ruộng đất nổi lên, xã hội bất ổn. Năm 1809, quan Bắc
thành tâu: “Gần đây, kiện tụng ngày càng nhiều, tài lực ngày càng hao, trăm họ nhôn
nhao không được yên nghiệp… tệ hại trăm mối, dân không chịu nổi, kẻ giàu không giữ
được của, kẻ nghèo phần nhiều lưu vong, khiến những lũ bất bình mà phiến loạn”
[170, tr.81].
Năm 1802, Gia Long lệnh cho Bắc thành đến Nghệ An làm lại sổ ruộng, sau đó
quy định: “Phàm ruộng đất của dân phiêu tán, quan sở tại phải lập ranh giới rõ ràng,
chia cấp cho quan quân cày cấy mà được thu thuế, làng lân cận không được cày cấy.
Ai đã trót cày cấy rồi thì tạm thời chiếu theo hạng ruộng công tư mà thu thuế trước…
Khi dân phiêu tán trở về thì đem những ruộng đất ấy cấp trả, thu thuế như lệ”. Năm
1805, vua xuống chiếu: Từ Nghệ An ra Bắc, ruộng đất của lưu dân từ năm Nhâm Tuất
(1802) về trước đã cho quan quân cày cấy rồi thì nay đình bãi, để đợi dân lưu trở về lại
cho quản nhận làm ăn, tha thuế, tha lính 3 năm” [156, tr.631].
Năm 1807, Gia Long dụ rằng: “Gần đây, nghe thấy các nhà và những ấp xung
quanh còn kẻ chiếm canh đất của dân xiêu dạt, che dấu lẫn nhau, khiến dân xiêu dạt
sinh lòng lo sợ, nhiều người chưa dám về”. Trong bối cảnh đó, trấn/tỉnh Nghệ An nơi
chịu nhiều tổn thất sau cuộc nội, nơi đây đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, thiên tai
thường xuyên xảy ra thì tình trạng dân cư phiêu tán, đất đai bị bỏ hoang càng nghiêm
trọng. Năm 1819, Lê Văn Duyệt dâng sớ: “Dân Nghệ An điêu hao quá lắm… Một cõi
Nghệ An, thổ phỉ tuy đã quét sách, mà dân cũng còn nhiều người xiêu tán” [135,
tr.984]. Năm 1820, đốc trấn Nghệ An tâu: “Dân trong hạt xiêu tán cộng 63 thôn, gần
đây có người đã trở về, mười phần được một, hai phần”. Đến cuối những năm 1830
thời Minh Mệnh, ruộng đất bỏ hoang lên tới 1.314.927 mẫu [171, tr.445].
45
Bên cạnh việc khuyến khích nhân dân tự phục hoá ruộng đất bỏ hoang trong
làng xã, triều Nguyễn còn thi hành nhiều chính sách khuyến khích nhân dân tự động tổ
chức khai hoang theo nhiều phương thức khác nhau nhằm mở rộng thêm diện tích
canh tác. Theo quy định năm 1830, “ruộng công bị bỏ hoang thì cho dân xã cùng khai
khẩn, ruộng tư bỏ hoang thì chủ ruộng tự khai lấy”. Cho phép người có khả năng
trưng ruộng hoang. Triều đình còn qui định rõ hơn: “Nếu có ruộng mà ẩn lậu không
khai, người khác khẩn trưng thì người khẩn trưng sẽ được ruộng” hoặc “ruộng bỏ
hoang tất phải do dân xã không có sức khai khẩn được mới cho người xã khác khẩn
canh, nếu dân này lưu tán mà dân khác cày cấy để nộp thuế thì cho các tổng làm sổ
thay” [158]. Ngoài ra còn sử dụng các lực lượng như tù phạm vào mục đích khai
hoang, tổ chức các hình thức như đồn điền, doanh điền nhằm khai hoang những vùng
đất mới. Tuy nhiên, ở Nghệ An các đồn điền chỉ mang tính chất như các đồn sơn
phòng, chủ yếu là để đảm bảo an ninh.
Dưới triều Nguyễn, để tiện cho việc quản lý đất đai, thu thuế, nhà Nguyễn đã
tiến hành hành khám đạc, phân loại ruộng đất, định mức thuế các loại trên phạm vi cả
nước từ năm 1802 dưới thời vua Gia Long. Đối với Nghệ An và một số tỉnh Bắc Trung
Bộ, năm 1830, vua Minh Mệnh dụ rằng: “Đất lấy sổ làm căn cứ, là để tỏ tình thực mà
trừ gian dối” rồi theo lời bàn của bộ Hộ cho ba trấn Thanh, Nghệ và Ninh Bình làm địa
bạ, để sang năm thi hành ở Nghệ An nói riêng [158, tr.74 - 75]. Riêng huyện Nam
Đàn, chúng tôi đã tập hợp được 40 địa bạ thuộc 6 tổng, 65 làng xã, trang, phường,
giáp, vạn, sở trong không gian địa giới hành chính mà đề tài xác định. Các địa bạ này
chủ yếu được lập dưới thời Minh Mệnh giai đoạn từ năm 1832 đến năm 1836 sau dụ
vua ban (1830).
Đối với nông nghiệp, việc trị thủy và thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
và chống lũ lụt triều cường đóng vai trò rất quan trọng. Ở Nghệ An, theo Bùi Dương
Lịch trong Nghệ An ký, đầu triều Nguyễn không thực hiện chính sách đắp đê, ngăn lũ
lụt ở đôi bờ sông Lam, sông La các làng xã ven biển để ngăn nạn triều dâng. “Xứ
Nghệ An, gần núi, giáp biển, đất đai sỏi sạn, cằn cỗi lại không có mấy nơi bằng
phẳng, rộng rãi nên từ xưa không có chính sách đắp đê” [106, tr.129]. Cho đến thời
Tự Đức, vì nhiều nguyên nhân khác nhau chính sách không đắp đê vẫn được duy trì.
Do đó, ở Nghệ An suốt thế kỷ XIX ghi nhận rất nhiều trận lũ lụt, không ít làng mạc,
ruộng đất, lúa, hoa màu... dọc đôi bờ tả hữu sông Lam thường xuyên bị nước lũ cuốn
trôi, cư dân làng xã Nam Đàn cũng nằm trong bối cảnh chung đó.
46
2.4.2. Đối với thủ công nghiêp, thương nghiệp
Dưới triều Nguyễn, chính sách đối với thủ công nghiệp chủ yếu tập trung ở chế
độ công tượng và chế độ biệt nạp. Đây là một loại hình có tổ chức quy mô lớn cùng
một chế độ quản lý chặt chẽ nhất nhằm tái thiết đất nước sau những năm tháng chiến
tranh. Các tượng cục có quy mô lớn với các công xưởng quan trọng như đúc tiền, đúc
súng và đóng tàu chủ yếu tập trung nơi trung tâm do triều đình dành quyền quản lý.
Ban đầu các công xưởng của nhà nước được giao cho vũ khố (cơ quan quản lý kho
tàng của nhà nước) trông coi. Đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829) Bộ Công trực tiếp
quản lý. Để có nguồn lao động trong các công xưởng, nhà Nguyễn đã tiến hành trưng
dụng thợ thủ công có tay nghề từ các địa phương trên khắp cả nước, tập trung về các
công trường ở kinh đô, chịu sự quản lý của các đơn vị quản lý gọi là Tượng cục, thợ
làm việc trong tượng cục gọi là công tượng. Thợ được triệu tập về kinh được cấp phát
lương, miễn giảm các loại thuế. Tùy vào công việc trong công xưởng mà hàng năm cứ
tháng Chạp, được ước lượng số thợ cần dùng, để những người này đến tháng Giêng
được triệu tập, kể từ tháng 7 trở đi, tùy công việc còn nhiều hay ít mà các ty tượng
(người quản lý thợ) giảm bớt số thợ cho về nguyên quán [2, tr.171].
Trong thế kỷ XIX, nhà nước thông qua các tượng cục ở địa phương gián tiếp
khai thác sức lao động của thợ thủ công tự do và nửa tự do ở các tỉnh thành, làng xã
bằng chế độ biệt nạp. Đây là loại thuế đánh vào các thợ thủ công chuyên nghiệp ở địa
phương và ngày càng trở thành nguồn thu lớn của nhà nước. Mỗi năm, người thợ phải
nộp cho nhà nước một số sản phẩm nhất định (có khi thay bằng tiền). Các tượng cục ở
địa phương là tổ chức của những người thợ thủ công chuyên nghiệp ở tỉnh, thành hay
các làng nghề. Nó hoàn toàn khác với các tượng cục được thành lập trong các công
xưởng nhà nước. Chế độ biệt nạp chủ yếu là đặt lệ thuế sản phẩm, hình thức thu tùy
theo từng địa phương nhưng nhìn chung khá nặng nề, tùy tiện. Ngoài ra, các thợ thủ
công còn phải chịu gánh nặng lệ tiến cống và việc thu mua của nhà nước đối với các
sản phẩm do thợ làm ra với giá rẻ hơn so với thị trường. Chính điều này đã gây nên
những tác động tiêu cực đến sự phát triển của thủ công nghiệp ở các địa phương trong
thế kỷ XIX.
Theo ghi chép của Bùi Dương Lịch trong Nghệ An ký, Nghi Xuân phong thổ ký;
Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam nhất thống chí; Nguyễn Điển trong Thanh
Chương huyện chí... suốt thế kỷ XIX ở Nghệ An và Hà Tĩnh các nghề thủ công truyền
47
thống chỉ có quy mô nhỏ, mang tính chất gia đình, công nhân sử dụng không phải là
thuê mướn, mà là nhân công của gia đình [2, tr.159]. Mỗi gia đình là một đơn vị sản
xuất, các sản phẩm làm ra như: vải, chiếu, nông cụ, dụng cụ, gạch ngói, gốm, đồ đan
lát mây, tre... chủ yếu được trao đổi ở chợ làng, xã, phủ, huyện; không có sản phẩm có
giá trị để trao đổi với bên ngoài. Thực tiễn đó cho thấy, trong nền kinh tế tự nhiên ở
nửa đầu thế kỷ XIX, đại bộ phận nông dân làng xã nói chung, ở Nghệ An nói riêng vẫn
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động thủ công nghiệp là hoạt động
phụ, bổ trợ cho sản xuất nông nghiệp.
Nhà Nguyễn thực thi chính sách trọng nông, không chú trọng phát triển thương
nghiệp buôn bán nhất là hoạt động buôn bán với thương nhân đến từ các nước phương
Tây. Ức chế thương nghiệp không chỉ là quan niệm thông thường, mà là một chủ
trương nhất quán của Nhà nước. Minh Mệnh cho là “việc đặt thuế quan tân là để
trọng nông ức thương, không thể bỏ được”. Còn Thiệu Trị phân tích: “Những việc
thuần ty hay bến đò, sở dĩ đặt ra là nguyên nhân vì tiểu dân hay bỏ việc gốc theo việc
ngọn, cho nên định ra phép thuế quan để bảo cho dân phải hạn chế việc buôn bán mà
trọng việc làm ruộng” [8, tr.54]. Do đó, ở Nghệ An tuy có cảng Hội Thống (Cửa Hội),
các cửa sông, cửa biển như: Lạch Quèn (Cờn), cửa Hiền, cửa Sót, cửa Nhượng, nhưng
suốt thế kỷ XIX hoạt động giao thương buôn bán không mấy phát triển. Hệ thống chợ
trấn/tỉnh, các phủ, huyện, làng, xã chỉ là nơi trao đổi buôn bán các loại hàng hoá nông
sản, lâm đặc sản, một số sản phẩm của các nghề thủ công truyền thống nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu trong đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của cư dân làng xã. Hoạt
động thương nghiệp trên địa bàn huyện Nam Đàn cũng nằm trong bối cảnh chung đó.
2.4.3. Một số chính sách khác
Năm 1803, Gia Long thực hiện chuyến Bắc tuần lần thứ nhất để nhận sắc phong
của nhà Thanh và ổn định tình hình Bắc Hà, trong chuyến đi này nhà vua có nghỉ lại ở
hành dinh trấn Nghệ An. Đến tháng 5 năm 1804, Gia Long xuống chiếu dời trấn thành
Nghệ An đi nơi khác (lỵ sở Nghệ An cũ ở xã Dũng Quyết huyện Chân Lộc), bèn trải
xem địa thế, định lấy An Trường (tên xã, thuộc huyện Chân Lộc) làm trấn lỵ Nghệ An,
bắt dân xây đắp [156, tr.601].
Ngay trong tháng 5 năm 1804, công cuộc chuyển dời lỵ sở Nghệ An được thực
thi. Trấn thành Nghệ An được xây dựng bằng đất đá, nhà cửa trong thành dựng tạm
48
bằng tranh, tre, nứa lá và được bao quanh bằng một vòng hào. Gia Long đã cho tháo
dỡ các công trình đang xây dựng dang dở ở Trung Đô phượng hoàng thành để lấy
nguyên liệu xây thành Nghệ An. Công cuộc chuyển dời lỵ sở, xây dựng trấn thành
Nghệ An khiến cho nhân dân Nghệ An rơi vào tình cảnh khó khăn chồng chất.
Bên cạnh đó, Gia Long còn ra lệnh tìm kiếm những người Nghệ An, Hà Tĩnh
từng tham gia, ủng hộ vương triều Tây Sơn (1786 - 1801) để loại bỏ. Sùng chính thư
viện được lập dưới thời Tây Sơn do La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng
cũng bị phá huỷ. Đến cuối đời vua Gia Long, mọi thành quả của vương triều Tây Sơn
trên đất Nghệ An đã không còn. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa lý giải vì
sao trong ba khoa thi Hương được tổ chức dưới thời Gia Long (1807, 1813, 1819) số
học trò dự thi ít và chỉ có 34 sĩ tử đỗ Hương cống [204, tr.95]
Đến năm 1830 - 1832, để phục vụ cho công cuộc cải cách hành chính của mình,
hoàng đế Minh Mệnh (1820 - 1840) đã huy động biền binh cùng hàng vạn dân phu ở
Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hoá xây dựng thành Nghệ An có chu vi 630 trượng bằng
đá ong (Nam Đàn), đá sò (Phủ Diễn) và gạch ngói sản xuất tại Nghệ An. Nhà cửa dinh
thự trong thành được xây dựng kiên cố dùng làm nơi để bộ máy quan lại do triều đình
nhà Nguyễn cử ra thực thi vương pháp, vương quyền ở tỉnh Nghệ An (gồm cả Hà
Tĩnh) [85, tr.22 - 25].
Cùng với việc xây thành đắp luỹ chuyển dời lỵ sở, Minh Mệnh cắt cử những vị
quan lại tin cậy ra làm tổng đốc An Tĩnh, có Bố chánh và Án sát, Lãnh binh, phó Lãnh
binh, Đốc học. Đến thời Tự Đức (1848 - 1883) Lãnh binh Nghệ An nắm quyền chỉ huy
19 vệ, đội biền binh gồm 8.179 người [85, tr.45]. Có thể nêu một số công thần bậc
nhất được triều đình nhà Nguyễn điều ra Nghệ An để lãnh trọng trách dưới đây:
- Hiệp trấn Ngô Nhân Tĩnh, làm Hiệp trấn Nghệ An năm Gia Long thứ 10
(1811).
- Nguyễn Văn Soạn, Trấn thủ Nghệ An năm Minh Mệnh thứ 5 (1824).
- Tạ Quang Cự, tổng đốc An Tĩnh năm Minh Mệnh thứ 14 (1833).
- Nguyễn Tri Phương, tổng đốc An Tĩnh năm Minh Mệnh thứ 16 (1835).
- Hoàng Kế Viêm (Hoàng Tá Viêm) tổng đốc An Tĩnh năm Tự Đức thứ 16
(1863)...
49
Bên cạnh đó, từ thời Gia Long đến thời Tự Đức còn có nhiều lần thay đổi địa
giới hành chính các phủ, huyện, tổng, xã, thôn ở toàn trấn/tỉnh Nghệ An. Ví dụ, phủ
Diễn Châu từ thời hậu Lê đến thời Gia Long lãnh 2 huyện Đông Thành và Quỳnh Lưu
có 4 tổng, 69 xã, thôn, phường, sách, trang, trại. Đến năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)
đặt thêm huyện Yên Thành, lãnh 3 huyện: Đông Thành (5 tổng, 139 xã, thôn, trang,
phường, vạn); Quỳnh Lưu (4 tổng, 68 xã thôn); Yên Thành (4 tổng, 118 xã, thôn)
Hoặc: năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), toàn bộ 44 xã, thôn, trang, phường, giáp, thuộc
4 tổng: Lãng Điền, Đô Lương, Thuần Trung, Bạch Hà của huyện Nam Đường đã cắt
nhập về huyện Lương Sơn. Sau đợt chia cắt sáp nhập này, huyện Nam Đường chỉ còn
lại 4 tổng với 45 làng, xã, thôn, trang, phường, giáp, sở, vạn [215, tr.104 - 106], [154,
tr.123 - 125].
Nhà Nguyễn cũng thường xuyên thay đổi bộ máy quan lại ở các phủ, huyện,
riêng các Chánh tổng, Lý trưởng ở làng xã thì do cư dân địa phương bầu ra. Nhà
Nguyễn không trả lương cho đội ngũ chức dịch ở làng xã. Do vậy, tầng lớp này đã câu
kết với các Tri huyện, Tri phủ ẩn lậu thuế khoá, mua bán chiếm đoạt ruộng đất công
thành ruộng đất tư, đẩy nông dân làng xã ở Nghệ An nói chung, Nam Đàn nói riêng
vào tình trạng mất ruộng đất canh tác.
Việc các vua triều Nguyễn thực thi chính sách cấm đạo và sát đạo đã ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống chính trị - xã hội của mọi giai tầng trên lãnh thổ vương quốc
Đại Nam. Nghệ An là một trong những trấn/tỉnh có khá nhiều các xứ đạo và họ đạo.
Riêng trên địa bàn huyện Nam Đàn có xứ đạo Vạn Lộc, Quy Chính, Tràng Cật, Tràng
Đen... Do đó, một bộ phận giáo dân ở Nam Đàn luôn trong tình trạng phải đối phó với
chính sách cấm đạo và sát đạo của nhà Nguyễn. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa Giáp
Tuất (1874) Trần Tấn và Đặng Như Mai đề ra khẩu hiệu “Phen này quyết đánh cả triều
lẫn Tây”, chủ trương sát đạo đẩy toàn bộ giáo dân trên địa bàn các huyện: Thanh
Chương, Nam Đàn, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Diễn Châu và một số địa phương khác
vào tình thế buộc phải chống đối lực lượng khởi nghĩa. Đây là một trong những
nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bất ổn trong đời sống chính trị - xã hội của một bộ
phận cư dân ở Nam Đàn [98].
Thời kỳ 1802 - 1884, ở Việt Nam đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ
của nông dân làng xã khắp các trấn, tỉnh, thành. Từ Gia Long đến Tự Đức chỉ loay
50
hoay điều binh khiển tướng để đàn áp, dập tắt các cuộc khởi nghĩa này làm cho mâu
thuẫn của đại bộ phận nông dân làng, xã đối với nhà Nguyễn ngày càng sâu sắc. Năm
1811, nông dân làng xã hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương dưới sự chỉ huy của
Nguyễn Tuấn nổi dậy khởi nghĩa. Nghĩa quân làm chủ một vùng đất đai rộng lớn ở hạ
lưu sông Lam, vua Gia Long phải huy động binh lực ở trấn Nghệ An và cả lực lượng
từ triều đình Huế ra mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa này. Năm 1813, nông dân Nam
Đàn cùng với nông dân Thanh Chương, Đông Thành, Quỳnh Lưu lại nổi dậy, giết chết
tri phủ Đức Quang là Nguyễn Văn Tuân. Gia Long một lần nữa phải điều động binh sĩ,
giao cho Vệ uý Phan Bá Phụng hợp binh cùng trấn thủ Nghệ An Hoàng Viết Toản mới
dẹp yên được. Năm 1823, Lê Quang Chấn khởi nghĩa ở Nam Đàn, chốt giữ Sa Nam,
Minh Mệnh phải điều động Lê Chất đem quân triều đình phối hợp với lực lượng biền
binh tiến hành bao vây, truy quét nhiều đợt mới loại bỏ được lực lượng khởi nghĩa...
Năm 1874, Trần Tấn và Đặng Như Mai dựng cờ khởi nghĩa ở rú Đài (Thanh Chi,
Thanh Chương) sau đó đưa toàn bộ lực lượng về làng Thành (Thanh Thuỷ) xây dựng
cả một hệ thống chiến luỹ trên địa bàn các làng, xã: An Lạc, Đa Lạc, Xuân Hồ, Diên
Lãm, Thanh Thủy... Triều đình Tự Đức phải điều động Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn
Tường đưa binh từ Huế ra và từ đồng bằng Bắc Bộ vào, phối hợp với Đô thống Nghệ
An Hồ Oai đàn áp thảm khốc mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa [98].
Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng mở
đầu cho quá trình xâm lược Việt Nam. Vương triều Tự Đức đã không thể huy động
toàn thể dân tộc vào sự nghiệp chống ngoại xâm như các triều đại trước đó. Việc triều
đình nhà Nguyễn ký hoà ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862), Lục tỉnh Nam Kỳ
(1874) cho Pháp, sau đó ký hiệp ước Hác măng (1883) và Pa tơ nốt (1884) thừa nhận
sự thống trị của Pháp đối với toàn bộ Việt Nam đã tạo một làn sóng phản đối dữ dội
của đại bộ phận các giai tầng ở Nghệ An riêng, cả nước nói chung. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị - xã hội của cư
dân làng xã trên địa bàn huyện Nam Đàn ở nửa sau thế kỷ XIX.
Các chính sách, biện pháp mà các vị vua nhà Nguyễn thực thi (1802 - 1884) đã
trực tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế và đời sống chính trị, xã hội của các giai cấp, tầng
lớp ở nước ta. Trấn/tỉnh Nghệ An trong đó có huyện Nam Đàn cũng chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi những chủ trương, chính sách đó.
51
Tiểu kết chương 2
Huyện Nam Đàn nằm ở hai vùng tả/ hữu ngạn của hạ lưu sông Lam. Điều kiện
tự nhiên ở đây phong phú, đa dạng với đầy đủ các loại địa hình từ núi đồi, sông, hồ ao,
vùng châu thổ. Với cấu tạo địa hình và một chế độ khí hậu vừa khắc nghiệt vừa hiền
hòa, thuận lợi cho các luồng cư dân người Việt sớm đến đây khai phá. Nhưng do
những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, trong đó quan trọng là đất sản xuất nông
nghiệp ít ỏi, kém màu mỡ và những biến động liên tục về chính trị - xã hội từ thế kỷ
XVI đến cuối XVIII đã đã tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của Nam Đàn.
Dưới thời Nguyễn, địa giới hành chính, tên gọi các tổng, làng, xã, trang,
phường, vạn, giáp, sở ở địa bàn huyện Nam Đường (1802 - 1884) và trong phạm vi địa
giới hành chính huyện Nam Đàn mà đề tài xác định có nhiều thay đổi, giống như các
huyện, phủ khác ở trấn/tỉnh Nghệ An. Căn cứ vào sự điều chỉnh về diên cách địa lý,
quá trình tách nhập mà địa bàn huyện Nam Đàn được xác định với 2 khu vực, với
những đặc điểm như sau:
- Ở vùng hữu ngạn dọc theo hạ lưu sông Lam, các làng xã thuộc tổng Bích
Triều và tổng Nam Kim có vị trí phía Bắc ngoảnh ra sông Lam, phía Nam dựa vào núi
Thiên Nhẫn. Phía Bắc gồm những bãi bồi phù sa ven sông màu mỡ thuận tiện cho việc
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải hay trồng lúa, ngô, rau đậu các loại. Phía Nam là vùng đất
dọc theo dãy núi Thiên Nhẫn từ thôn Vũ Nguyên, Chi Cơ đến tận Nam Kim có thể
khai khẩn để trồng chè, cây ăn quả hay bầu, bí…
- Ở vùng tả ngạn, các làng, xã, trang, phường thuộc các tổng Lâm Thịnh, Non
Liễu, Hoa Lâm vừa có vùng đất phù sa ven sông, lại vừa có vùng đất ngập nước và cả
đất thuộc các đồi núi bán sơn địa để trồng lúa, ngô, rau đậu, khoai sắn...
- Do địa hình liên tục bị chia cắt bởi đồi núi, sông, suối, hồ, đầm, cùng với chế
độ khí hậu, thời tiết diễn biến thất thường nên cư dân làng xã cả hai bên bờ tả, hữu
sông Lam ở Nam Đàn luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách trong việc
phát triển kinh tế.
Trong thế kỷ XIX, vương triều Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức tiếp tục duy trì
chính sách không đắp đê ngăn lũ lụt dọc đôi bờ sông Lam, sông La cũng như chính
sách trọng nông, bế quan toả cảng, cấm đạo, sát đạo, đàn áp thảm khốc các cuộc khởi
nghĩa nông dân... đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế nói riêng và toàn bộ đời sống
văn hoá vật chất và tinh thần của tất cả các giai tầng ở Nghệ An nói chung. Kinh tế
Nam Đàn suốt từ năm 1802 đến năm 1884 cũng nằm trong bối cảnh chung đó.
52
Chương 3
NÔNG NGHIỆP
3.1. Tình hình sở hữu, sử dụng ruộng đất
Để hiểu rõ tình hình sở hữu và chế độ sử dụng ruộng đất trên địa bàn huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884, chúng tôi dựa chủ
yếu vào nguồn tư liệu địa bạ hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia 1. Theo
quy định năm Gia Long 4 (1805), mỗi địa bạ được làm thành 3 bản, gồm bản giáp, bản
ất và bản bính; làm xong gửi nộp lên Bộ Hộ đóng dấu. Bản giáp để lưu chiểu ở Bộ Hộ,
bản ất lưu chiểu ở thành trấn, bản bính cấp cho các xã giữ làm bằng. Địa bạ được lập
một cách có hệ thống và theo mẫu thống nhất trong phạm vi cả nước. Mỗi địa bạ là
một đơn vị hành chính độc lập thường là xã hoặc thôn cũng có khi là phường, giáp…
Triều Nguyễn cũng quy định rõ cách thức làm sổ và các yếu tố kê khai bắt buộc.
Trên cơ sở thống kê số lượng địa bạ từ năm 1802 đến năm 1884 ở huyện Nam
Đàn hiện lưu trữ tại TTLTQG 1, sau quá trình xử lý các thông tin trong địa bạ chúng
tôi đi đến một số nhận xét:
Thứ nhất, địa bạ liên quan đến huyện Nam Đàn chủ yếu là bản giáp, được lập
trong thời gian ngắn, chủ yếu tập trung ở thời vua Minh Mệnh và một số được sao lại
ở thời Tự Đức. Trong đó, địa bạ ở các xã, thôn thuộc huyện được lập chủ yếu từ năm
Minh Mệnh thứ 13 (1832) đến năm Minh Mệnh 17 (1836), có một số xã, thôn đến thời
vua Bảo Đại mới lập địa bạ nhưng trong khoảng thời gian này không nằm trong phạm
vi mà chúng tôi nghiên cứu. Như vậy, địa bạ huyện Nam Đàn được lập trên cơ sở dụ
vua ban năm 1830, tức là trên cơ sở địa bạ đã lập, “Hiện do bộ Hộ giữ, bộ đem ngay
triện của bộ đang dùng, chiếu chỗ tẩy chữa và các chỗ được đóng triện, không cần lập
lại tất cả, thêm tốn kém…”[136, tr.122].
Ngoài việc tiếp cận nguồn địa bạ tại TTLTQG I, chúng tôi còn khai thác các tư
liệu lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đồng thời tiến hành điền dã, khảo sát thực
tế, nghiên cứu hồ sơ về di tích, gia phả tại các địa phương, dòng họ ở huyện Nam Đàn.
Tuy nhiên, số lượng tư liệu thu được không nhiều, một số tư liệu mang nội dung thông
tin có sự trùng lắp với thông tin được ghi trong địa bạ lưu trữ tại TTLTQG I.
53
Thứ hai, địa bạ huyện Nam Đàn mặc dù được lập vào thời Minh Mệnh thứ 13
(1832) nhưng hình thức kê khai trong địa bạ hầu hết theo mẫu quy định được ban
hành từ thời Gia Long thứ 9 (1810). Tìm hiểu địa bạ có thể thấy rõ các thông tin liên
quan đến các hình thức sở hữu ruộng đất công tư điền thổ, thổ trạch viên trì, các hạng
đất, loại đất phục vụ sản xuất theo vụ mùa, các loại đất hoang hóa không sử dụng…
Ngoài ra, địa bạ còn ghi rõ phạm vi địa lý của từng vùng đất được kê khai, thông tin
khá đầy đủ chi tiết về chiều dài sông, suối, khe cừ, đầm, ao nằm trong phạm vi của
đất đai nơi lập địa bạ. Đây được xem là những thông tin rất quan trọng trong việc tìm
hiểu đặc điểm của các loại hình ruộng đất và sự chuyển đổi của nó trong quá trình
phục vụ sản xuất.
Việc sử dụng thống nhất mẫu thống kê trong địa bạ qua nhiều đời vua và qua
đối chiếu một số địa bạ sao lại sau này ở thời vua Tự Đức, Thành Thái cho đến thời
vua Bảo Đại vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, có thể nhận thấy số liệu hầu hết giữ
nguyên như từ khi lập ban đầu, việc sao địa bạ chỉ ghi lại ngày tháng sao địa bạ và các
chức sắc đã sao ký tên. Sự chuyển đổi đất đai, khai hoang, hay quá trình hoang hóa sạt
lở đều được ghi chép, báo cáo bằng văn bản để đóng thuế hoặc miễn giảm thuế. Điều
này cho thấy tính nhất quán về quản lý đất đai của nhà Nguyễn, trong đó ưu tiên quản
lý chặt chẽ tình hình sử dụng ruộng đất trong làng xã.
Thứ ba, theo phạm vi không gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 40 địa bạ
của các xã thôn thuộc địa bàn 5 tổng: Non Liễu, Lâm Thịnh, Bích Triều, Nam Kim
(Nam Hoa), Hoa Lâm, chiếm tỷ lệ 61,54% tổng số xã thôn trong huyện Nam Đàn. Với
số lượng địa bạ lưu trữ khai thác được tại TTLTQG I, chúng tôi nhận thấy đủ cơ sở để
nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 -
1884. Số lượng địa bạ được phân bổ như sau:
- Tổng Hoa Lâm có 2 địa bạ/2 xã, thôn.
- Tổng Non Liễu có 12 địa bạ/20 xã thôn.
- Tổng Lâm Thịnh có 7 địa bạ/15 xã thôn.
- Tổng Nam Hoa (Nam Kim) có 14 địa bạ/16 xã thôn.
- Tổng Bích Triều có 5 địa bạ/11 xã, thôn, vạn.
Qua tìm hiểu nội dung các địa bạ, tỷ lệ địa bạ ở trên chỉ mang tính thống kê
tương đối, bởi có một số địa bạ được thống kê ở cấp xã đã bao gồm các thôn trong xã,
54
như xã Lương Trường thuộc tổng Bích Triều địa bạ thống kê đất đai đã bao gồm 4
thôn trong xã: thôn Trường, thôn Phú Thọ, thôn Vạn Lộc, thôn Đặng Xá, hay xã Thịnh
Lạc thuộc tổng Non Liễu đã bao gồm: thôn Trung Lâm, thôn Nhân Hậu, giáp Đồng
Nhân, thôn Xuân Lâm, giáp Hạ.
Trên cơ sở phân tích, khảo cứu 40 địa bạ huyện Nam Đàn từ năm 1802 đến năm
1884, cho thấy:
Tổng diện tích các loại ruộng đất công tư điền thổ của các đơn vị xã thôn thuộc
huyện Nam Đàn thống kê được là: 34623 mẫu 4 sào 10 thước. Dựa trên số liệu diện
tích đất đai, chúng tôi đi đến xác định diện tích trung bình một xã thôn ở huyện Nam
Đàn là 865 mẫu. Căn cứ vào số liệu 865 mẫu/xã thôn cho thấy rằng: So với một số xã
thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, quy mô xã thôn của huyện Nam Đàn
lớn hơn nhiều: huyện Thanh Trì (Hà Nội) là 275 mẫu/xã thôn; huyện Từ Liêm (Hà
Nội) là 577mẫu/xã thôn [161, tr.29]; huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) là 356 mẫu/xã
thôn [200, tr.50]; huyện La Sơn (Hà Tĩnh) là 313 mẫu [22, tr.38] và so với huyện Nghi
Lộc là một huyện trong tỉnh với diện tích trung bình 757 mẫu [196, tr.38], thì quy mô
xã thôn ở huyện Nam Đàn lớn hơn.
Ngoài diện tích được thống kê trên, ở huyện Nam Đàn còn có một diện tích đất
phù sa, đất cát trắng, đất bãi, đất rừng, công châu thổ khá lớn với diện tích
468.2.11.4.4 chiếm 1,6% trong tổng diện tích đất đai. Trong thế kỷ XIX (1802 - 1884),
nếu đem so với huyện Nghi Lộc (Nghệ An) một huyện ven biển với diện tích
49.9.14.3.6 là đất phù sa, bạch sa trong một số làng xã làng xã giáp biển nằm ở phía
Bắc, Đông Bắc huyện và hạ nguồn sông Lam như: Vĩnh Yên, Yên Lưu, Đông Hải…
phía Nam thì huyện Nam Đàn có quy mô lớn hơn nhiều. Sở dĩ Nam Đàn có diện tích
đất phù sa, đất cát trắng, đất bãi… khá lớn là bởi vùng đất này thuộc hai bờ tả/hữu
ngạn hạ lưu sông Lam. Ngoài các bãi bồi bên sông và giữa sông do kết quả của phù sa
bồi tụ từ nhiều thế kỷ trước, đã được cư dân làng xã sử dụng để canh tác, theo hàng
năm trên những vùng bãi bồi ven sông này còn được bồi đắp bởi một lượng phù sa khá
lớn do sự thay đổi bất thường hàng năm của dòng chảy sông Lam.
Dựa trên thống kê về tổng diện tích đất đai, tình hình phân bố các loại ruộng đất
trên toàn huyện Nam Đàn cụ thể như sau:
55
Bảng 3.1. Phân bố ruộng đất huyện Nam Đàn (1802 - 1884)
(M.s.th.t.p)
(M.s.th.t.p)
(M.s.th.t.p)
782.7.1.3.0
2141.7.0.4.0
Diện tích Thực trưng Lưu hoang Phế canh TT Loại ruộng đất Tỷ lệ (%) (M.s.th.t.p)
(26,8%)
(73,2%)
Công điền 2924.4.1.7.0 8,44
9014.4.1.1.0
16142.9.11.8.0
30.1.6.4.0
1 Điền
(35,8%)
(64,1%)
(0,1%)
409.9.14.0.0
1157.7.5.7.0
1567.7.4.7.0 4,53
Tư điền 25187.5.4.3.0 72,75
(26,2%)
(73,8%)
12.6.4.4.0
Công thổ
12.6.4.4.0 0,04
Công thổ
(100%)
1982.3.10.8.0
1736.3.6.5.0
3718.7.2.3.0 10,74
trạch 2 Thổ
(53,3%)
(46,7%)
Tư thổ
1212.4.7.6.0 3,5
1212.4.7.6.0 (100%)
Tư thổ
trạch
100
Tổng
34623.4.10.0.0 (100%)
13414.5.10.2.0 (38,74%)
21178.7.9.4.0 (61,18%)
30.1.6.4.0 (0,08%)
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Từ số liệu của bảng thống kê phân bố ruộng đất cho thấy, so với ruộng đất thực
trưng thì đất lưu hoang, phế canh ở Nam Đàn thời Nguyễn chiếm tỷ lệ khá lớn
(61,26%), trong đó phần lớn là đất hoang. Qua khảo sát địa bàn chúng tôi nhận thấy,
diện tích đất hoang chủ yếu tập trung ở các xã, thôn thuộc các tổng nằm ở vùng hạ lưu
sông Lam có địa hình thấp, trũng thường xuyên bị lũ lụt ngập úng vào mùa mưa lũ
như: tổng Nam Hoa, tổng Non Liễu, hay ở những xã thôn thuộc vùng tiếp giáp với khu
vực đồi núi phía Tây Nam của huyện, đất đai khó canh tác thuộc các tổng Bích Triều,
Hoa Lâm. Sự ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên, đặc biệt là dòng sông Lam ở vùng hạ lưu
đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình phân bố đai của huyện Nam Đàn. Điều này được
chính tác giả H.L.Breton nói đến trong An tĩnh cổ lục: dưới thời vua Tự Đức (1847 -
1883), với sự xuất hiện của vùng Vạn Lộc, hay biến cố bất thường của làng Xuân Liễu
(Dương Liễu sau này) [99, tr.156 - 157].
56
Biểu đồ 3.1. Cơ cấu ruộng đất huyện Nam Đàn (1802 - 1884)
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Biểu đồ trên cho thấy, trong cơ cấu ruộng đất huyện Nam Đàn (1802 - 1884),
loại hình sở hữu tư nhân chiếm tỷ lệ rất lớn, lên tới (72,75 + 10,74 + 3,5) 86,99% tổng
diện tích ruộng đất. Đối chiếu theo Nguyễn Công Tiệp trong Sĩ hoạn tu tri lục, đầu thế
kỷ XIX, tình hình sở hữu tư nhân về ruộng đất chiếm 80,74% tổng diện tích ruộng đất
cả nước [192, tr.46]. Có thể thấy, tính chất tư hữu hóa về ruộng đất của huyện Nam
Đàn nằm trong xu thế chung của cả nước, tuy nhiên tỷ lệ ruộng đất bị tư hữu ở Nam
Đàn cao hơn mức chung của cả nước lúc bấy giờ (ruộng đất tư chiếm hơn 86,99%,
ruộng đất công chỉ còn 13,01%).
Theo thống kê trong địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884) có khá nhiều loại
hình sở hữu, chiếm hữu ruộng đất được đề cập đến. Ngoài các loại hình sở hữu như:
công điền, công thổ, tư điền, tư thổ, thổ trạch tư, còn có các hạng đất khác gồm thổ
trạch viên trì, các diện tích “quốc gia công thổ”. Qua việc khảo cứu địa bạ các xã, thôn
thuộc huyện Nam Đàn chúng tôi nhận thấy, việc ghi chép địa bạ và cách thống kê
ruộng đất không giống với địa bạ một số huyện ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ như Đông
Quan, Quỳnh Côi (Thái Bình), Đông Sơn (Thanh Hóa), La Sơn (Hà Tĩnh), Trung Bộ
(Thừa Thiên Huế) hay Nam Bộ. Cụ thể, toàn bộ các loại hình ruộng đất kê khai trong
địa bạ đều tính vào tổng diện tích công tư điền thổ các hạng, riêng địa bạ huyện Nam
Đàn cũng liệt kê đầy đủ các loại ruộng đất, khe cừ, đất đền chùa, đất chợ... có trong xã
57
thôn, nhưng điểm khác biệt là không phải tất cả các loại ruộng đất đó đều được tính
vào tổng diện tích ruộng đất ghi ở đầu địa bạ. Ngoại trừ những ruộng đất ghi rõ là phế
canh, bỏ hoang vào thời điểm khám đạc, những phần ruộng đất kê khai trong địa bạ
đều là thực trưng phải chịu thuế của nhà nước. Các diện tích thuộc thổ trạch công, tư
như: thổ trạch viên trì, thần từ, phật tự, mộ địa, thị thổ, dịch xá… được liệt kê trong địa
bạ với số liệu về diện tích hoặc độ dài cụ thể, nhưng không tính vào tổng diện tích
công tư điền thổ các hạng của địa bạ, không phải chịu thuế nhà nước. Như vậy, việc
khám đạc và liệt kê các loại ruộng đất này trong địa bạ góp phần xác nhận toàn bộ địa
giới của làng xã đã được phân chia theo quy định về ranh giới hành chính, còn tổng
diện tích công tư điền thổ ghi trong địa bạ là đất đai được nhà nước quy định trong
việc thu thuế đối với làng xã.
3.1.1. Ruộng đất công làng xã
3.1.1.1. Công điền
Trong thế kỷ XIX, ruộng đất công trên phạm vi toàn quốc bị thu hẹp đáng kể.
Tổng diện tích công tư cả nước là 3.949.225 mẫu (thực trưng), trong đó ruộng đất công
các hạng là 760.872 mẫu, chiếm tỷ lệ 19,26% tổng diện tích ruộng đất công tư. Riêng
ruộng công gồm các hạng: công điền, quan điền, ruộng muối có 580.363 mẫu, chiếm tỷ lệ
17,08% [192, tr.10]. Sự thu hẹp của ruộng đất công cho thấy vai trò của loại hình sở hữu
công đã giảm sút trong thời kỳ này. Tuy nhiên do tính chất phân bố không đều khiến vai
trò của ruộng đất công ở mỗi địa phương không giống nhau (Xem biểu đồ 3.2).
Biểu đồ 3.2. Phân bố công điền ở một số địa phương nửa đầu thế kỷ XIX
[200], [202], [tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
58
Dựa trên phản ánh của biểu đồ, qua phân tích 40 địa bạ huyện Nam Đàn cho
thấy, tổng diện tích công điền ở Nam Đàn có 2924.4.1.7.0, chiếm tỷ lệ 8,44% so với
tổng diện tích các loại ruộng đất. Nếu so với huyện La Sơn (Hà Tĩnh) là 8,71% [22,
tr.39] thì công điền ở Nam Đàn có tỷ lệ tương đương. Nhưng so với huyện Nghi Lộc
(Nghệ An) có 5962.6.12.5.0 [202, tr.41], chiếm tỷ lệ 16,8% so với tổng diện tích, hay
ở một số huyện thuộc khu vực Bắc Bộ như: Thượng Phúc (nay là Thường Tín, Hà
Nội) là 16,47%; Từ Liêm (Hà Đông cũ) là 11,14% [101, tr.580]; Đông Quan (Thái
Bình) là 20,75%; Quỳnh Côi (Thái Bình) là 17,32% [102, tr.434] thì tỷ lệ diện tích
công điền chỉ gần bằng một nửa. Diện tích công điền thấp trong tương quan với tổng
diện tích các loại ruộng đất ở Nam Đàn cho thấy, tình trạng ẩn lậu, bao chiếm ruộng
đất công của một bộ phận có thế lực (chức sắc, địa chủ…) trong làng xã diễn ra khá
phổ biến. Ruộng đất công bị thu hẹp, không đủ chia cho người nông dân để cày cấy
khiến cho mâu thuẫn trong xã hội Nam Đàn diễn ra khá gay gắt. Đây cũng chính là
nguyên nhân lý giải cho hiện tượng bùng nổ của các phong trào nông dân khởi nghĩa
diễn ra liên tục trên địa bàn huyện Nam Đàn trong thế kỷ XIX.
Ở Nam Đàn, công điền được phân bố trong hầu khắp các xã thôn (37/40 xã thôn
có công điền, chiếm 92,5% tổng số xã thôn), tuy nhiên diện tích công điền đã bị thu
hẹp so tổng diện tích ruộng đất và trong tương quan với ruộng đất tư (xem bảng 3.2).
Bảng 3.2. Phân bố công điền trong các xã thôn
Số xã Tỷ lệ Diện tích Tỷ lệ (%) Quy mô (%) (M.s.th.t.p) thôn
Không có công điền 7.5 3
Dưới 50 mẫu 55.0 339.4.3.4.0 11,6 22
Từ 50 - 500 mẫu 37.5 2584.9.13.3.0 88,4 15
Trên 500 mẫu 0.00 0
2924.4.1.7.0 Tổng 100% 100% 40
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
59
Qua phản ánh của địa bạ, từ năm 1802 đến năm 1884, bình quân công điền ở
Nam Đàn chỉ rõ, trung bình 01 xã thôn có xấp xỉ 73 mẫu 1 sào (2924.4.1.7.0/40). Từ
số liệu ở bảng phân bố công điền cho biết, số xã thôn có dưới 50 mẫu công điền ở
Nam Đàn chiếm tới 55% tổng số xã thôn nhưng chỉ chiếm 11,6% diện tích toàn huyện.
Các xã thôn có từ 50 - 500 mẫu công điền có 37,5% tổng số xã thôn nhưng chiếm tới
88,4% (hơn 2/3) diện tích ruộng đất công toàn huyện và không có xã thôn sở hữu trên
500 mẫu công điền. Nếu so về quy mô phân bố ruộng công với huyện Nghi Lộc (Nghệ
An) thời kỳ 1802 - 1884, số xã thôn có dưới 50 mẫu công điền chiếm 38% tổng số xã
thôn (chiếm 5,3% diện tích công điền toàn huyện) và số xã thôn có trên 500 mẫu công
điền có 8% tổng số xã thôn (chiếm 67,6% diện tích công điền toàn huyện), thì phân bố
công điền ở Nam Đàn chủ yếu ở quy mô nhỏ [202, tr.41].
Ngoài ra, nếu so sánh mức độ phổ biến của ruộng công giữa huyện Nam Đàn
với huyện Nghi Lộc (Nghệ An) và một số huyện khác thuộc đồng bằng Bắc bộ và Bắc
Trung bộ dễ nhận thấy, tỷ lệ các xã thôn không có ruộng công ở Nam Đàn là rất ít, cụ
thể như sau:
Bảng 3.3. So sánh mức độ phổ biến của ruộng công
Có ruộng công Không có ruộng công
TT Huyện Tỷ lệ Tỷ lệ Số xã thôn Số xã thôn (%) (%)
1 Chân Định (26) 100 26 0 0
2 Đan Phượng (13) 84,61 11 2 15,39
3 Đông Sơn (131) 77,10 101 30 22,90
4 Đông Quan (50) 94,00 47 3 6,00
5 La Sơn (34) 85,29 29 5 14,71
6 Nam Đàn (40) 92,5 37 3 7,50
7 Nghi Lộc (50) 66,00 33 17 34,00
8 Quỳnh Côi (11) 100 11 0 0
9 Từ Liêm (46) 76,09 35 11 23,91
[202, tr.42]
60
Ở Nam Đàn, mức độ phổ biến ruộng công khá đều ở các xã thôn trong huyện
(chỉ 7,5% xã thôn không có ruộng công), nếu so với huyện Nghi Lộc, một huyện lân
cận trong tỉnh với 34% xã thôn không có ruộng công thì tỷ lệ không có ruộng công ở
Nam Đàn là không đáng kể. Tuy nhiên, diện tích công điền ở Nam Đàn (2924.4.1.7.0)
lại chỉ bằng phân nửa so với huyện Nghi Lộc (5962.6.12.5.0), trong khi tổng diện tích
đất đai của cả hai huyện là xấp xỉ nhau (Nam Đàn: 34623.4.11.0.0/40 địa bạ, Nghi
Lộc: 35606.3.12.6.6/50 địa bạ). Qua phân tích địa bạ cho thấy, ở Nam Đàn mặc dù
diện tích đất đai có quy mô khá lớn, công điền tuy phổ biến hầu khắp làng xã nhưng
diện tích lại không nhiều, điều này có thể là do nguyên nhân: tình trạng “biến công vi
tư” đã trở nên phổ biến, làng xã ẩn lậu ruộng công (không khai báo trong địa bạ) để
trốn thuế. Đây là một đặc điểm đáng chú ý về tình hình ruộng đất công ở huyện Nam
Đàn so với một số địa phương khác trong tỉnh vào thời điểm này.
Công điền ở Nam Đàn mặc dù chỉ chiếm số lượng ít (2924.4.1.7.0, chiếm tỷ lệ
8,44%) trong tổng diện tích ruộng đất toàn huyện nhưng lại bị bỏ hoang rất nhiều.
Trong tổng số 2924.4.1.7.0 công điền thì có đến 2141.7.0.4.0 (chiếm 73,2%) là ruộng
bỏ hoang; chỉ có 782.7.1.3.0 (chiếm 26,8%) là diện tích được canh tác. Diện tích đất
lưu hoang ở Nam Đàn (73,2%) thấp hơn Nghi Lộc (Nghệ An) là 80,5% [202, tr.39],
nhưng lại lớn hơn nhiều so với các huyện lân cận trong khu vực: La Sơn (Đức Thọ) là
49,84% [22, tr.41]; Đông Sơn (Thanh Hóa) là 52,22% [200, tr.56]. Nguyên nhân chủ
yếu là do 97,4% công điền là ruộng hạng 3, chất lượng đất xấu, mỗi năm chỉ canh tác
1 đến 2 vụ nhưng năng suất không cao. Các bản địa bạ có từ thời Minh Mệnh cho đến
các thời sau sao chép lại không có sự thay đổi nhiều về diện tích cũng như tỷ lệ giữa
các loại ruộng đất.
Bảng 3.4. Chất lượng công điền
Tỷ lệ (%) Hạng ruộng Diện tích (m.s.th.t.p)
Hạng 1 27.2.5.2.0 0,9
Hạng 2 49.4.8.5.0 1,7
Hạng 3 2847.7.3.0.0 97,4
Tổng 2924.4.1.7.0 100
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
61
Một đặc điểm đáng lưu ý trong phân bố công điền của các xã thôn ở Nam Đàn
là có 2/40 địa bạ có công điền của xã thôn khác nằm ở xã thôn sở tại. Tuy không tính
vào tổng diện tích ruộng đất của xã thôn sở tại nhưng lại được ghi rõ công điền của xã
thôn nào và diện tích bao nhiêu, cụ thể:
Địa bạ xã Vũ Nguyên (tổng Bích Triều) có 98.6.0.0.0 công điền thì có ghi:
Ruộng công thôn Chi Cơ bản tổng nằm tại địa phận bản xã 4 mẫu; Ruộng công xã
Bích Triều bản tổng nằm tại địa phận bản xã 10.3.6.3.0; Ruộng Ngụ Lộc xã Lâm Triều
bản tổng nằm tại địa phận bản xã 4 mẫu [255].
Địa bạ thôn Hoàng Xá xã Nam Hoa Đông (tổng Nam Hoa) có 111.0.12.2.0
công điền thì có ghi: Đất thần từ phật tự thôn Dương Phổ Tứ tại địa phận bản xã nằm
tại địa phận bản thôn 2 sào [231]. Điều này chứng tỏ hiện tượng xâm canh về ruộng
đất đã phát triển ở Nam Đàn trong thế kỷ XIX.
Có thể nói, hiện tượng “xâm canh” về ruộng đất kể trên không chỉ là đặc điểm
riêng ở huyện Nam Đàn hay trấn/tỉnh Nghệ An, mà là hiện tượng phổ biến trong các
làng xã Việt Nam thế kỷ XIX. Cụ thể, đây còn gọi là hình thức “xâm canh” về công
điền của xã thôn khác có tại xã thôn sở tại. Ngoài hình thức nói trên còn có hình thức
người nơi khác có sở hữu ruộng đất ở các xã thôn sở tại, đây là hiện tượng phụ canh,
hay có thể gọi là “xâm canh” mang tính tư nhân diễn ra phổ biến ở ruộng đất tư điền.
Công điền huyện Nam Đàn được chia cấp theo quy định của nhà nước, cứ 3
năm một lần “tính tất cả số người trong xã là bao nhiêu, cứ theo ruộng đất 3 hạng:
hạng 1, hay hạng 2, hạng 3 liệu đem chia cấp, cốt phải chỗ tốt xấu cùng san sẻ, không
được vin lấy cớ ngồi trên chiếm hết ruộng đất tốt,... các quan quân trong xã đó không
được thay thế mà chiếm lấy trước” [136, tr.69], ruộng đất công được chia đều cho dân
đinh kể cả cô nhi, quả phụ. Tuy nhiên, theo thống kê hầu hết các xã thôn ở huyện Nam
Đàn đều có công điền nhưng diện tích không nhiều, một số xã thôn còn không có công
điền, nên dù được sử dụng theo hình thức “đồng quân cấp canh tác” thì cũng không đủ
để chia theo khẩu phần cho các hạng dân, công điền chủ yếu dùng vào việc công trong
làng xã, phân cho các giáp canh tác để biện lễ vật trong các kỳ lễ tiết hàng năm.
3.1.1.2. Công thổ
Căn cứ kết quả khảo cứu từ địa bạ, quá trình khảo sát thực tế tại địa bàn Nam
Đàn chúng tôi nhận thấy: phần lớn các xã thôn có diện tích công thổ thường là các xã,
thôn ven sông Lam, hoặc gần với vùng rừng, đồi núi như: Lương Trường, Tầm Tang,
62
Tiên Hoa, Nghĩa Động... Điều đáng lưu ý là, trong khi các xã thôn ven sông ở đồng
bằng Bắc Bộ, nhất là ở ven sông Hồng thường có hiện tượng sạt lở, xói mòn làm mất
đi nhiều diện tích công thổ thì ở Nam Đàn, do đặc điểm địa hình, dòng chảy của sông
mà hiện tượng sụt lở dù diễn ra thường xuyên nhưng lại được bồi tụ ở hai bên tả ngạn
và hữu ngạn sông Lam. Phổ biến nhất vẫn là hiện tượng phù sa bồi đắp sau mỗi trận lũ
lụt, lòng sông càng ngày càng hẹp lại, đất bãi ở các xã, thôn ven sông ngày một rộng
hơn, tạo điều kiện cho cư dân nơi đây mở rộng diện tích sản xuất, sinh hoạt văn hóa, di
dân lập làng. Dưới triều vua Tự Đức, sông Lam đã bắt đầu bồi lên ở chân đê này một
dải đất cát mênh mông và đến năm 1875, giám mục Gauthier nói với giáo dân rằng:
“Hãy bỏ con đê mà chiếm lấy đất cát”. Từ lúc đó, sông Lam cứ lùi mãi. Các thời kỳ
nối tiếp nhau do lòng sông đẩy lùi mãi ở vùng Vạn Lộc đã để lại ngày nay ba hồ song
song với nhau... Đất bồi do sông Lam chuyển tới từ thời Tự Đức rất lớn [99, tr.156].
Bên cạnh đó, qua khảo sát địa bàn các xã: Xuân Lâm, Hồng Long, Hùng Tiến, Thị trấn
Nam Đàn (vùng tả ngạn), Thượng Tân Lộc, xã Khánh Sơn (vùng hữu ngạn) cho thấy,
một bộ phận dân lưu tán từ Thanh Hoá, Ninh Bình và dân vạn chài (thuỷ cơ) là chủ
nhân của những xóm nhỏ ven sông. Do đất bồi thường xuyên ngập lụt, nên triều đình
nhà Nguyễn không tính vào diện tích đất phải nộp thuế hàng năm, nhưng trên thực tế
đây lại là địa bàn cư trú của một bộ phận cư dân ở Nam Đàn từ cuối thế kỷ XVIII cho
đến năm 1977 mới bị di dời vào trong đê. Người ta gọi bộ phận cư dân cư trú sát đôi
bờ sông Lam là dân ngoài đê hoặc là dân ngụ cư.
Về phân bố của công thổ, trong tổng số 40 địa bạ các xã thôn của huyện Nam
Đàn, chỉ có 16 địa bạ không có diện tích công thổ, chiếm tỷ lệ 40% tổng số các xã
thôn, tính riêng tổng Hoa Lâm có 2 xã thôn thì đều không có công thổ. Công thổ dù
phân bố ở nhiều xã thôn (60%) nhưng diện tích lại không lớn. Toàn huyện có
1567.7.4.7.0 công thổ, chiếm 4,47% tổng diện tích ruộng đất. Đặc biệt, tuy chỉ chiếm
tỷ lệ rất nhỏ nhưng có đến 1157.7.5.7.0 diện tích công thổ bị bỏ hoang chiếm tỷ lệ
73,8%. Sở dĩ có hiện tượng như thế cũng bởi các nguyên nhân chung về địa hình, thổ
nhưỡng và điều kiện tự nhiên như chúng tôi đã trình bày ở trên.
Trong một số địa bạ của huyện Nam Đàn còn thấy xuất hiện đất phù sa, đất cát
trắng, đất bãi, đất rừng, công châu thổ. Đây là các loại đất thuộc sở hữu công làng xã. Loại
đất này chiếm tỷ lệ rất nhỏ cả về diện tích (diện tích: 468.2.11.4.4, chiếm 1,36 % tổng
63
diện tích ruộng đất) và số lượng (trong 40 địa bạ của huyện Nam Đàn chỉ có 7/40 địa bạ
có diện tích các đất như: đất phù sa, đất cát trắng, đất bãi, đất rừng, công châu thổ).
Các loại đất trên với đặc điểm địa hình thổ nhưỡng là vùng đồng bằng ven sông
với nhiều ô trũng hoặc những nơi xen lẫn gò đồi và núi rừng, có địa hình không bằng
phẳng, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Đất ở vùng ven sông thường bị ngập lụt, nhưng
lại được phù sa bồi đắp thường xuyên, còn những diện tích đất gần rừng, gò đồi thì
chất lượng xấu, muốn canh tác được phải tiến hành khai hoang vỡ đất, cải tạo mất
nhiều thời gian và công sức, cho nên những loại đất này thường bị bỏ hoang, về lâu dài
trở thành các diện tích hoang hóa ít được sử dụng vào mục đích canh tác nông nghiệp.
3.1.2. Ruộng đất tư nhân
Ở Nam Đàn, từ năm 1802 đến năm 1884, sở hữu tư nhân chia theo từng loại: tư
điền, tư thổ và thổ trạch tư. Theo phản ánh của địa bạ, diện tích ruộng đất tư ở huyện
Nam Đàn chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Cụ thể như sau:
Bảng 3.5. Phân loại ruộng đất tư
TT Loại ruộng Diện tích Thực trưng Lưu hoang Phế canh
đất (m.s.th.t.p) (m.s.th.t.p) (m.s.th.t.p) (m.s.th.t.p)
25187.5.4.3.0 9014.4.1.1.0 16142.9.11.8. 30.1.6.4.0 1 Tư điền (100%) (35,8%) 0 (64,1%) (0,1%)
3718.7.2.3.0 1982.3.10.8.0 1736.3.6.5.0 2 Tư thổ (100%) (53,3%) (46,7%)
1212.4.7.6.0 1212.4.7.6.0 3 Thổ trạch tư (100%) (100%)
30118.6.14.2.0 12209.2.4.5.0 17879.3.3.3.0 30.1.6.4.0 Tổng (100%) (40,5%) (59,4%) (0,1%)
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Trong tổng diện tích 34623 mẫu 4 sào 11 thước ruộng đất của các xã thôn ở
huyện Nam Đàn, sở hữu của tư nhân có diện tích 30118 mẫu 6 sào 14 thước 2 tấc,
chiếm 86,99% tổng diện tích ruộng đất toàn huyện, tỷ lệ này ở mức khá cao nếu so với
mức sở hữu ruộng đất tư của cả nước lúc bấy giờ. “Tính đến đầu thế kỷ XIX, ở miền
64
Bắc sở hữu tư nhân mới đạt 80%, ở miền Trung là 75%, và đến trước cải cách tiến
trình tư hữu hóa này vẫn chưa hoàn thành”[192, tr.14], cụ thể như ở: huyện Đông Sơn
tư điền chiếm tỷ lệ 75,06% [200, tr.61].
So với huyện Nghi Lộc, một huyện thuộc tỉnh Nghệ An thời Nguyễn, trong
tổng 35606 mẫu 3 sào 12 thước 6 tấc 6 phân, diện tích tư nhân có 28591 mẫu 8 sào 1
tấc, chiếm tỷ lệ 80,3% tổng diện tích ruộng đất toàn huyện [202, tr.44], thì ở huyện
Nam Đàn với tổng diện tích ruộng đất gần tương đương nhau nhưng diện tích đất tư
nhân chiếm tỷ lệ cao hơn. Điều này cho thấy, cũng giống như ruộng đất công, sự phân
bố tỷ lệ ruộng đất tư giữa các vùng miền, các địa phương là không giống nhau.
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu ruộng đất tư nhân
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Biểu đồ cho thấy, trong cơ cấu ruộng đất tư nhân diện tích tư điền chiếm đa số
trong tỷ lệ tổng diện tính ruộng đất lúc bấy giờ, chứng tỏ quá trình tư hữu hóa về ruộng
đất vẫn tiếp tục diễn ra ở Nam Đàn từ năm 1802 đến năm 1884. Tuy vậy, sở hữu tư
nhân và quá trình tư hữu đất đai dù phát triển nhưng không còn mạnh và quyết liệt như
các giai đoạn trước bởi sự thu hẹp của quỹ ruộng đất công, đặc biệt là quá trình này
vẫn chịu sự chi phối bởi các chính sách quản lý về ruộng đất của nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền.
Ngoài ra, địa bạ của 40 xã, thôn huyện Nam Đàn còn cho biết: trong diện tích
ruộng đất tư thì diện tích lưu hoang chiếm số lượng rất lớn: 17879 mẫu 3 sào 3 thước 3
65
tấc (chiếm 59,4% tổng số ruộng đất tư) trong đó chủ yếu là ruộng đất hoang (diện tích:
3718 mẫu 7 sào 2 thước 3 tấc, chiếm 12,34% diện tích ruộng đất tư). So với huyện
Nghi Lộc, một địa phương trong tỉnh thời Nguyễn, ruộng đất hoang hóa chiếm 65,91%
diện tích ruộng đất tư, thì ở Nam Đàn đất hoang thấp hơn (do Nghi Lộc là huyện đồng
bằng ven biển nên diện tích ruộng đất ngập mặn và đất lở ven sông, biển khá lớn),
nhưng nếu so với một số địa phương khác thì tình hình ruộng đất hoang hóa của huyện
Nam Đàn vẫn ở mức cao, cụ thể: La Sơn (Hà Tĩnh) là 23,8%; Đông Sơn (Thanh Hóa)
là 24,3%; Quỳnh Côi (Thái Bình) là 0,25%; Quảng Hòa (Cao Bằng) theo địa bạ Gia
Long 4 là 5,32%, đến năm 1840 đã khắc phục, không còn ruộng đất hoang hóa [200,
tr.61] (Xem biểu đồ 3.4).
Biểu đồ 3.4. Quy mô các loại hình đất đai trong sở hữu tư nhân
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Biểu đồ cho thấy, quy mô ruộng đất tư có sự chênh lệch khá lớn trong các loại
hình gồm: thực trưng, lưu hoang, phế canh. Ở Nam Đàn hầu như không có diện tích
phế canh mà chủ yếu là diện tích thực trưng và lưu hoang, điều này cho thấy được mức
độ sử dụng của ruộng đất tư trong làng xã là khá lớn.
Diện tích đất hoang hóa trong sở hữu tư nhân được phản ánh qua tư liệu địa bạ đã
chỉ rõ: nguyên nhân chính của tình trạng ruộng đất hoang hóa là do yếu tố địa hình. Nam
Đàn là huyện đồng bằng nửa đồi núi, phần lớn diện tích đất đai lại thuộc phần tả, hữu
66
của vùng hạ lưu sông Lam nên diện tích ruộng đất lở ven sông suối, ở các khe cừ và các
vùng tiếp giáp với địa hình gò đồi là khá phổ biến. Toàn bộ phần diện tích này chưa
thành ruộng nên không thể khai thác, sử dụng được hoặc có sử dụng thì cũng là sự tận
dụng khi làm, khi bỏ của cư dân sở tại nơi gần những diện tích đất này để trồng các loại
rau màu ngắn ngày, không tuân theo thời vụ, cho nên được xếp vào hạng đất hoang hóa.
Trong phân bố ruộng đất tư, hiện tượng trong cùng một khu vực, một tỉnh (trấn)
hay một huyện, một xã, do các tác động của điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và nhiều
yếu tố xã hội diễn ra trong làng xã mà việc phân chia theo đẳng hạng đồng ruộng
(ruộng tốt, ruộng xấu) không phải nơi nào cũng giống nhau. Dựa theo cách sắp xếp đó,
ruộng đất nói chung được phân ra các hạng: hạng 1 là loại tốt nhất, rồi đến hạng 2,
hạng 3. Qua khảo cứu 40 địa bạ của các xã thôn huyện Nam Đàn thời Nguyễn chất
lượng của ruộng tư được ghi cụ thể như sau:
Bảng 3.6. Chất lượng tư điền
Tỷ lệ (%) Hạng ruộng Diện tích (m.s.th.t.p)
Hạng 1 157.3.13.5.0 0,62
Hạng 2 162.7.14.7.0 0,65
Hạng 3 24867.3.6.1.0 98,73
Tổng 25187.5.4.3.0 100
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Từ bảng thống kê trên cho thấy: trong tổng số 25187.5.4.3.0 diện tích tư điền
của huyện Nam Đàn, ruộng hạng 1 chiếm 0,62% và ruộng hạng 2 chiếm 0,65%.
Trong khi đó, ruộng hạng 3 lại chiếm tỷ lệ rất lớn, lên tới 98,73%. Tỷ lệ ruộng hạng
3 lớn chứng tỏ, chất lượng đất đai của huyện Nam Đàn không tốt. Điều này đã ảnh
hưởng rất lớn đến năng suất cây trồng trên diện tích ruộng tư điền. Tóm lại, trong
quy mô và chất lượng tư điền, việc phân loại theo tỷ lệ các loại ruộng có thể thay đổi
ít nhiều theo thời gian nhưng chất đất của các hạng ruộng về cơ bản vẫn giữ nguyên
như các thời kỳ trước.
Khi nghiên cứu địa bạ của huyện Nam Đàn từ năm 1802 đến năm 1884, trong mục
tư điền, ngoài việc phân chia cụ thể ruộng đất theo vụ, các hạng ruộng theo các lớp sở hữu
67
còn có một phần rất quan trọng là Tam bảo điền (ruộng chùa). Tam bảo điền được xếp
vào hạng tư điền và chủ yếu là ruộng hạng 3. Ở Nam Đàn có đến 38/40 địa bạ các xã thôn
(chiếm 95 % tổng số địa bạ các xã thôn) có tam bảo điền, chỉ có 2 xã thôn không có loại
ruộng này (chiếm 5%). Mặc dù diện diện tích không lớn chỉ có 117.9.9.7.0 (chiếm 0,47%
diện tích tư điền) nhưng ruộng Tam bảo lại tồn tại phổ biến ở hầu khắp các xã thôn, không
do một cá nhân nào sở hữu, đây là loại ruộng gắn liền với hệ thống đền thờ, chùa, miếu
thuộc năm tổng trên địa bàn huyện. Toàn bộ diện tích ruộng Tam bảo được duy trì cho
đến khi xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp và bậc cao ở nửa sau thế kỷ XX thì
biến thành ruộng đất thuộc sở hữu của Hợp tác xã nông nghiệp.
Nguồn gốc của Tam bảo điền phần lớn là do những gia đình giàu có, những
người thi cử đỗ đạt hay những gia đình không có con trai thờ cúng, cung tiến. Đây là
loại ruộng thuộc sở hữu tập thể, cư dân làng xã luân phiên chia nhau cày cấy và được
thừa nhận là tư điền, tuy nhiên ranh giới giữa công và tư của loại ruộng này rất khó
phân định. Sự hiện hữu và tồn tại bền vững của ruộng Tam bảo trên địa bàn huyện
Nam Đàn cho thấy sự đan xen giữa tín ngưỡng thờ thần (bao gồm cả Nhân thần và
Nhiên thần), Phật giáo và Đạo giáo trong thời kỳ 1802 - 1884.
Chúng tôi hơi băn khoăn, vì trên thực tế Thiên chúa giáo được truyền bá vào
Nghệ An và Nam Đàn từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Đến năm 1874, khi cuộc
khởi nghĩa Giáp Tuất bùng nổ, với khẩu hiệu: “Phen này quyết đánh cả Triều lẫn
Tây”, trên địa bàn huyện Nam Đàn có nhiều làng xã như Vạn Lộc (nay thuộc Thượng
Tân Lộc), Yên Lạc, Đa Lạc (nay thuộc xã Nam Lĩnh và xã Hùng Tiến), vùng Tràng
Đen, Tràng Ri (nay thuộc xã Nam Hưng) đã hình thành nhiều giáo họ. Nhưng không
rõ vì lý do gì toàn bộ diện tích ruộng đất thuộc sở hữu của các giáo họ không được ghi
chép vào diện tích Tam bảo điền hay một loại sở hữu ruộng đất khác. Cho dù, sau khi
dập tắt cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874), triều đình Tự Đức đã buộc phải công nhận
sự hiện diện của giáo dân cũng như các giáo họ, nhà thờ trên địa bàn Nghệ An, Nam
Đàn (ví dụ: Nhà thờ Quy Chính thuộc thị trấn Nam Đàn; Nhà thờ Vạn Lộc thuộc xã
Thượng Tân Lộc; Nhà thờ Tràng Đen thuộc xã Nam Hưng ngày nay).
3.1.2.1. Phân bố sở hữu ruộng tư
Qua khảo cứu 40 địa bạ thuộc 5 tổng ở huyện Nam Đàn chúng tôi nhận thấy,
tổng diện tích tư điền, tư thổ thường được ghi ở đầu địa bạ và tiếp theo là chi tiết về
68
các loại hình sở hữu được ghi chép lại theo từng khu vực và cụ thể từng chủ sở hữu.
Tuy nhiên, việc tổng hợp cũng gặp khá nhiều khó khăn, số liệu đất đai được tính theo
cách cộng diện tích sở hữu của từng chủ được ghi chép trong địa bạ. Trong quá trình
tổng hợp theo từng chủ đã có sự chênh lệch so với số liệu tổng quát kê khai ở đầu địa
bạ. Sự sai lệch này có lẽ một phần là do tính phức tạp, đa dạng của loại hình sở hữu,
một phần là do nhầm lẫn ngay từ khi làm địa bạ hoặc do lỗi khi sao chép. Tuy nhiên,
để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng tư liệu gốc, chúng tôi vẫn giữ nguyên những khác
biệt đó, song khi phân tích thì căn cứ vào số liệu liệt kê theo từng chủ sở hữu.
Với diện tích ruộng tư lớn chiếm 86,99% tổng diện tích ruộng đất toàn huyện,
các chủ sở hữu ruộng tư được chia thành các lớp sở hữu, số liệu kèm theo các lớp sở
hữu được trình bày trong bảng thống kê dưới đây:
Bảng 3.7. Quy mô sở hữu ruộng tư
Số chủ Diện tích sở hữu
Quy mô sở hữu Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lượng
Dưới 1 mẫu 1 - 3 mẫu 3 - 5 mẫu 5 - 10 mẫu 10 - 20 mẫu 20 - 50 mẫu 50 - 100 mẫu Tổng Diện tích (m.s.th.t.p) 667.2.1.4.0 3001.3.12.2.0 2454.3.3.0.1 2830.4.4.1.0 1770.1.9.4.5 766.6.4.4.0 58.7.3.0.0 11548.8.7.5.6 31,81 39,40 14,96 9,96 3,22 0,63 0,02 100 5,78 25,99 21,25 24,51 15,32 6,64 0,51 100 1325 1641 623 415 134 26 1 4165
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Số liệu từ bảng thống kê cho thấy: nếu lấy ranh giới sở hữu 5 mẫu ruộng trở
lên để phân biệt đó là những người khá giả, thì trong số 4.165 chủ sở hữu ruộng đất chỉ
có 13,83% (576 người) là thuộc loại này nhưng lại nắm giữ tới 46,98% tổng diện tích
sở hữu. Còn lại, đa số chủ tư điền 3.589 người (chiếm 86,17%) là những người có mức
sở hữu dưới 5 mẫu, với tổng diện tích 6122.9.1.7.0 (chiếm 53,02%). Còn nếu tính lớp
sở hữu từ 10 mẫu trở lên thì chỉ có 3,87% (161 người) và nắm giữ 22,47% tổng diện
tích. Các số liệu thống kê ở trên cho thấy, quy mô sở hữu ruộng tư ở Nam Đàn có đặc
điểm: sở hữu từ 1 đến 10 mẫu là lớp sở hữu chủ yếu (chiếm 71,75%) diện tích ruộng
tứ) trong quy mô ruộng đất tư ở huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884.
69
Tình hình sở hữu ruộng đất theo từng lớp sở hữu ở bảng thống kê còn cho thấy
một hiện tượng, đó là việc chia nhỏ diện tích sở hữu của các chủ ruộng đất. Số chủ sở
hữu tăng lên theo sự gia tăng dân số (theo thời gian) đi kèm với việc sở hữu nhỏ (dưới
1 mẫu đến 3 mẫu) cũng tăng lên đáng kể. Các lớp sở hữu nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất
(71,21%) chứng tỏ sở hữu nhỏ về ruộng đất ngày càng phát triển và mang tính phổ
biến trong sở hữu, sử dụng ruộng đất ở nước ta.
Như vậy, nếu so sánh sự phân hóa về ruộng đất ở các huyện khác thuộc đồng
bằng Bắc Bộ như ở tỉnh Thái Bình: lớp sở hữu trên 10 mẫu ở huyện Chân Định là
74,30%, huyện Vũ Tiên là 78,11%, huyện Đông Quan là 59,99%; hay như huyện Hoài
An (Hà Đông) là 48,50% [100, tr.89], các lớp sở hữu lớn chiếm tỉ lệ cao, thì ở Nam
Đàn trong sở hữu tư nhân đã có sự phân hóa theo hướng ngược lại. Tình trạng sở hữu
ruộng đất nhỏ, manh mún và dàn trải trên một số đông chủ sở hữu là phổ biến. Đây
chính là đặc điểm nổi bật của chế độ ruộng đất ở Nam Đàn, đặc điểm này có tính
tương đồng với huyện Nghi Lộc một huyện thuộc tỉnh Nghệ An vào thời Nguyễn (có
lớp sở hữu dưới 5 mẫu là 67,51%) [202, tr.47].
3.1.2.2. Bình quân sở hữu tư điền và bình quân thửa ruộng
Tổng diện tích đất tư được ghi trong 40 địa bạ ở huyện Nam Đàn từ năm 1802
đến năm 1884 là 30118.6.14.2.0, trong đó 11548.8.7.5.6 có thể tính sở hữu, phân bổ
cho 4.165 chủ ở các xã thôn với 6.950 thửa ruộng. Số còn lại là ruộng đất tư lưu
hoang, ruộng thờ cúng, ruộng của các tổ chức làng xã (ruộng giáp, ruộng Tam bảo...).
Về bình quân sở hữu và bình quân thửa ruộng theo đơn vị các xã thôn được thống kê
qua bảng sau:
Bảng 3.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa
TT Tên Tổng Số thửa Số chủ Diện tích có thể tính sở hữu (m.s.th.t.p) Bình quân một thửa (m.s.th.t.p)
5453.3.10.7.5 3685 4467.7.1.9.0 1969 641.5.0.7.0 260 503.3.4.7.0 749 482.9.4.5.1 287 11548.8.7.5.6 6950
1.4.7.9.9 2108 2.2.6.9.0 1145 185 2.4.6.7.3 533 0.6.7.2.0 1.6.8.2.7 194 1.6.6.1.7 4165
Bình quân sở hữu một chủ (m.s.th.t.p) 2.5.8.6.9 3.9.0.1.9 3.4.6.7.6 0.9.4.4.3 2.4.8.9.4 2.7.7.2.8 1 Non Liễu 2 Lâm Thịnh 3 Hoa Lâm 4 Nam Hoa 5 Bích Triều Tổng
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
70
Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy: bình quân một thửa ruộng đất ở huyện Nam
Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884, là 1.6.6.1.7/thửa, nếu so sánh với các địa
phương khác ngoài tỉnh thì diện tích này không cao, như huyện Đông Sơn là
1.4.10.6.6/thửa [200, tr.70], nhưng so với một số huyện lân cận trong tỉnh Nghệ An như
ở huyện Nghi Lộc có bình quân một thửa ruộng là 0.7.6.5.2 [202, tr.47] thì bình quân
thửa ruộng ở Nam Đàn như thế là khá lớn. Từ thực tế khảo sát địa bàn huyện cho thấy,
Nam Đàn có vị trí nằm ở vùng hạ lưu sông Lam, diện tích đất có khả năng mở rộng quy
mô do có các bãi bồi lớn ven sông, lại được phù sa bồi đắp thường xuyên hàng năm.
Ngoài ra, ở các nơi tiếp giáp với vùng gò đồi, bán sơn địa, diện tích đất hoang rất lớn,
nên cư dân nơi đây có điều kiện để mở rộng diện tích ruộng đất phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Vì vậy, tỷ lệ đất canh tác ở đây tương đối nhiều, diện tích thửa ruộng lớn hơn
một số địa phương khác trong vùng. Đây là đặc điểm tiêu biểu trong sở hữu tư nhân và
đặc điểm ruộng đất của huyện Nam Đàn dưới triều Nguyễn (1802 - 1883).
Mặc dù có bình quân thửa ruộng khá cao nhưng quy mô thửa không đều, có sự
chênh lệch lớn giữa các tổng trong huyện Nam Đàn, nếu lấy quy mô của tổng Nam
Hoa bình quân một thửa là 0.6.7.2.0, so với quy mô của tổng Hoa Lâm một thửa là
2.4.6.7.3 có thể thấy được sự phân tán về ruộng đất ở Nam Đàn là rất lớn. Sự phân tán
về ruộng đất cũng như tính chất manh mún của đồng ruộng ở Nam Đàn có thể lý giải
bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, ảnh hưởng của yếu tố địa hình xứ đồng không bằng phẳng, xen lẫn
giữa vùng đồng bằng là các ao hồ, đầm, ô trũng, đặc biệt có nhiều gò, đồi và các dãy
núi nhỏ lan ra cắt xẻ giữa vùng đồng bằng của xứ đồng.
Thứ hai, do quá trình khai hoang, mở rộng diện tích canh tác diễn ra không liên
tục, hoạt động khai hoang chủ yếu diễn ra ở một số nơi thuộc hạ lưu sông Lam nơi có
diện tích phù sa bồi đắp, hoặc ở các vùng bán sơn địa tiếp giáp gò đồi. Kết quả thu
được của quá trình khai hoang chỉ là những diện tích canh tác nhỏ hẹp, nằm rải rác dọc
theo sông suối, núi đồi, không có những diện tích bằng phẳng, quy mô lớn.
Bình quân sở hữu một chủ là 2.7.7.2.8 (chưa điều chỉnh xâm canh). Nếu so sánh
với một số huyện thuộc đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ dưới thời Nguyễn thì bình
quân sở hữu của một chủ ở Nam Đàn thấp hơn rất nhiều, cụ thể như sau: huyện Đông
71
Sơn có 3.2.2.7.2/chủ, Chân Định có 9.7.3.9.8.6/chủ và thấp hơn cả các huyện phía
Bắc: huyện Quảng Hòa là 5.7.11.6.0.6/chủ [209, tr.93] (xem bảng 3.9).
Bảng 3.9. So sánh bình quân sở hữu giữa huyện Nam Đàn
với một số huyện khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
TT Huyện
1 2 3 5 6 7 8 9 Chân Định (Thái Bình) Đông Quan (Thái Bình) Đông Sơn (Thanh Hóa) Nghi Lộc (Nghệ An) Nam Đàn (Nghệ An) Thanh Quan (Thái Bình) Thanh Trì (Hà Nội) Từ Liêm (Hà Đông cũ) Bình quân sở hữu 1 chủ (m.s.th.t.p) 9.7.3.9.8.6 8.8.2.7.8.7 3.2.2.7.2 1.5.2.5.3 2.7.7.2.8 8.3.10.2.8.4 4.2.3.8.2.0 2.3.4.5.4
[202, tr.48]
Qua việc so sánh về bình quân sở hữu trong tư liệu địa bạ và căn cứ vào sự
phân bố ruộng đất huyện Nam Đàn chúng ta có thể nhận thấy, mặc dù là một huyện có
điều kiện mở rộng diện tích đất đai, nhưng sở hữu tư nhân về ruộng đất là không
nhiều, diện tích lại bị chia nhỏ. Mặt khác, giữa các tổng trong huyện còn có sự chênh
lệch lớn về bình quân sở hữu theo từng khu vực khác nhau. Nếu ở tổng Lâm Thịnh
bình quân sở hữu một chủ là 3.9.0.1.9 (cao nhất huyện) thì ở tổng Nam Hoa (Nam
Kim) bình quân sở hữu chỉ 0.9.4.4.3/1 chủ. Kết quả đối chiếu này chỉ mang tính tương
đối nhằm lý giải cho tình hình phân bố ruộng đất tư nhân giữa các địa phương trong
huyện, chứ không làm căn cứ để so sánh thực tế bình quân một chủ trong các xã thôn,
bởi số lượng địa bạ được thống kê khảo sát giữa các tổng không đều nhau, có tổng chỉ
2 địa bạ (tổng Hoa Lâm), có tổng 14 địa bạ (tổng Nam Hoa).
3.2. Trồng trọt
3.2.1. Thời vụ và giống, cây trồng
3.2.1.1. Thời vụ
Căn cứ ghi chép trong tổng số 40 địa bạ ở huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884,
chúng tôi nhận thấy, đất đai canh tác hầu hết chỉ ghi về đất vụ hạ và vụ thu. Như vậy,
72
cư dân làng xã ở Nam Đàn hàng năm canh tác chủ yếu là: vụ hạ vào tháng 5 (vụ
chiêm) và vụ thu vào tháng 10 (vụ mùa).
Vụ hạ, cư dân chủ yếu trồng lúa và các hoa màu khác trên đất phù sa, đất sét,
đất cát pha thuộc các cánh đồng ở hữu ngạn sông Lam như: Nam Kim, Hoành Sơn,
Dương Liễu, Trung Cần, Dương Phổ Tứ, Vạn Lộc, Tàm Tang, Phú Thọ, Khoa
Trường... Hoặc các cánh đồng ở các làng, xã thuộc tả ngạn sông Lam như: Hữu Biệt,
Kim Liên, Yên Lạc, Đa Lạc, Chung Tháp, Tự Trì, Xuân La, Tuần Lã, Diên Lãm…
Trước thế kỷ XIX, cư dân làng xã ở lưu vực sông Lam đã khai phá đất đai và duy trì
vụ hạ trên những cánh đồng màu mỡ để ổn định cuộc sống. Đến thời Nguyễn, đây chỉ
là sự kế thừa mùa vụ của cha ông từ nhiều thế kỷ trước.
Vụ thu, phần lớn diện tích đất đều được sử dụng để trồng lúa. Trên đất màu thì
cấy hoặc gieo hạt, sau đó chờ trời mưa. Ngoài ra còn có thêm vụ tháng 3 và tháng 8.
Sách Nghệ An ký cho biết: “Mỗi năm cày cấy 2 mùa, tháng 11 cấy lúa, tháng 4 gặt;
tháng 6 cấy lúa, tháng 10 gặt. Nhưng giữa vụ đông và vụ hạ lại có lúa tháng 3. Giữa vụ
hạ và vụ đông lại có lúa tháng 8. Tùy theo chất đất mà trồng trọt thì đều có thể thu
hoạch được cả” [106, tr.26 - 27]. Còn sách Đại Nam nhất thống chí lại chép về thời vụ
và việc làm ruộng ở khu vực này như sau: Về vụ cày cấy thì có hai vụ: “Tháng 11 cấy
thì tháng 4 lúa chín, tháng 6 cấy thì tháng 10 lúa chín. Lại có thứ lúa gặt về tháng 3 và
tháng 8 âm lịch, tùy theo thổ nghi, đều có kết quả tốt cả” [155, tr.783]. Bên cạnh đó,
sách Đồng Khánh địa dư chí còn cho biết thêm: “Mùa màng một năm 2 vụ. Tháng 9
xuống cấy, tháng 6 năm sau gặt. Vụ thu, tháng 5 gieo mạ, tháng 10 lúa chín. Lại có
giống lúa tháng 3 và tháng 8 rải rác có cấy ở một số nơi, nhưng cũng không được bao
lăm” [165, tr.1247].
Ngoài vụ chiêm và vụ mùa là chính, còn có thêm vụ tháng 8 (gọi là vụ bát) cấy
lúa Bát ngoạt. Thời gian cấy gặt của vụ bát chỉ kéo dài trong khoảng 3 tháng, ngắn hơn
1 - 2 tháng so với hai vụ chính. Như vậy, trên đồng ruộng Nam Đàn, tùy đặc điểm địa
hình, chất đất, lượng nước mà canh tác các loại lúa khác nhau: “Lúa vụ chiêm và lúa
Bát ngoạt phần nhiều cấy ruộng trũng, lúa vụ mùa phần nhiều cấy ruộng cao” [154,
tr.145].
Khi đề cập đến tình hình nông nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về thời vụ trong
trồng trọt ở Nghệ An, các sách như Nghệ An ký, Đại Nam nhất thống chí và Đồng
Khánh địa dư chí lược có thống kê, tổng số mùa vụ canh tác trên đồng ruộng ở Nghệ
73
An có 4 vụ lúa. Tuy nhiên, đó là sự thống kê mùa vụ ở tất cả các khu vực trong tỉnh.
Còn riêng ở địa bàn huyện Nam Đàn và một số huyện đồng bằng lân cận như: Hưng
Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Yên Thành... nghề trồng lúa nước của nông dân chỉ có
3 mùa vụ đó là vụ chiêm, vụ mùa và vụ bát.
Việc phân chia mùa vụ trong nông nghiệp ở Nghệ An và Nam Đàn chịu ảnh
hưởng lớn của thời tiết, khí hậu. Nơi đây, mùa nóng thường có hạn hán, trong những ngày
hè gió Lào thổi mạnh cả ngày lẫn đêm khiến cho cỏ cây khô héo, ruộng đồng nứt nẻ,
nhưng lại có những trận mưa giông với lượng mưa lớn đột ngột bất thường làm hạ nền
nhiệt, dịu sức nóng, nước chảy lênh láng lại làm bào mòn đi mùn đất, mùn lá do sức gió
trước đó cày lên khiến cho đất đai thêm cằn cỗi ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Hàng năm vào tháng 7 đến tháng 9, Nam Đàn thường chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ những cơn bão có cường độ mạnh, kèm với bão là lũ lụt làm cho nước sông Lam
dâng cao, gây ngập úng hoa màu, nhấn chìm nhiều nhà cửa, xóm làng nhất là ở vùng
hữu ngạn thuộc tổng Nam Hoa (Nam Kim) cũ như làng Dương Liễu, Hoành Sơn,
Trung Cần… hay ở Thịnh Lạc (xã Hùng Tiến), Xuân La (xã Xuân Lâm) ở vùng tả
ngạn sông Lam. Nhiều khi đang giữa mùa khô hạn, lốc xoáy kèm theo mưa đá lại đột
ngột nổi lên làm đổ nhà cửa, hư hỏng cả vật dụng và hoa màu gây nhiều khó khăn cho
sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân làng xã.
Mùa đông ở Nam Đàn, ngoài giá rét còn xuất hiện thêm hiện tượng mưa dầm
kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Mưa dầm trong mùa đông kèm gió mùa đông bắc
khiến cho nền nhiệt càng hạ thấp, giá rét bao phủ toàn vùng, khiến cho cây trồng chậm
phát triển, năng suất thu hoạch không cao.
Nhà Nguyễn duy trì chính sách không đắp đê ở dọc sông Lam, sông La, nên
hậu quả lũ lụt gây nên cho các mùa vụ trong năm rất lớn. Quốc sử quán triều Nguyễn
trong sách Đại Nam nhất thống chí ghi rõ: “Nước lũ từ miền núi đầu nguồn đổ xuống
rất mạnh, làm cho nhà cửa, súc sản thường bị cuốn trôi. Nhưng vì núi cao lại gần bể,
nước đổ xuống chỉ vài ngày đã tiêu hết, nên xưa nay không nghĩ đến việc đắp đê”
[155, tr.782].
3.2.1.2. Giống, cây trồng
Ở nước ta, giống cây trồng các loại hàng mấy trăm năm không thay đổi. Theo
Đại Nam nhất thống chí, nghề trồng lúa có hơn 90 loại giống lúa tẻ và lúa nếp. Trong
đó, một số giống lúa tẻ cho gạo trắng, thơm như: Minh Xuân, Thơm, Móng Châu,
74
Cánh, Tám Xoan, Bát Lùn, Hiên, Dự.... Các giống lúa này thường có thời gian cấy gặt
là 5 tháng, nhưng cũng có các loại giống ngắn ngày hơn như: Lúa bát (Bát ngoạt, Bát
lùn) Ba giằng... là các giống có thời gian cấy gặt khoảng 3 tháng [200, tr.105]. Đây là
những giống lúa được trồng ở nhiều nơi trên cả nước. Tuy vậy, sách này không ghi
giống lúa cụ thể ở từng địa phương.
Về giống, cây trồng ở địa phương, theo Lê Quý Đôn trong sách Vân đài loại
ngữ cho biết: Ngô trồng ở Nghệ An phần nhiều là ngô trắng, còn lúa thì có giống lúa tẻ
và lúa nếp [48, tr.420]:
Đối với các giống lúa tẻ được trồng phổ biến như:
- Lúa Ba Trăng, cũng gọi là ba tháng; từ lúc gieo mạ đến khi lúa chín, vừa vặn
chỉ, ba tháng. Các loại lúa này tuy năng suất thấp nhưng lại cho gạo trắng, cơm thơm,
dẻo nhiều bột, thời gian cấy trồng ngắn.
- Lúa Chiêm có thân mềm, bông gạo to, lúa đỏ, cơm dẻo được nông dân canh
tác ở vùng ruộng sâu, tháng 5 cấy tháng 8 thì thu hoạch;
- Lúa Chiêm vàng cây cao, lá to, gió mưa không sợ đổ rạp, được cấy vào ruộng
tốt, thóc đỏ, gạo không trắng lắm, cơm hạt cứng;
Các giống lúa Chiêm (lúa Chăm) có thân cứng, thấp, bông dày hạt tròn, ưa
ruộng trũng thời gian canh tác từ tháng 11 cấy đến tháng 4 thu hoạch cũng được trồng
phổ biến. Còn các giống khác như: tám xoan, bát ngoạt, ba lá, ba giằng, lúa lốc, lúa
thông... được trồng ở ruộng cao, hoặc ruộng vừa không cao, không thấp tùy theo địa
hình [48, tr.421 - 423].
Các giống lúa nếp được trồng thường có các loại sau:
- Lúa nếp chuối, cây cao hạt dài mà to, được nhiều gạo, vị mềm nhuyễn, ưa
ruộng bùn sâu.
- Lúa nếp tượng hay nếp voi bất cứ ruộng nào cũng cấy được, thóc to gạo trắng,
cấy vào mùa thu.
- Lúa nếp quạ thóc gạo đều đen, thổi cơm thơm và dẻo.
- Lúa nếp hương có bông to, hạt tròn, gạo trắng mag thơm dẻo.
- Lúa nếp hoa vàng (nếp ả) cây to, hạt nhiều to dẹt, bông cao, gạo trắng rất dẻo.
- Lúa nếp lùn ngọn bông lúa không ra khỏi lá, hạt thóc, hạt gạo đều có mùi
thơm... [48, tr.424 - 425].
75
Các giống lúa nếp thường được trồng trên những chân ruộng có chất lượng đất
vừa phải, thời gian phát triển nhanh hơn các giống lúa tẻ. Theo kinh nghiệm dân gian,
lúa nếp thường phải cấy thưa mới cho năng suất cao và hạn chế sâu bệnh.
Ngoài các giống lúa cấy trồng hai vụ, trên các vùng đất bãi bồi ven sông Lam,
nông dân Nam Đàn trong thời kỳ này đã tiến hành gieo trồng các loại hoa màu phù
hợp với chất đất nhằm đảm bảo lương thực, thực phẩm cho đời sống gồm các giống
như: lạc, ngô, khoai, đậu, vừng, rau, củ, quả... Trong Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch
còn cho biết thêm: “các thứ rau, củ, quả, nấm, măng không tháng nào không có” [106,
tr.27]. Điều này cho thấy sự đa dạng, phong phú về sản phẩm lương thực trong đời
sống hàng ngày của cư dân trên vùng đất Nam Đàn.
Ở một số vùng như Nộn Liễu, Thanh Thủy, Tràng Đen, Ngọc Trừng, Đông
Liệt, Diên Lãm, Nghĩa Động, Nam Kim, Vạn Lộc, Vũ Nguyên, Tàm Tang, Hoành
Sơn... cư dân làng xã còn khai phá các thung lũng nhỏ hẹp dọc theo các sườn đồi, núi
Đại Huệ, Thiên Nhẫn, Ngũ Liên Châu, Hùng Sơn... để trồng chè, hồng, cam, dứa, ngô,
sắn, kê, bầu, bí, rau quả [78]... Phần đất khai hoang, phục hoá dọc theo dãy Thiên
Nhẫn, Đại Huệ... không nằm trong diện tích đất bị đánh thuế do năng suất các loại cây
trồng thấp vì lệ thuộc hoàn toàn vào khí hậu, thời tiết lại thường xuyên bị châu chấu,
chuột, thú rừng... phá hoại. Nhân dân địa phương gọi loại hình đất đai này là rày, trại.
Theo khảo sát của chúng tôi, phần đất rày, trại dọc theo sườn núi Đại Huệ và Thiên
Nhẫn thuộc sở hữu tư nhân và có thể được truyền từ đời cha sang đời con, hoặc có thể
mua, bán, chuyển nhượng, nhưng giá trị thấp.
Trong thế kỷ XIX, cũng như nhiều địa phương khác ở trấn/tỉnh Nghệ An, canh
tác nông nghiệp ở huyện Nam Đàn vẫn chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Do
đó, yếu tố khí hậu, địa hình, chất đất đã tác động đến đặc điểm trong nông nghiệp của
huyện Nam Đàn là sự đa dạng về giống, cây trồng trong trồng trọt, đặc biệt là trồng
lúa. Năng suất, sản lượng lúa và các loại hoa màu từ các giống cây, trồng Nam Đàn
không cao, chủ yếu để phục vụ nhu cầu tại chỗ; việc trao đổi, mua bán các sản phẩm
nông nghiệp trong địa bàn huyện là nhằm góp phần cải thiện cuộc sống thường nhật
của cư dân làng xã lúc bấy giờ.
3.2.2. Các loại nông cụ, dụng cụ, kỹ thuật canh tác
3.2.2.1. Nông cụ, dụng cụ sản xuất
Ở thế kỷ XIX, các loại nông cụ, dụng cụ mà cư dân làng, xã ở Nam Đàn sử
dụng phục vụ cho hoạt động nông nghiệp vẫn là sự kế thừa những tư liệu sản xuất của
76
ông cha đã sáng tạo ra trong quá trình lao động từ nhiều thế kỷ trước. Nông cụ trong
canh tác lúa nước, hoa màu, chăn nuôi vẫn là các loại phổ biến gồm cày, bừa, cuốc,
cào, liềm, hái, đòn xóc, đòn càn, đòn gánh, quang gánh, xe cút kít, xe tay... Còn các
loại dụng cụ như: chum, ché, hũ sành hay nống vựa, nống gấm, dần, sàng, thúng,
mủng vịnh, mủng lường, bồ cót, sập gỗ… dùng để chế biến, cất trữ sản phẩm nông
nghiệp sau thu hoạch phục vụ nhu cầu ăn uống sinh hoạt hàng ngày hoặc dành làm
giống cho mùa vụ tiếp theo [10].
Trong quá trình trồng lúa và hoa màu, dụng cụ phổ biến trong khâu làm đất mà
cư dân nông nghiệp Nam Đàn thường xuyên sử dụng là cày chìa vôi, bừa sắt. Lưỡi cày
và lưỡi bừa làm bằng sắt được đúc ở một số nơi có nghề rèn lớn trong địa bàn huyện
như lò rèn ở xã Vân Đồn (nay thuộc thị trấn Nam Đàn), hay được thương nhân đưa từ
làng rèn Nho Lâm (Diễn Châu), làng rèn Trung Lương (Đức Thọ, Hà Tĩnh) đến bán tại
khu hàng sắt ở các chợ trong làng, xã. Các loại liềm, hái, dao, rựa, rìu, cào, cuốc...
dùng cho việc làm cỏ, gặt hái, phát quang, đào bờ đắp ruộng được các lò rèn có quy
mô nhỏ ở các làng xã trong huyện rèn theo phương thức truyền thống. Riêng các loại
đòn gánh, đòn càn, quang gánh phục vụ cho việc gánh phân, mạ, thóc, lúa, ngô,
khoai... được làm từ tre, mây khai thác ở ngay trong vườn nhà hoặc ở gần vùng đồi
rừng núi trong địa bàn huyện.
Ngoài các loại quang, gánh phục vụ việc vận chuyển, nông dân Nam Đàn nói
riêng và Nghệ An nói chung còn sử dụng loại xe tay, hoặc xe cút kít, do các thợ mộc
trong làng xã đóng theo các khuôn mẫu có từ trước. Nguyên liệu làm xe tay, xe cút kít
từ mạ xe, thùng xe, bánh xe... chủ yếu từ gỗ dổi, hoặc mít. Loại xe này dùng để chở
phân, mạ, cày bừa khi cày cấy hay chở ngô, lúa, khoai sắn trong mùa thu hoạch.
Những người nông dân khoẻ mạnh có thể dùng xe tay để chở được 80 - 120 kg hàng
hoá, trong khi đó, nếu dùng quang, gánh chỉ có thể gánh được 40 - 60 kg, vì phần lớn
đồng ruộng thường ở cách nơi cư trú từ 2 - 3 km, riêng các rày, trại có khi cách nơi cư
trú tới 10 - 12 km [9].
Sau khi thu hoạch, dụng cụ mà người nông dân sử dụng để chế biến lúa, gạo
phục vụ nhu cầu ăn uống là néo đập lúa, trục lăn để làm cho những hạt thóc lìa ra khỏi
rơm (thân cây lúa) và dùng cối xay thóc (lúa), cối giã gạo, cối xay bột, để xay, xát làm
ra hạt lúa, hạt gạo hay các loại bột từ lúa, gạo, ngô, sắn. Những dụng cụ chế biến lúa
77
gạo, ngô, khoai, sắn được sử dụng phổ biến hầu khắp trong các hộ gia đình ở huyện
Nam Đàn, góp phần tự túc trong nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cư dân.
3.2.2.2. Kỹ thuật canh tác, thu hoạch mùa vụ
Về kỹ thuật canh tác ruộng đất trong nông nghiệp, cho đến đầu thế kỷ XIX ở
Việt Nam nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng đã thuần thục các kỹ thuật như cày,
bừa, sử dụng sức kéo gia súc. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng địa hình của các xứ đồng,
chân ruộng mà người nông dân sử dụng linh hoạt các loại nông cụ khác nhau trong các
khâu sản xuất nông nghiệp.
Đối với những chân ruộng cao, ngoài việc dụng cày chìa vôi có lưỡi ngắn, lưỡi
bừa hình lược hay còn gọi là bừa chữ nhi thì nông dân Nam Đàn còn sử dụng nhiều
nông cụ khác như cuốc, mai, bàn vét, thuổng, vồ đập đất.... Các ruộng đất sét (tiếng
địa phương gọi là đất thịt) phải tiến hành cày hai lần. Lần đầu gọi là cày vở, lần thứ hai
gọi là cày trở. Sau khi cày vở, người nông dân phơi đất cho nỏ, sau đó mới cày trở, vì
thế tục ngữ mới có câu “một hòn đất nỏ bằng giỏ phân” là ý nói đến vai trò quan
trọng của việc làm đất trong kỹ thuật canh tác. Đến thời vụ gieo cấy, người nông dân
sử dụng bừa sắt, do trâu, bò kéo để bừa dọc, bừa ngang từ ba đến bốn lượt tuỳ theo
chất đất từng thửa ruộng, làm cho đất tơi nhuyễn rồi mới cấy lúa.
Riêng đối với những thửa ruộng là đất cát pha hay đất phù sa, thường có nước
ngập, nông dân Nam Đàn tiến hành cày, bừa hai lần. Lần thứ nhất gọi là cày úp và bừa
vở, mục đích là để loại bỏ các gốc rạ, các loại cỏ dại len lách trong đất và làm sục bùn,
tăng độ mùn cho đất. Trước ngày cấy lúa từ hai đến ba ngày, người ta cày trở đất, rồi
sau đó tiến hành bừa (tiếng địa phương gọi là bừa sục bùn, bừa khoả) nhằm tạo độ
bằng phẳng cho mặt ruộng, tránh chỗ cao, chỗ thấp, thuận tiện cho việc giữ nước đều
cả ở bốn góc ruộng. Trong quá trình làm đất lần thứ hai, người ta bỏ phân chuồng
(phân trâu, bò, lợn) xuống mặt ruộng (tiếng địa phương gọi là bón lót), sau đó bừa kỹ
để sau này khi gieo hoặc cấy mạ thì mạ, lúa trên toàn bộ thửa ruộng có thể tốt đều.
Khi đã hoàn thành khâu làm đất, người ta làm cỏ, bón phân (tiếng địa phương
gọi là bón thúc) cho lúa đẻ nhiều nhánh, lắm bông, trĩu hạt. Kế thừa kinh nghiệm từ
nhiều thế kỷ trước của cha ông “công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn”, “nước
- phân - cần - giống”, nông dân Nghệ An nói chung, Nam Đàn nói riêng đã vận dụng
các kỹ thuật canh tác, bỏ ra nhiều công sức làm cỏ, tát nước (bằng gàu sòng, gàu giai),
bón phân... để làm ra hạt lúa, hạt gạo.
78
Ở khu vực có chân ruộng cạn, hay những thửa ruộng nhỏ hẹp bậc thang dọc
theo các khe suối dưới chân núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn... Tùy vào chất đất của từng
thửa ruộng mà người nông dân có thể dùng cày, bừa hoặc dùng các loại cuốc, bàn vét
để đào đất, be bờ, làm ruộng trồng lúa hoặc các loại hoa màu. Đối với ruộng ở các khu
vực có địa hình tiếp giáp đồi, núi người ta thường trồng các giống lúa cạn có khả năng
chịu hạn, hoặc để trồng khoai lang, ngô, sắn, bầu, bí, đậu, đỗ, mía... Kỹ thuật canh tác
ở những chân ruộng cạn có những điểm khác so với các ruộng ở vùng đồng bằng, đó là
người ta gieo hẳn hạt giống vào các lỗ (giống như cách gieo hạt của đồng bào Thái,
Mường... trên nương rẫy). Riêng khoai lang, sắn, mía, người ta dùng cày, bàn vét,
cuốc, vun thành luống (tiếng địa phương gọi là vồng/vùng khoai, vồng sắn, vồng mía),
sau đó lấy dây khoai lang, hoặc thân cây sắn, cắt thành từng khúc (độ dài 15 - 20 cm)
để trồng (riêng ngọn mía có độ dài từ 30 - 40 cm/ngọn) [9].
Khi mùa gặt đến, nông dân làng, xã dùng hái, liềm để gặt lúa, sau đó được bó
thành từng gồi, từng lượm, từng bó, gánh bằng đòn gánh bởi quang (tiếng địa phương
gọi là gióng mây, được làm từ sợi dây mây, nứa, tre, gồm có bốn/hay hai sợi mây cho
một chiếc quang); hoặc bằng đòn xóc, đòn càn dài, ngắn khác nhau (phù hợp với trẻ
em, người lớn khi sử dụng). Khung cảnh tấp nập của mùa thu hoạch nông vụ trên đồng
ruộng đã đi vào ca dao, điệu hò đối đáp trong văn hóa địa phương, phản ánh phần nào
đời sống sản xuất nông nghiệp của nông dân làng xã ở Nam Đàn:
“Đố anh, đố cả người bày
Một trăm gánh lúa mấy tay, mấy gồi?
Em về đếm cá dưới sông, đếm cây Đại Huệ
Thì anh đối được một trăm gánh lúa mấy tay, mấy gồi” [9].
Trong thế kỷ XIX, ở Nam Đàn hiện tượng tư hữu đất đai dù diễn ra không quá
gay gắt như ở nhiều địa phương khác, nhưng do diện tích công điền không đủ phân
chia cho đại bộ phận nông dân nên một số gia đình không có ruộng đất để canh tác.
Những người không có hoặc có ít ruộng đất, không đủ để các thành viên trong gia đình
canh tác sản xuất buộc họ phải cày thuê, cuốc mướn cho những nhà khá giả (phú
nông), cho địa chủ hoặc chức sắc địa phương, bộ phận có nhiều ruộng đất tư trong
làng xã. Trong trường hợp cày cấy ruộng công làng xã thì gia đình nông dân phải lo
79
toàn bộ từ trâu, bò cày kéo, bón phân, bắc mạ, cấy gặt... Nếu cày cấy ruộng họ, thì mọi
công việc từ canh tác đến thu hoạch đều được hội đồng gia tộc, tộc biểu cho các gia
đình là thành viên trong họ đảm nhận và phải nộp hoa lợi để lo việc cúng tế tổ tiên
theo quy định của dòng họ.
Gia phả dòng họ Vương ở làng Hà Long, Nguyễn Trần ở làng Nam Bình, họ
Đinh ở làng Đông Giai (nay thuộc thị trấn Nam Đàn), họ Bùi Danh, Bùi Hữu (Thanh
Thuỷ), họ Nguyễn Cảnh ở Xuân Hồ, Nguyễn Đức (Khánh Sơn), Nguyễn Trọng (Trung
Cần)... cho biết, các dòng họ này thường có tới 3 đến 5 mẫu ruộng họ, do con cháu
trong dòng họ cung tiến [51], [52], [54], [61]. Bên cạnh đó, địa bạ các xã thôn còn cho
biết trong làng xã thường có có 3 - 5 mẫu ruộng học điền, 1 - 2 mẫu ruộng thờ ở các
đền, miếu thờ, từ vũ… “Đất đình 1 mẫu, đất chùa Vân Tiêu 5 sào. Xứ Đội Long, đất
tiên hiền từ vũ: 5 sào, xứ đội Long” [248]; Đất đình, chùa: 6 mẫu 7 sào 9 thước 3 tấc
lưu hoang, đất Niệm Sơn thần từ: 3 sào 8 thước xứ Cồn Đình lưu hoang tư thổ, thần từ
đền Mai Hắc Đế: 8 sào xứ Cồn Vệ lưu hoang tư thổ, chùa Niệm Sơn: 3 mẫu 6 sào 1
thước 3 tấc, xứ Cồn Đình, lưu hoang tư thổ, chùa Ngọc Sơn: 2 mẫu xứ Cửa Chùa lưu
hoang tư thổ [227].
Trong diện tích đất canh tác trên đồng ruộng ở Nam Đàn có loại hình ruộng
chùa thuộc sở hữu của các nhà chùa trên địa bàn huyện như chùa Đại Tuệ, chùa Vĩnh
Phúc, chùa An Lạc, chùa Phúc Linh, chùa Nhạn Tháp, chùa Bà Đanh, chùa Viên
Quang... Ruộng chùa thuộc sở hữu công điền, công thổ, mỗi chùa thường có diện tích
từ vài sào đến vài mẫu ruộng để canh tác, nguồn gốc của loại ruộng này do nhà nước
phân cấp, hoặc trích từ nguồn ruộng đất công của địa phương. Một số chùa, ruộng
chùa còn do các vị trụ trì mua về hoặc được các tín đồ Phật giáo có tiền của mua cung
tiến cho nhà chùa. Việc cày cấy, thu hoạch trên những thửa ruộng của nhà chùa do
tăng ni, phật tử và cả nông dân làng xã đảm nhận, hoa lợi thu được do nhà chùa cất
giữ, sử dụng vào việc tế lễ, sinh hoạt tôn giáo của các chùa.
Các loại ruộng họ, ruộng học điền, ruộng thờ, ruộng chùa thường ở gần làng và
không nằm trong diện phải nộp thuế cho nhà nước. Trên diện tích các loại ruộng này
(trừ ruộng học điền) thường dùng trồng lúa nếp, các giống lúa có gạo trắng, dẻo, thơm
ngon tiện cho việc đồ xôi, làm cơm phục vụ công quả, cúng tế trong năm.
80
Như vậy, nông cụ, dụng cụ, kỹ thuật canh tác, phương thức thu hoạch mùa vụ
trên đồng ruộng của nông dân làng xã ở Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 -
1884 là sự kế thừa, không có nhiều thay đổi so với các thế kỷ trước và có nhiều nét
tương đồng với các huyện, phủ khác trong trấn/tỉnh Nghệ An.
3.2.3. Công tác trị thủy - thủy lợi
Huyện Nam Đàn là vùng đất thuộc hai miền tả ngạn và hữu ngạn hạ lưu sông
Lam. Đặc điểm địa hình với đặc trưng là hình thái có hướng nghiêng thay đổi từ Tây
sang Đông, trong đó trung du đồi núi tập trung ở phía Tây và Tây Bắc, còn đồng bằng
tập trung ở phía Đông và phía Nam. Phía Tây và Tây Bắc, do yếu tố địa hình là vùng
bán sơn địa nên đất đai có độ dốc và thường bị xói mòn, rửa trôi vào mùa mưa bão.
Phía Đông và Đông Nam diện tích đồng bằng nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi các hệ thống đồi
núi, sông ngòi, ao hồ, đất đai có địa hình thấp, chủ yếu là đất bãi bồi, hình thành bởi
phù sa sông Lam nên thường xuyên bị ngập úng về mùa mưa lũ.
Dưới triều Nguyễn, chính sách không đắp đê ở sông Lam, sông La hay dọc theo
các cửa biển từ Quỳnh Lưu đến Kỳ Anh mà các vị vua nhà Nguyễn duy trì trong thời
kỳ 1802 - 1884 khiến cho tình hình sản xuất, canh tác nông nghiệp của cư dân làng xã
Nghệ An gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc dẫn thuỷ nhập điền hay chống
ngập úng cho lúa, hoa màu và làng mạc nơi dân cư sinh sống.
Đối với huyện Nam Đàn, vào mùa lũ lụt, nước từ thượng nguồn dồn về lưu vực
sông Lam, các khe suối ở vùng núi Thiên Nhẫn, Đại Huệ nước tràn khắp nơi khiến hầu
hết diện tích canh tác lúa và hoa màu đều bị ngập úng, hoặc bị nhấn chìm trong biển
nước lũ. Do đặc điểm địa hình, với độ cao khá lớn so với mực nước biển (120 - 170
m), tình trạng ngập lụt diễn ra phổ biến vào mùa mưa nhưng không kéo dài, nước sông
Lam lên nhanh nhưng cũng thoát nhanh ra biển. Sách Nghệ An ký đã lý giải hiện tượng
này như sau: “Vì núi cao và gần biển, nên ngập lụt chẳng qua chỉ vài ngày thôi, cho
nên từ xưa đến nay không có chính sách đắp đê, mà ruộng đất cũng không bị úng thủy,
vẫn màu mỡ phì nhiêu” [106, tr.27 - 28].
Vào mùa hạ, nắng hạn kéo dài, nền nhiệt khắp vùng Nghệ An nói chung, ở Nam
Đàn nói riêng tăng cao có khi lên hơn 40°C khiến cho ruộng đồng nứt nẻ, khô cằn,
việc dẫn thủy nhập điền tưới tiêu chống hạn cho lúa và hoa màu là vấn đề thiết yếu.
81
Đối với đất đai canh tác ở những vùng đồng bằng, bãi sông thuộc hạ lưu sông Lam cư
dân tiến hành khơi sâu mương máng, dẫn nước từ ao hồ, đầm, hoặc lấy nước trực tiếp
từ sông Lam để tưới cho lúa và hoa màu. Qua phản ánh của địa bạ, có thể nhận thấy
mật độ phân bố kênh mương ở những vùng thuận tiện về nguồn nước như tổng Nam
Hoa, Bích Triều dày đặc hơn so với những nơi khác trong huyện. Cư dân trong các
tổng này đã biết lợi dụng những nơi có đầm, ao hồ tự nhiên để đắp thêm các hồ chứa
nước nhỏ trữ nước phục vụ tưới tiêu vào mùa khô hạn. Tuy nhiên, do diện tích các hồ
chứa nhân tạo có quy mô nhỏ, lượng nước tích trữ ít nên hiệu quả trong việc chống
hạn không cao. Đối với những diện tích ruộng đất sát vùng đồi núi, nhân dân lợi dụng
khe suối tự nhiên kết hợp với làm guồng xe quay để dẫn nước vào đồng ruộng [116,
tr.219]. Trong quá trình nghiên cứu địa bạ Nam Đàn chúng tôi nhận thấy, hầu như các
xã, thôn trong huyện, đặc biệt là các xã thôn gần đồi núi thì kích thước khe cừ được
thống kê khá nhiều và chi tiết, một số xã thôn có tổng chiều dài sông suối, khe cừ, rất
lớn như: thôn Lương Trường (tổng Bích Triều) có 2 dải khe cừ dài 215 trượng [237],
xã Vũ Nguyên (tổng Bích Triều) có 1 dải suối khe cừ dài 500 trượng [255]…
Liên quan đến các công trình thủy lợi, tưới tiêu trên địa bàn huyện Nam Đàn,
trong tập tài liệu bằng tiếng Pháp của Hội Dân gian Đông Dương, lập vào năm 1937,
lưu tại Thư viện Quốc gia mang ký hiệu: FQ4018/69 với tựa đề: “Lịch sử về ngài Bùi
Huy Nhượng”, do thầy giáo Nguyễn Văn Tường, giáo viên dạy trường Thanh Đàm
(Nam Tân ngày nay) tường thuật khi trả lời câu hỏi theo phiếu phỏng vấn của Hội Dân
gian Đông Dương về đền miếu và công tích của các vị thần được dân làng thờ phụng,
có nội dung như sau:“Ở làng Phú Thọ, tổng Xuân Khoa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An, có đền Đức Ông thờ ngài Bùi Huy Nhượng, một nhân thần. Ngài sinh ngày 13
tháng 4 năm Quý Mùi (1523) và mất ngày 15 tháng 10 năm Đinh Hợi (1587). Ngài sai
đào một kênh dẫn nước cho Bàu Láng (ở trong làng Phú Thọ) bên bờ hữu Lam Giang”
[83, tr.40 - 48].
Việc tưới tiêu, chống ngập úng trong sản xuất nông nghiệp ở Nam Đàn còn gắn
liền với địa danh Hồ Nón thuộc xã Non (Nộn) Liễu ở phía Đông Bắc huyện Nam Đàn.
Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: “khoảng giữa đời Lê Dương Hòa (1635 -
1643), người xã Hương Lãm là Thị lang Hương Lãm hầu Nguyễn Văn Mệnh bới đào
cửa hồ, nước hồ có chỗ tiêu đi, sau mới thành ruộng” [154, tr.199].
82
Các công trình thủy lợi kể trên chủ yếu được làm từ thời hậu Lê, đến thời
Nguyễn tiếp tục được cư dân làng, xã sử dụng vào mục đích tiêu úng, chống ngập lụt.
Trong thời kỳ 1802 - 1884, trên địa bàn huyện Nam Đàn hầu như không có công trình
thủy lợi có quy mô nào được xây dựng, đây là tình trạng chung của cả xứ Nghệ An,
điều này được phản ánh cụ thể trong sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch: “Xứ Nghệ
An gần núi, giáp biển, đất đai sỏi sạn, cằn cỗi lại không có mấy nơi bằng phẳng, rộng
rãi nên từ xưa không có chính sách đắp đê” [106, tr.219]. Các công trình tưới tiêu phổ
biến trên đồng ruộng Nam Đàn là hệ thống mương, máng dẫn nước do các hộ gia đình
cày cấy trên cùng một xứ đồng huy động công sức đào mương, đắp máng để dẫn thủy
nhập điền, chống hạn tiêu úng. Hầu hết các công trình này có quy mô nhỏ, không đáp
ứng đủ nhu cầu tưới tiêu trong nông nghiệp. Những nơi gần nguồn nước người nông
dân sử dụng gàu sòng, gàu giai tát nước trực tiếp vào ruộng, hoặc sử dụng các con
mương nhỏ hẹp để dẫn nước phục vụ tưới tiêu. Phần lớn các diện tích ruộng đất còn lại
đều trong tình trạng chung là khô hạn, thiếu nước tưới tiêu vào mùa hè, bị lũ cuốn
hoặc ngập úng thường xuyên vào mùa mưa lũ.
Những hạn chế về công tác trị thủy và thủy lợi dưới triều Nguyễn đối với một
số địa phương trong đó có trấn/tỉnh Nghệ An, đã dẫn đến nông nghiệp trong thế kỷ
XIX đối với hầu hết người dân làng xã ở Nam Đàn, rộng hơn là các phủ, huyện trong
tỉnh rơi vào hoàn cảnh lệ thuộc vào tự nhiên, giống như cha ông thuở trước:
“Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng” [96].
3.2.4. Nghề làm vườn, trại
Khi nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cung, tự cấp đang bao trùm lên vành đai
làng xã trên toàn bộ đất nước, ruộng đất công trong làng xã không đủ chia cho cư dân
để canh tác nông nghiệp thì việc người nông dân từ đời này qua đời khác đã biết sử
dụng các diện tích đất trong khuôn viên gia đình thành những mảnh vườn làm nơi
trồng trọt rau màu hoặc xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, đào ao thả cá
là một hiện tượng diễn ra phổ biến.
Nghề làm vườn ở Nam Đàn có từ lâu đời, ngay từ khi khai ấp, lập làng người
83
dân đã biết tận dụng đặc điểm địa hình nơi cư trú để làm vườn, trại. Việc làm vườn,
làm trại dần trở thành một nghề trong cơ cấu ngành nông nghiệp của cư dân làng xã.
Những khu vườn trong hộ gia đình thường được bao quanh bởi nhiều loại trồng
như tre, mây, gỗ vườn các loại, vừa để phân định ranh giới sở hữu giữa các hộ gia
đình, đồng thời ngăn không cho gia súc, gia cầm của nhà khác sang phá hoại các loại
cây trồng trong vườn. Mây, tre, gỗ tạp trồng quanh vườn là nguyên liệu có thể dùng để
làm nhà ở, làm các đồ dùng, vật dụng trong nhà hoặc để dựng chuồng chăn nuôi gia
súc, gia cầm… Tùy thuộc vào diện tích sở hữu mà vườn có quy mô lớn, nhỏ khác
nhau. Những gia đình giàu có, khá giả, hay các chức dịch trong làng xã, diện tích đất vườn có thể lên tới 600 - 1000 m2, còn đại bộ phận gia đình nông dân có diện tích đất vườn dưới một sào (500 m2). Trong những diện tích vườn, ngoài khu vực để dựng nhà
làm nơi sinh hoạt hàng ngày, chuồng nuôi gia súc, gia cầm, các gia đình nông dân ở
Nam Đàn thường trồng đủ các loại, từ rau màu như: rau cải, bầu bí, cà, mướp ngọt,
dưa chuột, su su, mùi tàu, tía tô, hành, tỏi, ớt cay… đến các loại cây ăn quả như: cam,
bưởi, ổi, khế, đu đủ... Không ít gia đình còn đào ao, đìa để thả cá. Công việc làm vườn
thường dành cho người già và trẻ nhỏ, là hoạt động diễn ra thường xuyên, các loại rau
màu, sản phẩm từ vườn chủ yếu phục vụ cho cuộc sống thường nhật của gia đình.
Theo số liệu thống kê từ 40 địa bạ, diện tích đất dân cư vườn, ao trong địa bàn
huyện Nam Đàn không nhiều, chỉ chiếm 3,6% (1264.7.2.2.8) trong tổng diện tích đất
đai cả huyện (34623.4.10.0.0). Tuy nhiên, con số này chưa phản ánh hết diện tích
vườn ở Nam Đàn (40/65 xã, thôn) nhưng cũng cho thấy sự hạn hẹp về không gian
sống của cư dân làng xã . Phân tích một số địa bạ cho biết, hầu hết diện tích vườn đều
không đánh thuế: địa bạ thôn Dương Phổ Tứ, xã Nam Hoa Đông thuộc tổng Nam Hoa
huyện Nam Đàn có ghi “Đất ở, vườn của bản thôn 10 mẫu 6 sào; xưa đều không có
thuế lệ; trong đó xứ Trung Châu 6 mẫu 1 sào; Xứ Hạ Mụ Bà 4 mẫu 5 sào” [226], hay
địa bạ xã Hương Lãm (Trám) thuộc tổng Nộn Liễu (Non Liễu) có ghi “Một mảnh đất
thổ trạch, vườn, đất ở 57 mẫu 9 sào. Đất cũ không có thuế; trong đó: đất xứ Điếm
Chợ; 10 mẫu; xứ Điếm Tuần 10 mẫu; xứ Điếm Nhật 8 mẫu 5 thước 3 tấc; Xứ Kẻ Niệm
10 mẫu; xứ Điếm Trong 9 mẫu 8 sào 9 thước 7 tấc; xứ Điếm Hội 3 mẫu; xứ Điếm
Ngoài 7 mẫu” [233].
Ở Thừa Thiên Huế, nhà Nguyễn đánh thuế hầu hết diện tích đất vườn của các
hộ gia đình theo thuế ruộng nên địa bạ ghi diện tích đất vườn vào diện tích ruộng: địa
84
bạ làng Xuân Hòa thuộc tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà trong phần ruộng đất tư
đều có ghi “nhà vườn cũ nộp thuế tô theo ruộng” [205, tr.140]. Đối với trấn/tỉnh Nghệ
An nói chung, Nam Đàn nói riêng suốt thế kỷ XIX, nhà Nguyễn không đánh thuế diện
tích đất vườn ở. Đây có thể là một ân điển mà các vị vua nhà Nguyễn dành cho cư dân
Nghệ An, nơi thường xuyên phải đối mặt với hạn hán, triều dâng, bão lũ, dịch bệnh,
mất mùa đói kém.
Ngoài việc làm vườn, một bộ phận đông đảo cư dân làng xã dưới chân núi Đại
Huệ (thuộc tổng Non Liễu), núi Thiên Nhẫn (thuộc tổng Nam Kim và một số làng xã của
tổng Bích Triều như: Chi Cơ, Tàm Tang, Phú Thọ, Khoa Trường, Vũ Nguyên) còn khai
hoang, phục hoá vùng đất nhỏ hẹp dọc các sườn đồi, khe suối để trồng một số rau màu
như bầu, bí, sắn, ngô, chè và một số cây ăn quả như hồng, cam, chanh… Người dân địa
phương gọi diện tích đất này là trại hay các rày. Sách Đại Nam nhất thống chí (quyển 5)
phần về tỉnh Nghệ An có ghi: “Núi Đại Huệ: ở cách huyện Nam Đường 54 dặm về phía
Đông, hình núi như quả chuông úp… sườn núi cây chè xanh tốt” [154, tr.180].
Để trồng được các loại cây trên diện tích đồi núi hoặc vùng tiếp giáp giữa đồng
bằng và đồi núi, nông dân làng xã đã lấy đá xếp thành từng bức tường thành theo dọc
sườn núi rồi gánh đất màu từ ruộng đồng lên đổ vào, làm mương đưa nước từ các khe
suối để tưới tiêu chống hạn. Các bức tường đá xếp vừa chống xói mòn, giữ được đất
đai không bị rửa trôi, cây cối không bị gãy đổ đồng thời cũng là hàng rào chống gia
súc, thú rừng phá hoại. Đến nay, các dấu tích bờ/tường đá dọc theo chân núi Đại Huệ
và Thiên Nhẫn vẫn còn và cư dân địa phương vẫn duy trì việc trồng chè, dứa, ngô,
khoai, sắn dây, chanh, cam... ngay trên vùng đất xưa cũ do ông cha để lại.
Các diện tích rày, trại, khai thác nguồn đất đai dọc chân núi nơi tiếp giáp với
đồng bằng, thung lũng, vùng đầm lầy, ao hồ tự nhiên gắn liền với hoạt động khai
hoang của cư dân trong làng xã. Hoạt động khai hoang trên những diện tích đất nói
trên chủ yếu mang tính chất tự phát của người dân, hoặc do những nhân vật có công
khai ấp, lập làng khởi xướng từ nhiều thế kỷ trước.
Cư dân các xã Thanh Tuyền (nay là xã Nam Thanh), xã Diên Lãm (nay là thị
trấn Nam Đàn), xã Xuân Hồ (nay là xã Xuân Hoà) từ thế kỷ XVII dưới triều nhà Lê
trung hưng (đời Dương Hoà) đã có công lớn trong việc khai phá vùng đất ngập nước ở
Hồ Nón, biến đây thành những thửa ruộng có thể gieo cấy cả vụ hạ và vụ thu.
85
Đầu thế kỷ XIX, một số hộ gia đình bần cố nông ở Diên Lãm, Thanh Tuyền,
Xuân Hồ... đã rời làng xã đến khai hoang, phục hoá tạo nên một số cánh đồng như:
nương Mượu, cồn Chùa, cồn Làng, cồn Sỏi, động Lòi, cây Sanh, cồn Gây, khe Sét...
Đến những năm 60 - 70 của thế kỷ XIX dần hình thành 7 thôn dân cư tập trung (mỗi
xóm có từ 15 - 25 hộ gia đình) gọi chung là xã Nghĩa Động (thuộc địa bàn xã Nam
Nghĩa ngày nay). Họ lập đền thờ thần Cao Sơn Cao Các ở xóm Rú Lá, dưới chân núi
Đại Huệ (đã được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2012).
Trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874), địa bàn cư trú của cả 7 thôn thuộc xã
Nghĩa Động nằm trong địa bàn hoạt động của nghĩa quân Trần Tấn, các hộ gia đình ở
đây đã tích cực ủng hộ lương thảo, khí giới, tham gia lực lượng khởi nghĩa. Đến cuối
năm 1874, khởi nghĩa Giáp Tuất thất bại, quân đội triều đình đã đốt sạch toàn bộ nhà
cửa và thảm sát những người ủng hộ, tham gia nghĩa quân. Một số người may mắn
trốn thoát được đã tìm đến nhiều làng xã ở huyện Thanh Chương, huyện Lương Sơn
(Nghệ An), huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) thay tên đổi họ để sinh sống. Toàn bộ đồng
ruộng do nhân dân xã Nghĩa Động khai phá, cày cấy từ đầu thế kỷ XIX sau khởi nghĩa
Giáp Tuất (1874) bị bỏ hoang. Phải đến những năm cuối cùng của thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, các hộ gia đình ở Diên Lãm (Thị trấn Nam Đàn ngày nay) mới lên khai hoang,
phục hoá lại vùng đất thuộc xã Nghĩa Động. Điều đặc biệt là họ chỉ lên cày cấy rồi lại
trở về Diên Lãm (Hương Lãm) mà không định cư tại vùng đất gắn với bao chuyện ma
quái, bệnh tật nơi đây [30, tr.34 - 35]. Theo khảo sát của chúng tôi, vùng đất gắn với 7
thôn thuộc xã Nghĩa Động (tương ứng với địa bàn xã Nam Nghĩa ngày nay) là vùng
đất hoang, được khai phá và cày cấy có diện tích lớn nhất so với những vùng đất được
khai hoang, phục hoá trên địa bàn huyện Nam Đàn ở thế kỷ XIX. Điều đáng quan tâm
là toàn bộ diện tích đất theo ghi chép trong địa bạ phần lớn là đất lưu hoang, phế canh
và đều không bị đánh thuế. Địa bạ xã Nghĩa Động lập năm Minh Mệnh 13 (1832) cho
biết: “Công điền thổ các hạng tổng cộng 683 mẫu 6 sào 9 thước 8 tấc, trong đó diện
tích công điền, công thổ là 675 mẫu 3 sào 6 thước 8 tấc đều là đất lưu hoang và phế
canh” [241], còn lại là tư điền chiếm diện tích rất ít.
Tóm lại, sản phẩm thu được từ nghề làm vườn, trại (rày), khai thác nguồn lợi
tự nhiên đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm cho
các hộ gia đình nông dân làng xã. Ngoài ra, cư dân ở một số làng xã ven các chân núi
86
vào những dịp nông vụ nông nhàn thường tập trung lại thành các phường săn (thường
có từ 10 đến 15 người) tổ chức đi săn các loại chim, thú trên núi Đại Huệ và núi Thiên
Nhẫn. Cư dân còn vào khe Mét, khe Trúc, khe Mai... (núi Đại Huệ), khe Bò Đái, núi
Hoàng Tâm... (dãy Thiên Nhẫn) khai thác cỏ Gianh, các loại song, mây, nứa mét, gỗ
rừng về để xây dựng nhà cửa, chế tác các dụng cụ sinh hoạt, làm chuồng nuôi gia súc,
gia cầm, hoặc mang ra các chợ trong làng, trong huyện để bán hoặc trao đổi nhu yếu
phẩm khác cho gia đình.
3.2.5. Năng suất và tô thuế
3.2.5.1. Năng suất
Miêu tả về thời tiết, khí hậu thất thường ảnh hưởng đến năng suất, mùa vụ và
những gian truân mà người Nghệ An đối mặt, Bùi Huy Bích (1744 - 1818), người
huyện Thanh Trì, Hà Nội từng giữ chức Đốc đồng trấn Nghệ An (1777), cho biết:
“...Vào hè gió nóng thổi hoài,
Qua thu, mưa vẫn dẳng dai không ngừng.
Tháng mười, nước lũ còn dâng.
Tết Trùng dương (9/9 Âm lịch) cúc chưa từng nở hoa
... Gạo ăn rắn tựa đá nung,
Nước triều reo tựa quạ đồng kêu ran...” [106, tr.32]
Bùi Dương Lịch trong Nghệ An ký, còn cụ thể thêm: “Ruộng ở khoảng giữa thì
có khi được vụ chiêm mất vụ mùa, hoặc được vụ mùa mất vụ chiêm, mà nơi cấy được
vụ chiêm thì thường bị gió bão, nơi cấy được vụ mùa thì thường bị lũ lụt không sao
cho thu hoạch vẹn toàn” [106, tr.219 - 220]. Hay sách Đại Nam nhất thống chí cũng
cho biết: “Việc làm ruộng bắt đầu từ mùa hè mà thu hoạch về mùa đông, đấy là do khí
hậu sớm muộn mà thành khác nhau như vậy”[106, tr.167].
Chính sách không đắp đê mà nhà Nguyễn duy trì và những diễn biến thất
thường của thời tiết, khí hậu cùng với phương thức canh tác lạc hậu, không có hệ
thống thuỷ lợi tưới tiêu đủ sức dẫn thuỷ nhập điền vào mùa hạ hay tiêu úng về mùa lũ;
các loại giống, cây trồng đều giống với các thế kỷ trước, là những nguyên nhân chính
khiến năng suất, sản lượng lúa và các loại cây lương thực, hoa màu ở Nghệ An nói
chung, Nam Đàn nói riêng ở thế kỷ XIX thấp, nhiều năm thậm chí mùa vụ có thể mất
trắng do thiên tai, địch họa, khiến lương thực, thực phẩm không đủ để đáp ứng nhu cầu
của cư dân địa phương. Những năm thiên tai kéo dài, mất mùa đói kém, giá gạo lên
87
cao, ngoài một số gia đình khá giả ở Nam Đàn “Thường phải ăn đong gạo xứ Sơn
Nam đem đến bán” [106, 220], còn đại đa số rơi vào tình trạng thiếu đói, nhà Nguyễn
đã phải nhiều lần mở kho phát chẩn hoặc bán rẻ cho dân để cứu đói, chẳng hạn năm
1816 phát 16 phương gạo bán rẻ cho dân đói Nghệ An [170, tr.164].
3.2.5.2. Tô thuế
Ngay sau khi lên nắm vương quyền, vua Gia Long cho sửa lại hộ tịch và điền
tịch đã hư hỏng trong những năm đất nước rơi vào thảm hoạ nội chiến. Theo đó, hộ
tịch phân ra 9 hạng, tuỳ từng hạng mà nộp thuế toàn phần hoặc được miễn giảm phân
nửa hay miễn trừ cả sưu thuế lẫn sai dịch. Dân công nghệ thì nộp thuế sản vật. Thời
Minh Mệnh thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế.
Dân Thanh Nghệ và Bắc Hà chịu thuế đinh và thuế điền cao nhất cả nước. Theo thống
kê của bộ Hộ thì số đinh năm đầu đời Gia Long ở trấn Nghệ An (gồm Nghệ An và Hà
Tĩnh) là 65.400 người, đến triều Tự Đức riêng tỉnh Nghệ An là 56.870 người [2, tr.19].
Đối với tô thuế, đến cuối thời vua Gia Long, tổng số ruộng đất của trấn Nghệ
An (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh), công tư điền thổ hơn 413.500 mẫu với số đinh
hơn 115.400 người. Nghệ An lúc bấy giờ thuộc khu vực II (gồm các trấn Thanh Hóa,
Nghệ An, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, phủ
Phụng Thiên), cho nên huyện Nam Đàn cũng bị áp bảng thuế như các huyện khác
trong tỉnh. Theo đó, các loại đất công, tư đều chịu mức thuế là 120 bát/mẫu, trong khi
ruộng công và ruộng tư có sự phân biệt rất rõ, cụ thể:
Bảng 3.10. Thuế ruộng đất công, tư ở khu vực II thời Gia Long
Ruộng công Mức thuế Ruộng tư Mức thuế
Loại 1 120 bát/mẫu Loại 1 40 bát/mẫu
Loại 2 Loại 3 84 bát/mẫu 50 bát/mẫu Loại 2 Loại 3 30 bát/mẫu 20 bát/mẫu
Ruộng vụ mùa 15 thăng/mẫu Ruộng các hạng 15 thăng/mẫu
Tiền thập vật 1 tiền Tiền thập vật 1 tiền
Tiền mao nha 30 đồng Tiền mao nha 30 đồng
Đất công, tư
Đất phù sa công cấy lúa 120 bát/mẫu Đất tư trồng lúa 120 bát/mẫu
[149, tr.169 - 170, 275 - 276]
88
Sang thời Minh Mệnh, việc quy định thuế ruộng đất có sự thay đổi. Năm 1840,
các khu vực từ Nghệ An - Hà Tĩnh trở ra Bắc được xếp vào khu vực II. Trong bối cảnh
đó Huyện Nam Đàn vẫn thuộc khu vực II và chịu mức thuế đối với ruộng công, ruộng
tư như sau:
Bảng 3.11. Thuế ruộng công, tư ở khu vực II thời Minh Mệnh
Ruộng công Mức thuế Ruộng tư Mức thuế
Loại 1 80 thăng/mẫu Loại 1 26 thăng/mẫu
Loại 2 56 thăng/mẫu Loại 2 20 thăng/mẫu
Loại 3 33 thăng/mẫu Loại 3 13 thăng/mẫu
[149, tr.283]
Ngoài ra, thuế đối với đất trồng các loại như: dâu, mía, trầu cau, khoai, lạc... và
đất ở ít nhất một mẫu nộp 4 tiền, cao nhất 2 quan.
Đến thời Tự Đức, tỉnh Nghệ An được xếp vào khu vực IV (từ Hà Tĩnh trở ra
các tỉnh đồng bằng sông Hồng), mức thuế ở đây lại tăng lên so với trước.
Bảng 3.12. Thuế ruộng đất công, tư ở khu vực IV thời Tự Đức
Ruộng công, tư
Ruộng công Mức thuê Ruộng tư Mức thuế
Loại 1 120 bát/mẫu Loại 1 40 bát/mẫu
Loại 2 84 bát/mẫu Loại 2 30 bát/mẫu
Loại 3 50 bát/mẫu Loại 3 20 bát/mẫu
Đất công, tư
Đất công trồng dâu 2,2 quan 1 tiền lúa cánh
Đất chuyên trồng dâu 1,5 quan 1 tiền lúa cánh
Đất trồng khoai 1,2 quan 1 tiền lúa cánh
[149, tr.137 - 139]
Theo các bảng thống kê trên, tính trung bình chung các loại theo ruộng đất công
tư thì thuế ruộng đất công cao hơn 2,8 lần so với thuế ruộng đất tư. Nhà nước thu tô
thuế chủ yếu bằng hiện vật, tức là bằng lúa. Ngoài các khoản thuế trên còn có các
khoản phụ thu khác và thu bằng “tiền về thẻ tre, khoán khố, điền mẫu, thường tân,
cung đốn, không cứ công hay tư, mỗi mẫu nộp 3 tiền” [156, tr.549].
89
Theo biểu tính mức tô thuế thuộc các tỉnh Trung Kỳ ở “khu vực I, II từ Quảng
Bình đến Khánh Hòa, nếu 1 thăng = 2,7 kg thì mức thuế chung sẽ là 108 kg; 81 kg, 54
kg/ mẫu. Theo quy định đương thời 1 mẫu bằng khoảng 0,49 ha, như vậy ruộng hạng
nhất phải chịu thuế hơn 216 kg/ha, nghĩa là khoảng 10% thu hoạch”. Như vậy, mức tô
thuế tính theo khu vực IV, cụ thể ở Nghệ An thuế ruộng công gần gấp 3 lần thuế ruộng
tư và cao hơn mức thuế khu vực I, II. Nếu tính theo trọng lượng: “mức thuế ruộng
công là 216 kg, 151.3kg và 89.1kg, và ruộng hạng nhất sẽ phải nạp hơn 432 kg/ha, tức
khoảng 20% thu hoạch” [70 tr.138].
Đến năm 1875, triều Nguyễn chỉ còn phân chia thành 2 khu vực: I (từ Quảng
Bình vào Nam), II (từ Hà Tĩnh ra Bắc). Triều đình cũng thống nhất mức thuế, công
cũng như tư thành 3 mức là 40 thăng, 30 thăng, 20 thăng.
Ngoài việc trưng thu thuế ruộng đất các loại, thuế thân (đinh) cũng là nguồn thu
nhập quan trọng của Nhà nước. Định phép tô dung năm 1803 chiếu rằng: “Phàm dân
hộ không kể chính hay khách, cứ 10 suất thì 1 suất làm cố hạng, còn 9 suất thì chia
làm 3 hạng: tráng, quân, dân. Mức thuế tính từ Nghệ An đến đồng bằng Bắc Thành
như sau: thuế đinh (1 quan 2 tiền), tạp dịch các loại (7 tiền +2 bát gạo)” [156, tr.549].
Năm 1820, Minh Mệnh đặt một biểu thuế riêng cho Nghệ An, Thanh Hoá, đạo Ninh
Bình: “Tráng và đinh được bỏ tiền tạp dịch, quan viên (con quan từ 6 phẩm đến 4
phẩm): 1 quan tiền và 2 bát gạo, 1 tiền đầu lòi” [164, tr.143]. Dưới thời vua Tự Đức,
sách Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về diện tích ruộng đất và thuế ruộng đất của
tỉnh Nghệ An như sau: “... ruộng đất 170.976 mẫu, thóc thuế là 90.876 hộc, tiền thuế
143.006 quan, bạc 1.112 lạng (thuế ruộng đất đạo Hà Tĩnh cũng gồm trong số này)”
[155, tr.787].
Sách Đồng Khánh địa dư chí còn cho biết: Ruộng đất công tư các hạng hiện
đóng thuế của tỉnh Nghệ An là 133.108 mẫu 9 sào 9 thước 5 tấc 3 phân 9 ly 4 hào.
Xem chi tiết ở sổ Điền bạ sửa chữa lớn năm Tự Đức thứ 24 (1871). Trong đó: Ruộng
công tư các hạng, kể cả ngụ điền là 100.453 mẫu 7 thước 1 tấc 8 phân 6 ly 4 hào.
- Ruộng muối công tư các hạng: 135 mẫu 4 sào 5 thước 7 phân.
- Đất công tư các hạng, kể cả đất bãi, ao đầm: 32.520 mẫu 4 sào 12 thước 2 tấc
8 phân 3 ly.
Thuế hàng năm:
- Nộp bằng thóc: 69.749 hộc, 21 thưng, 36 vốc.
90
- Nộp bằng tiền: 91.933 quan, 3 tiền, 27 đồng, 6 chinh, 8 ly.
- Thuế muối quy nộp bằng tiền: 304 quan, 7 tiền, 15 đồng, 7 chinh.
Dân đinh các hạng tính đến thời điểm này là: 74.615 người [165, tr.1230].
Đối với huyện Nam Đàn, tổng số ruộng đất, nhân đinh và mức thuế được sách
Đồng Khánh địa dư chí ghi chép như sau: Nhân số các hạng là 5.930 người (trong đó
binh đinh 760 người). Ruộng đất công tư và ruộng muối các hạng hiện nộp thuế là
15.163 mẫu 2 sào 2 tấc 4 phân. Trong đó:
- Ruộng công tư các hạng: 11.623 mẫu 9 sào 1 thước 8 tấc.
- Đất công tư các hạng: 3.539 mẫu 2 sào 13 thước 4 tấc 4 phân.
Thuế cả năm:
- Nộp bằng tiền: 8.855 quan 1 tiền 41 đồng lẻ 5 chinh.
- Nộp bằng thóc: 7.222 hộc 8 thưng 7 bát 2 vốc [165, tr.1235].
Các số liệu về ruộng đất, nhân đinh trên đây chỉ mang tính chất thống kê tương
đối, chưa phản ánh hết phạm vi huyện Nam Đàn mà đề tài xác định là huyện Nam Đàn
theo giới hạn địa lý ngày nay bao gồm thêm một số xã, thôn thuộc tổng Nam Hoa
(Nam Kim), tổng Bích Triều của huyện Thanh Chương nhập vào huyện Nam Đàn.
Đồng thời có một số xã, thôn thuộc tổng Đại Đồng tách ra khỏi huyện Nam Đàn rồi
nhập vào các xã thôn của huyện Thanh Chương sau này.
Ngoài các loại thuế chính thức được phân chia theo hạng như trên, nhân dân
còn phải đóng các nghĩa vụ lao dịch đối với nhà nước. Dưới thời Gia Long, từ Nghệ
An trở ra đến các trấn thuộc đồng bằng sông Hồng, mỗi suất đinh phải nộp 1 quan 2
tiền thuế thân và 7 tiền 2 bát gạo tạp dịch. Đến thời Tự Đức, theo quy định khu vực từ
Hà Tĩnh đến Ninh Bình, mỗi tráng nộp 1 quan 2 tiền và mỗi đinh nộp 6 tiền. Đây được
xem là mức thuế đinh thấp nhất lúc bấy giờ khi so với các khu vực còn lại trong phạm
vi cả nước.
Dưới triều Hậu Lê và Tây Sơn, nhân dân Nghệ An thóc tô tư điền không phải
nộp, chỉ nộp thóc tô công điền, đặc biệt đối với những vùng ruộng sâu trũng hoặc cao
khó khăn trong canh tác nông nghiệp như huyện Nam Đàn thì được miễn cả. Các việc
thuộc về bài, biểu, lễ, khoán đền miếu, kho tàng, đường sá, cầu đò nhà nước thuê
người làm lấy, dân Nghệ An chỉ phải xuất lực chịu lính.
91
Nhưng dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884, từ vua Gia Long, Minh Mệnh,
Thiệu Trị, Tự Đức nắm giữ vương quyền, chế độ tô thuế đã trở thành gánh nặng đối
với người nông dân xứ Nghệ. Theo ghi chép trong các bộ sử như: Đại Nam Thực lục
chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đồng Khánh
ngự lãm địa dư chí lược, dựa trên việc thu thuế biệt nạp, nhân dân trấn/tỉnh Nghệ An
phải khai thác gỗ lim từ vùng rừng núi phía tây, vận chuyển theo đường sông La, sông
Lam, sau đó cho lên thuyền men theo đường biển từ Hội Thống vào kinh đô Huế phục
cho việc xây dựng cung điện, lăng tẩm và các công trình kiến trúc khác. Làng đóng
thuyền Trung Kiên (Nghi Lộc) phải đóng thuyền chiến để nhà Nguyễn trang bị cho lực
lượng thuỷ quân. Để xây dựng trấn sở Nghệ An kiên cố, đáp ứng yêu cầu của cuộc cải
cách hành chính mà Minh Mệnh tiến hành, tổng đốc An Tĩnh đã huy động hàng vạn
lượt dân đinh ở Diễn Châu, Nghi Lộc, Quỳnh Lưu… vào việc khai thác, vận chuyển
hàng vạn phiến đá sò Phủ Diễn vào Vinh. Cư dân các tổng thuộc địa bàn huyện Nam
Đàn phải khai thác, vận chuyển hàng chục vạn phiến đá ong có chiều dài rộng, lớn nhỏ
khác nhau từ mỏ đá ong làng Kiền thuộc xã Thanh Tuyền (Thanh Thuỷ, tức Nam
Thanh ngày nay) xuống Vinh phục vụ công cuộc xây thành Nghệ An. Đó là chưa kể
các lò gạch, ngói thủ công truyền thống cũng phải gấp rút cung cấp đủ nguyên liệu cho
việc xây thành. Toàn bộ gỗ lim, táu, dổi, đinh hương, vàng tâm các loại để xây dựng
nhà cửa, dinh thự trong thành Nghệ An cũng do các thợ sơn tràng ở Nghệ An, Hà Tĩnh
khai thác, vận chuyển theo dòng sông La, sông Lam đưa về Vinh.
Để phục vụ cho việc xây thành, đào hào đắp lũy, nhà Nguyễn đã huy động
hàng vạn dân đinh hầu khắp các làng xã ở Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh
Chương, Đức Thọ, Nghi Xuân và một số địa phương khác trong tỉnh về Vinh để đào,
đắp vòng hào bao quanh toà thành Nghệ An với chu vi 603 trượng. Ngoài ra, còn tập
hợp dân đinh đào con sông Vinh để dẫn nước từ sông Lam vào vòng hào bao quanh
thành Nghệ An, với tổng chiều dài gần 6 km (từ thành Nghệ An qua chợ Vinh, nối với
sông Cửa Tiền, rồi vòng qua vùng đất phường Vinh Tân, phường Trung Đô, nối với
sông Lam ở núi Dũng Quyết ngày nay). Cùng với đó là việc xây dựng thành đạo Hà
Tĩnh chu vi hơn 173 trượng, thành phủ Anh Đô, thành phủ Diễn, trường thi Hương
Nghệ An [97]…
92
Ở hầu khắp các làng, xã, trang, phường, vạn, giáp, sở, nạn cường hào kiêm tinh
phát triển, đời sống nhân dân chẳng được cải thiện bao nhiêu lại còn phải đóng góp
nhiều khoản thuế, phụ thu, cộng với chế độ lao dịch liên quan đến công việc chung
trong làng xã như lễ lạt, hội hè đã gây thêm nhiều khó khăn đối với nông dân làng xã.
Chế độ thuế khoá, lao dịch, binh dịch cùng với những lệ làng được bộ máy chức sắc
soạn thảo trong hương ước, khoán ước thực sự là gánh nặng đối với đời sống cư dân
Nghệ An nói chung, Nam Đàn nói riêng [77].
3.3. Chăn nuôi, khai thác thủy sản
3.3.1. Chăn nuôi
Cũng như hầu hết các xã thôn trong trấn/tỉnh Nghệ An, trong thời kỳ 1802 -
1884 nghề chăn nuôi không trở thành một nghề chuyên canh riêng biệt, có quy mô
chuồng trại lớn, mà chỉ là một nghề phụ của cư dân. Ở một số làng xã, việc chăn nuôi
gia súc, gia cầm tương đối phát triển. Một yếu tố thuận lợi góp phần tác động chăn
nuôi trâu bò, lợn và gia cầm ở Nam Đàn phát triển là do nhiều chợ trên địa bàn huyện
đã trở thành nơi buôn bán trao đổi gia súc như các chợ trâu bò ở xã Đông Liệt, xã
Nghĩa Động, chợ Sa Nam, chợ Rồng...
Trong nông nghiệp, chăn nuôi trâu bò để lấy phân bón và sức kéo là chủ yếu.
Ngoài ra, việc phát triển đàn trâu, bò còn cung cấp nguồn lợi thực phẩm, trở thành
hàng hoá để trao đổi, mua bán tăng thu nhập cho gia đình. Cũng giống các huyện lân
cận như Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, giống trâu, bò nuôi ở Nam Đàn ở
thế kỷ XIX là giống trâu bò bản địa và một số trâu bò của đồng bào Mường thuộc tỉnh
Thanh Hoá và một số tỉnh phía Bắc. Trâu của người Mường to con, kéo cày khỏe,
thích nghi tốt với khí hậu địa phương thường được bán phổ biến ở các chợ gia súc trên
địa bàn huyện hoặc ở chợ Phủ Diễn (Diễn Châu) và chợ Giát (Quỳnh Lưu).
Hầu hết các làng xã ở Nam Đàn đều có bãi chăn thả gia súc. Các làng xã dọc
đôi bờ tả - hữu sông Lam thì bãi chăn thả gia súc thường nằm dọc các bãi bồi ven
sông hoặc ở các bãi tha ma, cạnh vùng đất hoang ở các bàu, hồ... Riêng các làng xã
dưới chân núi Thiên Nhẫn và Đại Huệ, trâu bò được thả trên đồi núi giống như ở nhiều
huyện trung du thuộc trấn/tỉnh Nghệ An. Những gia đình nông dân có ruộng đất tư
thường chăn nuôi từ 1 - 2 con trâu, bò để lấy phân bón và sử dụng vào việc cày cấy.
Các gia đình đông con thường phải nuôi trâu bò thuê (tiếng địa phương gọi là nuôi trâu
bò rẽ) cho địa chủ, chức dịch. Đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hình thức
93
đi trâu bò phiên (các gia đình có trâu bò trong làng luân phiên nhau đi chăn thả trâu
bò) vẫn được duy trì ở Nam Đàn.
Ngoài chăn nuôi trâu bò, việc chăn thả các loại gia súc, gia cầm khác cũng được
người dân Nam Đàn chú ý trong kinh tế hộ gia đình. Với nguồn thức ăn chủ yếu là phụ
phẩm từ các loại nông sản như rau màu, cùng với lợi thế là các diện tích mặt nước với
nhiều loài thủy sinh khiến cho việc chăn nuôi khá thuận lợi. Hoạt động chăn nuôi của
cư dân địa phương trên địa bàn huyện Nam Đàn trong thời kỳ này còn mang tính tự
phát, vừa chăn, thả tự nhiên trong vườn nhà, hoặc khoanh nhốt ở vùng ven sông, hồ
ao, chân ruộng sau thu hoạch gần nơi cư trú. Chăn nuôi lợn, gà, ngan, ngỗng với quy
mô vài con đến vài chục con trong các hộ gia đình tuy diễn ra phổ biến nhưng quy mô
nhỏ lẻ, năng suất thấp. Ở Nam Đàn, sản phẩm từ chăn nuôi hầu hết là để phục vụ đời
sống thường nhật của các hộ gia đình. Các loài gia súc, gia cầm như lợn, gà, vịt, ngan
thường được người nông dân xem như món đồ để dành phòng khi hữu sự, lại tiện cho
việc buôn bán, trao đổi để mua các vật phẩm khác phục vụ đời sống của cư dân.
3.3.2. Khai thác thủy sản
Nghề khai thác thuỷ sản trên lưu vực thuộc hạ lưu sông Lam, trên các vùng bàu,
hồ, đầm, khe, suối đã xuất hiện từ lâu đời, gắn liền với sinh hoạt, đời sống của cư dân
trên dọc hai vùng tả ngạn và hữu ngạn sông Lam nói chung trên địa bàn huyện Nam
Đàn nói riêng. Trong lịch sử hình thành của các xã, thôn ở huyện Nam Đàn sự hiện
hữu của các vạn thuỷ cơ trên địa bàn huyện đã minh chứng điều đó.
Với lợi thế về địa hình là vùng đất nằm ở hạ lưu sông Lam, ngoài diện tích mặt
nước rộng lớn của sông Lam thì đất đai trong làng xã Nam Đàn đan xen nhiều đầm, ao
hồ (vết tích cũ của lòng sông Lam thời đệ tứ kỷ) ở đồng bằng và các dải khe cừ nằm ở
vùng gần đồi núi. Sách Đồng Khánh dư địa chí có ghi chép như sau: “Một dòng sông
lớn từ phủ Tương Dương ở phía Tây chảy về Đông, qua các huyện Lương Sơn, Nam
Đường, Thanh Chương, Hưng Nguyên, Chân Lộc, hợp dòng với sông Lam rồi đổ ra
biển ở Cửa Hội dài 468 dặm, 126 trượng” [165, tr.1237]. Dòng sông Lam đoạn qua
huyện Nam Đàn ngày nay được xác định có chiều dài khoảng 16 km, dù chảy qua một
đoạn ngắn như vậy nhưng lưu lượng nước ở lưu vực sông Lam từ miền Tây Nghệ An
và phần nào cả miền Tây Hà Tĩnh đổ về khiến lòng sông ở đây rộng mênh mông, tạo
điều kiện cho cư dân ở miền tả ngạn và hữu ngạn từ đời này qua đời khác luôn duy trì
hoạt động đánh bắt, khai thác nguồn lợi thủy sản.
94
Hoạt động khai thác thủy sản của cư dân hai bên vùng hạ lưu sông Lam ở thế
kỷ XIX chủ yếu là đánh bắt nguồn thủy sản sẵn có trong tự nhiên. Các tên làng cũ như
Vạn Võng Nhi sau đổi thành thôn Lương Giai, Vạn chài Thanh Trai đến thời Minh
Mệnh (1824) gọi là thôn Thanh Trai và một số làng khác như Duyên La ở xã Nam
Tân, hay Tân Xuân, Thượng Lạc, Đông Thọ thuộc xã Nam Cường là các làng nổi, mỗi
làng dân số khoảng 200 - 300 người, họ đánh bắt cá trên sông đoạn từ Phuống đến ngã
ba Tam Chế. Thủy sản đánh bắt được chủ yếu là các loại cá tôm như: cá mương, cá
gáy, cá trắm, cá rầm, cá ngạnh, cá vên, cá bống, tôm càng xanh, tôm đất...
Phương tiện mà cư dân làm nghề đánh bắt thuỷ sản trên sông suối, ao hồ, đầm,
khe cừ gồm các loại thuyền lớn, nhỏ và các dụng cụ như lưới, chài, câu, nơm, vó, rớ,
lừ, đó... Ngoài ra, nông dân các làng xã còn sử dụng gàu sòng, gàu giai đắp bờ tát cạn
nước ao hồ, một số nơi cư dân còn làm bộng trụp, bộng nhảy/dãy (dùng bùn đắp bờ,
tát cạn nước ở những rãnh nước cá hay đi qua) để bắt cá. Một số làng xã như Tầm
Tang, Phú Thọ, Khoa Trường, Thanh Thuỷ, Diên Lãm ở huyện Nam Đàn, việc khai
thác nguồn lợi thủy sản trong một số diện tích hồ, bàu được cư dân địa phương quản lý
và tổ chức theo lệ, có quy đình về việc cấm câu trộm, đánh bắt nếu không được phép.
Thường vào dịp cuối năm, tất cả thành viên làng xã tham sẽ cùng nhau khai thác
nguồn lợi thủy sản trên các bàu, hồ này (tiếng địa phương gọi là vậy trọt, vậy bàu).
Đối với những làng có diện tích ao hồ, bàu, đầm cư dân đã nuôi cá trong những
ao nuôi, sách An Tĩnh cổ lục có ghi cụ thể: “Làng Xuân Liễu đã được lập nên, dân làng
nuôi cá trong những ao nuôi cá tổ chức rất khéo… suốt đời Xuân Liễu phải tiến cống
cho triều đình cá đánh ở ao Xuân Hồ” [99, tr.155]. Ở làng Long Vân (nay là xóm Hà
Long, Thị trấn Nam Đàn), gia đình Tiến sĩ Vương Hữu Phu, Vương Đình Trân, còn tự đào ao nuôi cá với diện tích khoảng 1200 - 1500 m2 gọi là ao Cụ Thị (vì Vương Hữu Phu làm Thị lang bộ Lễ ở triều đình Huế cuối đời vua Tự Đức) [190]. Các loại cá được
nuôi trong ao, hồ chủ yếu là cá trắm, cá rầm, cá chép, cá mè…
Tóm lại, từ năm 1802 đến năm 1884, cư dân làng xã ở Nam Đàn tiếp tục kế
thừa nghề khai thác thủy sản từng tồn tại từ nhiều thế kỷ trước. Sự hiện hữu của các
vạn thuỷ cơ (các làng nổi trên sông, làng ven sông) đã biến hoạt động khai thác thuỷ
sản thành một nghề mưu sinh của nhiều thế hệ. Còn ở trong các làng xã, việc đào ao
nuôi cá chỉ diễn ra đối với những gia đình có điều kiện khá giả, còn đa phần cư dân
vẫn thường khai thác đánh bắt nguồn lợi thủy sản trên các diện tích ao, hồ, đầm, bàu,
khe suối tự nhiên theo phương thức truyền thống, nhằm để bổ sung nguồn thực phẩm
phục vụ cho nhu cầu ăn uống của gia đình.
95
Tiểu kết chương 3
Dưới triều Nguyễn, nông nghiệp Nam Đàn vẫn mang nét đặc trưng nổi bật là
nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cung, tự cấp lỗi thời và lạc hậu. Phương thức canh
tác đất đai, mùa vụ, các giống cây trồng như lúa và hoa màu, cách thức gieo cấy, thu
hoạch, đều dựa trên những kinh nghiệm dân gian của chính cha ông tích luỹ từ nhiều
đời trước. Bức tranh nông nghiệp ở Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 là sự phản chiếu cụ
thể, mang tính tương đồng của thực trạng nông nghiệp ở trấn/tỉnh Nghệ An.
Trong thời kỳ 1802 - 1884, chính sách về ruộng đất của triều Nguyễn đã thể
hiện vai trò của Nhà nước đối với chế độ ruộng đất trên cả nước. Cụ thể, chính sách về
ban cấp ruộng đất, chính sách khai hoang, chính sách đối với ruộng đất công làng xã
và chính sách đối với ruộng đất tư hữu đã tác động trực tiếp đến thực trạng nông
nghiệp, nông thôn và người nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Đối với huyện
Nam Đàn, tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp cũng nằm trong bối cảnh
chung đó, các chính sách nói trên đã có những tác động về mặt tích cực như: người
nông dân trong làng xã được phân chia ruộng đất công để sản xuất, tình trạng dân cư
rời bỏ quê hương, làng xóm đi phiêu tán cũng giảm hơn so với trước, việc mở rộng
khai hoang, trưng dụng lại ruộng đất hoang hóa đã tạo thêm tư liệu sản xuất cho cư
dân làng xã... Tuy nhiên, chính sách không đắp đê ngăn lũ lụt, triều dâng dọc đôi bờ tả
hữu sông La, sông Lam cùng các làng xã ven biển mà nhà Nguyễn duy trì, cộng với
những biến đổi thất thường của thời tiết, khí hậu, cấu trúc địa hình, đất đai đã đẩy đại
bộ phận nông dân Nam Đàn nói riêng, trấn/tỉnh Nghệ An nói chung vào tình trạng duy
trì nền nông nghiệp lệ thuộc vào tự nhiên. Năng suất lúa và các loại cây trồng thấp;
Chăn nuôi, khai thác thuỷ sản... chỉ là nghề phụ. Bên cạnh đó, dù nhà Nguyễn không
đánh thuế diện tích đất vườn và một số diện tích đất khai hoang, nhưng chính sách tô
thuế, chế độ lao dịch của nhà nước, sự nhũng nhiều của quan lại cường hào địa phương
cùng nhiều tệ hương ẩm trong làng xã, khiến đời sống cư dân nông nghiệp vẫn rất bấp
bênh. Bức tranh nông nghiệp Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884, vẫn
mang đậm dấu ấn xưa cũ, người nông dân làng xã thường xuyên rơi vào tình cảnh mất
mùa, đói kém, dịch bệnh, giặc giã, thiếu đất đai canh tác, phải phiêu tán khắp nơi là
thực trạng khó tránh tránh khỏi trong thời kỳ này.
96
Chương 4
THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG NGHIỆP
4.1. Thủ công nghiệp
4.1.1. Khái quát tình hình thủ công nghiệp
Trên địa bàn huyện Nam Đàn có rất nhiều nghề thủ công truyền thống khác
nhau, phân bố với mật độ khá đều. Trong làng, xã như nơi nào cũng duy trì một vài
nghề thủ công, chủ yếu là sản xuất theo hộ gia đình, các dòng họ hoặc các nhóm gồm
vài gia đình với quy mô nhỏ.
Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757 - 1828), khi biên soạn Nghệ An ký, trong
phần Sinh Lý (đời sống nhân dân) có chép về hoạt động trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa
(chủ yếu là lực lượng phụ nữ) và nghề rèn ở trấn Nghệ An đầu thế kỷ XIX như sau:
“Về nghệ nữ công nuôi tằm và dệt thì có lục quyến ở xã Hoàng Lễ, huyện Kỳ Hoa và
xã Quần Bồ, huyện Thiên Lộc, vải ở các xã Việt Yên, Bình Hồ, Hoa Lâm huyện La
Sơn,... xã Nộn Hồ, Nộn Liễu, Lâm Thịnh, Đông Liệt huyện Nam Đường,... những lụa
vải ấy chỉ đủ cung cấp ăn mặc cho dân địa phương.
Về bách công các hàng thì có Việt Yên Thượng, huyện La Sơn,... xã Phú Nghĩa
huyện Kỳ Hoa, xã Vân Đồn huyện Nam Đường, xã Lý Trai huyện Đông Thành, xã Uy
Viễn huyện Nghi Xuân làm lưỡi cày,... [106, tr.256].
Ngoài nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, nghề làm lưỡi cày được đề cập trong
Nghệ An Ký, qua khảo sát thực tế địa bàn nghiên cứu là huyện Nam Đàn, chúng tôi
phát hiện trong dân gian còn có rất nhiều ngành, nghề tiểu thủ công nổi tiếng như:
nghề mây tre đan, nghề đánh tranh lá mía, cỏ săng, nghề mộc, nghề khai thác đá ong,
nghề làm gạch ngói, nghề ép mía nấu mật, làm đường phèn, nghề làm bún bánh, nghề
kết (bện) chổi đót, chổi trện, nghề đóng thuyền, nghề đan vó, đan lưới để bắt cá, nghề
nấu tương. Các nghề thủ công ở Nam Đàn được chúng tôi thống kê cụ thể như sau:
97
Bảng 4.1. Một số nghề tiểu thủ công nghiệp ở Nam Đàn
Nghề Địa điểm
3 TT 1 Bánh đúc 2 Chống nốc, chống bè Dệt vải trồng dâu nuôi tằm, trồng bông
4 Đường, mật 5 Đan rổ, rá, nong, nia 6 Đan tơi nón
7 Đan lưới
8 Đúc đồng 9 Đóng thuyền 10 Ép dầu lạc 11 Làm lưỡi cày
12 Khai thác đá ong
13 Làm đồ tre, đan lát 14 Làm hàng xáo
15 Làm gạch ngói, làm gốm
16 Thợ mộc, thợ cưa, thợ chạm
17 Thợ nề
18 Thợ rèn
19 Tương
20 Vàng Mã Gia Cốc (Vân Diên) Dương Phổ Tứ, Dương Phổ Đông Xuân Hồ, Xuân Liễu, Trung Cần, Hoành Sơn, Thịnh Lạc, Tàm Tang, Vạn Lộc Vân Sơn, Thanh Đàm, Lương Giai Ngọc Đình, Làng Sen, Xuân La Ngọc Đình, Ngang, Thọ Toán Vạn Võng Nhi (thôn Lương Giai), Vạn chài Thanh Trai (thôn Thanh Trai) Bố Ân, Bố Đức Vạn Nốc (Hoành Sơn) Xuân Lâm, Hồng Nhiễm (Đan Nhiễm) Vân Đồn Thanh thủy (Nam Thanh), Nam Vân, Vân Diên, Nam Thái, Nam Hưng, Nam Nghĩa Nam Thái, Vân Diên Trung Cần, Nam Vân Nhạn Tháp, Đồng Điên, Đông Liệt, Nghĩa Động (Hưng - Thái - Nghĩa), Tràng Cát (Nam Cát), Hữu Biệt (Nam Giang), Gia Lạc (Nam Lĩnh) Thượng Hồng, Chung Tháp, Nam Hoa Thượng, Nam Hoa Hạ Lương Trường, Tràng Cát, Trung Cần, Thanh Thủy, Vân Sơn Vân Nam, Vân Đồn (Quy Chính) Tự Trì (Bố Ân), Nộn Hồ (Xuân Hòa), Thịnh Lạc (Hùng Tiến), Thượng Hồng, Chung Tháp, Đan Nhiễm (Hồng Long) Vân Đồn (Vân Sơn), Tạo Lễ (Nghi Lễ)
[72, tr.60]
Các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở Nam Đàn có lịch sử hình thành,
tồn tại từ nhiều thế kỷ trước, đến thế kỷ XIX tiếp tục duy trì tồn tại trong làng xã như
nghề khai thác đá ong, nghề trồng dâu nuôi tằm dệt vải, nghề làm gạch ngói, nghề
đóng thuyền... Trong đó, một số nghề như làm tương ở Tự Trì (Bố Ân), Nộn Hồ (Xuân
98
Hòa), Thịnh Lạc (Hùng Tiến), Thượng Hồng, Chung Tháp, Đan Nhiễm (Hồng Long);
làm mộc, chạm ở Nam Hoa Thượng, Nam Hoa Hạ; làm gạch, ngói ở Nhạn Tháp,
Đồng Điên, Đông Liệt, Nghĩa Động (Hưng - Thái - Nghĩa), Tràng Cát (Nam Cát), Hữu
Biệt (Nam Giang), được xem là những nghề phổ biến, thu hút nhiều lao động trong
làng, xã tham gia. Hầu hết các sản phẩm thủ công ở Nam Đàn chủ yếu nhằm phục vụ
nhu cầu tại chỗ của cư dân địa phương như: đá ong, gạch, ngói, tương, đường mật, tơ
lụa, rổ rá, nong nia... Một một số sản phẩm có chất lượng tốt trở thành hàng hóa trong
giao thương với các vùng, miền phụ cận trong và ngoài tỉnh.
Trong nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cấp, các nghề tiểu thủ công nghiệp ở
Nam Đàn chỉ đóng vai trò là nghề phụ trong kinh tế hộ gia đình, các hoạt động sản
xuất chủ yếu vào lúc nông nhàn của nông vụ. Do vậy, dù có sự phát triển về quy mô và
năng suất nhưng về cơ bản, các nghề vẫn tồn tại chủ yếu dựa trên nền tảng nông
nghiệp. Sản phẩm chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu tại chỗ đồng thời hỗ trợ cho các hoạt
động sản xuất khác như trồng trọt, chăn nuôi và sinh hoạt đời sống của cư dân.
Về quy mô, trong làng, xã các nghề tiểu thủ công nghiệp ở Nam Đàn thời kỳ
1802 - 1884 tồn tại mang tính nhỏ lẻ, manh mún, bó hẹp trong phạm vi gia đình, dòng
họ và chưa tách khỏi nông nghiệp. Đây cũng là tình trạng chung của các nghề thủ công
truyền thống ở Nghệ An, đúng như Hoàng giáp Bùi Dương Lịch đã nhận xét: “Những
hàng ấy cũng chỉ đủ dùng trong dân gian mà người làm nghề cũng chỉ đủ ăn mà thôi”
[114, tr.221].
4.1.2. Một số nghề thủ công tiêu biểu
4.1.2.1. Nghề khai thác đá ong
Do đặc điểm địa hình là vùng nửa đồng bằng nửa đồi núi, nên một số nơi trên
địa bàn huyện Nam Đàn vùng đồng bằng tiếp giáp với sườn núi các dãy Thiên Nhẫn,
Đại Huệ, Ngũ Liên Châu đất đai có độ dốc lớn. Cộng với những biến đổi của khí hậu,
thời tiết, quá trình phong hóa mạnh mẽ lâu dài của đá mẹ nằm bên dưới diễn ra trong
suốt nhiều thế kỷ đã tạo ra nhiều vỉa, quặng đá ong phân bố rải rác trên địa bàn các
làng, xã như: Ngọc Trừng, Đông Liệt, Trang Bàu (Nam Thái); Trang Ri, Trang Đen
(Nam Hưng); Nghĩa Động (Nam Nghĩa); Diên Lãm, Hương Lãm (Thị trấn Nam Đàn);
Làng Kiền (Thanh Thuỷ, Nam Thanh)... Từ nhiều thế kỷ trước, cư dân làng xã ở huyện
Nam Đàn đã biết khai thác nguồn lợi đá núi, đá ong làm nguyên vật liệu để xây dựng
99
các công trình kiến trúc như nhà cửa, chùa, đền, miếu, mộ, hay phục vụ sản xuất, canh
tác nông nghiệp. Theo dòng thời gian, trong các làng xã nói trên dần hình thành các tổ
chuyên khai thác đá ong. Trên cơ sở đối sánh các nguồn tư liệu lưu trữ và quá trình
khảo sát, điền dã tại một số nơi có mỏ đá ong, chúng tôi mô tả khái quát về nghề khai
thác đá ong khá nổi tiếng tại mỏ đá ong thuộc làng Kiền dưới chân núi Nghè, thuộc xã
Thanh Thuỷ (Nam Thanh ngày nay) như sau:
- Vị trí: Mỏ đá ong làng Kiền nằm dưới chân núi Nghè, thuộc xã Thanh Tuyền
sau đổi thành xã Thanh Thuỷ, nay thuộc xã Nam Thanh. Phía Tây Bắc mỏ đá ong này
tiếp giáp với đập Rào Băng, phía Đông Nam tiếp giáp với Hồ Nón, chạy men theo
chân núi Nghè vào tận làng Thành, nơi Trần Tấn và Đặng Như Mai xây dựng đại bản
doanh làng Thành trong cuộc khởi nghĩa năm Giáp Tuất (1874). Mỏ đá này nằm cách
bến đò Sa Nam chừng 6 - 6,5 km và cách huyện lỵ Nam Đàn tầm 7 km.
- Quy mô, chất lượng đá ong: Theo khảo sát của chúng tôi, mỏ đá ong làng
Kiền có diện tích và chất lượng tốt nhất so với các mỏ đá ong đã từng được khai thác
trên địa bàn huyện Nam Đàn đến những năm 90 (khi nghề khai thác đá ong ở Nam
Đàn kết thúc bởi sự phổ biến của các lò gạch Tuy nel và gạch táp lô) của thế kỷ XX
trở về trước. Cụ thể: Nếu tính từ vỉa đá ở đập Rào Băng phía Đông Nam vào vỉa đá
ong ở làng Thành (xóm 9B xã Nam Thanh ngày nay), chiều dài gần 3 km, chiều rộng
có thể khai thác đá tính từ lưng chừng núi Nghè xuống dòng suối đưa nước từ đập Rào
Băng đổ ra Hồ Nón từ 200 - 300 m. Kết quả đo đạc tại các vỉa đá đã được khai thác
(hiện vẫn còn dấu tích) cho thấy, thợ khai thác đá ong có thể khai thác từ 2,5 - 3,5 m,
tương đương với 12 - 14 lớp đá đôi và 10 - 12 lớp đá ba. Trong khi đó, ở một số mỏ đá
ong ở Ngọc Trừng, Đông Liệt, Diên Lãm và một số nơi khác các thợ đá chỉ có thể khai
thác từ 7 - 10 lớp đá ong, tương ứng với chiều sâu của mỏ là 2 - 2,5 m.
Đá ong khai thác ở mỏ đá làng Kiền có màu đen sẫm, khác với màu vàng tươi
ở những mỏ khác và được dân địa phương gọi là đá sắt bởi có độ dẻo và cứng, khả
năng chịu lực cao.
- Thợ khai thác: Đá ong ở làng Kiền chủ yếu do những thợ khai thác đá ong
chuyên nghiệp ở các làng xã thuộc xã Thanh Thuỷ, xã Diên Lãm tiến hành.
- Dụng cụ khai thác đá ong: Để gạt bỏ lớp đất, đá phía trên mỏ đá (dân địa
phương gọi là đất mặt), các thợ khai thác đá ong dùng cuốc đào, vót, xẻng. Tuy nhiên,
100
phần lớn diện tích mỏ đá ong làng Kiền nằm lộ thiên, nên việc gạt bỏ đất mặt phía trên
không đáng kể. Công cụ chính dùng để khai thác đá ong là chiếc Chòng, do các thợ
rèn trong vùng rèn từ thép đặc biệt với kinh nghiệm dân gian đảm bảo lưỡi chòng sắc,
dẻo, nhưng lại không bị gãy, mẻ khi sử dụng. Lưỡi chòng dài từ 45 - 55 cm, phía
trước phần lưỡi hình chữ nhật, dài từ 30 - 35 cm, bề rộng lưỡi chòng từ 3,5 - 4,5 cm,
có độ dày giảm dần từ 2,2 - 2 cm cho đến phần tiếp xúc với đá chỉ có độ mỏng tương
ứng với lưỡi vót hoặc cuốc đào. Phần lưỡi chòng mỏng nhất này chỉ dài độ 2 - 2,5 cm
và được cắt theo hình đuôi én chứ không để bằng như lưỡi cuốc hay lưỡi vót, nhằm tạo
độ sắc bén, giảm bớt ma sát khi khai thác đá.
Phần sau được gọi là ống chòng có hình tròn, độ dài từ 10 - 15 cm, dùng để tra
cán vào toàn bộ lưỡi chòng. Cán chòng được làm từ gỗ lim, táu, sến, hình tròn, bào
nhẵn, có độ dài từ 1,15 - 1,25 m để đảm bảo độ cứng, ít bị gãy và dùng trong nhiều
năm. Toàn bộ chiều dài của chòng tính từ lưỡi đến cán dài từ 1,65 - 1,8 m tuỳ thuộc
vào chiều cao và sức khoẻ của người thợ khai thác đá ong.
Ngoài chòng, người thợ khai thác đá ong còn sử dụng bai gọt để chế tác đá.
Bai gọt được rèn từ sắt, có hai phần: lưỡi bai hình chữ nhật, phía sau có lỗ tra cán
giống như chòng, nhưng bề mặt bai rộng từ 5 - 7 cm và độ dài lưỡi bai chỉ ở 17 - 25
cm. Toàn bộ bai gọt đá ong chỉ dài từ 1,3 - 1,4 m. Bai gọt đá có chức năng gọt các bề
mặt chiều rộng, chiều dài, độ dày của từng viên đá để tạo độ phẳng cho toàn bộ viên
đá theo kích thước đã định sẵn (đá đôi, đá ba, đá tư, đá tảng, đá liếp...).
- Cách thức khai thác: Để khai thác đá ong, người thợ đứng theo phương thẳng
đứng, hai tay cầm chặt cán chòng nâng lên theo phương thẳng đứng, rồi thả lưỡi chòng
xuống theo từng mạch đá. Tuỳ vào kích cở dài, rộng, dày của viên đá đôi hay đá ba...
người thợ mở các mạch dọc, mạch ngang phù hợp. Thước để đo chiều dài, chiều rộng
của viên đá là một thanh tre luôn để sẵn bên chân phải của người thợ. Tuỳ theo tay
nghề của người thợ, mà thời gian khai thác một viên đá đôi, đá ba, đá tư... khác nhau.
Thông thường, một người thợ lành nghề, một ngày có thể khai thác được 50 - 60 viên
đá đôi, 30 - 40 viên đá ba, 20 - 25 viên đá tư. Sau khi khai thác đá ra khỏi vỉa đá,
người thợ phải chuyển những hòn đá ra khỏi vỉa (gọi là hầm) và dùng bai gọt, chỉnh
sửa viên đá cho đúng kích cỡ và bằng phẳng. Nguyên do là khi mới ra khỏi vỉa, đá còn
có độ dẻo, dễ gọt, nhưng nếu để dưới ánh nắng đá trở nên cứng, rất khó gọt đẽo.
101
Để tiện hình dung về các sản phẩm đá ong được khai thác tại mỏ đá làng Kiền
cùng một số mỏ đá khác trên địa bàn Nam Đàn, chúng tôi thống kê một số loại đá ong
theo kích cỡ và tên gọi thông dụng từ xưa tới nay trong bảng thống kê dưới đây:
Bảng 4.2. Một số loại đá ong được khai thác ở mỏ đá làng Kiền,
Thanh Thuỷ và một số mỏ đá khác ở Nam Đàn
TT Tên gọi Công dụng Chiều dài Chiều rộng Độ dày (cm) (cm) (cm)
1 Đá đôi 38 - 40 20 - 22 13 - 14 Xây nhà cửa, miếu, đền thờ...
2 Đá Ba 50 - 52 25 - 27 16 - 17 Xây nhà cửa, miếu, đền thờ...
3 Đá Tư 70 - 72 28 - 30 17 - 18 Xây nhà cửa, miếu, đền thờ...
80 - 120 30 - 35 25 - 30 Xây cầu cống, nhà cửa, làm 4 Đá Liếp móng...
5 Đá tảng 40 - 50 40 - 50 20 - 25 Kê cột nhà, đình chùa.
Loại đá này có độ dài, ngắn, dày 6 Đá vòng cung theo độ cong của công trình.
150 - 40 - 60 40 - 60 Dùng làm cột quyết ở đình, chùa, 7 Đá Quyết 200 miếu mạo.
[97, tr.28 - 35], [189]
- Phương thức vận chuyển đá ong: Do trọng lượng của mỗi viên đá đôi từ 15 -
17 kg, mỗi viên đá ba có trọng lượng lên tới 25 - 27 kg, do đó, để vận chuyển đá ong
từ mỏ (hầm đá) về công trình người ta có thể dùng gánh, mỗi lần được hai viên. Cách
vận chuyển thông dụng là dùng xe tay, xe cút kít hoặc xe trượt. Những người khoẻ,
thuần thục trong việc sử dụng xe tay có thể vận chuyển từ 8 - 10 viên đá đôi và từ 6 - 8
viên đá ba, 4 - 6 viên đá tư. Riêng đá liếp và đá quyết, người ta phải sử dụng xe trượt
dùng trâu bò kéo, còn nếu sử dụng xe tay phải có 2 - 3 người cùng tham gia.
Ngoài việc sử dụng xây dựng nhà cửa, giếng nước, đình, đền, chùa miếu mạo,
trong công cuộc xây dựng thành tỉnh Nghệ An 1830 - 1832, hàng chục vạn phiến đá
ong lớn nhỏ đã được các tốp thợ khai thác đá ong ở Nam Đàn luân phiên khai thác tại
mỏ đá làng Kiền và mỏ đá Cống Lao (đều thuộc xã Thanh Thuỷ). Toàn bộ số lượng đá
ong khổng lồ đó được tổng đốc An Tĩnh huy động hàng ngàn lượt dân đinh ở Nam
102
Đàn dùng quang gánh, xe tay, xe trượt... vận chuyển từ mỏ đá làng Kiền và mỏ đá
Cống Lao, đưa ra bến đò Sa Nam, cho lên các thuyền xuôi dòng sông Lam về sông
Cửa Tiền, sau đó vận chuyển đến tận chân thành Nghệ An. Trong quá trình xây dựng
thành Nghệ An, tổng đốc An Tĩnh và tri phủ, tri huyện ở Nghệ An còn huy động nhiều
tổ thợ đào đá ong về Vinh để tham gia gọt, đẽo các phiến đá ong cho phù hợp với kích
cỡ của công trình xây dựng mà bộ Công đã thiết kế. Năm 2014 - 2019, khi khôi phục
lại vòng hào quanh thành Nghệ An, người ta tìm thấy hàng ngàn viên đá ong lớn nhỏ
được dùng để xây bờ tường quanh thành Nghệ An vẫn còn khá nguyên vẹn, cho dù
những viên đá đó nằm sâu dưới lòng đất sau gần hai thế kỷ.
Nghề khai thác đá ong là một trong những nghề lao động cực nhọc, người thợ
khai thác đá ong thường mắc bệnh lao, rạn xương ngực và thường có tuổi thọ ngắn. Do
đó, chỉ những gia đình nghèo đói, ít có ruộng đất cày cấy mới học và theo nghề khai
thác đá ong. Thường thì đến 45 - 50 tuổi, người thợ khai thác đá ong không còn theo
nghề vì sức khoẻ giảm sút. Nghề khai thác đá ong ở Thanh Thuỷ, Diên Lãm, Ngọc
Trừng, Đông Liệt, Xuân Hồ, Nam Kim, Khánh Sơn... tiếp tục tồn tại cho đến những
năm 80 - 90 của thế kỷ XX thì chấm dứt, vì nhu cầu sử dụng đá ong để xây dựng nhà
cửa dân sinh và các công trình khác giảm hẳn, thay vào đó là dùng các nguyên liệu
khác như gạch, táp lô hoặc đá.
4.1.2.2. Nghề sản xuất gạch, ngói
Nghề sản xuất gạch ngói thủ công có ở xã Hương Lãm (thôn Đông, thôn Tạo
Lệ, nay thuộc xã Vân Diên) thôn Trung Lâm, thôn An Lạc của xã Thịnh Lạc (nay
thuộc xã Nam Lĩnh và xã Hùng Tiến), thuộc tổng Non Liễu; thôn Lâm Thịnh, thôn
Chung Mỹ (nay thuộc xã Xuân Lâm), tổng Lâm Thịnh; thôn Đông Liệt thuộc tổng Hoa
Lâm (nay thuộc xã Nam Thái) [178]. Nghề sản xuất gạch, ngói là một trong những
nghề vất vả, cơ cực bậc nhất trong những nghề mưu sinh mà con người phải thực hiện
trong suốt nhiều thế kỷ.
- Nguyên vật liệu, cách thức đóng gạch, ngói: Người ta phải lựa chọn những
vùng đất sét dẻo, tương đối rộng rãi, cao ráo để tránh ngập lụt, mới dựng được lò gạch.
Sau đó người ta dùng cuốc, xẻng, bai, xới đất và dùng sức người, hoặc trâu bò làm đất
thật nhuyễn, nhất là đất làm ngói vảy. Khi các cối đất đã nhuyễn, người thợ dùng một
103
chiếc kéo cắt đất và một chiếc khuôn đóng ngói, hoặc gạch để đóng. Thợ gạch khỏe
đóng khuôn đôi (mỗi lần cắt, đập là 2 viên gạch), người yếu hoặc trẻ em dùng khuôn
một (khuôn gạch ngói thường làm bằng gỗ dổi, ít thấm nước, có độ bền cao). Người
thợ đóng gạch có thể làm gạch tại chỗ trên một chiếc bàn gỗ và có một người chạy
khuôn phơi gạch theo từng hàng thẳng. Cách thứ hai là ngồi và đóng giật lùi, vừa
đóng, vừa phơi. Riêng ngói thì chỉ đóng khuôn một, mỗi lần một viên. Gạch, ngói thô
được phơi khô, xếp thành từng cọc, mỗi cọc 200 - 300 viên. Trên các cọc này phải có
phên đan bằng nứa để che tránh mưa hoặc nắng to làm hỏng gạch.
- Quy trình nung gạch: Khi gạch đã được đóng đủ theo số lượng mà chủ lò đã
tính toán trước đó cho công suất của một lò đốt thì người ta bắt đầu xây lò. Tùy theo số
lượng gạch ngói thô đã phơi khô để người ta xây lò gạch sáu cầu hay tám cầu lửa.
Người thợ lò hướng dẫn những lao động xếp gạch, ngói theo đúng kích thước, sau đó,
dùng đất sét trát bên ngoài gọi là làm áo lò. Khi vào gạch ngói xong xuôi, thường thì
ông chủ lò gạch sẽ làm một mâm xôi gà, hoa quả để cúng trời đất, thần linh, cầu mong
cho việc nấu gạch được thuận buồm xuôi gió. Cúng xong, người thợ đốt lò châm củi,
nấu gạch, ngói theo kinh nghiệm của cha ông. Trong quá trình đốt lò, nung gạch, ngói
người ta phải chuẩn bị sẵn nhiều phên nứa, đề phòng trời mưa gió để che trên nóc lò,
tránh bị nước mưa dập tắt lửa.
Sau khi gạch, ngói được nung chín phải để vài ngày cho lò nguội rồi mới lấy ra
khỏi lò. Gạch, ngói sau khi nung thành phẩm đạt 70% - 75% loại A và khoảng 10% -
15% loại B thì xem như thành công.
Sự hiện hữu của nghề đóng, nung gạch ngói trên địa bàn một số làng xã từ
nhiều thế kỷ trước ở huyện Nam Đàn đã tạo thêm một ngành nghề thủ công truyền
thống dưới thời Nguyễn, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều thành phần
lao động ở địa phương. Mặt khác, đây cũng chính là việc khai thác tài nguyên đất đai,
phục vụ cuộc sống. Sản phẩm gạch, ngói làm ra chủ yếu cung cấp cho nhu cầu xây
dựng nhà cửa hay đình đền chùa, miếu mạo ở địa phương. Nghề đóng, nung gạch ngói
là một trong những nghề lao động cực nhọc, hiệu quả kinh tế không cao vì tùy thuộc
vào chế độ mưa/nắng, gió bão của trời đất, do đó, ít người giàu có đầu tư. Đây là
nguyên nhân sâu xa khiến nghề sản xuất gạch, ngói và nghề gốm sứ ở Nghệ An suốt
thế kỷ XIX không phát triển với quy mô lớn mà chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình,
104
nhỏ lẻ, phân tán nhằm đáp ứng nhu cầu về xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc
khác trong vùng.
4.1.2.3. Nghề làm mộc
Ở Nam Đàn, nghề mộc đã hình thành và phát triển từ khá lâu gắn với nhu cầu
dựng nhà cửa, sản xuất nông cụ, công cụ sinh hoạt trong gia đình. Ngoài ra, còn có
một số đình làng được xây dựng từ thế kỷ XVIII - XIX như: đình An Lạc (Nam Lĩnh),
đình Hữu Biệt (Nam Giang), đình Trung Hoà (thị trấn Nam Đàn), đình Hoành Sơn,
đình Trung Cần,... Bên cạnh đó, ở làng Hoành Sơn còn có nghề đóng thuyền rất nổi
tiếng. Sản phẩm thuyền do các thợ mộc tại đây đóng vừa phục vụ cho cư dân các vạn
như: Vạn Duyên La, vạn Tuần Lã, Vạn Võng Nhi, Vạn Thanh Trai... vừa được cư dân
các vạn khác ở Hưng Nguyên, Thanh Chương, Lương Sơn đặt mua [186].
- Công cụ để làm nghề mộc gồm: Cưa, đục (đục vòm, đục một, đục hai, đục ba),
chắn, rìu, khoan, dũa, bào( bào một, bào đôi, bào thẳng, bào thẳm), dùi cui, thước chữ
A,… với đủ kích thước lớn bé khác nhau. Một số công cụ, dụng cụ làm mộc được các
lò rèn ở địa phương làm ra, nhưng phần lớn lưỡi cưa, đục, chắn, lưỡi bào,... đều được
rèn từ làng rèn Nho Lâm (Diễn Châu), Trung Lương( Đức Thọ) và được thương nhân
bán tại chợ Dương Liễu, chợ Sa Nam, chợ Chùa, chợ Hữu Biệt, chợ Cầu...
- Về tổ chức và hoạt động của nghề: Cũng giống như một số địa phương khác,
thợ mộc ở Nam Đàn cũng được tổ chức thành phường có tên gọi là “Làng Hiệu”. Mỗi
“Làng Hiệu” có khoảng 30 người, người đứng đầu của làng nghề được gọi là “Thủ
bộ”, có một “bút chỉ” chuyên ghi chép các việc của phường, tiếp đến là thợ phó cả,
gồm những người có kinh nghiệm và tay nghề cao trong “Làng Hiệu”.
Dựa vào quy định, sự sắp xếp có tổ chức trong làng nghề mà việc phân chia
công việc theo từng loại thợ sau đây:
Thợ cả: là thợ chính trong nghề, đây là người biết thiết kế các công trình theo yêu
cầu như nhà cửa, các ngôi đình, chùa… Đối với công việc của thợ chính thì dụng cụ sào
mực, tiếng nghề gọi là “sào cắt mực”, mọi kích thước, quy trình thiết kế, cấu trúc của
một công trình đều nằm trong cái sào mực. Thợ cả là người có tay nghề giỏi, có đạo
đức, biết quản lý, điều khiển thợ, họ là người có kinh nghiệm và uy tín trong đội thợ.
Thợ công loại một: là những người phải cắt, đọc được sào mực một cách chính
xác. Các công việc như đục, chạm, gọt, đẽo… trên nguyên liệu được họ làm tỉ mỉ, có
giá trị, đặc biệt là đối với các chi tiết khó như: làm mộng, đóng mộng, làm các vì nhà...
105
Thợ công loại hai: đọc được sào mực, cưa, đẽo được các bộ phận chính của một cái
nhà, chạy chỉ trên các xà nhà, soi mũi, đục lá… và đóng được những mộng thông thường.
Thợ công loại ba: gồm những thợ biết cầm rìu đục làm được những chi tiết mộc
thông thường, biết bào tròn, vuông; cưa vật liệu không chệch mạch sai tâm gỗ; đục đẽo
được những lỗ thông thường.
Theo quy định của nghề, đối với chủ công trình trong quá trình từ khi bắt đầu
cho đến khi hoàn thành trải quá các 6 lễ theo từng công đoạn:
Lễ phạt mộc: tức lễ để chọn ngày tốt, phạt mộc là cưa đầu gỗ, đẽo vài cây cột
chính (cột cái) của công trình. Thủ tục này được tiến hành sau khi việc thỏa thuận giá
cả về công trình cần làm giữa chủ nhà với thợ cả và thợ đầu cánh (thợ đàn anh giỏi có
nhiều kinh nghiệm)
Lễ khởi công: sau khi công trình phạt mộc xong (chủ yếu là để lấy ngày tốt), thợ cả
đưa thợ đến làm, có nhiều nhà lễ phát mộc và lễ khởi công được nhập lại làm một lễ.
Lễ cất đứng: nền nhà sau khi đã được đắp vững, đã đóng mốc chọn hướng, khi
đã làm xong nhà, chọn ngày tốt dựng hai cây cột cái để lấy ngày giờ.
Lễ yên tảng: khi toàn bộ khung nhà đã làm xong, cột nào ở hòn đá tảng nào đã
được định vị rõ ràng, sau lễ chỉ dựng nhà lên là được.
Lễ dựng nhà: chọn giờ tốt để làm các thủ tục cáo với tổ tiên (đối với nhà), cáo
với thần phật (đối với các công trình tâm linh), với thổ công biết rồi dựng nhà theo giờ
tốt đã định.
Lễ lau sào: sau khi toàn bộ ngôi nhà dựng xong, các chi tiết như khung nhẫn,
nẹp thuận, các mảng trang trí… đã đầy đủ, đảm bảo chắc chắn, chủ nhà làm liên hoan
hoàn công thợ, sau đó gác sào mực lên hai quá giang thượng, giáp giá chiêng.
Làng Hiệu ở Nam Đàn thường mỗi năm họp vài lần, trong đó dịp đầu năm để
cúng các vị tổ sư và cầu cho làm ăn phát đạt được những người làm nghề rất coi trọng.
Làng Hiệu thường cúng các vị: Lỗ Ban, hay còn gọi là Lỗ Công Du, người nước Lỗ ở
Trung Quốc đã sang tạo ra nghề mộc mà chủ yếu là cái sào mực và cái thước vuông
góc; Lê Lâu là người đã sáng tạo ra kiểu nhà tứ trụ. Ngoài các vị tổ nghề nói trên, thợ
mộc ở Nam Hoa huyện Nam Đàn đặc biệt có thêm lễ cúng dành cho ông Chuẩn, người
đã truyền nghề cho họ và tạo ra danh tiếng của làng nghề không chỉ ở Nam Đàn mà
còn khắp trên cả nước.
106
Lễ cúng tổ nghề thường diễn ra vào trung tuần tháng Giêng, sau khi làng đã làm
lễ tết Nguyên Tiêu. Cỗ cúng ngoài trầu cau, rượu nước còn có xôi thịt, sau khi lễ xong
thợ thuyền nghề mộc ngồi ăn uống chung vui, sau đó làng hiệu còn thưởng công bằng
chân dò, thủ lợn… cho những người có công đi tìm việc, tìm công trình cho làng, hoặc
cho những người đã và đang làm thủ bộ cùng các vị cao niên trong làng nghề đã nghỉ.
Một số thợ mộc nổi tiếng tại các phường mộc ở Trung Cần, Khánh Sơn, Dương
Liễu, Xuân Hồ, Diên Lãm... được nhà Nguyễn huy động tham gia xây dựng các công
trình kiến trúc dinh thự, lăng tẩm tại kinh đô Huế. Một số tốp thợ khác tham gia xây
dựng nhà cửa, dinh thự trong thành Nghệ An.
4.1.2.4. Nghề dệt vải, trồng dâu nuôi tằm
Ngoài các xã Nộn Hồ, Nộn Liễu, Lâm Thịnh, Đông Liệt mà Bùi Dương Lịch đã
thống kê có nghề dệt vải nổi tiếng, trong phạm vi không gian địa giới hành chính được
giới hạn để nghiên cứu của Luận án còn có các làng: Tầm Tang, Khoa Trường, Phú
Thọ (Nam Tân), làng Ngang (Khánh Sơn), Đông Châu (Nam Cường)... có nghề trồng
dâu nuôi tằm dệt vải. Đối chiếu với địa bàn các xã hiện nay có thể hình dung một số
làng xã nằm sát đôi bờ tả - hữu sông Lam, có vùng đất phù sa màu mỡ chạy dọc theo
hai bờ sông như Thượng Tân Lộc, Khánh Sơn, Phúc Trung Cường (hữu ngạn sông
Lam); Xuân Lâm, Hồng Long, Xuân Hòa (nổi tiếng nhất là làng Đan Nhiệm - quê của
chí sĩ Phan Bội Châu ở xã Diên Lãm (tả ngạn sông Lam). Còn như vùng Nộn Hồ, Nộn
Liễu mà Bùi Dương Lịch nhắc tới, có nhiều thôn, giáp, phường nằm quanh khu vực
Hồ Nón cũng trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.
Minh Mạng năm thứ 13 (1832) xuống dụ “Trẫm nghe vua đời cổ đều trọng việc
làm ruộng, trồng dâu... Nay muốn mở rộng việc này, để tỏ ra khuyên bảo làm ruộng,
trồng dâu, các địa phương nên làm việc cày ruộng tịch điền” [130, tr.276]. Thi hành
chỉ dụ vua ban, với điều kiện đất đai thuận lợi mà nhân dân trong các xã Nộn Hồ, Nộn
Liễu, Lâm Thịnh, Đông Liệt, Tầm Tang, Khoa Trường, Phú Thọ (Nam Tân), làng
Ngang (Khánh Sơn)... trong địa bàn huyện tiếp tục duy trì nghề trồng dâu, ươm tằm,
dệt vải. Nhiều hộ gia đình có khung cửi, những làng dệt vải nổi tiếng thì nhiều hộ
trong làng tham gia nghề thủ công này. Tuy nhiên, nghề, làng nghề mới chỉ tồn tại
phát triển theo hộ gia đình, sản phẩm gồm “những lụa vải ấy chỉ đủ cung cấp ăn mặc
cho dân địa phương”.
107
Nghề trồng dâu, ươm tằm, xe tơ lụa, dệt vải tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu sử
dụng ngay trong chính từng hộ gia đình, trong làng, trong vùng. Dù chỉ mang tính chất
của một nghề phụ, nhưng có thể thấy xe tơ dệt vải đã trở thành nét duyên, một đặc
trưng truyền thống của người phụ nữ Nam Đàn nói riêng, của cư dân vùng hạ lưu sông
Lam nói chung trong thế kỷ XIX.
4.1.2.5. Nghề mây, tre đan
Tre và mây là một trong những nguyên liệu quan trọng, thường dùng để xây
dựng nhà cửa, chế tạo những vật dụng thiết yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong
sinh hoạt hàng ngày và tồn tại phổ biến trong đời sống của cư dân. Đối với huyện Nam
Đàn, do đặc điểm đất đai, địa hình gần núi đồi mà tre, mây khá nhiều, ngoài việc đáp
ứng nhu cầu của người dân tại địa phương, những sản phẩm từ tre, mây như thúng,
mủng, rổ, rá… còn là hàng hóa để mua bán, trao đổi giao thương cả trong và ngoài
huyện. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An, có nhiều làng nổi tiếng về sự sản xuất thúng mủng,
nhưng có thể nói là trong mọi làng đều có những thợ làm đồ mây, tre đan [2, tr.160].
Trong các làng xã ở huyện Nam Đàn như Xuân Hồ, Xuân Liễu, Thanh Tuyền, Tầm
Tang, Phú Thọ, làng Ngang, Đồng Châu, Dương Liễu, Trung Cần có khá nhiều gia
đình làm nghề đan lát từ nguyên liệu mây, tre. Cụ thể, cư dân làng Ngang, Đồng Châu
có nghề đan tấm cót lợp nốc, thuyền; Cư dân làng Vân Đồn, Chung Tháp có nghề đan
bồ, làm cót, mươn tre, nơm tre, đẽo đòn gánh, đòn càn, đòn xóc...; Cư dân Diên Lãm,
Đồng Liệt, Xuân Hồ có nghề đan thúng, mủng, dần sàng, nong, nia rất nổi tiếng.
Nghề mây, tre đan ở các làng xã Nam Đàn thường do các hộ gia đình tự làm
riêng rẽ mà chưa hình thành các phường, hội hay làng nghề. Sản phẩm làm ra chủ yếu
nhằm đáp ứng nhu cầu tự cung, tự cấp của các hộ gia đình, một số sản phẩm dư thừa
được đem bán tại các chợ làng xã. Sự tồn tại của nghề mây, tre đan dù đã qua nhiều
thế kỷ nhưng do tính tự cấp, tự túc mà sản phẩm làm ra ít thay đổi về mẫu mã, thường
được truyền từ đời này sang đời khác, số lượng sản phẩm không nhiều và giá trị hàng
hóa không cao. Người ta thường nói, nghề mây, tre đan chỉ là “lấy công làm lợi” chứ
thu nhập chẳng đáng là bao. Thường những gia đình đông con, ít ruộng mới chọn nghề
mây, tre đan để có thêm chút ít thu nhập vun vén cuộc sống gia đình.
Ngoài các nghề thủ công kể trên còn có một số nghề khác như nghề đánh tranh
lá mía, cỏ săng, nghề bện chổi đót, chổi trện, nghề kẹo che làm mật, đường phèn, nghề
rèn, nghề nấu tương, làm bún bánh... Tuy nhiên, các ngành, nghề thủ công truyền
108
thống ở Nam Đàn nói riêng, Nghệ An nói chung có quy mô nhỏ, mang tính chất hộ gia
đình, chưa tách khỏi nông nghiệp và vẫn chỉ là nghề phụ khi nông nhàn. Thực tế trên
phản ánh tính chất của nghề thủ công và người thợ làm nghề ở huyện Nam Đàn đó là:
người dân quê làm ruộng rồi mới trở thành thợ thủ công, các thợ nghề giữa hai vụ mùa
công việc đồng áng được thư thả, thường họp nhau thành những đoàn đi rong tìm việc,
nhưng đến vụ nông họ lại trở về nhà để tiếp tục công việc cày cấy [2, tr.159].
4.2. Hoạt động thương nghiệp
Hoạt động buôn bán trao đổi ở Nam Đàn xuất hiện từ rất sớm. Trong bối cảnh
nền kinh tế công thương nghiệp nước Đại Việt từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII có
những biến chuyển tích cực bởi quá trình giao lưu tiếp xúc với các nước phương Tây,
đã tác động đến nhu cầu trao đổi mua bán đến tận làng xã, nơi có hệ thống giao thông
thuận lợi cùng sự phát triển của các ngành nghề thủ công truyền thống. Nằm ở hạ lưu
sông Lam, từ nhiều thế kỷ trước trên địa bàn huyện Nam Đàn đã hình thành cả một hệ
thống chợ làng xã theo quy luật: trên bến, dưới thuyền đáp ứng nhu cầu trao đổi, buôn
bán các loại hàng hoá, giao thương, giao lưu văn hoá của các tầng lớp nhân dân.
Đầu thế kỷ XIX, theo thống kê của Quốc sử quán triều Nguyễn được ghi trong
sách Đại Nam nhất thống chí, trên địa bàn huyện Nam Đường có 6 chợ lớn sau: Chợ
Hữu Biệt (Chợ Sóc), chợ Yên Lạc, chợ Hương Lãm, chợ Vân Đồn, chợ Xuân Lám,
chợ Đại Đồng. Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu là huyện Nam Đàn theo địa giới hiện
nay, chúng tôi thống kê thêm các chợ khác thuộc các huyện Thanh Chương và huyện
Lương Sơn vào thế kỷ XIX nay là đất huyện Nam Đàn, đồng thời không đưa vào các
chợ thuộc địa phận huyện Nam Đường xưa, nhưng nay đã cắt về các huyện khác, cụ
thể như sau:
Bảng 4.3. Các chợ có quy mô lớn ở Nam Đàn ở thế kỷ XIX
TT Tên huyện Tên các chợ Tổng Ghi chú
1 Nam Đường 5 Hữu Biệt (chợ Sóc), Yên Lạc, Hương Lãm, Vân Đồn, Xuân Lám
2 Lương Sơn Lãng Điền 1
[154, tr.212]
3 Thanh Chương Hoành Sơn, Lương Trường 2 Các chợ lớn vào thế kỷ XIX hiện nay thuộc huyện Nam Đàn
109
Trong phạm vi không gian địa giới hành chính huyện Nam Đàn mà chúng tôi
giới hạn để nghiên cứu, ngoài 5 chợ lớn trên với chợ Sa Nam đóng vai trò là chợ
huyện, còn có khoảng 22 chợ khác ở trong làng xã, tổng trên khắp địa bàn huyện như:
Nam Nghĩa có chợ Bồn; Thanh Thủy có chợ Thanh sớm và chợ Thanh chiều; Vân
Diên có chợ Giếng; Xuân Hòa có chợ Tro, chợ Đồn; Nam Anh có chợ Chùa; Nam
Xuân có chợ Trăn; Nam Lĩnh có chợ Dỏ; Hùng Tiến có chợ Da, chợ Cần Bụt, chợ
Ghềnh; Hồng Long có chợ Huyện, chợ Hồng; Nam Kim có chợ Đình; Nam Cường có
chợ Đò; Khánh Sơn có chợ Ngang; Nam Tân có chợ Hôm, chợ Đình; Nam Lộc có chợ
Da; Nam Thượng có chợ Kia [78, tr.71].
Chợ quê (chợ trong làng xã) ở Nam Đàn có nhiều nét tương đồng với các chợ ở
những huyện khác thuộc lưu vực sông Lam. Mạng lưới chợ làng xã ở Nam Đàn phân
bố tương đối đều theo địa bàn cư trú của cư dân trong các tổng. Thường thì mỗi tổng
có từ 3 - 4 chợ lớn nhỏ, họp vào những thời điểm khác nhau trong ngày, trong tháng:
buổi mờ sáng, buổi chiều hôm, hay vào những ngày chợ phiên không trùng nhau. Quy
mô của chợ thường nhỏ, chỉ là một bãi đất trống, cao ráo, ít bị ngập lụt, thuận tiện cho
việc trao đổi hàng hóa, mua bán của cư dân 2 đến 3 làng gần kề với nhau trên cùng
một địa vực cư trú. Trong không gian của các chợ quê, thường có vài mái lều được
dựng bằng tranh, tre, nứa lá của những người bán hàng xén, hàng gạo, hàng bún, bánh,
hàng thịt, hàng vải, hàng thuốc bắc, thuốc nam, họ là những người buôn bán thường
xuyên ở chợ. Hai bên nơi ra vào chợ thường là nơi buôn thúng, bán mẹt của một số cư
dân trong làng, xã với các loại nông phẩm, thủy sản, gia cầm nuôi trồng, đánh bắt
được, sẵn phiên họp chợ mang đến trao đổi, mua bán lấy tiền đong gạo, mua nhu yếu
phẩm cho gia đình. Cuối góc chợ thường có 1 đến hai lò rèn chuyên làm mới hoặc sửa
chữa các dụng cụ như liềm, dao, rạ, cuốc, xẻng cho bà con nông dân trong vùng, cùng
một vài quán rượu hoặc hàng ăn vặt…
Bức tranh chợ quê trong làng xã ở Nam Đàn nói riêng và hạ lưu sông Lam nói
chung đã phản ánh nhiều nét tương đồng giữa các chợ với nhau, điểm khác chỉ là tùy
theo quy mô lớn hay nhỏ của các chợ, do đó chúng tôi trình bày khái lược về một số
chợ trên địa bàn huyện như sau:
- Chợ Sa Nam
Vệ Sa Nam, lỵ sở Sa Nam, chợ Sa Nam, bến đò Sa Nam... đều cùng một địa
danh lịch sử - văn hóa nằm ở trung tâm huyện Nam Đường xưa (huyện Nam Đàn ngày
110
nay). Các cụ xưa giải thích chữ Sa Nam có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa được nhiều
người chấp nhận hơn cả là chỉ một vùng đất màu mỡ nằm ở bên bờ Tả ngạn sông Lam
mang lại cho con người sự sinh sôi, nảy nở và cuộc sống no đủ [36]. Vùng đất Sa Nam
còn gắn với một tên gọi khác là Cồn Vệ - chỉ một vùng đất cao ráo, nằm cách đại bản
doanh Vạn An - trong cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713 - 723) chưa đầy 1 km về
hướng Nam, nay thuộc Thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn. Sa Nam cũng từng được
chọn làm tên huyện, hay nơi huyện đường (Thạch Đường, Nam Đường, Nam Đàn)
đóng từ suốt nhiều thế kỷ qua. Bởi vậy, chợ Sa Nam từ nhiều thế kỷ trước đã là chợ
huyện của cả một vùng đất rộng lớn nằm ở hạ lưu sông Lam.
Ngay tại Thị trấn Sa Nam có bến đò Sa Nam. Bến đò này vừa là bến đò dọc vừa
là bến đò ngang. Khách từ Tả ngạn sông Lam qua bến đò ngang Sa Nam là đến các làng
Khoa Trường, Tầm Tang, Phú Thọ, Đại Đồng, Chi Cơ (xã Nam Tân và một phần xã
Nam Thượng ngày nay). Từ đó, đi đến xứ Vạn Lộc (xã Nam Lộc), Hoành Sơn (xã
Khánh Sơn), Trung Cần (xã Nam Trung) thuộc tổng Nam Kim, hay Nam Hoa, huyện
Kệ Giang, Thanh Giang, Thanh Chương xưa. Từ bến đò Sa Nam, ngược dòng sông Lam
có thể đi đến các tổng Cát Ngạn, Võ Liệt của Thanh Chương, lên tận vùng Vều, Rạng...
ở Đô Lương, tiếp giáp với huyện Anh Sơn. Còn nếu từ bến đò Sa Nam, xuôi theo dòng
sông Lam có thể đến hầu hết các chợ ở dọc tả ngạn sông Lam thuộc địa bàn huyện Hưng
Nguyên và thành phố Vinh ngày nay, thậm chí ra tận cảng Cửa Hội - Cửa Lò. Còn đến
ngã ba sông (nơi hợp lưu giữa sông La và sông Lam) có thể theo dòng sông La đi đến
các huyện Đức Thọ, Hương Sơn thuộc phủ Đức Quang, trấn/tỉnh Hà Tĩnh xưa.
Với vị thế đặc biệt quan trọng và thuận lợi đó, chợ Sa Nam được hình thành và
phát triển từ nhiều thế kỷ trước theo quy luật “trên bến dưới thuyền” của chợ làng xã,
nói cách khác là chợ ở các vùng miền, địa phương thuộc lưu vực sông Lam. Đây vừa
là chợ huyện, nhưng trong chừng mực nhất định chợ Sa Nam đóng vai trò như chợ Phủ
của phủ Đức Quang hay phủ Anh Đô vì đối chiếu với các chợ lớn trong hai phủ này,
thì vai trò và vị trí của chợ Sa Nam có nhiều nét nổi trội mà phần trình bày khái lược ở
trên đã góp phần minh chứng cho điều đó.
Cần phải khẳng định thêm là vị trí của chợ Sa Nam ở thế kỷ XIX cho đến nửa
đầu thế kỷ XX, có khác chút ít so với chợ Sa Nam hiện tại. Cụ thể: Bến đò Sa Nam
(nay là bến cát sạn, gỗ, nứa, mét... trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) vừa là
111
bến đò, vừa là bến phà nằm trên huyết mạch giao thông chiến lược đường Hồ Chí
Minh) cũng là một phần của chợ Sa Nam. Trong thế kỷ XIX, bến đò Sa Nam là nơi
các thợ sơn tràng vùng miền Tây Nghệ An sau khi khai thác các loại gỗ, tre, nứa mét,
mây song… đã kết lại thành bè, mảng cho xuôi theo dòng sông Lam đem về tập kết ở
khu vực sông rộng ngay bến đò để buôn bán. Từ dọc bến đò Sa Nam lên khu vực
chính của chợ còn là nơi bán các loại tranh lợp nhà được đan từ lá mía, cỏ săng, hay lá
cọ và một số nông phẩm phổ biến trong vùng. Ngoài ra, một số mặt hàng gồm các loại
sản vật được mang từ các địa phương gần kề phía Tây huyện như Thanh Chương, Đô
Lương, Anh Sơn và cả hàng hóa theo đò ngang đưa từ vùng Kẻ Kia, Tàm Tang, Phú
Thọ, Khoa Trường thuộc tổng Nam Kim ở bên hữu ngạn sông Lam.
Từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, chợ Sa Nam nằm sát với bến đò Sa Nam,
dọc đường xuống bến đò cũng chính là nơi bán các loại vật liệu xây dựng của một số
làng nghề nung gạch ngói nổi tiếng ở Nam Đàn, Hưng Nguyên, Diễn Châu và cả gạch
Cẩm Trang, ngói vảy các loại đưa sang từ vùng Đức Thọ (Hà Tĩnh). Khu vực này kéo
dài thành một vệt khoảng 70 - 80 m tính từ bến đò Sa Nam lên cổng phía Nam của
chợ. Trong khu vực chính của chợ Sa Nam, các dãy lều quán được dựng, lợp từ tranh,
tre, nứa lá được phân chia khá quy củ, nối tiếp nhau theo từng hàng ngang, dọc gồm
hàng bún, bánh các loại như bánh đúc, bánh mướt, bánh gói, bánh kê, bánh hú, bánh
dì, bánh nếp, bún lá và một vài quán bún thịt bò, gà, cùng những người bán rượu, mật,
đường phèn. Kế đến là khu vực bán thịt lợn, thịt bò, thịt trâu và khu vực bán cá biển,
ruốc, nước mắm, muối (các mặt hàng này do người kẻ bể - tức là thương nhân vùng
Cửa Hội, Cửa Lò đưa lên bán). Đối diện với khu hàng ăn, hàng thịt là khu vực hàng
nhuộm vải, hàng mây, tre đan như: thúng, mủng, dần sàng, mủng lường, rá lô (dụng cụ
để đong khi mua bán: 1 rá, lô = 1 kg; 1 mủng lường = 3,3 kg), bồ cót, mươn tre, kiềng,
rế, nơm, oi (giỏ), lừ bắt cá... đến hàng chổi đót, chổi trện... Bên cạnh khu hàng nhuộm,
hàng mây, tre đan là khu vực bán các loại đồ gốm, sứ như nồi đất, hông đất, siêu đất
lớn nhỏ được sản xuất từ vùng Trù Sơn, Đại Sơn (huyện Đô Lương) được các tiểu
thương đem đến, hay một số loại chum, vại, hũ sành có nguồn gốc từ nhiều làng nghề
gốm sứ của một số địa phương trong tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh cũng có mặt để buôn bán,
giao thương. Ngay liền kề hàng gốm, sứ là khu vực hàng sắt với đủ loại dao, kéo, cưa,
đục lớn, nhỏ, có cả nơi bán cày chìa vôi, bừa, cuốc, xẻng, vót, bàn vét...
112
Chếch về phía Đông chợ Sa Nam là khu vực hàng vải, quần áo, hàng tạp hóa đủ
loại, còn phía Tây Bắc của chợ là khu vực hàng thuốc Bắc, vải vóc của người Hoa kiều
(con cháu của những thương nhân Hoa kiều đã về nước vào năm 1978), rồi đến hàng
gạo, lúa, nếp các loại... Do điều kiện vừa cận thủy vừa cận sơn, nên hàng hóa trao đổi,
buôn bán ở chợ Sa Nam hết sức đa dạng và phong phú, đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua
bán của người nông dân làng xã ở lưu vực sông Lam.
Trong suốt thế kỷ XIX đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chợ Sa
Nam họp tất cả các ngày trong tháng, nhưng khách buôn bán trao đổi tập trung nhiều
nhất vào 9 phiên chợ chính trong tháng là các ngày: 01, 04, 08, 11, 14, 18, 21, 24, 28.
Chợ Sa Nam (Nam Đàn) cùng chợ Tràng (Hưng Nguyên) và chợ Đô Lương là 3 chợ
huyện có quy mô lớn nhất ở Nghệ An, Hà Tĩnh lúc bấy giờ.
Trước khi vương triều Nguyễn thành lập, chợ Sa Nam ngay bến đò Sa Nam đã
hình thành và phát triển, đóng vai trò là trung tâm trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa
của cư dân cả một vùng rộng lớn ở hạ lưu sông Lam. Trong thời kỳ 1802 - 1884 các
vua nhà Nguyễn từ Gia Long đến vua Tự Đức, trước sau duy trì chính sách trọng nông,
khuyến khích nông nghiệp, đã dẫn đến các biện pháp “ức thương”. Chính vua Thiệu
Trị còn phân tích: “Những việc thuần ty hay bến đò, sở dĩ đặt ra là nguyên vì tiểu dân
hay bỏ việc gốc theo việc ngọn, cho nên định ra phép thuế quan để bảo cho dân phải
hạn chế việc buôn mà trọng việc làm ruộng” [2, tr.54]. Song trái lại chợ Sa Nam vẫn
luôn tấp nập kẻ bán người mua và đóng vai trò là một trong những trung tâm trao đổi
buôn bán, giao lưu văn hóa nổi tiếng ở hạ lưu sông Lam, góp phần ổn định đời sống
văn hóa vật chất và tinh thần cho các thế hệ cư dân làng xã tại đây. Từ lâu, chợ Sa
Nam đã trở thành một địa danh lịch sử - văn hóa nổi tiếng ở xứ Nghệ được nhắc đến
nhiều trong Ca dao, tục ngữ địa phương:
“Sa Nam trên chợ dưới thuyền
Bánh đúc hai dãy, thịt bò mê thiên” [206].
- Chợ Chùa
Chợ Chùa nằm ở một vùng đất cao ráo gần núi Tán Sơn, sát với hồ Nón giữa
trung tâm các làng, xã: Xã Gia Lạc (tức làng Kẻ Trác trước đó) đến đời Gia Long đổi
thành làng Đa Lạc và thôn Yên Lạc (tức làng Kẻ Vạc trước đó), đến đời vua Gia Long
cả làng Đa Lạc và thôn Yên Lạc đều nằm trong xã Thịnh Lạc, nay thuộc xã Nam Lĩnh
[215; tr.103 - 104].
113
Phía Nam và Tây Nam chợ Chùa là xã Xuân Hồ, thôn Đan Nhiễm (đến đời vua
Tự Đức (1848 - 1883) vì kỵ húy (Nguyễn Hồng Nhậm) nên đổi là làng Đan Nhiễm,
nay là xã Xuân Hòa. Phía Bắc và Đông Bắc của chợ là 10 thôn, phường, giáp, làng
nằm trong địa giới hành chính xã Xuân Liễu gồm: Đức Nghĩa, Đồng Đức, Đồng
Thượng, Mai Động, Tăng Phúc, Liễu Cô, Ngọc Sơn, Nam Vinh, Đồng Dương và Nghi
Hưng (nay thuộc địa bàn hai xã Nam Anh và Nam Xuân) [215, tr.103 - 104]. Như vậy,
chợ Chùa đóng vai trò là chợ tổng Non Liễu với chức năng đáp ứng nhu cầu trao đổi
hàng hóa, giao lưu văn hóa của cư dân 20 làng, xã, thôn giáp trong tổng Non Liễu
gồm: Non Liễu, Yên Lạc, Thanh Tuyền, Non Hồ, Vân Đồn, Chung Tháp, thôn
Thượng Hồng, Nghĩa Động, Tự Trì, Hồng Nhiễm, Hương Lãm (thôn Đông, thôn Tạo
Lệ, thôn Nam, thôn Khả Lãm), Thịnh Lạc (thôn Trung Lâm, thôn Nhân Hậu, giáp
Đồng Nhân, thôn An Lạc, thôn Xuân Lâm, giáp Hạ) [209, tr.103 - 104].
Trong tổng Non Liễu ở thế kỷ XIX, vẫn có các chợ khác như: chợ Giỏ ở Thịnh
Lạc, còn gọi là chợ Hôm vì chỉ họp vào buổi sáng mai (từ 5 - 7 giờ sáng), chợ Vạc
(thuộc xã Nam Lĩnh), họp tháng 9 phiên vào các ngày 02, 06, 09, 12, 16, 19, 22, 26,
29; chợ Tro (nay thuộc xã Xuân Hòa), chợ Giếng (thuộc làng Đông Nam và làng Nam
Bình) chỉ họp vào buổi chiều hay chợ Thanh (nay thuộc xã Nam Thanh chỉ họp vào
buổi chập chiều từ 5 - 7 giờ tối)… Nhưng, chợ Chùa vẫn đóng một vai trò hết sức
quan trọng đối với hoạt động buôn bán trao đổi hàng hóa cũng như giao lưu văn hóa
của các thế hệ cư dân trong tổng Non Liễu từ nhiều thế kỷ trước. Theo kết quả khảo
sát, điều tra điền dã của chúng tôi trên địa bàn, đối sánh với một số tư liệu địa phương,
tên gọi chợ Chùa xuất hiện gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của năm ngôi
chùa trong không gian tổng Non Liễu là: Chùa Đại Tuệ (xã Nam Anh), chùa Vạn Phúc
(xã Nam Xuân), chùa Ơi (xã Xuân Hòa), chùa Bà Đanh (xã Xuân Hòa) và chùa An
Lạc hay Yên Lạc (xã Nam Lĩnh). Nếu như những giả định này là đúng thì chợ Chùa ra
đời vào khoảng thế kỷ XI - XIV, khi Phật giáo hưng thịnh, công việc xây dựng, trùng
tu các ngôi chùa trên được các thế hệ cư dân trong tổng Non Liễu nói riêng và huyện
Nam Đàn nói chung tiến hành. Chợ Chùa ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về trao đổi,
mua bán hàng hóa nhu yếu phẩm phục vụ cho cư dân, thợ thuyền trên địa bàn tổng
Non Liễu trong quá trình xây dựng các ngôi chùa và trong đời sống hàng ngày của cư
dân địa phương.
114
Chợ Chùa chỉ họp vào buổi chiều tất cả các ngày trong tháng. Hàng hóa ở đây
chủ yếu là nông sản phẩm và các loại đồ gia dụng, dụng cụ phục vụ sản xuất, nhằm
đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua sắm của các tầng lớp nhân dân. Ở đây có bán một số
hàng hóa mang tính đặc sản của địa phương như: Chè, hồng, dứa trồng trên núi Đại
Tuệ (Đại Huệ), cá rô Bàu Nón (Hồ Nón), vải dệt của làng Non Hồ, lưỡi cày đúc từ
làng Vân Đồn, đồ rèn từ làng Hương Lãm và làng Chung Tháp… Theo các cụ cao tuổi
ở khu vực quanh chợ cho biết, ở đây có 02 cơ sở nhuộm vải, 02 hiệu thuốc Bắc và 02
lò rèn luôn tấp nập khách hàng. Do gần Hồ Nón và khu vực đồng bằng nên ở chợ Chùa
có bán đủ loại sản vật địa phương như cá đồng, tôm, cua, ốc, ếch, lươn, chạch cũng
như lúa, ngô, gạo, nếp, khoai lang, bầu, bí.
Sự hiện hữu của chợ Chùa và các chợ làng xã khác suốt nhiều thế kỷ trong tổng
Non Liễu góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp địa phương, đáp ứng nhu cầu mua bán trao đổi hàng hóa, giao lưu
văn hóa của các thế hệ cư dân trong tổng, trong huyện.
- Chợ Sáo (chợ Hữu Biệt)
Chợ Sáo hay còn gọi là chợ Hữu Biệt, nằm trong địa phận làng Hữu Biệt, nay
thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, ngay sát cạnh đường quốc lộ 46, cách
thành phố Vinh 11 km về hướng Tây. Chợ Sáo ngày nay nằm chếch về phía Nam ở
Ngã tư đường rẽ vào mộ Thân mẫu của Hồ Chủ tịch là bà Hoàng Thị Loan trên núi
Động Tranh, thuộc dãy Đại Huệ. Đầu thế kỷ XIX, cho đến cuối những năm 80 của thế
kỷ trước, chợ Sáo nằm đối diện với vị trí hiện nay.
Xét về quy mô thì chợ Sáo là một trong những chợ làng thuộc tổng Lâm Thịnh
của huyện Nam Đường đầu thế kỷ XIX. Trong tổng Lâm Thịnh, ngoài chợ Sáo còn có
chợ Cầu (dưới chân núi Chung, thuộc xã Kim Liên ngày nay); chợ Liễu (nằm giáp giới
giữa làng Lâm Thịnh, làng Duyên La (nay thuộc xã Xuân Lâm) với xã Hưng Long của
huyện Hưng Nguyên; chợ Nhạn Tháp (nay thuộc xã Hồng Long). Chợ Sáo họp mỗi
tháng 9 phiên vào buổi sáng các ngày 03, 06, 09, 13, 16, 19, 23, 26, 29, trong khi chợ
Cầu cũng họp mỗi tháng 9 phiên nhưng vào các buổi sáng những ngày chẵn: 02, 04,
08, 12, 14, 18, 22, 24, 28, tạo điều kiện thuận lợi cho các thế hệ cư dân làng xã trong
tổng trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa. Tuy không nằm theo quy luật trên
bến, dưới thuyền, nhưng chợ Sáo nằm sát tuyến đường bộ huyết mạch đi từ trấn/tỉnh
thành Nghệ An đi qua Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương. Đây chính là một lợi
115
thế để chợ Sáo hay chợ Hữu Biệt thu hút đông đảo cư dân trong tổng Lâm Thịnh (Nam
Đàn) và một phần cư dân các làng xã thuộc tổng Phù Long nay thuộc các xã Hưng
Đạo, Hưng Thái, Hưng Thông của huyện Hưng Nguyên đến họp chợ trong những
ngày chợ phiên. Do cách khá xa sông Lam, nên hàng hóa trao đổi, buôn bán ở chợ Sáo
chủ yếu được vận chuyển bằng quang, gánh theo các tuyến đường bộ, chứ không có
các loại hàng hóa được vận chuyển bằng thuyền dọc theo sông Lam như một số chợ
khác. Có thể đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến một thực tế là quy mô, số
lượng người đến trao đổi mua bán, cũng như các loại hàng hóa ở chợ Sáo không đa
dạng như một số chợ khác. Theo tư liệu khảo sát điền dã thì thời gian họp chợ Sáo
thường diễn ra từ 6 giờ sáng và kết thúc vào khoảng 9 - 10 giờ trưa là tan phiên.
Cho dù có số lượng người đến trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa không đông,
nhộn nhịp như một số chợ làng xã khác, nhưng chợ Sáo góp phần không nhỏ trong
việc thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp của cư
dân làng xã trong tổng Lâm Thịnh như: rèn, mây tre đan, bún bánh, nấu mật, đường
phèn, dệt vải… phát triển, đáp ứng nhu cầu mua sắm, ổn định cuộc sống cũng như
giao lưu, trao đổi của nhân dân không chỉ ở thế kỷ XIX mà cho đến tận ngày nay.
- Chợ Rồng
Chợ Rồng được xem là chợ tổng Nam Hoa hay tổng Nam Kim của huyện Thanh
Chương, trước khi toàn bộ phần đất của tổng này chuyển về huyện Nam Đàn vào năm
1887. Lịch sử hình thành của chợ Rồng gắn liền với công cuộc khai cơ lập làng cả một
vùng đất trù phú nằm dọc bờ hữu sông Lam chạy dài từ làng Chi Cơ (Nam Thượng)
xuống các làng: Khoa Trường, Tầm Tang, Phú Thọ (Nam Tân), Vạn Lộc (Nam Lộc),
cho tới làng Trung Cần, Đông Châu, Quang Thái, Hoành Sơn, Nam Hoa Thượng...
(thuộc xã Khánh Sơn và xã Trung Phúc Cường ngày nay), Tam Láng, Tam Giáp, Nhị
Truy (Thượng Truy, Hạ Truy), Tam Yên, Đa Lộc… (nay thuộc xã Nam Kim).
Ngoài các tuyến đường bộ nối liền các làng, xã trong tổng Nam Kim giúp cư
dân đi chợ Rồng thuận tiện vào các ngày chợ phiên, thì người ta còn có thể đi thuyền
đến bến đò Nam Cường, hoặc bến đò Vạn Rú thuộc xã Khánh Sơn để đến chợ Rồng.
Ở tổng Nam Kim, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở về trước chỉ có hai chợ lớn
là chợ Dương Liễu và chợ Rồng, trong khi khu vực này dân cư đông đúc, nhiều làng
xã trù phú, nên hoạt động buôn bán trao đổi các loại hàng hóa ở chợ Rồng hết sức tấp
nập đông đúc. Đặc biệt, cư dân làng Ngang (Khánh Sơn), Trung Cần, Đông Châu,
116
Xuân Phúc, Quảng Xá, Thọ Toán, Dương Phổ Đông, Xuân Trạch... (thuộc các xã Phúc
Trung Cường ngày nay) có nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt vải nổi tiếng, cũng như nghề
mộc, nghề rèn, đan lát, ép dầu lạc, dầu vừng, làm bún bánh rất nổi tiếng, nên hàng hóa
trao đổi ở đây đa dạng. Ngoài ra còn có hàng gốm, sứ, rèn, mộc, đan lát từ Đức Thọ
(Hà Tĩnh) được đưa xuống thuyền xuôi sông La sang sông Lam lên chợ Rồng để trao
đổi, giao thương. Một số thương nhân kẻ Bể (Cửa Lò, Cửa Hội) còn đưa muối, nước
mắm, ruốc, cá biển ngược dòng sông Lam đến chợ Rồng để buôn bán, trao đổi.
Sự trù mật đông đúc của cư dân làng xã trên địa bàn địa bàn tổng Nam Kim, với
nhiều nghề, làng nghề thủ công cùng những thuận lợi về mặt giao thông cả đường bộ
lẫn đường sông đã tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi mua bán, giao thương ở chợ
Rồng luôn diễn ra tấp nập. Các loại hàng hóa từ nông sản phẩm, đặc sản địa phương
trong tổng Nam Kim và nhiều địa phương trong vùng hạ lưu sông Lam đều có mặt tại
chợ Rồng, đáp ứng được nhu cầu về sinh hoạt đời sống và sản xuất của cộng đồng cư
dân trong và ngoài khu vực.
Một điều đáng quan tâm khác là tất cả chợ trên địa bàn huyện Nam Đàn ở thế
kỷ XIX cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đều họp mỗi tháng 9 phiên
(trừ chợ Sa Nam), riêng chợ Rồng họp tháng 11 phiên, theo các ngày: 01, 03, 06, 09,
12, 14, 17, 20, 22, 24, 27. Tại chợ Rồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 có 02
quầy bán thuốc Bắc của người Hoa Kiều, 03 cơ sở nhuộm vải, hai dãy lều quán bán đủ
loại vải vóc được dệt từ các làng nghề trồng dâu nuôi tằm nổi tiếng trong tổng Nam
Kim và 02 lò rèn, 03 quán bún thịt chó luôn đông khách [79], [88]. Cùng với chợ
Dương Liễu, quá trình thành lập phát triển chợ Rồng đóng vai trò quan trọng đối với
đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của các thế hệ cư dân làng xã trong tổng Nam
Kim suốt trong nhiều thế kỷ.
Sự hình thành mạng lưới thương nghiệp nội vùng gồm hệ thống các chợ làng
xã, chợ tổng, chợ huyện, góp phần quan trọng thúc đẩy hoạt động buôn bán, trao đổi
hàng hóa, giao lưu văn hóa giữa các thế hệ cư dân làng xã trong tổng, trong huyện
rộng hơn là cả vùng hạ lưu sông Lam. Tuy nhiên, do tư tưởng trọng nông tồn tại dai
dẳng, nên sự ra đời của mạng lưới chợ ở làng xã trên địa bàn huyện Nam Đàn nói
riêng, trấn/tỉnh Nghệ An nói chung không tạo ra một tầng lớp thương nhân hay hình
thành nên những trung tâm sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Bởi vậy, kinh tế nông
117
nghiệp truyền thống, lỗi thời và lạc hậu mang tính tự cung tự cấp vẫn là nét vẽ chủ đạo
trong bức tranh kinh tế Nam Đàn suốt thế kỷ XIX cho đến cuối thế kỷ XX.
Trên cơ sở thống kê tư liệu về số lượng, quy mô hoạt động các chợ ở Nam Đàn
chúng tôi có thể khẳng định, dù có mật độ khá dày (trên dưới 30 chợ) nhưng về cơ bản
hệ thống chợ ở Nam Đàn ở thế kỷ XIX vẫn là một mô hình kinh tế khép kín, chủ yếu
giải quyết nhu cầu mua bán, trao đổi trong phạm vi huyện hay làng xã. Dù có nhiều
thuận lợi về điều kiện tự nhiên, xã hội, nhưng sự thiếu vắng tầng lớp tư thương bản
địa, cùng khối lượng hàng hóa ít và nhu cầu tiêu dùng hạn hẹp của người dân đã khiến
cho hệ thống chợ ở Nam Đàn trong thế kỉ XIX không có nhiều thay đổi so với các thời
kỳ trước.
Dưới triều Nguyễn, theo Đại Nam nhất thống chí, cùng với hệ thống chợ, huyện
Nam Đàn có một số quán gồm: “quán Hữu Liệt, quán An Lạc, quán Sa Nam: thuộc
huyện Nam Đường”, “quán Lãng (xã Lãng Điền): thuộc huyện Lương Sơn” [154,
tr.213]. Căn cứ vào ghi chép có một vấn đề cần lưu ý đó là cách gọi tên cho phù hợp,
cụ thể ở đây là quán Sa Nam chính là chợ Sa Nam tồn tại mãi đến sau này, như vậy ở
đây cách gọi là quán hay chợ cũng mang một ý nghĩa là nơi trao đổi, buôn bán của cư
dân nông nghiệp Nam Đàn nói riêng.
Từ năm 1802 đến năm 1884, hoạt động buôn bán trao đổi các loại hàng hoá ở
Nam Đàn chủ yếu diễn ra ở các chợ làng xã, tổng, huyện. Hàng hoá vẫn chủ yếu là
nông sản, lâm sản, thuỷ sản do người nông dân làng xã làm ra. Một số sản phẩm của
các nghề làng nghề truyền thống trong phủ Anh Đô, rộng hơn là ở các huyện thuộc
trấn/tỉnh Nghệ An cũng có mặt tại chợ Sa Nam, chợ Rồng, chợ Hữu Biệt chợ Chùa...
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân và phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trên địa
bàn huyện Nam Đàn chưa hình thành một tầng lớp thương nhân lớn có khả năng xem
kinh doanh là một nghề độc lập với vốn lớn, có cửa hàng, cửa hiệu, đại lý và bạn hàng
cùng nghề hoặc liên ngành phục vụ cho thương nghiệp. Tình hình nội thương trong
làng xã mang đặc điểm là hoạt động buôn bán, trao đổi chủ yếu của tiểu thương, tiểu
chủ, những người buôn bán nhỏ với vốn liếng ít ỏi. Họ có nguồn gốc là nông dân hoặc
thợ thủ công, vừa đóng vai người sản xuất nông sản, hàng thủ công, vừa làm công việc
lưu thông hàng hóa và đa phần người buôn bán là phụ nữ [7, tr.99 - 100].
Trước những ảnh hưởng bởi chính sách “ức thương”, độc quyền buôn bán của
Nhà nước, thuế lệ buôn bán cao được áp đặt từ trung ương đến địa phương đã làm
118
ngưng trệ sự sản xuất và lưu thông hàng hóa trong thương nghiệp. Trong điều kiện nền
kinh tế hàng hóa giản đơn vào thế kỷ XIX, hoạt động thương nghiệp trong nông thôn,
làng xã Việt Nam chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống
sinh hoạt hàng ngày của cư dân. Đối với huyện Nam Đàn, do nhu cầu sản xuất, tiêu
dùng, trao đổi mà hệ thống chợ làng xã, chợ tổng, huyện được phân bố khá đều khắp
trên địa bàn, đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống văn hoá vật chất và tinh thần
của mọi tầng lớp nhân dân. Bức tranh thương nghiệp, buôn bán trao đổi hàng hoá ở
Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 chưa có những thay đổi so với các thế kỷ trước, đã phản
ánh chân thực nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cung, tự cấp lỗi thời mà triều
Nguyễn ra sức củng cố và khuyến khích.
Tiểu kết chương 4
Nằm ở hai bên bờ tả - hữu sông Lam, có tuyến đường thuỷ, đường bộ thuận lợi
hơn so với một số huyện khác trong tỉnh, song từ năm 1802 đến năm 1884, tiểu thủ
công nghiệp và thương nghiệp trên địa bàn Nam Đàn vẫn mang nhiều nét tương đồng
so với bức tranh chung ở trấn/tỉnh Nghệ An. Các nghề, làng nghề thủ công truyền
thống có quy mô nhỏ, số người tham gia vào các phường, hội ít, sản phẩm làm ra chủ
yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hoặc nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp nhân
dân trong vùng. Mặc dầu có một số nghề nổi tiếng như: Khai thác đá ong, dệt vải,
nghề mộc, đúc lưỡi cày, kép mía nấu mật làm đường... nhưng các nghề thủ công
truyền thống đó vẫn chỉ là những nghề phụ, chưa tách ra khỏi nông nghiệp.
Hệ thống chợ làng xã trên địa bàn huyện hình thành sớm theo quy luật trên bến
dưới thuyền như: chợ Sa Nam, chợ Ghềnh, chợ Cần Bụt, chợ Liễu, chợ Rồng... hay
nằm ở trung tâm các làng xã trong tổng như: chợ Giếng, chợ Thanh, chợ Chùa, chợ
Tro, chợ Vạc, chợ Sáo, chợ Cầu... Hệ thống chợ với các hình thức, lịch họp chợ đa
dạng (chợ hôm, chợ mai, chợ chiều, chợ hôm), thuận tiện cho việc mua bán trao đổi
các loại hàng hoá của các tầng lớp cư dân làng xã. Tuy chưa hình thành tầng lớp
thương nhân buôn bán hàng hoá với số vốn lớn, tách biệt khỏi sản xuất nông nghiệp,
song hệ thống chợ làng xã ở Nam Đàn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì nền
kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp và đáp ứng nhu cầu mua sắm, trao đổi cũng như giao
lưu văn hoá của mọi tầng lớp nhân dân. Thực tế lịch sử đó góp phần làm rõ thêm bức
tranh kinh tế ở Nam Đàn nói riêng, trấn/tỉnh Nghệ An suốt thế kỷ XIX.
119
Chương 5
ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT
5.1. Trong thời kỳ 1802 - 1884, kinh tế Nam Đàn phát triển trong điều kiện
không thuận lợi về tự nhiên và xã hội
Theo sách: Tên làng xã Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX (từ Nghệ Tĩnh trở ra),
Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, Thanh Chương huyện chí của Nguyễn Điển, Đại
Nam nhất thống chí, Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược do Quốc sử quán triều
Nguyễn biên soạn. Địa giới hành chính, tên gọi huyện Nam Đường, các tổng, làng, xã,
thôn phường, trang, giáp, sở, vạn thuộc huyện Nam Đường - Nam Đàn, Thanh Chương
thuộc phủ Anh Đô từ 1802 đến cuối thế kỷ XIX có nhiều thay đổi. Trong đó, đáng chú
ý là sự kiện, năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), tách tổng Đặng Sơn gồm 23 xã, thôn,
phường thuộc huyện Thanh Chương cùng 4 tổng: Lãng Điền Đô Lương, Thuần Trung,
Bạch Hà của huyện Nam Đường thành lập huyện Lương Sơn. Trong giới hạn không
gian nghiên cứu, chúng tôi đã xác định rõ, ngoài các tổng còn lại sau khi cắt về huyện
Lương Sơn vào năm 1839, không gian nghiên cứu của luận án còn có thêm các làng
xã: Chi Cơ, Tàm Tang, Phú Thọ, Khoa Trường, Vũ Nguyên, Vạn Lộc, Vạn Thanh Trai
thuộc tổng Bích Triều và toàn bộ làng xã của tổng Nam Kim thuộc huyện Thanh
Chương, tương ứng với địa giới hành chính huyện Nam Đàn ngày nay.
Với vị thế địa lý đó, 6 tổng với 65 làng xã ở Nam Đàn phân chia dọc theo đôi bờ
tả - hữu sông Lam, được bao bọc bởi hai dãy núi lớn là dãy Thiên Nhẫn ở phía Nam và
dãy Đại Huệ ở phía Bắc, chỉ cách trấn thành Nghệ An chừng 20 km (tính từ huyện lỵ
Nam Đàn). Do nhà Nguyễn không huy động binh lính, dân đinh làng xã mở rộng các
tuyến đường bộ nối liền trấn thành Nghệ An với Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh
Chương... hay các tuyến đường bộ nối liền từ huyện đến các tổng, làng xã, nên việc phát
triển kinh tế, giao thương buôn bán thông qua các tuyến đường bộ không có gì khác so
với thời Tây Sơn, thậm chí là cả thời Hậu Lê. Sông Lam, sông La và các nhánh sông
phụ vẫn là những tuyến đường giao thông thuỷ quan trọng gắn kết cư dân các vùng miền
trong trấn/tỉnh Nghệ An nói chung và Nam Đàn nói riêng suốt thời kỳ 1802 - 1884.
Dưới triều Nguyễn, tình hình bão lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra, trở thành
một trong những vấn đề mang tính cấp thiết. Theo ghi chép trong Đại Nam thực lục
120
thống kê, tình hình thiên tai trong 82 năm (1802 - 1884) đã có 58 năm xảy ra thiên tai
trên khắp cả nước. Nghệ An là một trong những trấn/tỉnh gánh chịu nhiều hậu quả của
bão lũ, dịch bệnh, hạn hán… Cụ thể, trong những năm 1807, 1811, 1823, 1825, 1842,
1845, 1853, 1861, 1864, 1867, 1873 [170, tr.108 - 109]… tình hình thiên tai đã gây
nên những hậu quả nặng nề đối với đời sống và tình hình sản xuất của tỉnh Nghệ An,
đặc biệt là những địa phương thuộc hạ lưu sông Lam trong đó có huyện Nam Đàn.
Năm 1842, Nghệ An có bão lớn (bão nổi từ canh 2 đêm, đến sáng rõ mới dứt).
Nước biển dâng lên quá mức thường 13 - 14 thước. Có 40.753 hộ nhà cửa bị đổ nát,
696 chiếc thuyền buôn và thuyền đánh cá bị chìm đắm, 5.240 người dân bị chết bẹp
hoặc chết đuối [161, tr.397].
Tháng 11 năm 1842, Tả đô ngự sử viện Đô sát là Tôn Thất Bạch ở Nghệ An về
phục mệnh, vua hỏi: “Tỉnh Nghệ An, sau khi bão lụt, lại tiếp đến nạn hoàng trùng,
không biết dân ta hiện nay đã được khởi sắc chưa ? Và, đi qua Hà Tĩnh, thấy việc
lương thực của dân như thế nào ?”. Bạch thưa rằng: “Ở Nghệ An duy có 6 huyện Đông
Thành, Yên Thành, Nam Đường, Thanh Chương, Hưng Nguyên và Chân Lộc là bị hại
nhiều, lúa ruộng ước chừng tổn hại đến hơn 5 phần 10; còn các huyện về thượng du và
toàn hạt Hà Tĩnh không bị thiệt hại cho lắm, cũng có thể mong được thu hoạch [161,
tr.419].
Năm 1846 bão lớn ở Nghệ An, 22.980 nóc nhà đổ, 782 đình miếu sập, 296
thuyền đắm, 120 người chết [170, tr.151]…
Một phần lớn diện tích ruộng đất ở Nam Đàn được nguồn phù sa từ sông Lam,
sông Cương Gang bồi đắp quanh năm, tạo nên những cánh đồng phù sa màu mỡ,
nhưng do thời tiết không thuận lợi, bão lũ thường xuyên xảy ra ảnh hưởng đến các
hoạt động kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp. Hậu quả là những cánh đồng dọc hai miền
tả ngạn và hữu ngạn sông Lam thuộc địa bàn huyện Nam Đàn trong thời kỳ 1802 -
1884 luôn bị đặt trong tình trạng bất ổn trước họa thiên tai, toàn bộ sản phẩm như lúa,
hoa màu có thể bị mưa lũ cuốn trôi bất cứ lúc nào. Ngay cả những xứ đồng ở cạnh Hồ
Nón thuộc tổng Non Liễu, hay vùng Đông Liệt, Ngọc Trừng (Nam Thái), Bàu Láng
(Chi Cơ, Phú Thọ, Tầm Tang, Khoa Trường), hay vùng Vạn Duyên La, Tuần Lã
(Xuân Lâm), Hữu Biệt (Nam Giang), do có đặc điểm địa hình thấp trũng nên nguy cơ
ngập úng về mùa mưa lũ luôn là mối đe doạ thường trực đến mùa vụ nông nghiệp của
cư dân làng xã.
121
Do cấu trúc địa hình, một số diện tích đất đai trồng trọt gần đồi núi, có độ dốc
lớn dọc theo chân núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn, núi Hùng Sơn, Ngũ Liên Châu, hay
những chân ruộng cao ít bị ngập úng nhưng lại phải đối mặt với tình trạng xói mòn,
thoái hoá đất do mưa lớn tập trung kéo dài nhiều tháng trong năm. Mặt khác, những
diện tích đất trồng này luôn đứng trước nguy cơ hạn hán, thiếu nước cho cây trồng về
mùa hạ, nhất là khi gió Nam Lào thổi rát thì tình trạng đồng ruộng ở Nam Đàn nứt nẻ,
hoa màu, cây cỏ chết khô là điều khó tránh khỏi. Ảnh hưởng của lũ lụt, ngập úng và
hạn hán càng trở nên trầm trọng hơn khi trên đồng ruộng Nam Đàn không có những
công trình dẫn thuỷ nhập điền hay tiêu nước về mùa lũ quy mô lớn.
Sau nhiều thế kỷ đất nước luôn trong tình trạng chiến tranh loạn lạc, sang thế kỷ
XIX, dưới triều Nguyễn đất nước bước vào thời kỳ thống nhất về mặt lãnh thổ, ổn định
về mặt chính trị, xã hội đã tạo điều kiện cho quá trình tụ cư, sinh sống, của cư dân
khắp nơi từ thành thị đến vùng nông thôn. Theo thống kê trong Đại Nam nhất thống
chí, dưới triều vua Gia Long tổng số dân đinh các tỉnh là 612.912 suất đinh, trong đó
trấn Nghệ An (gồm Nghệ An và Hà Tĩnh) là 65.400 suất đinh (chiếm 9,37%) [2, tr.18 -
19]. Đến triều Tự Đức, cả nước có tổng cộng 1.024.388 suất đinh, trong đó riêng tỉnh
Nghệ An (không tính tỉnh Hà Tĩnh) là 56.870 suất đinh. Tuy nhiên, những con số trên
chỉ là số dân bộ lục, không kể đến đàn bà trẻ em (những người không bị đánh thuế
đinh và cũng không kể đến dân lậu, dân ngụ cư). Đối với huyện Nam Đàn, sách Đồng
Khánh địa dư chí ghi chép như sau: Nhân số các hạng là 5.930 người (trong đó binh
đinh 760 người) [165, tr.1235].
Trong thời kỳ 1802 - 1884, nhà Nguyễn duy trì chính sách trọng nông, kêu gọi,
khuyến khích nhân dân phiêu tán về lại quê hương, phục hóa ruộng đất bỏ hoang tiếp
tục sản xuất, đồng thời động viên nông dân mở rộng diện tích canh tác bằng việc khai
hoang các vùng châu thổ khiến cho các làng xã hình thành ngày càng nhiều, dân cư
tăng nhanh. Dân số gia tăng ở vùng nông thôn, làng xã trong điều kiện sức sản xuất
còn nhiều hạn chế, sản phẩm các nghề không đảm bảo nuôi sống một dân cư đông đảo,
vì “suy theo cái số cổ giả một người cày ruộng phải nuôi năm người” [2, tr.20] đã tạo
nên những hệ lụy trong đời sống cư dân cũng như việc duy trì, phát triển kinh tế. Sách
Đại Nam thực lục thống kê về vấn đề dân phiêu tán ở Nghệ An như sau: Từ năm 1817
- 1818, Nghệ An dân phiêu tán mất 20 nghìn người, năm 1820 trấn thần Nghệ An tâu:
“Dân trong hạt xiêu tán cộng 63 thôn, gần đây có người đã trở về, mười phần được
122
một, hai phần” [170, tr.82], các năm 1828 - 1834 Nghệ An, Thanh Hóa dân xiêu tán
nhiều… Bên cạnh tình trạng dân số tăng nhanh thì tử suất trong cư dân cũng nhiều,
trong điều kiện kinh tế lấy nông nghiệp làm nghề chính, cuộc sống làm lụng vất vả
trong hoàn cảnh cư ngụ thiếu vệ sinh, khi mất mùa, lụt lội, thì tình trạng người nông
dân thiếu ăn, không đủ sức chống chọi bệnh tật khiến cho số người chết rất nhiều khi
dịch bệnh hoành hành. Từ năm 1820 - 1850 đã diễn ra 3 nạn dịch lớn: năm 1820, dịch
tả phát sinh ở ở Bắc Thành khiến 14.282 người chết [182, tr.152]; tính đến cuối năm
1920, số người chết vì dịch bệnh trên cả nước là 206.835 người [2, tr.27]; trong các
năm 1848 - 1850, dịch tả hoành hành từ Bắc chí Nam làm chết 589.460 người… đến
năm 1863, dịch to ở Bắc và Trung, số người chết hơn 5.270 người [170, tr.153]. Đối
với tỉnh Nghệ An trong đó có huyện Nam Đàn, ngoài dịch bệnh thì các phong trào
nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình nổ ra liên tiếp đã khiến tử suất tăng cao và có
phần nặng nề hơn so với các địa phương khác. Có thể thấy, những biến động về dân cư
trên khắp cả nước nói chung, ở Nghệ An và huyện Nam Đàn nói riêng là những thách
thức lớn mà nhà Nguyễn cũng như cộng đồng dân cư luôn phải đối mặt trong quá trình
duy trì, phát triển nền kinh tế trong suốt thời kỳ 1802 - 1884.
Trước thế kỷ XIX, tỉnh Nghệ An là một trong những địa bàn tranh chấp chính
của các cuộc nội chiến giữa các thể lực phong kiến, nơi phải gánh chịu nhiều hậu quả
do các biến động chính trị - xã hội mang lại. Nghệ An còn là đất tổ của anh em nhà
Tây Sơn. Các vua nhà Nguyễn trong quá trình thực thi vương quyền đã kiên quyết xoá
bỏ những thành quả của Tây Sơn trên đất Nghệ An, tạo ra nhiều mâu thuẫn trong lòng
xã hội của các tầng lớp, giai cấp trên vùng đất này. Cùng với đó, trong suốt thời kỷ từ
năm 1802 - 1884, ở Nghệ An tình trạng mất mùa, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên,
trong làng xã nạn đói, dịch bệnh trong những năm: 1819, 1824, 1840, 1856, 1857,
1858, 1864 [170, tr.108]… cùng tình hình sưu cao thuế nặng, nạn nhũng nhiễu của
cường hào, chức dịch địa phương đã khiến cho ngọn lửa đấu tranh của phong trào
nông dân ngày càng mạnh mẽ.
Những cuộc nổi loạn của nông dân trong tình thế túng quẫn của sự nghèo đói,
được tác động thêm bởi yếu tố chính trị khi có những lãnh tụ đứng ra giương ngọn cờ
khởi nghĩa đã tạo nên những cuộc khởi nghĩa lớn. Dưới triều các vua từ Gia Long đến
Tự Đức, tính đến năm 1862 trên khắp lãnh thổ Việt Nam có tới 390 cuộc nổi dậy (thời
Gia Long: 70; thời Minh Mệnh: 230; thời Thiệu Trị: 50; thời Tự Đức: 40) [170, tr.60],
123
phần lớn đều có sự hưởng ứng của nông dân làng xã. Riêng trấn/tỉnh Nghệ An, trong
đó có huyện Nam Đàn các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra cụ thể: năm 1811, khởi
nghĩa của Nguyễn Tuấn; năm 1813, nông dân Nam Đàn cùng với nông dân Thanh
Chương, Đông Thành, Quỳnh Lưu lại nổi dậy, giết chết tri phủ Đức Quang là Nguyễn
Văn Tuân; Năm 1823, Lê Quang Chấn khởi nghĩa ở Nam Đàn… Năm 1874, Trần Tấn
và Đặng Như Mai dựng cờ khởi nghĩa ở rú Đài (Thanh Chi, Thanh Chương) sau đó
đưa toàn bộ lực lượng về làng Thành (Thanh Thuỷ) xây dựng cả một hệ thống chiến
luỹ trên địa bàn các làng, xã: An Lạc, Đa Lạc, Xuân Hồ, Diên Lãm, Thanh Thủy...
thuộc địa bàn huyện Nam Đàn. Để đối phó với các cuộc khởi nghĩa trên địa bàn Nghệ
An, Nam Đàn, nhà Nguyễn đã cho đàn áp thẳng tay các cuộc khởi nghĩa, tuy nhiên
ngọn lửa phong trào nông dân khởi nghĩa nơi đây vẫn luôn chực bùng phát bất cứ lúc
nào. Có thể thấy, phong trào nông dân khỏi nghĩa nhằm chống lại triều đình ở Nghệ
An nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng đã ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống chính trị,
xã hội của mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời tạo nên những bất ổn trong quá trình duy
trì, phát triển kinh tế.
Mặt khác, từ thời Gia Long đến thời Tự Đức (1802 - 1884), các vị vua nhà
Nguyễn luôn duy trì chính sách cấm đạo và sát đạo đẩy các tín đồ theo đạo Thiên chúa
ở vương quốc Đại Nam nói chung, Nghệ An, Nam Đàn nói riêng vào tình cảnh khốn
khó. Các họ đạo ở Nam Đàn như: Vạn Lộc, Quy Chính, Tràng Đen, Nhật Quang,
Tràng Cật... còn chịu tổn thất nặng trong cuộc khởi nghĩa năm Giáp Tuất 1874. Chính
sách cấm đạo, sát đạo trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của toàn bộ giáo dân
nói riêng, cũng như mọi mặt trong đời sống chính trị, xã hội ở Nam Đàn nói chung
suốt thời kỳ 1802 - 1884.
5.2. Tình hình sở hữu ruộng đất huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884, phản ánh
thực trạng sở hữu ruộng đất ở trấn/tỉnh Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung
Từ nguồn tư liệu gồm 40 địa bạ trong tổng số 65 xã, thôn thuộc huyện Nam
Đàn thời kỳ 1802 - 1884 mà chúng tôi khai thác cho thấy, tình hình sở hữu ruộng đất ở
Nam Đàn xoay quanh việc bộ máy quan lại, chức sắc địa phương thực thi các quy định
của vương triều Nguyễn trong việc phân chia ruộng đất công cho các thành viên trong
làng xã cày cấy, nộp thuế, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trong nội dung
Chương 3, ở tiểu mục 3.1. Tình hình sở hữu, sử dụng ruộng đất, chúng tôi đã mô tả
đặc điểm của sở hữu công điền, tư điền trong mối tương quan là một bộ phận của nông
124
nghiệp, nhằm làm rõ chính sách ruộng đất của Nhà nước, thực trạng sở hữu và sử dụng
của đại bộ phận dân cư trong làng xã. Nhưng chưa đi sâu tìm hiểu đặc điểm sở hữu của
các giai cấp, tầng lớp, giới tính, thành phần dân cư và hiện hiện tượng xen canh, xen
cư về ruộng đất trong sở hữu tư nhân thuộc 6 tổng 65 xã thôn, trang, phường, giáp, sở,
vạn ở huyện Nam Đàn dưới triều Nguyễn.
Qua khảo cứu ruộng đất tư nhân trong địa bạ, tình hình giới tính, quê quán của
các chủ sở hữu cũng được ghi rõ trong sở hữu tư điền.
Bảng 5.1. Phân bố sở hữu tư điền
Diện tích Diện tích Tổng số Tỷ lệ Tỷ lệ Sở hữu tư điền sở hữu bình quân 1 chủ (%) (%) chủ (m.s.th.t.p) (m.s.th.t.p)
Tổng số chủ 4165 100 11548.8.7.5.6 100 2.7.7.2.8
Chủ sở hữu là nữ 745 17,88 2611.3.6.4.5 22,6 3.5.0.5.1
Phụ canh 1652 39,66 3407.5.13.0.0 29,5 2.0.6.2.6
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Trong tổng số 4165 chủ sở hữu ruộng đất có 745 chủ là nữ, chiếm tỷ lệ 17,88%.
So với huyện Nghi Lộc một huyện trong tỉnh (18,09%) [202, tr.49] và phần lớn các
huyện khác ở đồng bằng Bắc bộ, tỷ lệ chủ nữ sở hữu ruộng đất ở huyện Nam Đàn
không chênh lệch bao nhiêu: Chân Định (Thái Bình): 12,94%; Thanh Quan (Thái
Bình): 16,7%; Đan Phượng (Hà Đông cũ): 19,30%; Thanh Trì (Hà Nội): 13,47%.
Cũng có những huyện, chủ sở hữu nữ chiếm tỷ lệ khá cao như: Quỳnh Côi (Thái
Bình): 26,54%; Từ Liêm (Hà Đông cũ): 24,66% [153, tr.63]; Đông Sơn (Thanh Hóa):
25,88% [200, tr.76]… Như vậy, tỷ lệ chủ sở hữu nữ ở huyện Nam Đàn nằm ở mức
trung bình so với các địa phương khác ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Trong tổng số 11548 mẫu 8 sào 7 thước 5 tấc 6 phân (m.s.th.t.p), diện tích
ruộng đất tư có thể tính sở hữu trên toàn huyện, diện tích ruộng đất các chủ sở hữu nữ
nắm là: 2611.3.6.4.5, chiếm 22,6% tổng diện tích ruộng đất tư. Trung bình sở hữu của
một chủ nữ là 3 mẫu 5 sào 0 thước 5 tấc 1 phân. Tỷ lệ chủ nữ sở hữu ruộng đất tư ở
Nam Đàn tương đương với huyện Đông Sơn (Thanh Hóa): 21,083%, nhưng nếu so với
huyện Nghi Lộc một huyện gần kề trong tỉnh, sở hữu của chủ nữ chỉ chiếm 14,16%
[202, tr.49] diện tích ruộng đất tư, thì mức sở hữu chủ nữ ở Nam Đàn là khá cao.
125
Biểu đồ 5.1. Sở hữu chủ nữ, phân canh, phụ canh ở một số địa phương
thời Nguyễn (1802 - 1884)
[200], [202]
Ở Nam Đàn, số chủ nữ có sở hữu trên 10 mẫu rất ít, chủ yếu là sở hữu dưới 1
mẫu. Như vậy, so với sở hữu trung bình của toàn huyện thì sở hữu trung bình của bộ
phận chủ nữ cao hơn 0.7.8.2.3. Ngoài ra, ruộng đất thuộc chủ sở hữu là nữ lại chủ yếu
là ruộng xâm canh, điều này đặt ra cho chúng tôi hai vấn đề phản ánh một hiện tượng
khá đặc biệt trong sở hữu ruộng tư ở Nam Đàn đó là, chủ nữ có thể không được phân
chia quyền sở hữu ruộng đất tư ở trong làng xã tại nơi họ cư trú mà được phân quyền
sở hữu ruộng xâm canh ở một địa phương khác trong vùng. Hoặc thể, họ có quyền sở
hữu ruộng đất tư trong làng của mình nhưng lại đi lấy chồng cư trú ở một địa phương
khác và quyền sở hữu đó vẫn được giữ nguyên như là của hồi môn.
Cũng như nhiều địa phương khác, ở Nam Đàn hiện tượng phụ nữ đứng tên chủ
sở hữu và chiếm tỷ lện ruộng đất là không nhiều (chiếm 17,88%). Trong một số xã
thôn không có chủ sở hữu là nữ, đặc biệt ở tổng Nam Hoa (Nam Kim) trong thống kê
tư điền không thấy ghi chép về chủ sở hữu thuộc đối tượng này. Điều đó cho thấy sự
bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các quan hệ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Mặt
khác, thực trạng đó cũng phản ánh cho đến năm 1884 ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo đối với cư dân làng xã ở Nam Đàn nói riêng, Nghệ An nói chung là phổ biến.
Tình trạng xâm canh (xen canh, xen cư) về ruộng đất diễn ra ở hầu khắp trong
làng xã, điều này góp phần chứng minh thực tế về hiện tượng xâm canh khá phổ biến
trong nông thôn Việt Nam. Nguyên tắc đất làng nào do dân làng đó tự cày cấy, sang
126
thế kỷ XIX đã bị phá vỡ không phải ở một vài làng xã mà phổ biến khắp cả nước. Tính
chất xen kẽ đó xuất hiện không chỉ với loại hình ruộng đất công làng xã, mà ảnh
hưởng tới cả các cá thể tư hữu, có nhiều trường hợp người xã thôn này có ruộng trên
địa phận của các xã thôn lân cận, thậm chí là của một xã thôn thuộc tổng và huyện
khác. Đó là hiện tượng “phụ canh” hay còn gọi là xâm canh.
Trong hệ thống 40 địa bạ huyện Nam Đàn có sự phân biệt rõ giữa hai bộ phận
chủ sở hữu là: những người tại bản quán (gọi là phân canh) và những người ở nơi khác
(gọi là phụ canh). Theo thống kê từ địa bạ, trong 4.165 chủ sở hữu có 1.652 trường
hợp phụ canh, chiếm tỷ lệ 39,66% tổng số chủ. Nếu so sánh với các huyện khác ở
đồng bằng Bắc bộ và Đông Sơn (Thanh Hóa), tỷ lệ này cũng tương đương: huyện
Thanh Trì (Hà Nội) là 42,53% [153, tr.54]; huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) là 39,10%
[200, tr.79].
Về số lượng ruộng đất, diện tích phụ canh là 3407.5.13.0.0 chiếm 29.5% diện
tích ruộng đất tư có thể tính sở hữu. Nếu so sánh về diện tích phụ canh thì tỷ lệ này có
phần tương đương với huyện Nghi Lộc (Nghệ An) là 30,65% [202, tr.49], nhưng cao
hơn hẳn so với một số huyện ở Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ: Quỳnh Côi là 8,67%, Đông
Quan là 24,89%, Đông Sơn là 24,82% [200, tr.79].
Về trung bình sở hữu của một chủ phụ canh là 2.0.6.2.6, thấp hơn so với mức
sở hữu trung bình của toàn huyện (toàn huyện: 2.7.7.2.8) hơn 7 sào. Hầu hết các xã
đều có ruộng đất phụ canh (34/40 xã thôn, chiếm tỷ lệ 85%). Trong đó, một số xã thôn
không có thông tin về sở hữu tư nhân như: thôn Dương Phổ, thôn Thanh Tứ thuộc tổng
Nam Kim; thôn Chung Mỹ thuộc tổng Lâm Thịnh. Một số xã thôn phần lớn diện tích
ruộng đất đều bị xâm canh như: thôn Xuân Áng có 5 chủ thì đều là phụ canh (100%),
xã Xuân Phúc có 40 chủ thì 34 chủ là phụ canh (85%)…
Hiện tượng phụ canh về ruộng đất diễn ra khá phổ biến ở Nam Đàn từ năm
1802 đến năm 1884, chứng tỏ việc mua bán, trao đổi, chuyển nhượng ruộng đất khá
phát triển, ruộng đất lúc bấy giờ đã trở thành một loại hàng hóa. Nguyên tắc “ruộng
làng nào làng ấy cày cấy” lúc này đã không còn ý nghĩa nữa.
Trong các thành phần sở hữu tư nhân về ruộng đất, sở hữu ruộng đất của chức
sắc trong làng xã được ghi chép cụ thể trong 40 địa bạ ở Nam Đàn, gồm 160 người, cụ
thể như sau:
- 55 Lý trưởng
127
- 30 Phó Lý trưởng
- 42 Hương mục
- 33 Trùm trưởng
Sau khi thống kê cả diện tích xâm canh, tình hình sở hữu tư điền của các chức
dịch ở Nam Đàn (1802 - 1884) như sau:
Bảng 5.2. Tổng hợp tình hình sở hữu ruộng đất của chức dịch
Không
< 1
1- 3
3 - 5
5 - 10
10 - 20
20 - 50
Chức vị
có
Tổng
mẫu
mẫu
mẫu
mẫu
mẫu
mẫu
ruộng
10
10
11
7
9
7
1
55
Lý trưởng
18,18
18,18
12,73
16,36
12,73
1,82
20
100
%
6
4
4
3
9
4
0
30
Phó lý trưởng
30,0
13,33
20%
13,33
13,33
10,0
0
100
%
15
4
3
3
9
8
0
42
Hương mục
21,43
19,05
35,72
9,52
7,14
7,14
0
100
%
8
3
3
1
9
9
0
33
Trùm trưởng
27,27
27,27
24,25
0,09
0,09
3,03
0
100
%
37
31
40
18
19
14
1
160
Tổng
23,12
19,38
25,0
11,25
11,87
8,75
0,63
100
[Tác giả tổng hợp từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn]
Chức dịch ở xã thôn sở hữu đất tư có sự phân bố không đều, một số xã thôn chỉ
có 2 người, nhưng cũng có xã thôn lên đến 10 người. Trong tổng số 160 chức dịch có
37 người (chiếm 23,12%) không có tên trong danh sách chủ ruộng ghi trong địa bạ.
Như vậy, họ là những người không có ruộng đất tư trong làng xã. Tuy nhiên, trong thế
kỷ XIX, do hiện tượng phụ canh đã trở thành phổ biến ở hầu khắp các địa phương, cho
nên kết quả thống kê trên chỉ phản ánh tình hình phân bố ruộng đất trong phạm vi
huyện Nam Đàn, chúng tôi không loại trừ khả năng các chức dịch trên có ruộng phụ
canh ở các huyện lân cận.
Đối với các chức sắc có tên trong danh sách ruộng tư, tình hình sở hữu như sau:
ở lớp sở hữu dưới 1 mẫu có 31/160 người, chiếm tỷ lệ 19,38 %, so với tình hình sở
hữu tư nhân trên toàn huyện là 1325/4165 người, chiếm tỷ lệ 31,81% thì vẫn ở mức
thấp; lớp sở hữu từ 1 đến 3 mẫu có 40 người, chiếm tỷ lệ 25% thấp hơn so với 1641
128
người, chiếm tỷ lệ 39,40% tình hình chung toàn huyện; ở lớp sở hữu từ 3 đến 5 mẫu có
18 người, chiếm tỷ lệ 11,25% so với 623 người, chiếm tỷ lệ 14,96% toàn huyện. Như
vậy, ở các lớp sở hữu nhỏ, từ dưới 1 mẫu đến 5 mẫu thì tình hình sở hữu của hệ thống
chức dịch là gồm 89/160 người chiếm tỷ lệ 55,63% thấp hơn rất nhiều so với tình hình
chung của toàn huyện gồm 3589/4165. Trong khi đó, các lớp sở hữu từ 5 mẫu trở lên
(sở hữu lớn) đều cao hơn so với tình hình chung toàn huyện: ở lớp sở hữu 5 đến 10
mẫu có 19 người, chiếm tỷ lệ 11,87% so với 415 người, chiếm tỷ lệ 9,96%; lớp sở hữu
từ 10 đến 20 mẫu có 14 người, chiếm tỷ lệ 8,75% so với 134 người, chiếm tỷ lệ
3,22%; lớp sở hữu từ 20 đến 50 mẫu có 1 người, chiếm tỷ lệ 0,63% tương đương với
26 người, chiếm tỷ lệ 0,63% trên toàn huyện. Qua bảng thống kê trên cho thấy, lớp sở
hữu từ 1 đến 3 mẫu trở thành lớp sở hữu đặc trưng của chức dịch ở huyện Nam Đàn,
điều này phù hợp với lớp sở hữu đặc trưng trong toàn huyện, và đây là lớp sở hữu
trung bình trong kết cấu phân bố ruộng đất chung của tình hình sở hữu tư nhân về
ruộng đất.
Như vậy, sở hữu ruộng đất của bộ máy cai trị làng xã ở Nam Đàn thời kỳ 1802 -
1884, mang nhiều nét tương đồng so với các địa phương khác. Cũng như nhiều huyện
ở khu vực đồng bằng Bắc bộ, Đông Sơn (Thanh Hóa), hay cả huyện Nghi Lộc trên
cùng địa bàn xứ Nghệ, nếu nhìn vào sở hữu ruộng đất của đội ngũ chức dịch ở Nam
Đàn không phải hoàn toàn là tầng lớp khá giả. Đại bộ phận chức dịch có ruộng thuộc
vào lớp sở hữu nhỏ (dưới 1 mẫu) và trung bình (1 - 3 mẫu) trong kết cấu sở hữu chung
của toàn huyện. Trong đó, đặc biệt lưu ý đến nhiều chức dịch không có ruộng 37/160
người, chiếm tỷ lệ 23,12% tổng số chức dịch. Tuy nhiên, các con số thống kê trên
chưa phản ánh hết thực tế về sở hữu đất đai của quan lại và bộ phận chức dịch ở các
địa phương, nơi mà Nhà nước không kiểm soát chặt chẽ được việc làng xã lũng đoạn
trong việc chia ruộng, dẫn đến tình trạng các chức dịch địa phương câu kết với nhau
trong việc ẩn lậu ruộng đất, hoặc dối trá đem ruộng xấu sung vào ruộng công màu mỡ,
hoặc đổi lại sổ sách bớt số ruộng thực của mình đi.
Từ việc phân tích tài liệu địa bạ cho biết cụ thể về thành phần các giai tầng ở
làng xã sở hữu ruộng đất tư, hiện tượng xen canh, xen cư về ruộng đất và cả thực trạng
diện tích, cách thức sử dụng một số ruộng đất khác như: đất vườn, tam bảo điền, ruộng
hoang, đất công châu thổ trong thời kỳ khuyến khích khai hoang hiện không thuộc
ruộng đất bị đánh thuế trong làng, xã ở Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884. Ngoài ra, qua
129
phản ánh của 40 địa bạ ở Nam Đàn, do nhiều nguyên nhân, từ năm 1802 đến năm
1884, cư dân làng xã đã khai thác đất đai hoang hoá, các vùng bãi bồi ven sông hoặc
các gò đồi, thung lũng dọc chân núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn để trồng rau màu, cây ăn
quả... Các bản địa bạ có thống kê chi tiết diện tích các loại ruộng đất này nhưng diện
tích đất đai thực tế lại lớn hơn rất nhiều so với con số thống kê trong địa bạ và được sử
dụng dưới nhiều hình thức khác nhau trong làng xã. Thực trạng sở hữu đất đai này cho
thấy mặc dầu nhà Nguyễn đã rất nỗ lực trong việc quản lý ruộng đất ở địa phương,
nhưng việc nắm được toàn bộ diện tích ruộng đất ở làng xã, nhất là diện tích được cày
cấy để đánh thuế đã vượt ra ngoài khả năng của vương triều Nguyễn.
Ngoài ra, trong 5 tổng với 40 xã, thôn ở Nam Đàn được ghi chép trong địa bạ
chỉ có 01 người sở hữu trên 50 mẫu đất với tổng diện tích là 58 mẫu 7 sào 3 tấc chiếm
0,51% diện tích; số còn lại chủ yếu là các lớp sở hữu từ 1 - 10 mẫu đất chiếm 71,75%
diện tích. Điều đó cho thấy, trên địa bàn huyện Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ
1802 - 1884 chỉ có tầng lớp địa chủ nhỏ, còn địa chủ lớn và vừa chỉ là hiện tượng hi
hữu. Đặc biệt, việc nhiều quan chức địa phương (Lý trưởng, Chánh tổng...) chỉ sở hữu
từ 1- 3 mẫu đất cho thấy quá trình địa chủ hoá tầng lớp chức dịch địa phương ở Nam
Đàn suốt khoảng thời gian đề tài xác định diễn ra chậm, không giống với một số nhận
định trong các công trình đã công bố trước đây.
Trong nông nghiệp, quan hệ bóc lột theo hình thức địa tô truyền thống giữa
những địa chủ nhỏ với nông dân làng xã tiếp tục được duy trì và trở thành một trong
những quan hệ phổ biến trong đời sống xã hội ở Nam Đàn. Tuy nhiên, việc mỗi gia
đình địa chủ chỉ sở hữu từ 1 - 10 mẫu đất dẫn đến một thực tế là số lượng thành viên
làng xã chịu sự bóc lột của địa chủ không lớn. Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của quan
hệ cộng cư, huyết thống, tín ngưỡng, tôn giáo... mà mức thu tô thuế của tầng lớp địa
chủ nhỏ đối với số nông dân cày thuê, cuốc mướn không quá cao. Điều này dẫn tới
mâu thuẫn giữa địa chủ nhỏ và vừa với nông dân làng xã thời kỳ 1802 - 1884 không
gay gắt, quyết liệt như một số địa phương khác ở Việt Nam thời bấy giờ.
5.3. Nông nghiệp Nam Đàn phản ánh rõ nét bức tranh kinh tế tiểu nông tự
cung tự cấp lỗi thời và lạc hậu
Ở nửa đầu thế kỷ XIX, nông nghiệp vẫn là nguồn sống chủ yếu của hơn 90%
dân cư và là hoạt động chính yếu, cung hiến tài nguyên cho nhà nước. Vì vậy, các vua
Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đều rất coi trọng, quan tâm đến nông nghiệp. Tuy
130
nhiên, trong phạm vi kinh tế, do sự chi phối của tư tưởng bảo thủ cấu tạo giai cấp nhà
Nguyễn đã không có một tầm nhìn đầy đủ về sự phát triển chung của xã hội, nhất là
tầm quan trọng của sự phát triển công thương nghiệp. Đối với các vua triều Nguyễn,
nông nghiệp vẫn là cơ bản, là cái gốc của sự ổn định và phát triển xã hội mà quên mất
thực tế trước mắt là tình hình ruộng đất và nông nghiệp không còn như các triều đại
trước đó [170, tr.171]. Những nỗ lực của nhà Nguyễn trong việc phát triển nông
nghiệp như: khẩn hoang, phục hóa, trị thủy, thủy lợi, miễn giảm tô thuế, khuyến khích
đại bộ phân cư dân về quê khôi phục sản xuất, cứu tế dân nghèo lúc mất mùa, dịch
bệnh, đói kém, thiên tai, đã có những tác dụng tích cực đối với nông nghiệp. Nhưng
trong vị thế là một triều đại đang trên bước đường suy tàn của chế độ phong kiến,
những hạn chế về giai cấp, cùng thái độ chưa kiên quyết và thiếu sự quản lý thống
nhất, toàn diện, mà những nỗ lực của nhà Nguyễn đã không giải quyết được các vấn đề
cấp thiết liên quan đến nông nghiệp. Càng về sau, dưới tác động của tình hình ruộng
đất, sức ép dân số, sự đình đốn trong sản xuất, cùng thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói
kém, khiến hiện tượng bần cùng, phá sản của nông dân ngày càng nghiêm trọng, nông
nghiệp rơi vào tình trạng khủng hoảng trong sự lạc hậu, trì trệ, lỗi thời, không đảm bảo
được đời sống của người nông dân trong làng xã.
Trong bối cảnh chung của bức tranh nông nghiệp nước ta dưới triều Nguyễn,
nông nghiệp huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 không có nhiều thay đổi so với các
thế kỷ trước. Cơ bản vẫn là một nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cung tự cấp lỗi
thời, lạc hậu, lấy trồng trọt, chăn nuôi với quy mô hộ gia đình làm nền tảng. Công cụ
lao động, giống cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, cách thức làm đất, gieo cấy, thu hoạch
vẫn là sự kế thừa các phương thức canh tác truyền thống của các thế hệ cha, ông đi
trước. Quy mô sản xuất và năng suất mùa vụ luôn trong tình trạng bấp bênh trước diễn
biến bất thường của điều kiện tự nhiên, họa thiên tai. Do đó, nếu nhìn từ góc độ ngành
trồng trọt thì rõ ràng sự bấp bênh, trì trệ, lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên là phổ biến.
Đây cũng là nét chung so với ngành trồng trọt ở các huyện khác trong phủ Anh Đô nói
riêng và toàn trấn/tỉnh Nghệ An nói chung. Thực tế này minh chứng rõ thêm cho
những ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục chính biên,
Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí về tình trạng mất mùa, đói kém
diễn ra liên miên ở trấn/tỉnh Nghệ An, buộc các vua nhà Nguyễn phải xuống chiếu
miễn thuế hay mở kho lương phát chẩn cho dân ở lưu vực sông Lam trong thế kỷ XIX.
Điểm đáng lưu ý trong tình hình nông nghiệp của cư dân làng xã ở Nam Đàn là
131
một bộ phận dân nghèo ít ruộng, hoặc không có ruộng để cày cấy đã tiến hành khai
thác diện tích đất phù sa ven sông Lam, đất gò đồi bán sơn địa, hay cả sườn núi Đại
Huệ, Thiên Nhẫn để biến thành các trại (rày) để trồng trọt, chăn nuôi. Sản phẩm nông
nghiệp thu được từ các trại (rày), vùng đất khai hoang, hay trong mảnh vườn của các
hộ gia đình đã góp phần không nhỏ giúp cư dân làng xã Nam Đàn vượt qua đói kém,
mất mùa, giáp hạt hàng năm.
Trong diện tích công điền, tư điền do nhà nước quản lý, thống kê địa bạ có đề
cập đến ruộng chùa, đây là loại ruộng mang tính chất tôn giáo, tín ngưỡng. Ruộng
chùa có nguồn gốc từ lâu đời, đây là loại ruộng được nhà nước ban cấp trong làng xã
nơi có các công trình tâm linh hoặc do tăng ni, phật tử, những người đỗ đạt thành
danh, những gia đình giàu có ở địa phương vì yếu tố tín ngưỡng mà cung tiến. Việc sử
dụng ruộng chùa do tăng ni, phật tử và cư dân trong làng cày cấy, hoa lợi thu được do
nhà chùa quản lý, sử dụng vào mục đích duy trì sinh hoạt tôn giáo. Trên mảnh đất
Nam Đàn nơi “cổ tích thần thiêng”, tiếng gõ mõ, chuông chùa, tiếng tụng kinh của
tăng ni, phật tử vào mỗi buổi sáng hay lúc hoàng hôn trong các ngôi chùa, cùng hình
ảnh mái đình, cây đa, giếng nước, từ bao thế kỷ trước tiếp tục tồn tại gắn kết mọi thành
viên trong làng xã, góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của
cộng đồng cư dân vùng hạ lưu sông Lam.
Trong 40 địa bạ mà chúng tôi tiếp cận, diện tích ruộng họ và ruộng học điền
không được đề cập chi tiết như các loại ruộng đất khác trong tổng diện tích đất đai của
huyện Nam Đàn. Tuy nhiên, trong thực tế những diện tích này là đất dân thôn, trích
lục từ ruộng đất tư. Nguồn tư liệu gia phả các dòng họ Nguyễn Cảnh, họ Lê (Xuân
Hoà), Nguyễn Văn (Xuân Lâm), Nguyễn Đức (Khánh Sơn), Vương Đình (Thị trấn),
Bùi Danh, Bùi Hữu (Thanh Thuỷ) và một số dòng họ danh gia khác cho biết, trong
những dòng họ này thường có từ 05 sào đến 01 mẫu ruộng họ. Toàn bộ diện tích này
được anh em trong dòng họ luân phiên cày cấy, hoa lợi thu được phục vụ cho hoạt
động cúng tế tổ tiên, ông bà hàng năm. Ngoài ra, theo Hương ước của làng Yên Lạc,
làng Đa Lạc, Chung Tháp, Tự Trì, Hoành Sơn, Trung Cần, Khoa Trường mà chúng tôi
tiếp cận được có đề cập đến việc cư dân làng, xã có dành từ 2 - 3 mẫu ruộng từ Nhất
đẳng điền đến Nhị đẳng điền để ban cấp cho những hộ gia đình có con cháu theo
nghiệp đèn sách bút nghiên lo việc cày cấy. Nhà nước không đánh thuế các diện tích
ruộng họ và ruộng học. Khi thi đỗ Cử nhân hoặc Tiến sĩ, Phó bảng (cả ngạch văn và
132
ngạch võ), ngoài việc dân làng võng, lọng đón rước theo nghi thức khác nhau, thì các
tân Cử nhân, Tiến sĩ, Phó bảng sẽ được dân làng cấp cho 03 sào đến 05 sào đất ruộng
và 01 đến 02 sào đất để dựng nhà cửa. Trường hợp Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, Thám
hoa Nguyễn Đức Giao, Tiến sĩ Vương Hữu Phu, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc [170],
được dân làng cấp ruộng đất sau khi đỗ đạt cho gia đình cày cấy là những minh chứng
cho thấy, bộ máy chức sắc và cư dân trong làng, xã ở huyện Nam Đàn rất coi trọng
đạo học, luôn khuyến khích việc học đối với con em trong làng xã.
Ở Nam Đàn, trong nông nghiệp ngoài nghề trồng lúa đóng vai trò chủ đạo thì
nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu là để cung cấp nguồn thực phẩm phục vụ
trong bữa ăn gia đình, tận dụng sức kéo, lấy phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Ngoài việc các gia đình tự chăn nuôi một số gia súc, gia cầm của mình còn tồn tại hình
thức nuôi rẽ (thuê) trâu, bò cho những gia đình giàu có. Đây là một hiện tượng phổ
biến trong nghề chăn nuôi trong làng xã, những người nhận nuôi rẽ trâu bò thường là
những gia đình không có trâu, bò hoặc có thì số lượng rất ít, họ nhận nuôi rẽ là để tận
dụng sức kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp trong gia đình. Ngoài ra, trong sự thỏa
thuận về tỷ lệ chia 50/50 (nếu bán đi, hoặc trâu, bò sinh con) giữa chủ sở hữu trâu bò
và người nuôi rẽ cho thấy người nhận nuôi cũng có thể sinh lợi khi trâu, bò sinh sản
tốt, hoặc bán được giá.
Hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ sản dọc đôi bờ sông Lam, các sông suối,
bàu, hồ nới có diện tích mặt nước vẫn tiếp tục được duy trì với các loại phương tiện và
cách thức khai thác truyền thống như: lưới, vó, nơm, nhủi, câu, lờ, hoặc be bờ dùng
gàu sòng, gàu giai tát cạn nước để đánh bắt. Mọi thành viên trong làng xã đều có thể
tham gia vào hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ sản, bởi hầu hết các sông, suối, ao, hồ
đều có nguồn gốc tự nhiên, phân bố ở hầu khắp các làng xã. Đặc biệt, một số làng như
làng Trung Hoà, làng Leo, Nam Bình, Đông Giai, Xóm Hố (Diên Lãm), Phú Thọ, Tầm
Tang, Khoa Trường, còn có việc dân làng tổ chức khai thác cá ở bàu Láng, bàu Lầm
vào dịp cuối năm. Theo lệ, cuối mùa lũ, người ta cấm mọi thành viên trong làng được
khai thác cá ở các hồ, bàu, trọt... Đến dịp cuối năm (thường sau rằm tháng 12 đến
25/12 âm lịch), chức sắc trong làng chọn ngày tốt và cho phép mọi thành viên làng xã
cùng tham gia đánh bắt, khai thác thủy sản (tiếng địa phương gọi là vậy trọt) trong các
diện tích đầm, hồ.
Trong nghề khai thác thủy sản, sự hiện hữu của các vạn thuỷ cơ (các làng
chuyên nghề đánh cá) trên địa bàn huyện Nam Đàn, cho thấy hoạt động khai thác thuỷ
133
sản đã trở thành một nghề chính yếu (không canh tác nông nghiệp) của một bộ phận cư
dân sống dọc theo đôi bờ sông Lam.
Sự tồn tại dai dẳng của nền kinh tế nông nghiệp mang tính tiểu nông tự cung tự
cấp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta nói chung, trấn/tỉnh Nghệ An và Nam Đàn nói riêng
suốt thế kỷ XIX đẩy các ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống vào tình trạng
không thoát ly hẳn khỏi nông nghiệp. Chính sách thuế khóa của Nhà nước đối với thủ
công nghiệp ở địa phương khá nặng nề, tùy tiện truy thu theo quy định của từng địa
phương, cùng việc độc quyền mua bán sản phẩm thủ công với giá rẻ, khiến cho đời
sống của thợ thủ công, các nghề thủ công truyền thống trong làng xã luôn trong tình
cảnh khó khăn, không có động lực phát triển. Hậu quả là, trên đất Nghệ An, ngoài một
số làng nghề truyền thống như: Nghề làm nồi đất ở Trù Ú, Đại Sơn (Đô Lương), nghề
làm nước mắm ở Vạn Phần (Diễn Châu), nghề đóng thuyền ở Trung Kiên (Nghi Lộc)
phát triển, trở thành những làng nghề với quy mô lớn, còn hầu hết các nghề thủ công
truyền thống khác ở các phủ, huyện đều chỉ là nghề phụ, sản phẩm làm ra chủ yếu tiêu
thụ tại chỗ ở các chợ làng, xã, chợ tổng, chợ huyện, hoặc giao thương nội vùng giữa
các địa phương lân cận trong tỉnh là chính. Thậm chí một số nghề thủ công truyền
thống còn bị mai một dần. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến một thực tế
là: thời kỳ 1802 - 1884, mặc dù có nhiều chợ, quán được phân bố khắp nơi trong làng,
xã đến tận phủ huyện, song, trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ An, chưa hình thành một tầng
lớp thương nhân hoàn toàn thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp và thiếu hẳn những làng
nghề truyền thống đủ khả năng sản xuất những sản phẩm có mặt ở hầu khắp các tỉnh
thành trong cả nước hay xuất khẩu. Tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp Nam Đàn
vẫn là những gam màu phụ trong bức tranh kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp.
5.4. Tác động của kinh tế Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 đến các hoạt động
văn hóa, xã hội
Trong bối cảnh nền kinh tế ở khu vực nông thôn dưới triều Nguyễn nửa đầu thế
kỷ XIX vẫn ở trong giai đoạn kinh tế thực sinh, tự cung tự cấp đóng chặt trong khung
cảnh của làng xã. Sản phẩm nông nghiệp hầu như chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ, trong
khi các hoạt động thủ công nghiệp, thương nghiệp được xem là những hoạt động phụ,
bổ trợ cho hoạt động chính yếu là nông nghiệp. Nếu các vua nhà Nguyễn có một chính
sách kinh tế, thì chính sách ấy cũng chỉ chú trọng đến việc chấn hưng và khuếch
trương nông nghiệp [2, tr.320].
134
Trên nền tảng thực trạng kinh tế đó, hoạt động văn hóa, xã hội của cư dân trên
địa bàn huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884, không có nhiều biến động, cấu trúc xã
hội và lực lượng xã hội về căn bản vẫn giữ nguyên như các thời kỳ trước với các giai
cấp, tầng lớp như: địa chủ và nông dân, thợ thủ công và thương nhân, cùng các tầng
lớp sĩ phu văn thân và quan lại địa phương. Có thể thấy, trên phương diện tổng quan
của xã hội, trật tự “sĩ, nông, công, thương” và các quan hệ gia đình dựa trên nền tảng
tư tưởng Nho giáo có vai trò chi phối đối với đời sống xã hội và văn hóa trong ở Việt
Nam nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng.
Dưới thiết chế chính trị - xã hội quân chủ thời Nguyễn, trong cơ cấu xã hội
nông dân là giai cấp chiếm đa số trong làng xã, họ là lực lượng chính tạo ra của cải cật
chất nuôi sống toàn bộ xã hội. Trong thế kỷ XIX, qua các nguồn tài liệu liên quan đến
huyện Nam Đàn đều cho thấy: do điều kiện địa hình, thổ nhưỡng và chính sách của
các triều đại phong kiến nên kinh tế nông nghiệp nơi đây chủ yếu là tự cấp tự túc, sản
lượng và năng suất bấp bênh, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, tình hình
sở hữu ruộng đất huyện Nam Đàn thời Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX hiện tượng
ruộng đất bị bao chiếm bởi nạn cường hào ở địa phương khá phổ biến khiến cho nông
dân không có ruộng đất đề cày cấy diễn ra hầu hết ở các làng xã trong huyện. Mặt
khác, tình trạng thiên tai, dịch bệnh hoành hành, cộng với sự nhũng nhiễu của quan lại
cường hào chốn hương thôn đã đẩy hàng loạt nông dân Nam Đàn vào con đường bần
cùng hóa, phải phiêu tán khắp nơi.
Trong thế kỷ XIX, thủ công nghiệp ở Nam Đàn được biết đến với sự tồn tại của
hơn 20 nghề (đã được thống kê ở phần trên), đã cho thấy sự đa dạng về các nghề, làng
nghề thủ công, mặt khác còn phản ánh lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động sản
xuất thủ công nghiệp là tương đối lớn. Dưới triều Nguyễn, các nghề, làng nghề thủ
công ở Nam Đàn vẫn mang tính chất là ngành hỗ trợ cho nông nghiệp, do vậy quy mô
phát triển của các nghề thủ công chỉ ở mức vừa phải, chủ yếu phát triển dựa trên
những nguồn lực sẵn có ở địa phương, sản phẩm của “những hàng ấy cũng đủ dùng
trong dân gian mà người làm nghề cũng chỉ đủ ăn mà thôi” [106; tr.221]. Tuy nhiên,
không vì thế mà tầng lớp thợ chủ công nơi đây lại thua thiệt về kỹ thuật, hạn chế về độ
tinh xảo trong các sản phẩm nghề, mà trái lại một số nghề, làng nghề ở Nam Đàn với
nhiều sản phẩm thủ công có giá trị thương phẩm cao, chất lượng tốt được nhiều nơi
135
biết đến như: đồ gốm, đồ mộc, vải tơ lụa, rổ rá, nong nia, gạch, ngói, đá ong, tương,
đường mật... chủ yếu phục vụ nhu cầu giao thương nội vùng.
Sự đa dạng về ngành nghề trong nông nghiệp và thủ công nghiệp đã tạo ra
nhiều sản phẩm đáp ứng như cầu thiết yếu của đời sống nhân dân, đồng thời tạo điều
kiện cho thương nghiệp ở Nam Đàn phát triển. Trong quan niệm của người Việt xưa
cho rằng, thương nghiệp với nghề chủ đạo là hoạt động kinh doanh, buôn bán, trao đổi
chỉ là “buôn thúng bán mẹt”, “mua thừa bán thiếu”, mua chỗ này rẻ rồi bán chỗ kia
đắt, ăn chênh lệnh, không làm ra của cải vật chất, sản phẩm tinh thần cho xã hội. Do
vậy, trong xã hội tầng lớp thương nhân, người làm nghề buôn bán được xếp vào hàng
thấp nhất trong “tứ dân”. Dưới triều Nguyễn, với hệ thống chợ từ chợ trong làng, xã
đến chợ tổng, chợ huyện mà tầng lớp thương nhân, người làm nghề buôn bán ở Nam
Đàn khá phát triển về số lượng, họ tập trung ở chốn thị tứ Sa Nam cho đến chợ làng
xã, tận các làng nghề khắp vùng nông thôn. Đến nay, chưa có tài liệu nào thống kê về
số lượng thương nhân làm nghề buôn bán trong các tư liệu liên quan đến huyện Nam
Đàn, nhưng căn cứ sự phát triển quy mô các chợ và hệ thống chợ từ chợ làng, xã, chợ
tổng đến chợ huyện đã phần nào đã phản ánh được lực lượng này.
Thương nhân ở Nam Đàn hầu hết là người buôn bán nhỏ lẻ, do nền kinh tế tự
cấp tự túc với quan niệm “dĩ nông vi bản” cùng tư tưởng “trọng nông ích thương” nên
lề lối làm ăn buôn bán của họ cũng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ cho cư dân nông
nghiệp là chính. Dưới triều Nguyễn, Nam Đàn được xem là đất trung tâm của xứ
Nghệ, nơi đóng thành phủ Anh Sơn, sự phát triển của mạng lưới giao thông cả đường
thủy lẫn đường bộ đã tạo điều kiện cho hoạt động buôn bán trao đổi diễn ra khá nhộn
nhịp. Sự phát triển mạnh của hệ thống chợ từ chợ huyện cho đến chợ làng, xã phát
triển trên khắp vùng đất Nam Đàn đã tạo điều kiện cho tầng lớp thương nhân phát triển
về cả số lượng lẫn hàng hóa buôn bán giao thương. Tuy nhiên, lúc bấy giờ so với các
tầng lớp khác trong xã hội Nam Đàn, tầng lớp thương nhân cũng không có đủ cơ hội
và điều kiện để trở thành một tầng lớp xã hội đông đảo, có tiềm lực kinh tế.
Xét trên phương diện đời sống, về cơ bản những hộ gia đình có làm nghề buôn
bán thương nghiệp ở Nam Đàn thường có điều kiện dư giả hơn so với cư dân làm nông
nghiệp thuần túy. Nhưng khi nhà Nguyễn tìm mọi cách đề cao sự học, tôn trọng sĩ tử,
có những chính sách miễn giảm binh dịch, phu phen; trong các làng, xã thuộc tổng
136
Non Liễu, Lâm Thịnh, Nam Kim ở huyện Nam Đàn còn dành toàn bộ hoa lợi của
ruộng học điền để phục vụ cho người theo nghiệp đèn sách; trong hương ước của làng
còn quy định việc đón rước người đỗ đạt trong ngày vinh quy bái tổ... Thì rõ ràng,
những người buôn bán dù có ít tiền của, nhưng họ khó lòng nhận được sự tôn trọng từ
chính anh em trong dòng họ và cả bà con lối xóm. Không những thế, trong buôn bán,
dù quy mô còn nhỏ lẻ nhưng họ phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng của nhà nước, chịu
sự chi phối của định kiến xã hội về nghề nghiệp mưu sinh. Đây chính là một trong
những nguyên nhân sâu xa dẫn đến thực trạng cả trấn/tỉnh Nghệ An suốt thế kỷ XIX
không có được một tầng lớp thương nhân giàu có, sống tách biệt khỏi làng xã, cho dù
những chợ có quy mô lớn trong tỉnh như chợ Giát, chợ phủ Diễn, chợ Vinh, chợ Sa
Nam, chợ Tràng... hội đủ nhiều yếu tố thuận lợi để buôn bán và phát triển.
Trong thời kỳ 1802 - 1884, dưới tác động của kinh tế, các hoạt động văn hóa,
đời sống xã hội của cư dân trong làng xã ở Nam Đàn diễn ra không thay đổi nhiều so
với các thời kỳ trước. Người nông dân Nam Đàn vẫn là tầng lớp đông đảo nhất, họ là
lực lượng lao động chính sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, nhưng chính họ
cũng là tầng lớp chịu nhiều áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa trong đời
sống xã hội. Các quan hệ xã hội bao trùm luôn xoay quanh mâu thuẫn chính: đó là
mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến thống trị chủ yếu là quan lại, địa chủ áp bức bóc
lột với đông đảo nhân dân lao động mà chủ yếu là nông dân. Do vậy, trong thế kỷ
XIX, dưới sự chỉ huy của tầng lớp sĩ phu không cam chịu sự áp bức của triều đình mà
ở khắp nơi trong cả nước, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra nhằm chống lại nhà
nước phong kiến. Các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuấn (1811), cuộc khởi nghĩa của
nông dân các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, La Sơn, Đông Thành, Quỳnh Lưu
(1813), khởi nghĩa của Lê Hữu Tạo (1818) và đặc biệt là khởi nghĩa của Lê Quang
Chấn (1823) và khởi nghĩa Giáp Tuất (1874) do Trần Tấn và Đặng Như Mai khởi
xướng đã cho thấy sức sống quật cường, ý chí và tinh thần đoàn kết, yêu nước, sẵn
sàng xả thân vì nghĩa lớn của các giai tầng ở Nam Đàn dưới thời Nguyễn.
Bùi Dương Lịch trong Nghệ An ký nhận xét hết sức tinh tế, chính xác về thực
trạng kinh tế, đời sống văn hóa, xã hội của người dân Nghệ An nói chung, Nam Đàn
nói riêng đầu thế kỷ XIX “Do đất xấu dân nghèo nên chịu khổ nhẫn nại, cần cù kiệm
ước đã quen nề nếp”, tuy nhiên trong đời sống họ “đều vui vẻ công việc sẵn sàng vì
137
nước, có lòng tôn quân thân thượng và biết lễ nghĩa liêm sỉ. Phong tục thuần hậu chưa
từng bị gián đoạn bao giờ” [106, tr.223]. Mối quan hệ trong làng xã, trong thành phần
cư dân, trong từng gia đình, mang đặc điểm cụ thể là các tầng lớp thường hòa quyện,
gắn bó với nhau mà không có sự phân định rạch ròi. Trong nghề nghiệp của cư dân, rất
khó để tìm được một gia đình kẻ sĩ thuần túy cũng như một gia đình chỉ hoàn toàn chỉ
làm nghề thủ công hay buôn bán ở làng quê. Do vậy, bên cạnh sự phân loại cư dân
theo tiêu chuẩn “tứ dân” kể trên, trong các làng xã ở Nam Đàn thời Nguyễn còn có
cách phân hạng khác là dựa vào địa vị chính trị, thứ bậc xã hội và tuổi tác để xác định
ngôi thứ trong làng. Có nhà nghiên cứu gọi đây là “những quan hệ xã hội làng theo
trục đứng mà nét nổi bật là sự phân biệt giữa quan viên và bạch đinh, giữa già và trẻ,
giữa trên và dưới, giữa nam và nữ, giữa chính cư và ngụ cư” [122, tr.122].
Trong sinh hoạt đời sống, đại bộ phận cư dân ở 6 tổng, 65 xã thôn ở Nam Đàn
suốt thời kỳ 1802 - 1884 vẫn định cư và cộng cư trong các đơn vị làng xã cổ truyền
theo quan hệ địa vực (gắn với không gian cụ thể), kết hợp với quan hệ huyết thống (gia
đình, dòng họ) và các quan hệ khác như nghề nghiệp, lớp tuổi, vị thứ xã hội, tín
ngưỡng tôn giáo. Dưới triều Nguyễn, từ Gia Long đến Minh Mệnh đã ban hành nhiều
chính sách nhằm đưa dân cư phiêu tán trở về quê sản xuất, cho lập địa bạ nhằm chia lại
ruộng đất, tiếp tục trị thủy, làm công tác thủy lợi, thanh toán tình trạng ruộng đất bị bỏ
hoang, chỉnh đốn lại phong tục ở hương thôn, cải tổ bộ máy hành chính xã thôn nhằm
“khép chặt lại tính tự trị của làng xã” để nâng cao sức tập quyền của nhà nước phong
kiến. Mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm của triều Quang Trung, nhưng vấn đề đặt ra
thực không đơn giản và kéo dài dai dẳng suốt thể kỷ XIX. Ở Nghệ An nói chung, Nam
Đàn nói riêng cũng nằm trong tình trạng chung đó [71, tr.176] .
Đối với mỗi gia đình, nhà là nơi diễn ra mọi sinh hoạt giữa các thành viên trong
đời sống hàng ngày, là biểu trưng về cơ sở vật chất cho thấy hoàn cảnh sống của một
hộ gia đình trong bình diện chung của toàn bộ cư dân trong một khu vực cư trú. Nhà ở
của nhân dân Nam Đàn vừa mang những nét chung về kiến trúc của cư dân làng xã
Việt Nam nhưng đồng thời cũng mang những nét riêng khác biệt nhằm phù hợp với
hoàn cảnh sống cùng sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên.
Về cấu trúc, kiểu nhà phổ biến thông thường của bà con ở Nam Đàn là “nhà hạ
chạn” và nhà tứ trụ [78, tr.255]. Đối với nhà tứ trụ thường có bốn mái, cấu trúc các vì
138
kèo, cột cái thường thấp đặc biệt ở gian chính ngôi nhà số lượng cột cái nhiều hơn so
với cái kiểu nhà ở nơi khác. Nhà được thưng bằng gỗ hoặc xây tường bằng gạch, có ít
cửa sổ, xung quanh thường có các chái hai bên và mái hắt phía sau hè nhằm mục đích
tránh mưa bão gió tạt về mùa mưa và làm mát cho ngôi nhà về mùa hè. Kiểu “nhà hạ
chạn” là kiểu nhà cải tiến từ nhà sàn của đồng bào dân tộc miền núi được bà con nhân
dân Nam Đàn ở khu vựa tả và hữu ngạn sông Lam rất ưu chuộng, ngôi nhà thường cưa
hạ phần cột từ sàn nhà xuống so với nhà sàn truyền thống, sau đó thợ dựng nhà đục
đóng các mấu kèo, đầu trếnh xuống nền đất cho vững chãi sau đó dựng nhà, nhà làm
xong còn làm thêm gác chạn. Đối với nhà hạ chạn, phần đường hoành chạy xuyên suốt
cả vì nhà khiến cho người nhìn có cảm giác nặng nề, thô cứng, nhưng lại làm tăng độ
vững chãi cho cả ngôi nhà nhằm giúp ngôi nhà chịu được các trận gió lốc mùa mưa
bão, đồng thời còn là nơi cất gác tài sản, hay ẩn trú của các thành viên trong gia đình
trong các trận lụt thường xuyên diễn ra ở vùng hạ lưu sông Lam [78, tr.256].
Ngoài hai loại nhà kể trên, còn một kiểu nhà nữa rất phổ biến đối với các hộ
dân nghèo trong làng xã, đó là những ngôi nhà làm bằng tranh tre, nứa mét. Những
ngôi nhà này không cầu kì ở cột cái, đường hoành hay các thanh cầu phong mà là sự
tối giản trong vật liệu dựng nhà. Bao quanh nhà là tường được thưng bằng nứa mét đan
thanh từng liếp hoặc tường nhà được bôi trét vằng bùn đất trộn với rơm rạ được cắt
nhỏ, bên trong có khung bằng tre, nứa mét gia cố cho tường nhà thêm phần vững chãi.
Tóm lại, dù là loại hình nào thì kết cấu chung nhất cũng phải có gian chính và
các gian phụ. Gian chính, nơi trung tâm của ngôi nhà dùng để đặt bàn thờ gia tiên, tùy
vào điều kiện của gia chủ mà gian chính có bộ trường kỉ, ngựa gỗ hoặc bộ bàn ghế,
chõng tre làm nơi tiếp khách. Còn gian trong (gian phụ) là nơi sinh hoạt, nghỉ ngơi của
các thành viên trong gia đình, cũng là nơi cất giữ của cải vật chất, các vật dụng quan
trọng, ngoài ra còn là chỗ để bố trí chạn gác.
Với mật độ dân cư tập trung ở những vùng đồng bằng nhỏ hẹp, bị cắt xẻ, xen
lẫn bởi ao hồ, gò đồi cùng diện tích canh tác nông nghiệp, đã khiến cho diện tích cư trú
của các hộ gia đình thường không rộng rãi như ở các huyện khác. Tuy nhiên, không vì
thế mà không gian của từng hộ gia đình thiếu đi mảnh vườn, sân phơi hay lối đi thoáng
đãng tiện cho việc sinh hoạt, đi lại và lao động sản xuất. Kiến trúc nhà ở cùng cấu kiện
139
của làng, xã mang đậm nét văn hóa truyền thống cộng đồng của toàn bộ cư dân vùng
hạ lưu sông Lam, vừa mang tính tự trị của từng ngôi làng, từng ngôi nhà ở trong làng
trong xã. Tất cả những giá trị đó phản ánh sự thuần phác trong đời sống văn hóa của
cư dân nông nghiệp Nam Đàn.
Do kinh tế khó khăn, việc mặc của cư dân làng xã Nam Đàn cũng gần như
không thay đổi so với các thế kỷ trước. Đại bộ phận cư dân làng xã vẫn chỉ có các kiểu
áo quần, váy (mấn) được may từ các loại vải thô, rẻ tiền bán ở các chợ làng xã, phủ
huyện. Để giữ độ bền, người ta nhuộm nâu (ở chợ Sa Nam, chợ Chùa, chợ Rồng, chợ
Hữu Biệt... đều có quầy nhuộm vải). Những gia đình giàu có phải xuống chợ Vinh đến
“phố Khách” (phố của thương nhân Hoa kiều) mới mua được các loại nhung, lụa tốt để
may quần áo. Khi ốm đau, giống như cha ông từ nhiều thế kỷ trước các bài thuốc nam,
nồi lá nước xông... là phương thức chữa bệnh phổ biến. Chỉ khi ốm nặng mới nhờ thầy
thuộc đến thăm mạch, sau đó kê đơn, rồi ra quầy thuốc Bắc ở chợ cắt thuốc đem về sắc
uống. Từ đời này qua đời khác lối sống chốn hương thôn chẳng có gì đổi khác.
Cấu trúc làng ở huyện Nam Đàn mang nhiều điểm tương đồng với các làng quê
vùng Bắc Bộ, nhưng có nét “mở” hơn về cấu trúc. Nếu làng Bắc Bộ là cổng làng,
thành gạch, lũy tre và các biểu trưng như đình, chùa, miếu, cây đa, bến nước, giếng
làng… đã trở thành những điểm nhấn hàm chứa tính cố kết của cộng đồng, khép kín
với các mối quan hệ đan xen, thì làng ở Nam Đàn nói riêng những yếu tố đó có phần
phai nhạt hơn. Giải thích cho những đặc điểm trên chính là sinh cảnh mà cư dân chọn
lựa làm nơi dựng làng, lập ấp chính là việc con người nơi đây phải dựa vào núi, đối
diện với biển, sông nước để tồn tại. Ở huyện Nam Đàn, trong làng chỉ có một đến hai
cái giếng đào, xây bằng đá ong, hoặc đá núi để mọi thành viên trong làng xã sử dụng,
hiện nay ở các xóm trên địa bàn huyện vẫn còn những giếng làng cách đây hàng thế kỷ
như xóm Hố, xóm Đông Nam, làng Leo (xã Diên Lãm) mỗi làng có 1 giếng; làng Tự
Trì, làng Kim Liên, làng Chung Tỉnh, làng Xuân La, làng Hữu Biệt thuộc tổng Xuân
Lâm mỗi làng có 2 giếng; thôn Cống Lao (Thanh Thuỷ) có 1 giếng; làng Khoa
Trường, làng Phú Thọ, làng Tầm Tang, thuộc tổng Bích Triều; làng Hoành Sơn, làng
Trung Cần thuộc tổng Nam Kim cũng chỉ có 1 giếng [72], [80]. Con đường vào làng
được đắp bằng đất, có chiều rộng chỉ 2 - 3 m, chạy ngoằn nghèo từ đầu làng đến cuối
làng, phục vụ cho nhu cầu đi lại và sản xuất của cư dân. Mỗi làng thường có 1 điếm
140
canh, do dân đinh trong làng luân phiên canh giữ từ tối cho đến mờ sáng. Theo khảo
sát của chúng tôi, trong tổng số 65 làng, xã ở Nam Đàn chỉ có 38 làng xã xây dựng
được đình làng, chiếm hơn 58%, trong đó nổi tiếng có: đình làng Dương Liễu, đình
làng Nam Kim, đình làng Trung Cần, đình làng Hoành Sơn, đình làng Khoa Trường,
đình làng Phú Thọ, đình làng Trung Hoà, đình làng Thanh Thuỷ, đình làng Yên Lạc,
đình làng Yên Hồ, đình làng Thịnh Lạc, đình làng Kim Liên, đình làng Hữu Biệt, đình
làng Chung Cự, đình Khả Lãm [77], [75]. Mọi công việc lớn nhỏ trong làng từ thuế
khoá, binh dịch, lao dịch, phu phen, hôn thú, tang ma, đến giữ gìn an ninh trật tự,
chống hoả hoạn, đón rước người thi cử đỗ đạt về vinh quy bái tổ hay tế lễ thần hoàng
làng, giải quyết mâu thuẫn giữa các hộ gia đình trong làng đều do bộ máy chức dịch
trong làng đảm nhiệm. Góc chiếu giữa đình làng phản ánh rõ nét thân phận, địa vị của
từng hộ gia đình, gia tộc, dòng họ, dân chính cư hay dân ngụ cư. “Đất lề quê thói” mọi
công việc ở làng xã vẫn diễn ra theo trật tự dường như bất biến đó, “phép vua thua lệ
làng” được xem là khuôn thước trong mọi quan hệ xã hội diễn ra trong làng.
Về đời sống tôn giáo tín ngưỡng, các làng xã thường có từ 2 đến 5 đền, miếu
thờ các vị Nhân thần và Nhiên thần. Chẳng hạn: làng Khả Lãm có đền Trầm Một (thờ
thần sông, thần núi), đền thờ vua Mai; xã Hương Lãm( Diên Lãm) có lăng miếu đền
thờ vua Mai, đền thờ Đức Ông, đền thờ Mẫu, đền thờ Hương Lâm Hầu Nguyễn Văn
Mệnh; xã Thanh Thuỷ có đền Nghè (thờ danh tướng Tây Sơn), đền thờ Mẫu, đền thờ
Nguyễn Cảnh Hoan (Mô); làng Phú Thọ có đền thờ thần Cao Sơn Cao Các, đền thờ
Thượng thư Bộ học Bùi Duy Nhượng, đền thờ Tống Tất Thắng... Bên cạnh hệ thống
đình, đền, miếu, ở Nam Đàn còn có cả một hệ thống chùa được xây dựng từ thế kỷ VII
đến thời Tây Sơn và cả trong thời Nguyễn. Tiêu biểu có chùa chùa Nhạn Tháp (xây
dựng thế kỷ VII), chùa Phúc Linh (chùa Hà), chùa An Lạc, chùa Vĩnh Phúc, chùa Đại
Tuệ, chùa Bà Đanh, chùa Viên Quang, chùa Lồi, chùa Phú Thọ [77]... Bên cạnh sự tồn
tại của Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, trong đời sống tôn giáo của cư dân trên địa bàn
huyện Nam Đàn còn có một số giáo dân theo đạo Thiên chúa sống tập trung ở Vạn
Lộc, Tràng Cật, Chung Tháp, Nhật Quang, Quy Chính, Tràng Đen [206]. Trong thời
kỳ 1802 - 1884, chính sách cấm đạo và sát đạo mà nhà Nguyễn duy trì đẩy toàn bộ
giáo dân ở Nam Đàn vào tình thế luôn sống trong lo âu, sợ hãi.
Trong mỗi làng, xã đều dành một vùng đất rộng, cao ráo, ít bị ngập lụt về mùa
141
mưa để làm bãi tha ma (mộ địa) - nơi chôn cất những người đã mất, theo kinh nghiệm
dân gian, bãi tha ma thường ở phía Tây hoặc Tây Bắc của làng. Phong tục tập quán thờ
cúng tổ tiên, truyền thống hiếu thảo với ông bà cha mẹ được cư dân làng xã Nam Đàn
rất đề cao. Ngoài mối quan hệ giữa thần dân với vua (Hoàng quyền - Thần dân), cư
dân trong làng xã ở Nam Đàn còn có các mối quan hệ huyết thống giữa ông bà, cha
mẹ, gia tộc, dòng họ. Bên cạnh đó, mối quan hệ bất thành văn “trong họ ngoài làng”,
“bán anh em xa mua láng giềng gần”, luôn ràng buộc, gắn kết mọi thành viên trong
làng xã. Cư dân làng xã ở Nam Đàn chỉ rời đất đai của ông bà tổ tiên khi phiêu tán đến
vùng đất mới để khai phá, dựng làng, lập xóm hoặc trong trường hợp tránh nạn binh
đao bởi chiến tranh, hoặc do thiên tai bão lũ, dịch bệnh, mất mùa đói kém phải bỏ quê
tha phương cầu thực nơi đất khách quê người.
Trong thời kỳ 1802 - 1884, sự đình đốn của kinh tế nông nghiệp khiến hiện
tượng bần cùng, phá sản của nông dân trở thành vấn đề cấp bách. Cùng với sự gia tăng
về dân số thì việc lực lượng lao động dư thừa (không có ruộng đất để sản xuất) ở vùng
nông thôn ngày càng nhiều. Để tận dụng lực lượng lao động tại địa phương, đáng lý
phải nhờ đến những hoạt động thủ công nghiệp và thương nghiệp. Tuy nhiên, lĩnh vực
này lại không được nhà Nguyễn coi là bản nghiệp, ngoài ra còn bị cản trở bởi chính
sách của nhà nước, đã dẫn đến tình trạng trong nhân dân, tinh thần cạnh tranh và quan
niệm tiến bộ không phát triển được. Trong bối cảnh đó, Nghệ An nói chung, Nam Đàn
nói riêng, nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp lỗi thời, lạc hậu tiếp tục duy trì, đời
sống nhân dân khó khăn, luôn phải đối mặt với nhiều mối họa bởi chiến tranh, thiên
tai, nghèo đói. Đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của cư dân làng xã ở huyện Nam
Đàn không có nhiều thay đổi trong suốt thời kỳ 1802 - 1884.
5.5. Những hạn chế mà nhà Nguyễn thực hiện trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị và văn hóa xã hội là nguyên nhân sâu xa đẩy nông dân làng xã Nam Đàn
vào tình cảnh mất mùa đói kém, phiêu tán và thậm chí là nổi dậy khởi nghĩa,
chống lại triều đình
Ngay khi lên ngôi Hoàng đế nắm quyền trị vì đất nước, vua Gia Long (1802 -
1819) đã thực thi chính sách đàn áp thẳng tay những người tham gia ủng hộ phong trào
nông dân Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (1771 - 1801). Theo tác giả Đỗ Bang, trong
cuốn sách Những khám phá mới về Hoàng đế Quang Trung [9], Nghệ An là đất tổ của
142
anh em Tây Sơn, dưới triều Gia Long một số con cháu họ Hồ ở làng Thái Lão (Hưng
Nguyên) và làng Xuân Hồ (Nam Đàn), trở thành nạn nhân của cuộc tàn sát thảm khốc
đó [9, tr.7 - 9]. Những người có quan hệ họ hàng xa với nhà Tây Sơn và từng ủng hộ
vương triều Tây Sơn trên địa bàn một số làng xã ở Non Liễu, Non Hồ, Xuân Lâm,
Kim Liên, Chung Tháp, Tự Trì... đã bị Gia Long dồn về sống tập trung dưới chân núi
Đại Huệ, lập thành trại Hữu Biệt (thuộc xã Nam Giang ngày nay) nhằm dễ bề kiểm
soát. Ngoài ra, những công trình được xây dựng trên đất Nghệ An dưới thời Tây Sơn,
đặc biệt liên quan đến họ tộc Tây Sơn đều bị đào bới, tháo dỡ, xoá bỏ. Vào đầu triều
Nguyễn vua Gia Long đã cho phá bỏ những dấu tích còn lại thời Tây Sơn trên vùng
đất này như thành Phượng Hoàng Trung Đô dưới chân núi Dũng Quyết (thuộc phường
Trung Đô, thành phố Vinh ngày nay), Sùng Chính thư viện (Nam Kim) do La Sơn phu
tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng.
Để nắm quyền quản lý đất đai trên toàn bộ lãnh thổ nước ta, từ Gia Long đến
Tự Đức, việc đo đạc, phân loại ruộng đất, lập sổ địa bạ, định mức thuế ruộng được
tiến hành khá triệt để trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Nhà Nguyễn đã bộc lộ thái độ đối
với vấn đề ruộng đất đó là phục hồi ruộng đất công cho dù các điều kiện kinh tế - xã
hội ở nửa đầu thế kỷ XIX đã có nhiều thay đổi [170, tr.54]. Tuy nhiên, chính sách
này đã đụng chạm đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp ở các địa phương. Đối với
nông dân, việc chia lại ruộng đất trong điều kiện quá trình tư hữu đã trở thành phổ
biến, ruộng đất công bị thu hẹp, ruộng đất không đủ để chia cho nông dân, hoặc có
chia thì không đều, như vua Gia Long đến cuối đời đã nhận định “Dân không đều
nhau đã lâu rồi, sao có thể nhất nhất đều nhau được” [170, tr.53]. Giai cấp địa chủ và
tầng lớp quan lại địa phương, nhất là bộ máy chức dịch từ Chánh tổng, Lý trưởng,
Phó lý trưởng, Hương bạ, Hương kiểm không được nhà nước trả lương và việc ẩn
lậu, bao chiếm, mua bán đất đai đã kéo dài từ nhiều thế kỷ trước, thì nay việc chia lại
ruộng đất, truy thu ruộng đất tư vào ruộng đất công khiến cho cuộc “đối chọi” giữa
Nhà nước và giai cấp địa chủ giành quyền kiểm soát nông thôn là một thực tế đã diễn
ra mà ruộng đất là vấn đề chủ chốt.
Căn cứ vào số liệu thống kê trong 40 địa bạ xã thôn thuộc huyện Nam Đàn thời
kỳ 1802 - 1884 cho thấy, hiện tượng chủ sở hữu trên 50 mẫu ở Nam Đàn rất ít (chỉ 01
chủ), lớp sở hữu từ 01 - 05 mẫu là chủ yếu. Dựa vào thực trạng sở hữu trên cho thấy
143
mâu thuẫn giữa Nhà nước và các chủ sở hữu là không gay gắt như nhiều địa phương
khác trong cả nước. Trên địa bàn phủ Anh Đô nói riêng, Nghệ An nói chung, đầu thế
kỷ XIX, chính sách bắt lính, phu phen tạp dịch do Gia Long, Minh Mạng... thực thi
ảnh hưởng trực tiếp đến mọi gia đình ở làng xã. Bên cạnh đó, trong xã hội vẫn còn cả
một tầng lớp trí thức Nho học chịu ân điển của nhà Hậu Lê và cả nhà Tây Sơn, không
dễ dàng thừa nhận địa vị thống trị của dòng họ Nguyễn Phúc.
Đặc biệt chính sách không đắp đê ngăn triều dâng dọc các làng xã ven biển và
đôi bờ tả hữu sông La, sông Lam mà nhà Nguyễn duy trì suốt thời kỳ 1802 - 1884, đẩy
đại bộ phận nhân dân Nghệ An, phủ Anh Đô vào tình trạng luôn phải đối mặt với nguy
cơ mất trắng lúa, hoa màu, thậm chí là nhà cửa. Theo ghi chép của Quốc sử quán triều
Nguyễn các năm 1807, 1811, 1823, 1825, 1842, 1853, 1867, 1873 [170, tr.105 - 109]...
Nghệ An lũ lụt, hạn hán, mất mùa, nhà Nguyễn phải miễn thuế và mở kho lương phát
chẩn cho dân. Tiếp cận 40 địa bạ cũng cho biết thêm tình trạng xâm canh trong sở hữu
đất đai ở Nam Đàn khá phức tạp, tình trạng bao chiếm ruộng đất công làm đất tư ở nửa
sau thế kỷ XIX của quan lại, địa chủ, chức dịch diễn ra phổ biến, đẩy nông dân Nam
Đàn vào tình trạng không có ruộng đất để cày cấy. Ngoài ra, chính sách “trọng nông”,
“ức thương” đã khiến cho hầu hết các ngành, nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An, Nam
Đàn luôn trong tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, không thoát ra khỏi được nền kinh tế
nông nghiệp mang tính tiểu nông ăn sâu bám rễ trong làng xã. Hoạt động nội thương
chủ yếu là mua bán, trao đổi các loại hàng hoá mang tính nội vùng theo cách thức
truyền thống, bó buộc thợ thủ công và những người buôn bán với làng xã.
Những đặc điểm về thực trạng kinh tế trong nông thôn làng xã Nam Đàn dưới
triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884 được đề cập ở trên, chính là những nguyên nhân sâu
xa dẫn đến sự bùng nổ liên tiếp của cuộc khởi nghĩa nông dân trên địa bàn huyện. Năm
1811 cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Tuấn chỉ huy diễn ra ngay trên địa bàn hai huyện của
phủ Anh Đô là huyện Thanh Chương và huyện Nam Đàn, vua Gia Long phải ra lệnh
cho tổng đốc An Tĩnh điều động binh lính từ trấn thành Nghệ An, hợp sức với quân
đội điều động từ Huế ra mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa. Năm 1813, nông dân Nam
Đàn, Thanh Chương, La Sơn, Đông Thành, Quỳnh Lưu nổi dậy khởi nghĩa. Năm
1818, cuộc khởi nghĩa do Lê Hữu Tạo cầm đầu lại bùng nổ trên địa bàn phủ Anh Đô.
144
Vào năm 1823, nhân dân Nam Đàn, Thanh Chương lại vùng dậy khởi nghĩa, đánh
chiếm lỵ sở Sa Nam, làm chủ cả một vùng rộng lớn ở hạ lưu sông Lam. Minh Mệnh
buộc phải điều binh lính từ Huế ra Nghệ An cùng với lực lượng đồn trú tại đây tổ chức
đàn áp, khủng bố mới dập tắt được. Tuy nhiên, chính sách đàn áp thẳng tay những
người tham gia khởi nghĩa và ủng hộ khởi nghĩa mà nhà Nguyễn thực thi đã khiến mâu
thuẫn giữa đại bộ phận nông dân làng xã ở Nghệ An, Nam Đàn với triều đình ngày
càng sâu sắc.
Đáng chú ý, trong thời kỳ 1802 - 1884 chính sách cấm đạo, sát đạo mà Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức tiếp tục duy trì đã đẩy toàn bộ giáo dân ở vương
quốc Đại Nam nói chung, trấn/tỉnh Nghệ An, Nam Đàn nói riêng vào tình thế cấp bách
khiến họ phải nổi dậy chống lại triều đình. Năm 1874, Trần Tấn, Đặng Như Mai,
dương cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu “Đánh cả triều lẫn Tây”. Đại bản doanh làng
Thành, thuộc xã Thanh Thuỷ trở thành trung tâm của cuộc khởi nghĩa quy mô lớn này.
Điều đáng tiếc là trong cuộc khởi nghĩa ấy, giáo dân Nam Đàn, Thanh Chương, Quỳnh
Lưu, Yên Thành, Nghi Lộc, Hưng Nguyên trở thành đối tượng cần loại bỏ. Triều đình
Huế đã điều động Tôn Thất Thuyết đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ vào Nghệ An hợp
sức cùng với quân đội triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy mới dập tắt được cuộc
khởi nghĩa [98].
Cuộc thảm sát tàn khốc những người tham gia, ủng hộ cuộc khởi nghĩa Giáp
Tuất năm 1874 ở Nam Đàn, Thanh Chương... tiếp tục đẩy mâu thuẫn giữa đại bộ phận
cư dân làng xã ở lưu vực sông Lam với triều đình Tự Đức dâng cao. Cùng với đó, từ
năm 1858 đến năm 1884, trước sự tấn công của thực dân Pháp triều đình Tự Đức loay
hoay trong việc tìm kế sách giữ nước, rồi lần lượt ký Hiệp ước cắt 3 tỉnh miền Đông
(1862), Lục tỉnh Nam Kỳ (1874), Hiệp ước Hác-măng (1883), Pa-tơ-nốt (1884) thừa
nhận quyền thống trị của người Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam càng gây phẫn
uất cho tầng lớp trí thức Nho học và đại bộ phận nhân dân. Khối mâu thuẫn chồng chất
ấy chính là một trong những nguyên nhân sâu xa đẩy phần lớn văn thân, sĩ phu yêu
nước và đại bộ phận cư dân làng xã ở Nghệ An, Hà Tĩnh nói chung, Nam Đàn nói
riêng đứng lên ứng nghĩa Cần Vương từ năm 1885 đến năm 1896 mà chúng tôi xin
phép không trình bày ở đây.
145
Tiểu kết chương 5
Bối cảnh lịch sử, điều kiện tự nhiên - xã hội và những chính sách, biện pháp mà
các vị vua nhà Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức ban hành, thực thi đã không thể mang
lại những lợi thế cho việc phát triển nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cung, tự cấp lỗi
thời và lạc hậu ở cả trấn/tỉnh Nghệ An và Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 -
1884. Trong điều kiện đó, kinh tế nông nghiệp vẫn tuân theo những phương thức sản
xuất mang tính cổ truyền với hệ thống các kinh nghiệm dân gian tích lũy từ nhiều thế
kỷ trước, đồng thời là nền tảng kinh tế trọng yếu ở Nam Đàn. Các ngành kinh tế thủ
công nghiệp, thương nghiệp có quy mô, hoạt động nhỏ lẻ, manh mún và được coi là
những hoạt động phụ , bổ trợ cho sản xuất nông nghiệp.
Thực trạng kinh tế Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 gần như là bức tranh thu nhỏ
của kinh tế Nghệ An, tác động đa chiều đến toàn bộ đời sống văn hoá vật chất, tinh
thần của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Trong phạm vi của một nền kinh tế mang
tính tiểu nông, không có nhiều thay đổi trong 82 năm dưới triều Nguyễn, trật tự xã hội
ở làng xã theo cách phân tầng “tứ dân” định sẵn cũng không có gì đổi khác so với các
thế kỷ trước. Các mối quan hệ xã hội ngoài quan niệm Nho giáo “Tam cương, ngũ
thường” còn có các quan hệ “trong họ, ngoài làng” là sợ dây níu kéo mọi thành viên
gắn chặt với cấu kiện bền vững vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính tự trị của
làng xã từ đời này qua đời khác. Đúng như đại thần Trương Quốc Dụng đã khẳng định
“Sức dân đã cùng, lực dân đã kiệt”, sự tồn tại dai dẳng của nền kinh tế tiểu nông tự
cung tự cấp lỗi thời và lạc hậu đẩy toàn bộ nông dân trong làng xã ở Nam Đàn, Nghệ
An nói riêng và cả đất nước nói chung vào tình thế tụt hậu, nghèo đói liên miên. Các
phong trào nông dân khởi nghĩa thường xuyên nổi dậy chống lại triều đình là điều
được báo trước. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vương
triều Tự Đức không có đủ thế và lực để chống ngoại xâm ở nửa sau thế kỷ XIX.
146
1. Huyện Nam Đàn thuộc vùng hạ lưu sông Lam - từ những dấu vết tụ cư đầu tiên
KẾT LUẬN
thuở sơ khai, trải qua hàng ngàn năm lịch sử đã trở thành vùng đất có vị trí quan trọng của
Nghệ An, đất “phên dậu” của nước nhà. Cho đến trước thế kỷ XIX, những biến động của
lịch sử dân tộc đã làm thay đổi diện mạo của huyện Nam Đàn, bao gồm những thay đổi về
diên cách địa lý, tình hình chính trị, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần và đặc biệt là
những thay đổi về kinh tế. Trong thế kỷ XIX, những thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự
nhiên, đặc điểm dân cư, truyền thống văn hóa bản địa, chính sách của nhà nước phong
kiến, đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của vùng đất này.
Sau khi vương triều Nguyễn được xác lập, vua Gia Long và các vị vua tiếp nối đã
không ngừng củng cố chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền xưa cũ, bằng việc hoàn thiện
bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương. Trong thời kỳ 1802 - 1884, tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước ở trấn/tỉnh Nghệ An từ Tổng đốc An Tĩnh đến Tri phủ Anh Đô,
Tri huyện Nam Đường (Nam Đàn), Chánh tổng, Lý trưởng và chức dịch ở 65 làng xã,
trang phường, vạn giáp, sở nậu trong phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu, đều giống (về số
lượng, chức năng, nhiệm vụ, cách thức tuyển chọn, quyền hạn, lương bổng...) với các trấn,
tỉnh, phủ, huyện ở các địa phương khác trên khắp cả nước. Tầng lớp quan lại từ trấn/tỉnh
đến phủ huyện, chức dịch trong làng xã thay mặt triều đình Huế duy trì trật tự chính trị -
xã hội theo thể chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Bên cạnh đó, triều
Nguyễn đã thực thi các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nhằm ổn định và
phát triển đất nước. Đối với kinh tế, Nhà nước chủ trương thực hiện chính sách trọng nông
ức thương, bế quan tỏa cảng, được thể hiện rõ nét qua lễ cày ruộng tịch điền của nhà vua,
hay các khoản thu tô thuế bằng thóc, lấy thóc làm chuẩn giá trị các hóa vật, khiến nền
kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp với nông nghiệp đóng vai trò chính yếu tiếp tục được duy
trì ở các địa phương trên khắp cả nước.
Dưới triều Nguyễn, việc xây dựng tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương, cùng chính sách trọng nông, ức thương trong kinh tế, là
nhằm tạo xã hội ổn định trong trật tự phong kiến, mà hai tầng lớp sĩ - nông luôn đứng
đầu trong nấc thang đánh giá bởi xã hội đương thời. Dưới tác động của những yếu tố
trên, điểm xuyên suốt trong bức tranh kinh tế huyện Nam Đàn thời kỳ 19802 - 1884 là
một nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp, lỗi thời và lạc hậu được duy trì bền vững, thu
hút đại bộ phận cư dân trên địa bàn 6 tổng 65 làng xã tham gia.
147
2. Trong thế kỷ XIX, trên cơ sở cương vực nước ta ổn định, thống nhất về mặt
hành chính suốt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, công cuộc đạc điền và lập địa bạ
được bắt đầu từ năm 1805 dưới thời vua Gia Long đến năm 1836 dưới thời Minh
Mệnh (1836) cơ bản hoàn thành ở các địa phương trong cả nước. Việc lập địa bạ, định
mức thuế nhằm xác định quyền sở hữu của nhà vua đối với các loại ruộng đất (ruộng
đất công và ruộng đất tư) trên cả nước. Đối với tỉnh Nghệ An nói chung, huyện Nam
Đàn nói riêng, Nhà nước không đánh thuế đất khai hoang, đất vườn ở, ruộng chùa,
ruộng họ, ruộng học điền…, các chế độ binh dịch, lao dịch cũng có những thay đổi
giảm nhẹ (do ảnh hưởng của thiên tai, nạn đói…) so với các thời kỳ trước. Tuy nhiên,
ở Nam Đàn, do đất xấu, dân nghèo, thiên tai lũ lụt, nạn đói xảy ra liên miên, với mức
thuế lệ áp dụng theo khu vực giống với các địa phương khác ở Bắc Trung Bộ, Bắc Bộ
nơi có nhiều thuận lợi hơn trong thời kỳ 1802 - 1884, đã ảnh hưởng trực tiếp đến toàn
bộ nền kinh tế cũng như đời sống chính trị - xã hội của mọi tầng lớp nhân dân ở 65
làng xã trên địa bàn huyện Nam Đàn nói riêng và 5 phủ, 16 huyện, 17 tổng, 1.225 xã,
thôn trang, phường, vạn giáp, sở, nậu… trong toàn trấn/tỉnh Nghệ An nói chung.
3. Trong bối cảnh lịch sử dân tộc ở thế kỷ XIX, tình hình sở hữu ruộng đất ở
huyện Nam Đàn mang những đặc điểm chung của tình hình ruộng đất nước ta thời
Nguyễn. Xu thế tư hữu về ruộng đất ngày càng phát triển và chiếm ưu thế trong kết cấu
sở hữu ruộng đất, ruộng đất công tuy tồn tại khá phổ biến nhưng số lượng không đáng
kể. Đây là hệ quả của các hoạt động bao chiếm, mua bán, trao đổi về ruộng đất diễn ra
phổ biến trong công xã nông thôn, khiến cho người nông dân Nam Đàn trong thế kỷ
XIX hầu như không đủ ruộng đất để canh tác nông nghiệp. Mặc dù sở hữu công bị thu
hẹp, sở hữu tư nhân trên đà phát triển và chiếm ưu thế, nhưng mức độ tập trung ruộng
đất tư ở Nam Đàn diễn ra chậm chạp, phân bố ruộng đất nhỏ lẻ, manh mún. Không có
nhiều chủ ruộng có thể bao chiếm, thâu tóm một diện tích lớn về ruộng đất để trở thành
những đại địa chủ có sở hữu ruộng đất tư từ 50 mẫu trở lên như nhiều địa phương khác.
Tuy nhiên, lợi dụng việc hạn hán, lũ lụt, ngập úng, mất mùa, đói kém thường xuyên xẩy
ra, cùng chính sách không đánh thuế đất khai hoang, phục hoá, bộ máy chức dịch ở các
xã thôn Nam Đàn tìm cách ẩn lậu, bao chiếm đất công làm ruộng đất tư.
4. Huyện Nam Đàn có điều kiện tự nhiên khá đa dạng mang đặc thù của vùng
hạ lưu sông Lam, khí hậu mang tính chuyển tiếp cùng địa hình đất đai nửa đồng bằng,
nửa đồi núi tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân nơi đây duy trì và phát huy đa dạng
các ngành nghề trong kinh tế nông nghiệp.
148
Trong nông nghiệp, bên cạnh hoạt động sản xuất thâm canh cây lúa, cư dân
nông nghiệp Nam Đàn còn canh tác thêm các loại hoa màu như đậu, đỗ, lạc, ngô,
khoai... trồng các loại cây thủ công nghiệp như bông vải, dâu tằm, mía. Các nghề khác
như: chăn nuôi gia súc, gia cầm; đánh bắt nuôi trồng thủy sản trên sông Lam, trong các
ao hồ, đầm; làm vườn, làm rày (rẫy) ở nơi thung lũng, gò đồi bán sơn địa, miền tiếp
giáp sông suối, khe cừ, núi rừng cũng được xem là những nghề có vị trí quan trọng
trong đời sống sản xuất của cơ dân. Sự đa dạng về các nghề trong kinh tế nông nghiệp
là đặc điểm tiêu biểu của vùng đất này, góp phần ổn định đời sống, tăng thêm nguồn
thu nhập cho đại bộ phận cư dân nông nghiệp trong địa bàn huyện Nam Đàn.
Ở hai bên vùng tả ngạn và hữu ngạn vùng hạ lưu sông Lam, kinh tế nông
nghiệp được hình thành rất sớm, cư dân Nam Đàn cho đến thế kỷ XIX đã đúc rút được
những kinh nghiệm quý báu, thành thạo các kỹ thuật canh tác trong sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, cách thức sản xuất trong nông nghiệp vẫn chưa bứt khỏi tình trạng
của một nền nông nghiệp mang tính tiểu nông: manh mún, nhỏ lẻ về quy mô; lạc hậu,
thô sơ về kỹ thuật; do vậy, sản lượng nông nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt
của mọi tầng lớp cư dân trong địa bàn. Trong thế kỷ XIX, dưới tác động bởi chính
sách không đắp đê của nhà Nguyễn cùng những biến động bất thường của thiên tai
khiến cho huyện Nam Đàn thường xuyên phải đương đầu với nạn ngập lụt, vỡ đê bởi
bão lũ. Ngoài ra, chính sách quân điền của nhà nước quân chủ không có nhiều tác
động tích cực đến tình hình quản lý đất đai ở Nghệ An nói chung, huyện Nam Đàn nói
riêng, khiến ở một số địa phương trong địa bàn huyện diện tích đất đai hoang hóa,
ngập úng, đất phù sa, đất bãi khá nhiều, nhưng tình hình khai hoang, phục hóa không
thay đổi là bao so với các thời kỳ trước.
5. Từ năm 1802 đến năm 1884, xuất phát từ điều kiện tự nhiên của địa phương,
cùng sự khéo léo của con người mà thủ công nghiệp với các nghề thủ công truyền thống ở Nam Đàn tiếp tục duy trì. Các nghề thủ công mang tính chất hộ gia đình được phân bố
khá rộng trong làng xã với nhiều nghề, với một số làng nghề nổi tiếng trong vùng nói riêng, của cả xứ Nghệ nói chung như: nghề trồng dâu nuôi tằm dệt vải, nghề khai thác đá ong, nghề làm gạch ngói, nghề mộc, nghề trồng mía để nấu mật, làm đường phổi, đường phèn (dân địa phương gọi là nghề kẹo che), nghề làm lưỡi cày, nghề gốm... Các nghề thủ công dù ở quy mô nhỏ nhưng đã góp phần đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu trong sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống, sinh hoạt và thu nhập cho đại bộ phận cư dân trong làng xã. Hoạt động sản xuất của các nghề, làng nghề thủ công truyền thống
149
mặc dù hội đủ các yếu tố để phát triển như: nguồn nguyên liệu, nhân lực trong làng xã,
nơi tiêu thụ… nhưng đúng như nhận xét của Bùi Dương Lịch “nghề thủ công cũng rất
thô sơ vụng về”, chưa chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế địa phương. Các nghề, làng nghề thủ công ở Nam Đàn thời Nguyễn mang tính chất “mỗi gia đình thợ thủ công
là một đơn vị sản xuất, nhà ở của gia đình người thợ vừa là xưởng chế tạo, vừa là cửa hàng. Trong đó, người làm việc là bà con đặt dưới quyền của người gia trưởng”. Các hộ
gia đình làm nghề, chủ yếu vẫn dựa vào nguồn thu nhập chính từ trồng lúa, đại bộ phận
chỉ xem nghề thủ công vẫn chỉ là nghề phụ, hỗ trợ thêm về kinh tế hộ gia đình trong lúc
nông nghiệp nông nhàn hoặc trúng cảnh mất mùa.
Nguyên nhân khiến cho thủ công nghiệp với hệ thống các nghề, làng nghề thủ
công truyền thống ở Nam Đàn không vươn lên để tách ra khỏi nền kinh tế nông nghiệp
chính là sự tồn tại của nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp và tư tưởng luôn đề cao sự
học trong ý thức hệ phong kiến trong trật tự xã hội Nam Đàn lúc bấy giờ. Mặt khác, từ
năm 1802 đến năm 1884, nhà Nguyễn thông qua các làng, xã, các tổ chức tượng cục
để gián tiếp quản lý và thu thuế thợ thủ công ở địa phương. Việc nhà nước áp dụng
chính sách trưng tập thợ giỏi, thợ có tay nghề của các làng nghề trong làng xã về làm
trong các xưởng theo chế độ trưng mua sản phẩm, vật liệu của thợ thủ công; chính
sách thuế biệt nạp (thuế theo sản phẩm) đánh vào thợ thủ công ở địa phương nhìn
chung là nặng nề, trưng thu tùy tiện; các thợ thủ công còn phải chịu gánh nặng lệ tiến
cống và việc thu mua của nhà nước với giá cả thu mua bao giờ cũng thấp hơn nhiều so
với thị trường, đã làm suy giảm động lực sản xuất, gây nên những tác động tiêu cực
đến sự phát triển của thủ công nghiệp ở Nam Đàn nói riêng, các địa phương trên địa
bàn cả nước nói chung trong thế kỷ XIX.
6. Trong thời kỷ 1802 - 1884, mặc dù kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp
địa phương không có nhiều thay đổi so với các thời kỳ trước đó, tuy nhiên sự chuyển
biến trong nội tại các ngành đã tạo ra các sản phẩm và trở thành hàng hóa được trao
đổi, buôn bán trên thị trường, thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp. Ở Nam Đàn, hoạt động thương nghiệp dân gian với hệ thống chợ được phân bố trong hầu khắp từ làng xã đến vùng huyện lỵ cho thấy vị trí quan trọng của thương nghiệp nội vùng đối với đời sống nhân dân trong huyện. Hệ thống chợ phát triển, đặc biệt là chợ ở các làng nghề thủ công trong làng, xã đã thúc đẩy phát triển của các nghề trong cơ cấu ngành thủ công nghiệp và nông nghiệp. Đồng thời, sự đa dạng của sản phẩm từ kinh tế nông
nghiệp, thủ công nghiệp mà hệ thống chợ, cùng hoạt động buôn bán trao đổi ở Nam
Đàn tồn tại bền vững qua nhiều thế kỷ.
150
Trong thời kỳ này, hoạt động thương nghiệp ở huyện Nam Đàn tuy có điều kiện
phát triển nhưng chưa thấy xuất hiện tầng lớp thương nhân bản địa chuyên sống bằng
nghề buôn bán, kinh doanh với nguồn vốn và hàng hóa có quy mô lớn, có vai trò chi phối các hoạt động giao thương nội vùng hay với các tỉnh lân cận. Bên cạnh nông dân
làng xã, thợ thủ công đưa nông sản phẩm, hàng hoá ra bán ở các chợ, hoạt động mua bán trao đổi các loại hàng hoá chủ yếu do các hộ buôn bán nhỏ lẻ, mang tính giao
thương nội vùng, điều này góp phần lý giải cho sự trì trệ của nền thương nghiệp dân
gian ở Nam Đàn, Nghệ An suốt thế kỷ XIX.
7. Sự tồn tại dai dẳng của nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp lỗi thời và lạc hậu đã tác động đa chiều đến toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội của mọi tầng lớp, giai
cấp trên địa bàn huyện Nam Đàn suốt thời kỳ 1802 - 1884. Một mặt, ràng buộc đại bộ
phận cư dân làng xã với luỹ tre làng, cánh đồng làng, con đường làng... với hoạt động
trồng trọt, chăn nuôi theo phương thức truyền thống mà cha ông để lại từ nhiều thế kỷ
trước. Mặt khác, buộc các hộ gia đình làm nghề thủ công, buôn bán nhỏ cũng không
tách rời khỏi nông nghiệp và làng xã. Bên cạnh đó, địa vị xã hội phân tầng theo “tứ
dân” và chính sách đề cao sự học của triều đình nhà Nguyễn cũng như hầu khắp các
làng xã đã dẫn tới một thực tế là ở 65 làng xã của Nam Đàn hình thành nên tầng lớp trí
thức nho học, các dòng họ khoa bảng: Nguyễn Trọng (Trung Cần), Nguyễn Đức
(Hoành Sơn), Vương Đình (Diên Lãm), Bùi Danh, Bùi Hữu (Thanh Thuỷ), Nguyễn
Cảnh, Trần Văn, Nguyễn Thúc (Xuân Hồ)... Phong tục, tập quán cùng đời sống tôn
giáo tín ngưỡng của cư dân Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884, cũng không có nhiều thay
đổi so với các thế kỷ trước. Trong đó, Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo và cả Thiên chúa
giáo song song tồn tại trong đời sống văn hoá tinh thần của các giai tầng trong xã hội. Ngoài quan hệ quân thần, cư dân làng xã Nam Đàn còn chịu sự chi phối của
quan hệ “thầy - trò”, cha con, chồng vợ, gia tộc dòng họ, trong họ ngoài làng, với quan
niệm “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Thực trạng: “phép vua thua lệ làng” từ
thời hậu Lê đến thời Tây Sơn tiếp tục tồn tại ở Nam Đàn trong thời kỳ 1802 - 1884. Các chính sách, biện pháp mà triều Nguyễn thực thi cả về kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội không mang lại cuộc sống no đủ, thanh bình cho đại bộ phận cư dân làng xã, thậm chí còn làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội với triều đình nhà Nguyễn ngày càng trở nên gay gắt. Sự bùng nổ của các cuộc khởi nghĩa nông dân trên địa bàn Nam Đàn và trấn/tỉnh Nghệ An từ thời vua Gia Long đến vua Tự Đức đã minh
chứng cho điều đó.
151
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Quốc Bảo, Làng nghề, nghề thủ công truyền thống trên địa bàn huyện Nam
Đàn (Nghệ An) trong thế kỷ XIX, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 5,
Số 2b, 2019, tr.273 - 281.
2. Trần Quốc Bảo, Tình hình ruộng đất ở huyện Nam Đàn (Nghệ An) nửa đầu thế kỷ
XIX qua nguồn tư liệu địa bạ, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 7 (232),
2019, tr.85 - 95.
3. Trần Quốc Bảo, Vài nét về kinh tế nông nghiệp huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Vinh, tập 48, số 3B, 2019,
tr.13 - 22.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb VHTT, Hà Nội.
2. Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn.
3. Toan Ánh (1992), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam những thay đổi về địa danh và địa giới
hành chính, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
5. Lê Văn Ất (2019), Khảo cứu Hoàng Lê ảnh hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản và
diên cách địa danh, luận văn Thạc sĩ tại Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Nam Đàn (1990), Lịch sử Đảng bộ huyện Nam
Đàn (1930 - 1945), tập 1, Nxb Nghệ Tĩnh.
7. Ban NCLS tỉnh Nghệ Tĩnh (1984), Lịch sử Nghệ Tĩnh, tập 1, Nxb Nghệ Tĩnh.
8. Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
9. Đỗ Bang (2005), Những khám phá về hoàng đế Quang Trung, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
10. Nguyễn Nhã Bản (Cb, 1999), Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Nxb VHTT
Hà Nội.
11. Phan Gia Bền (1957), Sơ thảo Lịch sử phát triển Thủ công nghiệp Việt Nam,
Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
12. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Tổng hợp, Đồng Tháp.
13. Brévié J. (1937), Diễn văn của Toàn quyền Đông Dương nhân dịp khánh thành
dẫn thủy nhập điền ở miền Bắc Nghệ An, Tư liệu địa chí Nghệ An.
14. C. Mác và Ph. Ăngghen (1984), Tuyển tập, tập VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Castagnol G.M. (1930), Chuyên luận về nông nghiệp tỉnh Nghệ An, Tập san
kinh tế Đông Dương, bộ B, tr 824 - 854, Tư liệu địa chí Nghệ An.
16. Charles Robequain (1929), Le Thanh Hoa (bản dịch), Thư viện Thanh Hoá.
17. Nguyễn Đổng Chi (Cb, 1995) Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ An.
18. Nguyễn Đổng Chi (1960), Ý nghĩa chính sách quân điền trong thời kỳ phong
kiến Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12-13.
153
19. Ngô Kim Chung (1975), Ruộng đất tư hữu và những hình thức khai thác ruộng
đất tư hữu ở Việt Nam thời phong kiến, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 85.
20. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Lê Hiến Chương (2013), Kinh tế, văn hóa huyện La Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) nửa đầu
thế kỷ XIX, luận án Tiến sĩ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
23. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (Cb, 1993), Kinh nghiệm tổ chức, quản lý
nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb CTQG, Hà Nội.
24. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã
hội, Nxb CTQG, Hà Nội.
25. Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam: đa nguyên và chặt, Nxb CTQG, Hà Nội.
26. Phan Đại Doãn (1981), Về tính chất sở hữu ruộng đất công làng xã, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
27. Huỳnh Thị Dung (2011), Chợ Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội
28. Cao Xuân Dục (2011), Quốc triều hương khoa lục, Nxb Lao động và Trung tâm
Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
29. Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789) (1991), Nxb KHXH, Hà Nội.
30. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Hồng Long (2011), Lịch sử Đảng bộ xã Hồng Long, Nxb Nghệ An.
31. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Hùng Tiến (2012), Lịch sử Đảng bộ xã Hùng Tiến, Nxb Nghệ An.
32. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Kim Liên (2000), Lịch sử Đảng bộ xã Kim Liên, tập 1, Nxb Nghệ An.
33. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Anh (2009), Lịch sử Đảng bộ xã Nam Anh, Nxb Nghệ An.
34. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Cát (2008), Lịch sử Đảng bộ xã Nam Cát, Nxb Nghệ An.
35. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Lĩnh (2006), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Nam Lĩnh (1930 - 2005),
Nxb Nghệ An.
36. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Nghĩa (2007), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Nam Nghĩa, Nxb VHTT,
Hà Nội.
154
37. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Thái (2011), Lịch sử Đảng bộ xã Nam Thái, Nxb Nghệ An.
38. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Thanh (2003), Lịch sử Đảng bộ xã Nam Thanh, Nxb Nghệ An.
39. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Nam Xuân (2010), Lịch sử Đảng bộ xã Nam Xuân, Nxb Nghệ An.
40. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Thị
trấn Nam Đàn (2005), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân thị trấn Nam Đàn (1930 -
2005), Nxb Nghệ An.
41. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Vân Diên (2009), Lịch sử Đảng bộ xã Vân Diên, Nxb Nghệ An.
42. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã
Xuân Hòa (2008), Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Hòa, Nxb Nghệ An.
43. Nguyễn Khắc Đạm (1964) Góp mấy ý kiến về vấn đề ruộng đất tư trong lịch sử
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 65.
44. Nguyễn Khắc Đạm (1981), Vấn đề ruộng đất công và ruộng đất tư trong lịch sử
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
45. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Gia Định, Nxb Tp.
Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Đình Đầu (1997), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Thừa Thiên, Nxb
Tp. Hồ Chí Minh.
47. Nguyễn Đình Đầu (1988), Thử tìm hiểu đất nước Việt Nam qua 10.044 tập địa
bạ, Tạp chí Khoa học, số 4, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
48. Lê Quý Đôn (2006), Vân Đài Loại Ngữ, Nxb VHTT, Hà Nội.
49. Lê Quang Định (2007), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, Huế.
50. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb KHXH, Hà Nội.
51. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
52. Trần Anh Đức (2011), Kinh tế ở Nghệ An từ năm 1802 đến năm 1884, luận văn
Thạc sĩ tại Trường Đại học Vinh.
53. Gia phả họ Bùi Danh, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ dòng họ Bùi Danh ở xã
Nam Thanh, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
54. Gia phả họ Bùi Hữu, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ dòng họ Bùi Hữu ở xã Nam
Thanh, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
155
55. Gia phả họ Đinh, bản chép tay, lưu tại nhà thờ dòng họ Đinh ở xã Nam Thanh,
huyện Nam Đàn, Nghệ An.
56. Gia phả họ Đinh, bản chép tay, lưu tại nhà thờ trung tôn dòng họ Đinh ở xã Vân
Diên, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
57. Gia phả họ Hoàng, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ đại tôn họ Hoàng ở xã Hồng
Long, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
58. Gia phả họ Hoàng Xuân, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ Hoàng Xuân ở xã Kim
Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
59. Gia phả họ Lê, bản chép tay, lưu tại nhà thờ đại tôn dòng họ Lê ở xã Vân Diên,
huyện Nam Đàn, Nghệ An.
60. Gia phả họ Lê, bản chép tay lưu tại Nhà thờ dòng họ Lê ở xã Xuân Hòa, huyện
Nam Đàn, Nghệ An.
61. Gia phả họ Nguyễn, bản chép tay, lưu tại nhà thờ dòng họ Nguyễn ở xã Nam
Thanh, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
62. Gia phả họ Nguyễn ở xã Thịnh Lạc, huyện Nam Đàn, Nghệ An, tư liệu của GS.
Ninh Viết Giao.
63. Gia phả họ Nguyễn, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ đại tôn họ Nguyễn ở xã Nam
Cát, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
64. Gia phả dòng họ Nguyễn Cảnh, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ Nguyễn Cảnh ở
xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
65. Gia phả họ Nguyễn Quang, bản chép tay, lưu tại nhà thờ dòng họ Nguyễn
Quang ở xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
66. Gia phả họ Nguyễn Sinh, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ Nguyễn Sinh ở Kim
Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
67. Gia phả dòng họ Nguyễn Văn, bản chép tay, lưu tại Nhà thờ Nguyễn Văn ở xã
Nam Thái, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
68. Gia phả dòng họ Phạm, bản chép tay, lưu tại nhà thờ trung tôn dòng họ Phạm ở
xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
69. Gia phả họ Trần, bản chép tay, lưu tại nhà thờ đại tôn dòng họ Trần ở xã Vân
Diên, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
70. Nguyễn Kiến Giang (1961), Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân
trước Cách mạng tháng 8 - 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội.
156
71. Vũ Minh Giang (1988), Sự phát triển của các hình thức sở hữu ruộng đất trong
lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tạp chí Khoa học, số 3, Trường Đại học
Tổng hợp, Hà Nội.
72. Nguyễn Thị Giang (2009), Lịch sử - văn hóa làng Trung Cần (xã Nam Trung,
huyện Nam Đàn, nghệ An) từ thế kỷ XIX đến 1945, luận văn Thạc sĩ tại Trường
Đại học Vinh.
73. Ninh Viết Giao (Cb, 1998), Hương ước Nghệ An, Nxb CTQG, Hà Nội.
74. Ninh Viết Giao (Cb, 1998), Nghề (làng nghề) truyền thống ở Nghệ An, Nxb
Nghệ An.
75. Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Nxb Nghệ An.
76. Ninh Viết Giao (2003), Văn bia Nghệ An, Nxb Nghệ An.
77. Ninh Viết Giao (2005) (Cb), Nghệ An - Lịch sử, văn hóa, Nxb Nghệ An.
78. Ninh Viết Giao (Cb, 2013), Nam Đàn quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb
Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
79. Nguyễn Thị Hà (2008), Chợ ở Nam Đàn đầu thế kỷ XIX đến 1945, luận văn
Thạc sĩ tại Trường Đại học Vinh.
80. Nguyễn Thị Hằng (2010), Lịch sử - văn hóa làng Hoành Sơn, xã Khánh Sơn,
huyện Nam Đàn, Nghệ An từ 1802 - 1945, luận văn Thạc sĩ Lịch sử tại Trường
Đại học Vinh.
81. Trương Minh Hằng (Cb, 2012), Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống (6
tập), Nxb KHXH, Hà Nội.
82. Giacobe Võ Văn Hậu (2009), Lịch sử về giáo phận Vinh tóm lược (từ 1629 -
2009), Lưu hành nội bộ.
83. Nguyễn Trung Hiền (2006), Làng xã và các tổ chức cơ sở tương đương ở xứ
Nghệ từ đầu thế kỷ XV đến 1945, Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 73.
84. Vũ Văn Hiền (1940), Sở hữu xã thôn ở Bắc kỳ, Imp. d'Extrême - Orient, Hà Nội.
85. Nguyễn Quang Hồng (2004), Hệ thống chợ Nghệ An thế kỷ XIX, Tạp chí NCLS,
số 6.
86. Nguyễn Quang Hồng (2003), Thành phố Vinh, quá trình hình thành và phát
triển (1802 - 1945), Nxb Nghệ An.
87. Nguyễn Quang Hồng (2013), Đền thờ Thái bảo Bùi tướng công ở Nam Tân -
Nam Đàn, Tạp chí KHXH & Công nghệ Nghệ An, số 11.
157
88. Hội Văn nghệ dân gian (1997), Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học, Nxb Nghệ An.
89. Đào Đăng Hy (1938), Địa dư tỉnh Nghệ An, Vinh, Nghệ An.
90. Nguyễn Hải Kế (1996), Một làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ, Nxb
KHXH, Hà Nội.
91. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
92. Nguyễn Văn Kiệm (2001), Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam
từ thế kỷ XVII đến thế kỉ XIX, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
93. Ngô Cao Lãng (1995), Lịch triều tạp kỷ, tập 1Nxb KHXH, Hà Nội.
94. Ngô Cao Lãng (1995), Lịch triều tạp kỷ, tập2, Nxb KHXH, Hà Nội.
95. Trần Danh Lâm, Hoan Châu phong thổ ký, ký hiệu VHv.1458 (Bản dịch), lưu
tại Thư viện Nghệ An.
96. Mã Giang Lân (1999), Tục ngữ và ca dao Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97. Hoàng Văn Lân, Nguyễn Quang Hồng (1997), Nguyên liệu xây thành Nghệ An
dưới triều Minh Mạng (1820 - 1840), Tạp chí Thông tin Khoa học - Công nghệ
và Môi trường Nghệ An, số 3.
98. Hoàng Văn Lân, Nguyễn Quang Hồng (1998), Thêm một số ý kiến về nội dung
tính chất và diễn biến của cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874), Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, số 6 (301).
99. Le Breton (2005), An Tĩnh cổ lục, Trung tâm Ngôn ngữ - Văn hóa Đông Tây,
Nxb VHTT, Hà Nội.
100. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, Nxb
KHXH, Hà Nội.
101. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo (1995), Địa
bạ Hà Đông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
102. Phan Huy Lê, Nguyễn Đức Nghinh, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan
Phương Thảo (1997), Địa bạ Thái Bình, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
103. Trần Gia Linh (2008), Chợ quê Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh (1925 - 1954) (1987), tập 1, Nxb Nghệ Tĩnh.
105. Bùi Dương Lịch (1987), Lê quý dật sử, Nxb KHXH, Hà Nội.
106. Bùi Dương Lịch (1993), Nghệ An ký, Nxb KHXH, Hà Nội.
158
107. Bùi Dương Lịch (2010), Thanh Chương phong thổ ký, in trong sách “Thanh
Chương Xưa và Nay”, Nxb KHXH, Hà Nội.
108. Bùi Dương Lịch (2008), Thanh Chương huyện chí, Nxb Nghệ An.
109. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nxb
KHXH, Hà Nội.
110. Bùi Quý Lộ (1986), Thêm một số ý kiến về chế độ ruộng đất ở Tiền Hải nửa đầu
thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5.
111. Trần Thu Lương (1994), Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam bộ nửa
đầu thế kỷ XIX, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
112. Lương Thị Thanh Mai (2011), Lịch sử - văn hóa làng Xuân Hồ (xã Xuân Hòa,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) từ thế kỷ XIX đến năm 1945, luận văn Thạc sĩ
tại Trường Đại học Vinh.
113. Trịnh Khắc Mạnh (2015), Chợ truyền thống Việt Nam qua tư liệu văn bia, Nxb
KHXH, Hà Nội.
114. Vũ Duy Mền, Hoàng Minh Lợi (2001), Hương ước làng xã Bắc bộ Việt Nam
với luật Kanto Nhật Bản thế kỷ XVII - XIX, Nxb KHXH, Hà Nội.
115. Vũ Duy Mền (2006), Tìm lại làng Việt xưa, Nxb VHTT, Hà Nội.
116. Vũ Duy Mền (2010), Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc bộ, Nxb CTQG, Hà Nội.
117. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.
118. Mục lục Châu bản triều Nguyễn, (2008), tập 1 (Gia Long), Nxb VHTT, Hà Nội.
119. Nghiêm Phú Ninh (1986), Con đường phát triển tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
120. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề về làng xã Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
121. Nguyễn Quang Ngọc (1993), Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc bộ Việt
Nam thế kỷ XVIII - XIX, Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội.
122. Mai Phương Ngọc (2014), Cơ cấu kinh tế - xã hội và văn hoá xã Hoằng Lộc
(Hoằng Hoá, Thanh Hoá) thời kỳ trung đại, luận án Tiến sĩ tại Học viện
KHXH, Hà Nội.
123. Nguyễn Đức Nghinh, Bùi Quý Lộ (1975), Mấy vấn đề nghiên cứu ruộng đất
công trong các làng xã người Việt đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Dân tộc học, số 2.
159
124. Nguyễn Đức Nghinh (1974), Tình hình phân phối ruộng đất ở Mạc Xá giữa hai
thời điểm 1790 - 1802, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 157.
125. Nguyễn Đức Nghinh (1975), Tình hình phân phối ruộng đất của thôn Định
Công giữa hai thời điểm 1790 - 1802, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 161.
126. Nguyễn Đức Nghinh (1975), Về tài sản ruộng đất của một số chức dịch trong
làng xã thuộc huyện Từ Liêm vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 165.
127. Nguyễn Đức Nghinh (1980), Mấy nét phác thảo về chợ làng qua những tài liệu
các thế kỷ XVII - XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 (194).
128. Nguyễn Trãi toàn tập (phần Dư địa chí) (1976), Nxb KHXH, Hà Nội.
129. Nhiều tác giả (1998), Danh nhân Nghệ An, Nxb Nghệ An.
130. Nhiều tác giả (2002), Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam,
Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội.
131. Nhiều tác giả (2005), Thanh Chương đất và người, Nxb Nghệ An.
132. Những người bạn cố đô Huế 1931 (2003), tập XVIII, Nxb Thuận Hóa, Huế.
133. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 1, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
134. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 2, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
135. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 3, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
136. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
137. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 5, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
138. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
139. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 7, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
140. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
160
141. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 9, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
142. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 10, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
143. P. Papin và O. Tessier (Cb, 2002), Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề
còn bỏ ngỏ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
144. Nguyễn Hồng Phong (1959), Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1-2.
145. Nguyễn Hồng Phong (1958), Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
146. Vũ Huy Phúc (1964), Chính sách công điền, công thổ của nhà Nguyễn nửa đầu
thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 62.
147. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,
Nxb KHXH, Hà Nội.
148. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 - 1945, Nxb KHXH,
Hà Nội.
149. Vũ Văn Quân (1991), Chế độ ruộng đất - kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XIX, luận án phó Tiến sĩ tại Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
150. Vũ Văn Quân, Nguyễn Quang Ngọc (1994), Diễn biến sở hữu ruộng đất ở một
số làng buôn tiêu biểu thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ (đầu thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 273.
151. Vũ Văn Quân (2002), Làng xã Thanh Trì (ngoại thành Hà Nội) đầu thế kỷ XIX
qua tư liệu địa bạ, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, Mã số QX 97.04, Hà Nội.
152. Vũ Văn Quân (1994), Thử phân tích yếu tố dòng họ trong cấu trúc sở hữu
ruộng đất của một số làng thuộc đồng bằng Bắc bộ đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Dân
tộc học, số 3.
153. Vũ Văn Quân (1988), Vài nét về chế độ tô thuế thời Nguyễn (nửa đầu thế kỷ
XIX), Tạp chí khoa học số 4, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
154. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Bản dịch
của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận hóa, Huế.
155. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Bản dịch
của Hoàng Văn Lâu, Nxb Lao động & Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông
Tây, Hà Nội.
161
156. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb
KHXH, Hà Nội.
157. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb
KHXH, Hà Nội.
158. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb
KHXH, Hà Nội.
159. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb
KHXH, Hà Nội.
160. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 5, Nxb
KHXH, Hà Nội.
161. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 6, Nxb
KHXH, Hà Nội.
162. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb
KHXH, Hà Nội.
163. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 8, Nxb
KHXH, Hà Nội.
164. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002 - 2007), Đại Nam thực lục, tập 9, Nxb
KHXH, Hà Nội.
165. Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đồng Khánh địa dư chí, tập 2, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
166. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám Cương mục,
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
167. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám Cương mục,
tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
168. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất Việt Nam (từ thế kỷ XI - XV), tập
1, Nxb KHXH, Hà Nội.
169. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất Việt Nam (từ thế kỷ XVI - XVIII),
tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.
170. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Nguyễn Quang
Trung Tiến (1997), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới
triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
162
171. Trương Hữu Quýnh (Cb, 1998), Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
172. R. Bulateau (1925), La province de Ha Tinh (Tỉnh Hà Tĩnh), Bản dịch của Bùi
Đình Thiện - Bản đánh máy.
173. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Viện Sử học và Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
174. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2008), Hồ sơ di tích đền Vua Mai (Thị trấn
Nam Đàn, Nghệ An), lưu tại Đền thờ vua Mai thị Trấn Nam Đàn.
175. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2008), Hồ sơ di tích đền Đức Ông (Vân Diên,
Nam Đàn, Nghệ An), lưu tại Đền thờ Đức Ông, xã Vân Diên, Nam Đàn.
176. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2009), Hồ sơ di chùa Đức Sơn (Xã Vân Diên,
Nam Đàn), lưu tại chùa Đức Sơn, Nam Đàn.
177. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2005), Hồ sơ di chùa Viên Quang (Xã Nam
Thanh, Nam Đàn), lưu tại chùa Viên Quang, Nam Thanh, Nam Đàn.
178. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2006), Hồ sơ di chùa Ơi (Xã Xuân Hòa, Nam
Đàn), lưu tại chùa Ơi, xã Xuân Hòa, Nam Đàn.
179. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2009), Hồ sơ di chùa Đại Tuệ (Xã Nam Anh,
Nam Đàn), lưu tại chùa Đại Tuệ, Nam Anh, Nam Đàn.
180. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2010), Hồ sơ di chùa Phúc Thọ (Xã Nam
Xuân, Nam Đàn), lưu tại chùa Phúc Thọ, Nam Xuân, Nam Đàn.
181. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2010), Hồ sơ di chùa Yên Lạc (Xã Nam Lĩnh,
Nam Đàn), lưu tại chùa Yên Lạc, Nam Lĩnh, Nam Đàn.
182. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2009), Hồ sơ di chùa Phú Thọ (Xã Nam Tân,
Nam Đàn), lưu tại chùa Phú Thọ, Nam Tân, Nam Đàn.
183. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2008), Hồ sơ di tích đền thờ Hoàng Quận
Công Hoàng Nghĩa Lương (Hồng Long, Nam Đàn, Nghệ An), lưu tại nhà thờ
Đại tôn họ Hoàng, Hồng Long, Nam Đàn.
184. Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An (2005), Hồ sơ di tích Nhà thờ họ Nguyễn
Cảnh (Xuân Hòa, Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), lưu tại Trung tâm văn hóa huyện
Nam Đàn.
163
185. Phạm Côn Sơn (2004), Làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
186. Tài liệu điền dã tại địa bàn xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
187. Tài liệu điền dã tại địa bàn xã Nam Cường, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
188. Tài liệu điền dã tại địa bàn xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
189. Tài liệu điền dã tại địa bàn xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
190. Tài liệu điền dã tại dòng họ Vương Đình và Vương Hữu thuộc xóm Hạ Long và
khối Mai Hắc Đế, thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
191. Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998), Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công
nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
192. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư
liệu địa bạ, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
193. Phan Phương Thảo (2002), Vài nhận xét về đội ngũ chức sắc làng xã ở Bình
định nửa đầu thế kỷ XIX qua tư liệu địa bạ, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 322.
194. Nguyễn Thị Thảo (dịch), Nguyễn Phương Thoan (hiệu đính), Thanh Chương
huyện chí, bản viết tay bằng chữ Hán (38 trang khổ 29 x 16), lưu trữ tại Thư
viện Viện Hán Nôm - Ký hiệu A97BIS.
195. Nguyễn Thiếp (1998), La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nxb Nghệ An.
196. Ngô Đức Thọ (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 - 1919), Nxb Văn
học, Hà Nội.
197. Nguyễn Hữu Thông (1994), Nghề và làng nghề thủ công truyền thống, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
198. Trần Viết Thụ (2006) (Cb), Địa danh lịch sử - văn hóa Nghệ An, Nxb Nghệ An.
199. Trần Thị Bích Thùy (2008), Chợ Nghệ An từ đầu thế kỷ XIX đến 1945, luận văn
Thạc sĩ tại Trường Đại học Vinh.
200. Trịnh Thị Thủy (2001), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện
Đông Sơn (Thanh Hóa) nửa đầu thế kỷ XIX, luận án Tiến sĩ tại Trường Đại học
Sư Phạm I, Hà Nội.
201. Trần Văn Thức (2012) (Cb), Lịch sử Nghệ An, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội.
164
202. Đặng Như Thường (2013), Kinh tế - Xã hội huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An thời
Nguyễn (1802 - 1884), luận án Tiến sĩ tại Học viện KHXH, Hà Nội.
203. Nguyễn Danh Tiên (2014), Tri thức bản địa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6.
204. Đào Tam Tỉnh (2000), Khoa bảng Nghệ An (1075 - 1919), Nxb Nghệ An.
205. Thái Quang Trung (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa
Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX, luận án Tiến sĩ tại Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
206. Nguyễn Văn Trương (Cb, 2000), Nam Đàn xưa và nay, Nxb VHTT, Hà Nội.
207. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ, Nxb
KHXH, Hà Nội.
208. Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh, Nxb
KHXH, Hà Nội.
209. Đàm Thị Uyên (2011), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến
giữa thế kỷ XIX, Nxb CTQG, Hà Nội.
210. Viện Sử học (1977), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
211. Viện Sử học (1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.
212. Viện sử học (1990), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, tập 1, Nxb
KHXH, Hà Nội.
213. Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 5, Từ năm 1802 đến năm 1858, (tái
bản lần thứ nhất có bổ sung), Nxb KHXH, Hà Nội, 2017.
214. Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 6, Từ năm 1858 đến năm 1896, (tái
bản lần thứ nhất có bổ sung), Nxb KHXH, Hà Nội, 2017.
215. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc
các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Nxb KHXH, Hà Nội.
216. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (tuyển chọn -
lược thuật), Nxb KHXH, Hà Nội.
217. Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Bùi Văn
Vượng, Nxb VHTT, Hà Nội.
218. Trương Thị Yến (2004), Chính sách thương nghiệp của Triều Nguyễn nửa đầu
thế kỷ XIX, luận án Tiến sĩ tại Viện Sử học, Hà Nội.
165
Tài liệu Hán Nôm
219. An (Yên) Lạc xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn
phủ, Nghệ An tỉnh (安 楽 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂
安 省), ký hiệu NA - 11031, TTLTQG I.
220. Bạch Sơn thôn địa bạ, Tiên Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (白 山 忖 地 薄,萧 花 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11132, TTLTQG I.
221. Chi Cơ thôn địa bạ, Bích Triều tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (支 基 忖 地 薄,壁 朝 總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11137, TTLTQG I.
222. Chung Cự xã địa bạ, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (鈡 距 社 地 薄,林 盛 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11032, TTLTQG I.
223. Chung Mĩ thôn địa bạ, Chung Mĩ xã, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (鈡 美 忖 地 薄,鈡 美 社,林 盛 總,南 糖
縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11033, TTLTQG I.
224. Chung Tháp xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ,
Nghệ An tỉnh (鈡 塔 地 薄 社,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安
省), ký hiệu NA - 11034, TTLTQG I.
225. Dương Phổ thôn địa bạ, Nam Hoa Đông xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương
總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11138, TTLTQG I.
huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (阳 埔 忖 地 薄,南 花 东 社,南 花
226. Dương Phổ Tứ thôn địa bạ, Nam Hoa Đông xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương
huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (阳 埔 四 忖 地 薄,南 花 东 社,南
花 總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11139, TTLTQG I.
227. Đông Đồn thôn địa bạ, Xuân Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện,
Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (东 臀 忖 地 薄,春 花 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11142, TTLTQG I.
228. Đông Liệt xã địa bạ, Hoa Lâm tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An
tỉnh (东 裂 社 地 薄,花 林 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11037, TTLTQG I.
166
229. Đồng Xuân thôn địa bạ, Hoa Lâm tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (铜 春 忖 地 薄,花 林 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11039, TTLTQG I.
230. Gia Lạc xã địa bạ, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An
tỉnh (傢 楽 社 地 薄,林 盛 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11041, TTLTQG I.
231. Hoàng Xá thôn địa bạ, Nam Hoa Đông xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương
huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (黄 厙 忖 地 薄,南 花 东 社,南 花
232. Hồng Nhiễm thôn địa bạ, Thịnh Lạc xã, Non Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh
總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11144, TTLTQG I.
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (鸿 珃 忖 地 薄,盛 落 社,嫰 柳 總,南 糖
縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11043, TTLTQG I.
233. Hương Lãm xã địa bạ, Non Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (香 攬 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省),
ký hiệu NA - 11040, TTLTQG I.
234. Hữu Biệt xã địa bạ, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (右 别 社 地 薄,林 盛 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11044, TTLTQG I.
235. Khánh Lộc thôn địa bạ, Tiên Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (罄 鹿 忖 地 薄,仙 花 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11145, TTLTQG I.
236. Lâm Thịnh xã địa bạ, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (林 盛 社 地 薄,林 盛 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省),
ký hiệu NA - 11047, TTLTQG I.
237. Lương Trường xã địa bạ, Bích Triều tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ,
Nghệ An tỉnh (良 苌 社 地 薄,壁 朝 總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安
省), ký hiệu NA - 11151, TTLTQG I.
238. Nam Hoa Tứ xã địa bạ, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ,
Nghệ An tỉnh (南 花 四 社 地 薄,南 花 總,声 樟 縣,英 山 府,乂
安 省), ký hiệu NA - 11156, TTLTQG I.
167
239. Non (Nộn) Hồ xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn
phủ, Nghệ An tỉnh (嫰 胡 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂
安 省), ký hiệu NA - 11053, TTLTQG I.
240. Non (Nộn) Liễu xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (嫰 柳 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府, 乂
安 省), ký hiệu NA - 11051, TTLTQG I.
241. Nghĩa Động xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (义 动 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府, 乂 安
省), ký hiệu NA - 11049, TTLTQG I.
242. Ngũ Nhược thôn địa bạ, Bích Triều tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (五 若 忖 地 薄,壁 朝 總,声 樟 縣,英 山 府, 乂 安
省), kí hiệu NA - 11157, TTLTQG I.
243. Thanh Tuyền xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (声 璿 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府, 乂 安
省), ký hiệu NA -11054, TTLTQG I.
244. Thanh Trai Lương Giai thôn địa bạ, Vạn Võng Nhi Thanh Trai xã, Bích Triều tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (声 斎 良 楷 忖 地
薄,澫 網 而 声 斎 社,壁 朝 總,声 樟 縣,英 山 府, 乂 安 省),
kí hiệu NA - 11163, TTLTQG I.
245. Thanh Trí thôn địa bạ, Xuân Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (声 知 忖 地 薄,春 花 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府, 乂 安 省), kí hiệu NA - 11164, TTLTQG I.
246. Thịnh Lạc xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (盛 楽 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安
省), ký hiệu NA - 11055, TTLTQG I.
247. Thượng Hồng thôn địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (上 红 忖 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂
安 省), ký hiệu NA - 11057, TTLTQG I.
248. Trường (Tràng) Cát xã địa bạ, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (场 吉 社 地 薄,林 盛 總,南 糖 縣,英 山 府,乂
安 省), ký hiệu NA - 11059, TTLTQG I.
168
249. Trung Cần xã địa bạ, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (中 勤 社 地 薄,南 花 總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安 省), kí
hiệu NA - 11169, TTLTQG I.
250. Trung Hội thôn địa bạ, Xuân Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện,
Anh Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (中 会 忖 地 薄,春 花 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府,乂 安 省), kí hiệu NA - 11170, TTLTQG I.
251. Tuần La xã địa bạ, Lâm Thịnh tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ An
tỉnh (循 羅 社 地 薄,林 盛 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11060, TTLTQG I.
252. Tự Trì xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (嶼 池 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安 省), ký
hiệu NA - 11056, TTLTQG I.
253. Vạn Thọ thôn địa bạ, Hoa Đông xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (澫 寿 忖 地 薄,花 东 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府,乂 安 省), ký hiệu NA - 11173, TTLTQG I.
254. Vân Đồn xã địa bạ, Non (Nộn) Liễu tổng, Nam Đường huyện, Anh Sơn phủ,
Nghệ An tỉnh (云 豚 社 地 薄,嫰 柳 總,南 糖 縣,英 山 府,乂 安
省), ký hiệu NA - 11062, TTLTQG I.
255. Vũ (Võ) Nguyên xã địa bạ, Bích Triều tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn
phủ, Nghệ An tỉnh (宇 京 社 地 薄,壁 朝 總,声 樟 縣,英 山 府,乂
安 省), kí hiệu NA - 11175, TTLTQG I.
256. Xuân Áng thôn địa bạ, Xuân Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh
縣,英 山 府,乂 安 省), kí hiệu NA - 11176, TTLTQG I.
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (春 盎 忖 地 薄,春 花 社,南 花 總,声 樟
257. Xuân Mỹ thôn địa bạ, Tiên Hoa xã, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh
Sơn phủ, Nghệ An tỉnh (春 美 忖 地 薄,萧 花 社,南 花 總,声 樟
縣,英 山 府,乂 安 省), kí hiệu NA - 11177, TTLTQG I.
258. Xuân Phúc xã địa bạ, Nam Hoa tổng, Thanh Chương huyện, Anh Sơn phủ, Nghệ
An tỉnh (春 福 社 地 薄,南 花 總,声 樟 縣,英 山 府,乂 安 省), kí
hiệu NA - 11178, TTLTQG I.
169
Tài liệu tiếng nước ngoài
259. Annuaire économique de l’Indochine (Niên giám kinh tế Đông Dương) (1927),
Imp. d'Extrême-Orient, Hà Nội.
260. Bulletin économique de l’Indochine (Tập san kinh tế Đông Dương) (1898 -
1944), Gouvement Général de L’Indochine, Hà Nội.
261. Charles Robequain (1932), L’e1volution économique de l’Indochine francaise
(Sự phát triển kinh tế của Đông Dương thuộc Pháp), Paris.
262. H. Cucherousset (1918 - 1935), L’Eveil économique de l’Indochine (Sự thức tỉnh
kinh tế Đông Dương), Hà Nội.
263. Journal officiel de l’Indochine francaise (Công báo của Đông Dương thuộc
Pháp) (1889 - 1951), Hà Nội.
264. Le Breton (1924), La province de Thanh Hoa (Tỉnh Thanh Hóa), Imp. Kim Đức
Giang, Hà Nội.
265. P. Bernard (1934), Le problème economique Indochinois (Vấn đề kinh tế Đông
Dương, Paris.
266. P. Gourou (1940), L’Utilisation du sol en Indochine franscaise (Sử dụng ruộng
đất Đông Dương thuộc Pháp, Paris.
267. P. Ory (1894), La commune annamite au Tonkin (Làng xã của người An Nam ở
Bắc kỳ, Paris.
268. Y. Henry (1932), Économie agricole de l’Indochine (Kinh tế nông nghiệp Đông
Dương), Hà Nội.
PL 1
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Bản đồ tỉnh Nghệ An hiện nay
[Nguồn: Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Nghệ An]
PL 2
PHỤ LỤC 2: Bản đồ tỉnh Nghệ An thời Nguyễn
[Nguồn: Đồng Khánh địa dư chí]
PL 3
PHỤ LỤC 3: Bản đồ hành chính huyện Nam Đàn ngày nay
[Nguồn: UBND huyện Nam Đàn]
PL 4
PHỤ LỤC 4: Bản đồ huyện Nam Đàn thời Nguyễn
Huyện Nam Đường
[Nguồn: Đồng Khánh địa dư chí]
PL 5
PHỤ LỤC 5: Bản dịch Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ (được vẽ lại dưới thời Nguyễn)
Bản đồ lộ trình đường bộ từ Thăng Long đến khu vực Chiêm Thành xưa,
đoạn đi qua huyện Nam Đàn và huyện Hưng Nguyên ở nhật trình ngày thứ 14
[Nguồn: bản dịch của TS. Nguyễn Tấn Cường và Th.S Lê Văn Ất - Viện Nghiên cứu Hán Nôm]
PL 6
PHỤ LỤC 6: Bảng đối chiếu địa danh xã, thôn, giáp, sở, vạn thuộc các tổng trong huyện Nam Đàn thời Nguyễn (1802 - 1884) với huyện Nam Đàn hiện tại (2020)
Tổng Xã hiện tại
Hoa Lâm
Non Liễu
Bích Triều
Lâm Thịnh
TT Xã, thôn, phường, giáp, vạn, sở 1 Thôn Đồng Điên 2 Xã Đông Liệt 3 Xã Nghĩa Động 4 Xã Hương Lãm, thôn Khả Lãm 5 Xã Thanh Tuyền 6 Xã Vân Đồn 7 Xã Hương Lãm, thôn Đông 8 Xã Hương Lãm, thôn Nam 9 Xã Hương Lãm, thôn Tạo Lễ 10 Xã Hồng Nhiễm 11 Xã Thịnh Lạc, thôn Trung Lâm 12 Xã Thịnh Lạc, thôn Nhân Hậu 13 Xã Thịnh Lạc, giáp Đồng Nhân 14 Xã Thịnh Lạc, thôn Xuân Lâm 15 Xã Thịnh Lạc, giáp Hạ 16 Thôn An Lạc 17 Thôn Thượng Hồng 18 Xã Chung Tháp 19 Xã Tự Trì 20 Xã Yên Lạc 21 Xã Nộn Hồ 22 Xã Nộn Liễu 23 Thôn Chi Cơ 24 Xã Võ Nguyên 25 Vạn Võng Nhi, Cây Trà 26 Thôn Cây Trà 27 Thôn Lương Giai 28 Sở Lương Trường, Tàm Tang 29 Xã Lương Trường, thôn Trường 30 Xã Lương Trường, thôn Phú Thọ 31 Xã Lương Trường, thôn Vạn Lộc 32 Xã Lương Trường, thôn Đặng Xá 33 Thôn Ngũ Nhược 34 Xã Chung Cự, giáp Kính Kị 35 Xã Lâm Thịnh 36 Xã Chung Mỹ 37 Xã Chung Cự, giáp Khoa Cử 38 Xã Duyên La Xã Nam Hưng Xã Nam Thái Xã Nam Thái Xã Nam Nghĩa Nam Thanh Nam Vân Vân Diên Thị trấn Nam Đàn Thị trấn Nam Đàn Xuân Hòa Hùng Tiến Hùng Tiến Hùng Tiến Hùng Tiến Hùng Tiến Hùng Tiến Hồng Long Hồng Long Hùng Tiến Nam Lĩnh Xuân Hòa Nam Anh, Nam Xuân Nam Thượng Nam Thượng Nam Tân Nam Tân Nam Tân Nam Tân Nam Tân Nam Tân Nam Lộc Nam Lộc Nam Lộc Hùng Tiến Hồng Long Xuân Lâm Xuân Lâm Xuân Lâm
PL 7
Nam Kim
39 Xã Tràng Cát 40 Xã Hữu Biệt 41 Vạn thủy cơ Duyên La 42 Xã Chung Cự, thôn Hoàng Trù 43 Xã Chung Cự, thôn Vân Hội 44 Xã Chung Cự, phường Tiểu Ca 45 Xã Chung Cự, thôn Kim Liên 46 Xã Chung Cự, giáp Tính 47 Xã Chung Cự, thôn Ngọc Đình 48 Xã Gia Lạc 49 Xã Tiên Hoa, thôn Khánh Lộc 50 Xã Tiên Hoa, thôn Xuân Mỹ 51 Xã Xuân Hoa, thôn Đông Đồn 52 Xã Xuân Hoa, thôn Trung Hội 53 Xã Xuân Hoa, thôn Tứ Trành 54 Xã Nam Hoa Thượng, thôn Hoành Sơn 55 Xã Nam Hoa Thượng, thôn Dương Liễu 56 Xã Trung Cần 57 Xã Nam Hoa Tứ 58 Xã Tiên Hoa, thôn Thiên Lộc 59 Xã Xuân Phúc 60 Xã Nam Hoa Đông, thôn Đông Viên 61 Xã Nam Hoa Đông, thôn Quần Xá 62 Xã Nam Hoa Đông, thôn Vạn Thọ 63 Xã Nam Hoa Đông, thôn Dương Phổ Tứ 64 Xã Nam Hoa Đông, thôn Dương Phổ Đông 65 Thôn Đông Châu Nam Cát Nam Giang Xuân Lâm Kim Liên Kim Liên Kim Liên Kim Liên Kim Liên Kim Liên Nam Lĩnh Khánh Sơn Khánh Sơn Khánh Sơn Khánh Sơn Khánh Sơn Khánh Sơn Nam Trung Nam Trung Nam Kim Nam Kim Nam Phúc Nam Phúc Nam Phúc Nam Cường Nam Cường Nam Cường Phù Long Nam Cường
[107]; [213]
PL 8
PHỤ LỤC 7: Địa bạ một số thôn, xã huyện Nam Đàn
Địa bạ xã An Lạc, tổng Non Liễu, huyện Nam Đường - ký hiệu NA - 11031.
Tờ đầu (00001) - phía bên phải
Trang 1
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 9
Tờ đầu (00001) - phía bên trái
Trang 2
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 10
Tờ cuối (00042) - phía bên phải
Trang 1
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 11
Tờ cuối (00042) - phía bên trái
Trang 2
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 12
Địa bạ xã Thịnh Lạc, tổng Non Liễu, huyện Nam Đường, phủ Anh Sơn, ký hiệu NA - 11055
Tờ đầu (00001) - phía bên phải
Trang 1
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 13
Tờ đầu (00001) - phía bên trái
Trang 2
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 14
Tờ cuối (00059) - phía bên phải
Trang 1
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 15
Tờ cuối (00059) - phía bên trái
Trang 2
[Nguồn: TTLTQG I]
PL 16
PHỤ LỤC 8: Các loại hình sở hữu ruộng đất ở Nam Đàn (1802 - 1884)
BẢNG THỐNG KÊ DIỆN TÍCH CÔNG ĐIỀN, CÔNG THỔ CỦA HUYỆN NAM ĐÀN THỜI NGUYỄN (1802 - 1884) QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠ
Công điền
TT
Tên thôn
Tên xã
Lưu hoang
Hạng 1
Hạng 2
Hạng 3
Vụ hạ
Vụ thu
Diện tích Công điền
Thực trưng
Diện tích Công Thổ
Công thổ Thực trưng
Lưu hoang
Phế canh
Số TL tại TTLTQG1
Đơn vị tính: Mẫu. sào. thước. tấc. phân (M.s.th.t.p)
An Lạc Chung Tháp Hương Lãm
3.1.5.0.0 4.5.0.0.0 11.6.6.3.0 0
2.6.5.0.0 3.5.0.0.0 0 0
0.7.10.4.0 0 0 0
0 1.4.0.0.0 0 0
0 1.4.0.0.0 20.5.7.0.0 0 10.4.12.5.0 587.7.2.0.0 5.6.14.8.0 0
Nghĩa Động Non Liễu Non Hồ Thanh Tuyền Thịnh Lạc Tự Trì
1.6.10.4.0 4.5.0.0.0 4.1.0.0.0 0 87.6.4.8.0 20.5.11.6.0 63.2.1.8.0 7.3.12.0.0 91.9.9.5.0 2.1.0.0.0 6.0.3.0.0
72.0.14.1.0 8.9.12.0.0 475.7.0.4.0 3.1.0.0.0 15.3.1.3.0
1.4.9.6.0 0 7.5.6.3.0 0 67.0.8.2.0 8.8.12.3.0 1.6.0.0.0 383.7.5.9.0 1.0.0.0.0 9.2.13.3.0
Tổng Non Liễu 0.3.0.0.0 0.2.0.0.0 0.5.0.0.0 0.5.0.0.0 0 0 0 0 0.1.3.0.0 0.4.4.0.0 67.5.6.5.0 2.5.7.7.0 1.9.14.9.0 2.0.0.0.0 2.4.0.0.0 4.5.12.0.0 2.9.3.0.0 470.0.12.3.0 2.7.0.0.0 1.3.0.0.0 0.8.0.0.0 1.0.0.0.0 14.6.1.3.0 0.7.0.0.0 0
2.3.9.6.0 4.5.0.0.0 11.6.6.3.0 0 87.0.12.8.0 10.0.14.1.0 11.9.1.8.0 4.3.0.0.0 22.3.7.0.0 0 4.2.9.0.0
0 0 20.5.7.0.0 0 0.0.0.0.0 587.7.2.0.0 0.4.8.7.0 5.2.6.1.0 0 0 0 10.9.2.0.0 10.9.2.0.0 0 0 0 0
51.3.0.0.0 3.0.12.0.0 69.6.2.5.0 0 1.7.9.0.0
0 0
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
11031 11034 11040 11043 11049 11051 11053 11054 11055 11056
0.7.0.0.0
0.7.0.0.0
0.0.0.0.0
0
0
0.7.0.0.0
0
0
0.7.12.2.0 0.7.12.2.0
0
0
11
11057
Hồng Nhiễm Thịnh Lạc Thượng Hồng
Vân Đồn
27.7.4.4.0
106.1.10.0
0
12
11062
Tổng
80.4.6.2.0 108.1.10.6.0 790.9.9.5.0 282.6.9.5.0
0 508.3.0.0.0 9.4.10.7.0
0 108.1.10.6.0 760.2.0.5.0
9.6.6.9.0
2.0.0.6.0 73.4.3.4.0
0 0 243.1.11.4.0 627.0.8.0.0 18.3.5.3.0 608.7.2.7.0
0 0
2.0.0.0.0 0
2.0.0.0.0 0 17.5.0.0.0 13.0.0.0.0
Gia Lạc Hữu Biệt Trường Cát Tuần La Chung Cự Lâm Thịnh
15.3.6.0.0 365.1.8.0.0 87.5.0.0.0 259.0.4.0.0 91.8.14.8.0 0 33.0.5.0.0
7.1.0.0.0 8.2.6.0.0 81.4.9.8.0 283.6.13.2.0 41.5.0.0.0 46.0.0.0.0 243.5.2.3.0 15.5.1.7.0 34.4.4.9.0 57.4.9.9.0 0 0 24.4.8.0.0 8.5.12.0.0
Tổng Lâm Thịnh 0 1.3.0.0.0 1.0.0.0.0 6.0.0.0.0 1.0.1.5.0 0 2.3.0.0.0
0 2.3.0.0.0 2.0.0.0.0 7.0.0.0.0 2.0.0.0.0 0 4.5.0.0.0
5.6.0.0.0 15.3.6.0.0 67.1.5.0.0 361.5.8.0.0 41.5.0.0.0 84.5.0.0.0 246.0.4.0.0 12.5.1.7.0 88.8.13.3.0 38.9.13.9.0 0 4.0.0.0.0
0 26.2.5.0.0
9.7.6.0.0 298.0.3.0.0 46.0.0.0.0 3.0.0.0.0 46.7.11.0.0 0 52.9.0.9.0 0 0 0 20.4.8.0.0
0 0 4.5.0.0.0 0 46.7.11.0.0 0 0 0 0 0 0
Chung Mỹ
0 0 0 0 0 0 0
1 2 3 4 5 6 7
11041 11044 11059 11060 11032 11033 11047
851.9.7.8.0 216.1.3.4.0
635.8.4.4.0 11.6.1.5.0 17.8.0.0.0
822.5.6.3.0 169.7.5.6.0
430.1.2.9.0 66.2.11.0.0 15.0.0.0.0 51.2.11.0.0
Tổng
0
[Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884)]
PL 17
Tổng Nam Hoa (Nam Kim)
11132
Bạch Sơn
Tiên Hoa
17.1.14.1.0
4.2.6.0.0
12.9.8.1.0
0.3.11.0.0
0.7.0.0.0
16.1.3.1.0
5.8.14.9.0
11.2.14.2.0
24.6.12.0.0
0
24.6.12.0.0
0
1
11138 Dương Phổ
Nam Hoa Đông
1.0.0.0.0
1.0.0.0.0
0
0
0.1.0.0.0
0.9.0.0.0
1.0.0.0.0
3.0.0.0.0
3.0.0.0.0
0
0
0
2
11139 Dương Phổ Tứ
Nam Hoa Đông
32.3.14.5.0
11.6.14.5.0
20.7.0.0.0
0.2.0.0.0
0.5.0.0.0
31.6.14.5.0
32.3.14.5.0
5.3.8.0.0
5.3.8.0.0
0
0
0
3
11142
Thôn Đông Đồn
Xuân Hoa
31.2.5.1.0
26.5.2.0.0
0.9.0.0.0
2.0.0.0.0
28.3.5.1.0
31.2.5.1.0
44.9.9.5.0
3.9.2.5.0
41.0.7.0.0
0
0
4
11144 Hoàng Xá
Nam Hoa Đông
111.0.12.2.0
5.1.2.1.0
0
2.9.0.0.0
108.1.12.2.0
111.0.12.2.0
10.6.5.7.0
6.3.1.5.0
4.3.4.2.0
0
0
5
11145 Khánh Lộc
Tiên Hoa
18.7.14.0.0
7.5.10.0.0
0.3.11.0.0
1.3.0.7.0
17.1.2.3.0
17.4.3.0.0
0.3.11.0.0
22.5.11.0.0
22.2.11.0.0
0.3.0.0.0
4.7.3.1.0 105.9.10.1. 0 11.2.4.0.0
0
6
11156
Nam Hoa Tứ
144.9.2.2.0
22.6.1.6.0
122.3.0.6.0
0.4.8.0.0
1.0.0.0.0
143.4.9.2.0
144.9.2.2.0
0.2.7.5.0
0.2.7.5.0
0
0
0
7
11164
Thanh Trí
Xuân Hoa
17.1.0.0.0
17.0.7.1.0
0.0.7.9.0
0
17.1.0.0.0
17.1.0.0.0
26.0.10.5.0
1.0.2.0.0
25.0.8.5.0
0
0
0
8
11170
Trung Hội
Xuân Hoa
27.1.0.0.0
21.1.0.0.0
6.0.0.0.0
1.0.0.0.0
26.1.0.0.0
27.1.0.0.0
59.4.12.0.0
7.3.8.0.0
52.1.4.0.0
0
0
0
9
11173 Vạn Thọ
Hoa Đông
111.6.0.0.0
0.4.5.1.0
111.1.9.9.0
0.2.0.0.0
1.3.0.0.0
110.1.0.0.0
111.6.0.0.0
50.3.2.2.0
49.7.2.2.0
0.6.0.0.0
0
0
10
11176 Xuân Áng
Xuân Hoa
10.8.0.0.0
10.8.0.0.0
0
10.8.0.0.0
10.8.0.0.0
100.5.0.0.0
100.5.0.0.0
0
0
0
0
0
11
11177 Xuân Mỹ
Tiên Hoa
18.7.14.1.0
18.7.14.1.0
0
0.3.12.0.0
1.4.10.6.0
16.9.6.5.0
18.7.14.1.0
26.4.11.0.0
26.4.11.0.0
0
0
0
12
11178
Xuân Phúc
3.2.8.0.0
3.2.8.0.0
0.1.0.0.0
0.2.0.0.0
2.9.8..0.0
3.2.8.0.0
0
0
0
0
0
0
13
11169
Trung Cần
20.2.5.0.0
18.2.5.0.0
2.0.0.0.0
0.5.0.0.0
2.0.0.0.0
17.7.5.0.0
20.2.5.0.0
2.5.0.0.0
0
0
0
14
Tổng
565.4.14.2.0
154.3.7.5.0
411.1.6.7.0
3.4.12.0.0
14.4.11.3.0
547.5.5.9.0
552.8.4.0.0
11.6.10.2.0
125.6.8.7.0
251.1.5.7.0
0
2.5.0.0.0 376.7.14.4. 0
Tổng Bích Triều
11137
Chi Cơ
7.9.0.0.0
5.8.5.1.0
2.0.9.9.0
0.2.0.0.0
0.6.0.0.0
7.1.0.0.0
1.6.0.0.0
1.6.0.0.0
0
0
0
0
1
11151
Lương Trường
163.6.3.7.0
65.1.10.5.0
98.4.8.2.0
1.5.11.0.0
2.8.5.3.0
159.2.2.4.0
53.2.2.4.0
109.8.9.6.0
496.0.1.3.0
249.4.0.0.0
246.6.1.3.0
0
2
37.8.13.0.0
37.8.13.0.0
0.1.0.0.0
0.1.0.0.0
37.6.13.0.0
37.8.13.0.0
0
0
0
0
0
0
3
11163
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
4
11157 Ngũ Nhược Thanh Trai, Lương Giai
11175
Vạn Võng Nhi Thanh Trai Vũ Nguyên
69.0.4.9.0
0.8.0.0.0
3.0.0.0.0
94.8.0.0.0
98.6.0.0.0
98.6.0.0.0
0
0
0
0
0
5
308.0.1.7.0
Tổng
207.4.6.0.0
2.6.11.0.0
6.5.5.3.0
298.8.0.4.0
189.7.0.4.0
109.8.9.6.0
497.6.1.3.0
251.0.0.0.0
246.6.1.3.0
0
29.5.10.1.0 100.5.10.7. 0
Tổng Hoa Lâm
0
0
0
11037
Đông Liệt
220.8.7.8.0
8.1.14.6.0
212.6.8.2.0
0
220.8.7.8.0
220.8.7.8.0
0
0
0
1
0
0
0
11039 Đồng Xuân
187.1.5.7.0
4.9.4.6.0
182.2.1.1.0
1.0.0.0.0
186.1.5.7.0
187.1.5.7.0
6.1.10.6.0
0
0
2
0
0
0
Tổng
407.9.13.5.0
13.1.4.2.0
394.8.9.3.0
1.0.0.0.0
406.9.13.5.0
407.9.13.5.0
6.1.10.6.0
0
0
[Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 – 1884)]
PL 18
BẢNG THỐNG KÊ DIỆN TÍCH TƯ ĐIỀN, TƯ THỔ CỦA HUYỆN NAM ĐÀN THỜI NGUYỄN (1802 - 1884) QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠ
Tư thổ
Tư điền
TT
Tên thôn
Tên xã
Hạng 1
Hạng 2
Hạng 3
Vụ hạ
Vụ thu
2 vụ
Diện tích Tư điền
Thực trưng
Lưu hoang phế canh
Diện tích Tư thổ
Thực trưng
Lưu hoang phế canh
Số TL tại TTLTQ G1
Đơn vị tính: Mẫu. sào. thước. tấc. phân (M.s.th.t.p)
Tổng Non Liễu
An Lạc
698.7.3.2.0
238.3.4.6.0
460.3.13.6.0
2.2.0.0.0
3.6.6.0.0
693.0.12.2.0
117.2.6.0.0
121.10.13.6.0
69.5.6.0.0
69.5.6.0.0
0
0
11031
1
0
Chung Tháp
361.4.0.0.0
215.4.0.0.0
146.0.0.0.0
361.4.0.0.0
21.0.0.0.0
194.4.0.0.0
20.6.0.0.0
15.6.0.0.0
5.0.0.0.0
0
11034
2
0
Hương Lãm
745.0.5.3.0
348.2.13.3.0
396.7.7.0.0
2.0.0.0.0
735.2.12.8.0
196.7.8.1.0
151.5.5.2.0
94.3.9.7.0
94.3.9.7.0
0
0
11040
3
7.7.7.5.0
11043
Hồng Nhiễm Thịnh Lạc
330.2.4.6.0
209.1.1.0.0
121.1.3.6.0
1.0.0.0.0
328.7.4.6.0
21.0.0.0.0
184.1.1.0.0
30.1.2.5.0
30.1.2.5.0
0
0
4
0.5.0.0.0
Nghĩa Động
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
11049
5
0
1979.9.7.0.0
1277.5.4.0.0
702.4.3.0.0
10.0.9.8.0
1966.3.3.2.0
781.4.13.5.0
1196.9.8.5.0
8.0.6.3.0
8.0.6.3.0
0
0
Non Liễu
11051
6
3.5.9.0.0
920.8.13.1.0
400.5.9.4.0
520.3.3.7.0
4.0.0.0.0
915.1.13.1.0
186.5.13.9.0
213.9.10.5.0
0.2.10.7.0
0.2.10.7.0
0
0
11053
7
1.7.0.0.0
2663.6.4.2.0
640.9.2.3.0
2022.7.1.9.0
63.3.0.0.0
34.2.10.0.0
2566.0.9.2.0
277.5.5.0.0
363.3.12.3.0
203.9.0.0.0
201.5.0.0.0
2.4.0.0.0
0
11054
8
138.8.7.9.0
78.2.13.7.0
60.5.9.2.0
0
138.8.7.9.0
17.1.6.9.0
61.1.6.8.0
436.5.1.0.0
136.5.1.0.0
300.0.0.0.0
0
Non Hồ Thanh Tuyền Thịnh Lạc
11055
9
0
940.6.4.1.0
872.8.4.1.0
67.8.0.0.0
2.0.0.0.0
2.5.4.4.0.0
936.0.14.7.0
395.3.7.5.0
477.4.11.6.0
18.3.14.8.0
18.3.14.8.0
0
0
Tự Trì
11056
10
84.1.13.0.0
69.1.3.0.0
15.0.10.0.0
1.0.0.0.0
2.0.0.0.0
81.1.13.0.0
30.0.10.0.0
54.1.3.0.0
118.1.5.6.0
17.5.3.0.0
100.6.2.6.0
0
11057
11
Vân Đồn
254.4.9.6.0
248.6.10.6.0
5.7.14.0.0
2.0.0.0.0
2.2.0.0.0
250.2.9.6.0
106.2.10.9.0
142.3.14.7.0
0
0
0
0
11062
12
Thượng Hồng
9117.9.12.0.0
4599.0.6.0.0
4518.9.6.0.0
84.0.1.5.0
61.7.0.2.0
8972.2.10.3.0
2150.4.6.8.0
3160.6.12.2.0
999.8.11.6.0
371.1.4.0.0
628.7.7.6.0
0
Tổng
2002.9.6.9.0
414.0.12.9.0
1588.8.9.0.0
1990.8.6.9.0
233.2.9.1.0
1769.6.12.8.0
238.9.14.0.0
63.1.5.7.0
175.8.8.3.0
0
Gia Lạc
11041
1
Tổng Lâm Thịnh 3.0.0.0.0
9.1.0.0.0
1742.1.10.3.0
725.8.2.4.0
1016.3.7.9.0
1727.3.7.8.0
439.6.11.6.0
1302.4.13.7.0
0
0
0
0
Hữu Biệt
11044
2
7.2.0.0.0
7.6.2.5.0
Trường Cát
1010.3.7.0.0
761.6.1.0.0
248.7.6.0.0
995.3.7.0.0
467.3.4.0.0
294.2.12.0.0
0
0
0
0
11059
3
5.0.0.0.0
10.0.0.0
248.9.0.0.0
95.6.11.7.0
153.2.3.3.0
243.3.9.0.0
3.0.0.0.0
92.6.7.11.0
419.5.4.7.0
10.9.11.3.0
408.5.8.4.0
0
Tuần La
11060
4
1.0.0.0.0
4.5.6.0.0
1093.7.0.9.0
731.5.3.5.0
362.1.12.4.0
16.0.0.0.0
1071.5.12.9.0
545.7.0.9.0
546.8.14.8.0 1.1.0.0.0
1040.7.14.0.0
1040.7.14.0.0
0
Chung Cự
11032
5
6.1.3.0.0
11033
Chung Mỹ
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
6
0
Lâm Thịnh
1536.9.0.0.0
573.9.6.8.0
962.9.8.2.0
10.1.0.0.0
13.2.0.0.0
1513.6.0.0.0
749.7.8.2.0
5.0.0.0.0
0
0
0
0
11047
7
Tổng
7634.9.10.1.0
3302.6.8.3.0
4332.3.1.8.0
42.3.0.0.0
50.5.11.5.0
7542.0.13.6.0
2438.7.3.8.0
2441.0.1.4.0 1.1.0.0.0
1699.3.2.7.0
1114.9.1.0.0
584.4.1.7.0
[Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884)
PL 19
Tổng Nam Hoa (Nam Kim)
1
11132
Bạch Sơn
Tiên Hoa
355.1.3.1.0
20.4.9.0.0
334.6.9.1.0
0.6.0.0.0
3.4.7.0.0
351.0.11.1.0
283.3.0.0.0
71.8.3.0.0
9.2.0.0.0
9.2.0.0.0
0
0
2
11138
Dương Phổ
Nam Hoa Đông
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
3
11139
Dương Phổ Tứ
Nam Hoa Đông
40.0.11.5.0
20.0.11.5.0
20.0.0.0.0
1.0.0.0.0
39.0.11.5.0
40.0.11.5.0
0
0
0
0
0
0
4
11142
Thôn Đông Đồn
Xuân Hoa
192.6.8.0.0
4.4.12.0.0
188.1.11.0.0
1.2.0.0.0
2.0.0.0.0
189.4.8.0.0
192.6.8.0.0
18.9.9.1.0
18.9.9.1.0
0
0
0
5
11144
Hoàng Xá
Nam Hoa Đông
282.6.9.6.0
89.5.5.7.0
193.1.3.9.0
1.0.0.0.0
2.0.0.0.0
279.6.9.6.0
282.6.9.6.0
11.5.10.1.0
11.5.10.1.0
0
0
0
6
11145
Khánh Lộc
Tiên Hoa
279.4.13.5.0
28.1.9.6.0
251.3.3.9.0
0.6.0.0.0
3.4.7.0.0
275.4.6.5.0
268.7.12.5.0
11.7.1.0.0
3.5.7.5.0
3.5.7.5.0
0
0
7
11156
Nam Hoa Tứ
722.7.6.0.0
154.2.9.7.0
568.4.11.3.0
0.6.7.0.0
2.0.0.0.0
720.0.14..0.0
722.7.6.0.0
57.0.0.0.0
4.5.9.5.0
52.4.5.5.0
0
0
8
11164
Thanh Trí
Xuân Hoa
116.6.8.0.0
0
116.6.8.0.0
0
0
116.6.8.0.0
23.6.5.9.0
0
23.6.5.9.0
0
0
0
9
11170
Trung Hội
Xuân Hoa
56.8.0.0.0
1.3.0.0.0
55.5.0.0.0
1.3.0.0.0
55.5.0.0.0
56.8.0.0.0
14.0.0.0.0
5.0.0.0.0
9.0.0.0.0
0
0
0
10
11173
Vạn Thọ
Hoa Đông
167.8.11.2.0
7.3.3.0.0
160.5.8.2.0
1.0.0.0.0
166.8.11.2.0
167.8.11.2.0
2.5.4.6.0
2.5.4.6.0
0
0
0
0
11
11176
Xuân Áng
Xuân Hoa
51.4.9.3.0.0
1.2.0.0.0
50.2.9.3.0
0
51.4.9.3.0
51.4.9.3.0
27.5.2.1.0
2.0.0.0.0
25.5.2.1.0
0
0
0
12
11177
Xuân Mỹ
Tiên Hoa
363.1.10.9.0
74.4.10.9.0
288.7.0.0.0
0.5.5.0.0
3.4.8.0.0
359.1.12.9.0
215.1.5.9.0
148.0.5.0.0
0
0
0
0
13
11178
Xuân Phúc
109.8.7.5.0
20.0.6.2.0
89.8.1.3.0
0.1.0.0.0
0.4.0.0.0
109.3.7.5.0
109.8.7.5.0
13.2.7.0.0
5.4.12.6.0
7.7.9.4.0
0
0
14
11169
Trung Cần
113.8.3.0.0
38.8.3.0.0
75.0.0.0.0
0.6.0.0.0
0.9.0.0.0
112.3.3.0.0
113.8.3.0.0
5.7.0.0.0
1.9.0.0.0
3.8.0.0.0
0
0
Tổng
2852.3.11.6.0
460.1.5.6.0
2392.2.6.0.0
20.9.7.0.0
2826.1.7.6.0
2621.8.2.5.0
231.5.9.0.0
186.9.1.3.0
45.7.14.3.0
141.1.2.0.0
0
5.2.12.0.0 Tổng Bích Triều
1
11137
Chi Cơ
249.4.5.1.0
63.5.13.9.0
185.8.6.2.0
0.6.0.0.0
4.5.0.0.0
244.3.5.1.0
249.4.5.1.0
28.9.11.0.0
25.6.11.0.0
3.3.0.0.0
0
0
2
11151
Lương Trường
882.0.0.2.0
111.4.6.2.0
770.5.9.0.0
0.8.0.0.0
3.7.1.0.0
877.4.14.2.0
830.7.10.1.0
51.2.5.1.0
614.8.12.5.0
156.5.2.5.0
458.3.10.0.0
0
3
11157
Ngũ Nhược
15.6.4.0.0
1.0.0.0.0
14.6.4.0.0
0.1.0.0.0
0.5.0.0.0
15.0.4.0.0
15.0.4.0.0
12.9.0.0.0
7.6.6.1.0
5.2.8.9.0
0
0
4
11163
0
0
0
0
0
0
0
11.1.4.5.0.0
11.1.4.5.0.0
0
0
0
5
11175
Thanh Trai, Lương Giai
Vạn Võng Nhi Thanh Trai Vũ Nguyên
128.8.9.5.0
18.1.3.0.0
110.7.6.5.0
1.3.0.0.0
2.4.0.0.0
125.1.9.5.0
128.8.9.5.0
98.0.1.1.0
2.5.8.1.0
95.4.8.0.0
0
0
Tổng
1275.9.3.8.0
194.1.8.1.0
1081.7.10.7.0
2.8.0.0.0
11.1.1.0.0
1262.0.2.8.0
1224.0.13.7.0
51.2.5.1.0
765.8.14.1.0
203.5.2.2.0
562.3.11.9.0
0
Tổng Hoa Lâm
1 2
0 0
11037 11039
Đồng Xuân
Đông Liệt
3418.9.9.3.0 887.3.2.5.0
0 105.3.13.6.0
3065.9.4.8.0 781.9.3.9.0
16.5.0.0.0 6.5.0.0.0
13.4.10.0.0 5.0.0.0.0
3388.9.14.3.0 875.8.2.5.0
337.7.4.2.0 509.4.9.3.0
15.3.0.3.0 377.8.8.2.0
37.6.3.2.0 29.0.14.4.0
1.0.0.0.0 0
36.6.3.2.0 29.0.14.4.0
Tổng
4306.2.11.8.0
458.4.3.1.0
3847.8.8.7.0
23.0.0.0.0
18.4.10.0.0
847.1.13.5.0
4264.8.1.8.0
393.1.8.5.0
66.7.2.6.0
0
65.7.2.6.0
1.0.0.0.0 [Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884)]
PL 20
BẢNG THỐNG KÊ CÁC LOẠI ĐẤT KHÁC Ở NAM ĐÀN THỜI NGUYỄN (1802 - 1884) QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠ
Tổng Non Liễu
Thổ trạch, viên trì
Thần từ, phật tự
Tha ma mộ địa
Đất bãi, rừng, đất cát.
Khe cừ, sông suối
TT
Tên thôn
Xã
Tổng diện tích các loại đất khác
Số TL tại TTLTQG1
Đơn vị tính: Mẫu. sào. thước. tấc. phân (M.s.th.t.p)
1 2
11031 11034
An Lạc Chung Tháp
54.3.6.0.0 67.6.0.0.0
21.9.0.0.0 18.6.0.0.0
3.1.6.0.0 0.3.0.0.0
5.5.0.0.0 8.7.0.0.0
23.8.0.0.0 40.0.0.0.0
0 0
3
11040
Hương Lãm
111.8.7.1.0
57.9.0.0.0
6.7.9.3.0
35.5.7.5.0
11.6.5.3.0
0
4
11043
Hồng Nhiễm
Thịnh Lạc
25.3.13.4.0
13.0.0.0
1.5.0.0.0
6.8.13.4.0
4.0.0.0.0
0
5
11049
Nghĩa Động
21.2.3.0.0
3.9.0.0.0
2.0.0.0.0
7.0.0.0.0
8.3.3.0.0
0
6
11051
Non Liễu
237.8.12.9.0
116.8.0.0.0
32.5.0.0.0
65.7.2.3.0
22.8.10.6.0
0
7
11053
99.7.14.2.0
0
Non Hồ
0
0
99.7.14.2.0
0
8
11054
Thanh Tuyền
102.6.0.0.0
65.7.0.0.0
7.9.0.0.0
13.0.0.0.0
16.0.0.0.0
0
Thịnh Lạc Tự Trì
9 10 11
11055 11056 11057
Thượng Hồng
85.9.3.9.0 150.5.7.7.0 35.4.8.0.0
33.3.0.0.0 82.5.0.0.0 2.7.0.0.0
2.4.0.0.0 2.5.0.0.0 1.0.0.0.0
14.6.6.1.0 12.4.0.0.0 10.5.0.0.0
35.5.12.8.0 53.1.7.7.0 21.2.8.0.0
0 0 0
12
11062
Vân Đồn
46.1.0.0.0
32.8.0.0.0
2.0.0.0.0
11.3.0.0.0
0
0
Tổng
1038.7.1.2.0
449.1.0.0.0
62.0.0.3.0
191.1.14.3.0
336.4.1.6.0
0
[Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884)]
PL 21
Tổng Lâm Thịnh
155.2.0.0.0 126.5.4.5.0 149.3.1.4.0 359.7.14.3.0 333.7.3.0.0 49.0.6.4.4
11041 11044 11059 11060 11032 11033 11047
Chung Mỹ
Gia Lạc Hữu Biệt Trường Cát Tuần La Chung Cự Lâm Thịnh
1 2 3 4 5 6 7
9.9.0.0.0 1.0.0.0.0 8.0.0.0.0 11.9.0.0.0 9.0.0.0.0 0 10.0.0.0.0 49.8.0.0.0
114.7.13.0.0 85.7.4.5.0 43.8.1.4.0 264.8.14.3.0 206.9.3.0.0 37.5.11.6.6 186.9.3.8.0 940.6.6.6.6
Tổng
324.1.6.3.0 1497.7.5.9.4
22.5.0.0.0 35.1.0.0.0 93.0.0.0.0 82.2.0.0.0 114.3.0.0.0 11.3.9.7.8 126.0.2.5.0 484.4.12.2.8
8.0.2.0.0 4.7.0.0.0 4.5.0.0.0 0.8.0.0.0 3.5.0.0.0 0.1.0.0.0 1.2.0.0.0 22.8.2.0.0
0 0 0 0 0 0 0 0
Tổng Nam Hoa (Nam Kim)
11132
Bạch Sơn
Tiên Hoa
8.6.6.3.0
5.2.6.3.0
0
1 dải suối dài 55 trượng
1
1.8.0.0.0
1.6.0.0.0
11138
Dương Phổ
Nam Hoa Đông
73.9.11.0.0
3.2.9.0.0
61.4.2.0.0
2 dải khe cừ: 295 trượng 3 thước.
2
8.8.0.0.0
0.5.0.0.0
11139
Dương Phổ Tứ
Nam Hoa Đông
32.0.9.1.0
10.6.0.0.0
2.1.0.0.0
18.4.9.1.0
1 đoạn suối dài 6 trượng;
3
0.9.0.0.0
11142
Thôn Đông Đồn
Xuân Hoa
4
12.1.0.0.0
10.2.0.0.0
1.9.0.0.0
0
0
1 dải sông dài 272 trượng
11144
Hoàng Xá
Nam Hoa Đông
5
30.2.2.1.0
8.5.2.1.0
1.8.0.0.0
19.9.0.0.0
0
1 dải suối dài 132.5 tấc;
11145
Khánh Lộc
Tiên Hoa
6
9.0.10.0.0
3.9.0.0.0
2.3.0.0.0
2.8.10.0.0
0
1 dải khe cừ dài 350 trượng 8 thước
11156
Nam Hoa Tứ
7
36.3.5.0.0
24.4.0.0.0
4.1.0.0.0
5.3.1.0.0
2.5.4.0.0
1 dải suối dài 180 trượng 4 thước;
11164
Thanh Trí
Xuân Hoa
8
2.0.0.0.0
0
1.0.0.0.0
1.0.0.0.0
0 1 dải suối, khe cừ 42 trượng 8 thước
11170
Trung Hội
Xuân Hoa
9
15.4.0.0.0
3.6.0.0.0
0.4.0.0.0
3.0.0.0.0
8.4.0.0.0
2 dải suối dài 1427 trượng
11173
Vạn Thọ
Hoa Đông
10
18.8.1.9.0
15.0.12.9.0
0.6.4.0.0
2.11.0.0.0
0
1 dải khe cử dài 215 thước
11176
Xuân Áng
Xuân Hoa
11
0
0
0
0
0
0
11177
Xuân Mỹ
Tiên Hoa
12
9.3.0.0.0
5.0.0.0.0
0.6.0.0.0
3.7.0.0.0
0
1 Dải khe cừ dài 250 trượng
11178
Xuân Phúc
13
8.1.0.0.0
2.4.0.0.0
2.2.0.0.0
3.5.0.0.0
0
2 dải suối khe cử dài 130 trượng
11169
Trung Cần
14
42.2.0.0.0
37.3.0.0.0
1.9.0.0.0
3.0.0.0.0
0 1 dải suối dài 152 trượng bảy thước.
Tổng
298.2.0.4.0
131.6.0.0.0
19.8.4.0.0
55.9.11.3.0
90.8.0.1.0
[Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884)]
PL 22
Tổng Bích Triều
1 2 3
11137 11151 11157
16.2.4.0.0 75.9.0.0.0 3.1.0.0.0
13.2.4.0.0 57.0.0.0.0 2.5.0.0.0
1.5.0.0.0 4.9.0.0.0 0.4.0.0.0
1.5.0.0.0 14.0.0.0.0 0.2.0.0.0
0 55.5.13.5 0
0 2 dải khe cừ dài: 215 trượng; 1 dải suối khe cừ dài 212 trượng
4
11163
15.8.8.0.0
11.7.1.0.0
0.2.12.3.0
3.8.9.7.0
0
0
5
11175
Chi Cơ Ngũ Nhược Thanh Trai, Lương Giai
Lương Trường Vạn Võng Nhi Thanh Trai Vũ Nguyên
Tổng
17.1.0.0.0 235.2.10.5.0
10.2.0.0.0 94.6.5.0.0
0.9.0.0.0 7.9.12.3.0
6.0.0.0.0 25.5.9.7.0
51.5.0.0.0 107.0.13.5.0
1 dải suối khe cừ dài 500 trượng
Tổng Hoa Lâm
1 2
11037 11039
Đồng Xuân
Đông Liệt
Tổng
210.4.5.9.0 57.8.3.0.0 268.2.8.9.0
31.2.0.0.0 17.1.0.0.0 48.3.0.0.0
4.5.6.1.0 1.1.0.0.0 5.6.6.1.0
7.4.0.0.0 7.2.0.0.0 14.6.0.0.0
167.2.14.8.0 32.4.3.0.0 199.7.2.8.0
0 0 0
[Nguồn: Tác giả thống kê từ 40 địa bạ huyện Nam Đàn (1802 - 1884)]