CHƯƠNG 2<br />
<br />
LIÊN KẾT GIỮA KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG:<br />
SỰ PHÂN LOẠI<br />
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, những hoạt động cơ bản là sản xuất, phân phối và tiêu dùng<br />
đều diễn ra trong một thế giới tự nhiên bao quanh. Một trong những vai trò của thế giới tự<br />
nhiên là cung cấp nguyên vật liệu thô và năng lượng đầu vào; mà nếu không có nó thì sản<br />
xuất, tiêu dùng và bản thân cuộc sống cũng không thể tồn tại được. Các hoạt động sản xuất<br />
và tiêu dùng tạo ra nhiều sản phẩm phế thải, gọi là chất thải, và những chất này cuối cùng<br />
sẽ quay về thế giới tự nhiên dưới dạng này hay dạng khác. Các chất thải này có thể gây ô<br />
nhiễm và suy thóai môi trường tự nhiên. Chúng ta có thể minh họa mối liên hệ cơ bản này<br />
bằng một giản đồ như sau:<br />
Thiên nhiên<br />
<br />
(a)<br />
<br />
Kinh tế<br />
<br />
(b)<br />
<br />
Mối liên kết (a): mô tả các nguyên vật liệu thô chuyển vào quá trình sản xuất và tiêu dùng.<br />
Lĩnh vực nghiên cứu vai trò cung cấp nguyên vật liệu thô của thiên nhiên được gọi là<br />
“Kinh tế tài nguyên thiên nhiên”. Mối liên kết (b): thể hiện sự tác động của hoạt động<br />
kinh tế đến chất lượng môi trường tự nhiên. Lĩnh vực nghiên cứu về sự vận chuyển của các<br />
chất thải từ hoạt động kinh tế và các tác động tổng hợp của nó đối với thế giới tự nhiên có<br />
tên gọi là “Kinh tế môi trường”. Mặc dù kiểm soát ô nhiễm là một chủ đề chính yếu trong<br />
kinh tế môi trường nhưng đó không phải là chủ đề duy nhất. Con người tác động đến môi<br />
trường bằng nhiều cách mà không có liên quan gì đến ô nhiễm như ta vẫn nghĩ. Phá hủy<br />
môi sinh do việc phát triển nhà cửa, đường xá và thủy lợi, do làm suy giảm cảnh quan, và<br />
việc tháo khô đất ngập nước để sản xuất nông nghiệp là những ví dụ về tác động môi<br />
trường không liên quan đến việc thải chất gây ô nhiễm đặc trưng.<br />
Chủ đề của cuốn sách này là Kinh tế môi trường. Chúng ta sẽ nghiên cứu về sự quản lý<br />
dòng chất thải và những tác động của hoạt động của con người đến tài nguyên môi trường.<br />
Tuy vậy, sự thật là nhiều vấn đề này lại nảy sinh ngay từ giai đoạn nguyên liệu thô ban đầu<br />
trong quá trình tác động qua lại giữa kinh tế và tự nhiên. Vì thế, trước khi tiếp tục, chúng ta<br />
sẽ xem xét vắn tắt những nhân tố chính của Kinh tế tài nguyên thiên nhiên.<br />
<br />
KINH TẾ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN<br />
Trong các xã hội hiện đại, đôi khi chúng ta dễ dàng bỏ qua sự kiện rằng hoạt động kinh tế<br />
sử dụng rất nhiều loại đầu vào tài nguyên thiên nhiên khác nhau. Ví dụ các nguồn năng<br />
lượng từ nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí thiên nhiên, đập thủy điện,<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
1<br />
<br />
ethanol, năng lượng mặt trời và gió cung cấp các nguồn đầu vào để phát điện, xe cộ di<br />
chuyển và năng lượng cho các quy trình sản xuất. Rất nhiều nguyên vật liệu được dùng<br />
trong xã hội công nghiệp, và ngay cả trong lĩnh vực công nghệ thông tin, có nguồn gốc từ<br />
các loại khoáng sản khác nhau và từ các tài nguyên rừng. Không khí và nước cần thiết cho<br />
tất cả các sinh vật, cũng như cần thiết cho đầu vào của nhiều quy trình sản xuất. Sản xuất<br />
thực phẩm phụ thuộc vào nền tảng tài nguyên thiên nhiên, hoặc để thu hoạch trực tiếp như<br />
ngành thủy sản, hoặc để cung cấp đầu vào cần thiết cho sự tăng trưởng của cây trồng vật<br />
nuôi.<br />
Để phân loại các tài nguyên thiên nhiên, cách phổ biến nhất là phân thành các tài nguyên<br />
có thể tái tạo (renewable) và tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable). Các tài<br />
nguyên sống như cá và gỗ là tài nguyên có thể tái tạo; chúng lớn lên theo thời gian qua các<br />
quy trình sinh học. Việc thu hoạch các tài nguyên này có thể bền vững theo thời gian. Một<br />
số nguồn tài nguyên không sống cũng là tài nguyên có thể tái tạo, một thí dụ điển hình đó<br />
là năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và vòng tuần hoàn nước. Tài nguyên không thể<br />
tái tạo là các dạng tài nguyên không có quá trình bổ sung sau khi sử dụng, chúng sẽ biến<br />
mất vĩnh viễn. Sự khai thác, vì thế là không bền vững. Những ví dụ điển hình là các túi dầu<br />
mỏ tự nhiên và các trầm tích khoáng không chứa năng lượng. Một số tài nguyên, chẳng<br />
hạn các tầng nước ngầm, có mức độ bổ sung quá chậm chạp nên chúng được xếp vào dạng<br />
tài nguyên không thể tái tạo. Các tài nguyên sống cũng có thể trở thành tài nguyên không<br />
thể tái tạo nếu việc khai thác liên tục vượt quá sự tăng trưởng của nguồn tài nguyên.<br />
Một loại tài nguyên cực kỳ quan trọng cho sự tồn tại của tất cả các loài, không hiện diện<br />
trong một chất mà chỉ hiện diện trong một tập hợp của nhiều thành phần: tài nguyên đa<br />
dạng sinh học (biological diversity). Các nhà sinh vật học ước tính trên trái đất hiện nay<br />
có khoảng 30 triệu loài sinh vật khác nhau đang sinh sống. Số lượng loài này thể hiện một<br />
nguồn thông tin di truyền to lớn và quan trọng, rất hữu ích cho sự phát triển các loại dược<br />
liệu, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc tự nhiên và các giống cây trồng vật nuôi có tính<br />
chống chịu v.v. Các hoạt động của con người đã làm gia tăng đáng kể mức độ tuyệt chủng<br />
của các loài. Vì vậy, sự bảo tồn nơi cư trú và bảo vệ các giống loài đã trở thành những vấn<br />
đề về tài nguyên quan trọng hiện nay.<br />
Một trong những đặc điểm đặc trưng của hầu hết những vấn đề về tài nguyên thiên nhiên là<br />
tính phụ thuộc vào thời gian. Điều này có nghĩa là việc sử dụng chúng thường kéo dài theo<br />
thời gian, do đó mức độ sử dụng trong một thời điểm sẽ ảnh hưởng đến số lượng sử dụng<br />
trong tương lai. Trong trường hợp các tài nguyên không thể tái tạo thì dễ nhận thấy điều<br />
này. Nên rút lên bao nhiêu dầu mỏ từ một giếng dầu trong năm nay, biết rằng nếu chúng ta<br />
rút nhiều hơn trong hiện tại thì sẽ còn lại ít hơn cho các năm tiếp theo? Vấn đề đánh đổi<br />
giữa hiện tại với tương lai này cũng xảy ra ở nhiều loại tài nguyên có thể tái tạo. Nên khai<br />
thác bao nhiêu cá hồi trong hiện tại biết rằng quy mô của đàn còn lại sẽ ảnh hưởng đến khả<br />
năng cung cấp cá trong những năm tiếp theo? Chúng ta nên khai thác các cây gỗ trong năm<br />
nay, hay là nên chờ vài năm nữa vì mức độ tăng trưởng của chúng còn đang cao?<br />
Những vấn đề ta đang nói đến mang đặc thù về mặt liên thế hệ, chúng bao hàm việc phải<br />
đánh đổi giữa hiện tại với tương lai. Một số vấn đề môi trường cũng mang tính chất này,<br />
nhất là các chất ô nhiễm tích lũy, hoặc những chất ô nhiễm cần một khoảng thời gian dài<br />
để tiêu hủy hết. Cái bị suy giảm ở đây chính là khả năng đồng hóa của trái đất - đó là khả<br />
năng của hệ thống tự nhiên chấp nhận một số chất ô nhiễm nào đó và chuyển chúng sang<br />
dạng trung tính hoặc vô hại. Một số lý thuyết về cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên cũng giúp<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
2<br />
<br />
ích cho sự hiểu biết về ô nhiễm môi trường. Theo đó, khả năng đồng hóa cũng là một dạng<br />
tài nguyên thiên nhiên, tương tự các tài nguyên truyền thống như dầu mỏ và rừng.<br />
Một nét đặc trưng của thế giới hiện đại đó là trong nhiều trường hợp, sự phân chia ranh<br />
giới giữa tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường không rõ nét. Nhiều tiến trình<br />
khai thác tài nguyên, như khai thác gỗ, khai mỏ lộ thiên, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất<br />
lượng môi trường. Và trong nhiều trường hợp, sự ô nhiễm hoặc suy thóai môi trường tác<br />
động đến các quá trình khai thác tài nguyên. Một ví dụ cụ thể là ô nhiễm nước khu vực cửa<br />
sông ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của đàn cá. Cũng tương tự như thế, ô nhiễm không khí<br />
làm giảm sản lượng nông nghiệp. Và nhiều đối tượng khác, như động vật hoang dã, có thể<br />
được xem vừa là tài nguyên thiên nhiên vừa là đặc tính của môi trường. Dù ranh giới<br />
không rõ ràng như thế, các nhà kinh tế cũng phân biệt rạch ròi giữa hai dạng dịch vụ của<br />
thế giới tự nhiên – cung cấp nguyên liệu thô và chức năng môi trường – để chúng ta có thể<br />
tập trung vào loại tài nguyên thứ hai (chức năng môi trường) trong cuốn sách này.<br />
<br />
CÂN BẰNG CƠ BẢN<br />
Hình 2-1 là một sự biểu diễn phức tạp hơn của những mối liên hệ đã được thể hiện ở đầu<br />
chương. Các yếu tố trong vòng tròn là các thành phần của hệ thống kinh tế, toàn bộ chúng,<br />
về cơ bản, được bao bọc trong môi trường tự nhiên. Nền kinh tế được phân chia thành hai<br />
bộ phận chính: nhà sản xuất và người tiêu thụ.<br />
<br />
<br />
Nhà sản xuất: bao gồm tất cả các công ty, tổ chức công và các tổ chức phi lợi nhuận<br />
lấy đầu vào và chuyển hóa chúng thành hàng hóa và dịch vụ. Nguồn đầu vào chủ yếu<br />
mà môi trường tự nhiên cung cấp cho lĩnh vực sản xuất là các nguyên vật liệu ở dạng<br />
nhiên liệu, khoáng, và gỗ, các chất lỏng như nước và xăng dầu, và các dạng khí khác<br />
nhau như khí thiên nhiên và oxy. Tất cả hàng hóa và dịch vụ đều có nguồn gốc từ các<br />
nguyên vật liệu này kết hợp với các đầu vào là năng lượng.<br />
<br />
<br />
<br />
Người tiêu thụ: bao gồm tất cả các hộ gia đình riêng biệt sử dụng các sản phẩm và<br />
dịch vụ cuối cùng phục vụ cho sự tồn tại và thụ hưởng của họ. Người tiêu thụ cũng<br />
có thể sử dụng các nguyên liệu đầu vào lấy trực tiếp từ thiên nhiên mà không qua<br />
trung gian nhà sản xuất. Nước được bơm từ các giếng gia đình, hay là, ở nhiều quốc<br />
gia, củi được các hộ gia đình thu gom trực tiếp. Con người cũng sử dụng môi trường<br />
tự nhiên một cách trực tiếp cho các hoạt động thư giãn như là đi bộ trong rừng hay<br />
quan sát chim muông. Các hoạt động này không nhất thiết bao hàm sự tiêu thụ môi<br />
trường tự nhiên. Để đơn giản các chức năng này không được thể hiện trực tiếp trong<br />
hình dưới đây.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
3<br />
<br />
Hình 2-1: Vòng tuần hoàn liên hệ giữa Môi trường và Kinh tế<br />
Môi trường tự nhiên<br />
<br />
Tái chế (R’p)<br />
Nguyên liệu<br />
thô (M)<br />
<br />
Chất thải (Rp)<br />
Người sản xuất<br />
<br />
Hàng Hóa<br />
(G)<br />
<br />
Người tiêu thụ<br />
<br />
Chất thải<br />
(Rc)<br />
<br />
Thải bỏ<br />
(Rpd)<br />
Thải bỏ<br />
(Rcd)<br />
<br />
Tái chế (R’c)<br />
<br />
Môi trường tự nhiên<br />
Môi trường tự nhiên cung cấp nguyên liệu thô cho hệ thống kinh tế. Sản xuất và<br />
tiêu dùng tạo ra các chất thải, các chất này có thể được tái chế, nhưng cuối cùng<br />
vẫn quay lại môi trường tự nhiên.<br />
<br />
Trong bối cảnh rộng hơn, nhà sản xuất và người tiêu thụ thực tế có thể cùng là một người<br />
với những vai trò khác nhau. Thái độ “chúng ta - chúng nó” trong nhiều cuộc tranh luận<br />
thuộc lĩnh vực môi trường thực tế là một sự bất đồng nội bộ trong cùng một nhóm. Tổng<br />
thể xã hội xét về cơ bản giống như một hộ gia đình, họ bơm nước lên từ chính miệng giếng<br />
của họ và lại thải các chất thải vào hệ thống tự hoại nằm xung quanh miệng giếng của họ.<br />
Sản xuất và tiêu dùng tạo ra tất cả các dạng chất thải, có thể được xả vào không khí, nước<br />
hoặc vứt bỏ trên mặt đất. Danh sách các chất thải này dài đến khó tin: sulfur dioxide, các<br />
hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các dung môi độc, chất thải động vật, thuốc bảo vệ thực vật,<br />
bụi đủ loại, xà bần, kim loại nặng v.v. Năng lượng thải cũng là những chất thải quan trọng<br />
của quá trình sản xuất; chúng được thải ra ở dạng nhiệt, dạng âm thanh, và năng lượng<br />
phóng xạ là loại mang đặc tính của cả vật chất và năng lượng. Người tiêu thụ cũng có phần<br />
trách nhiệm đối với phần lớn lượng chất thải, trong đó chủ yếu là chất thải sinh hoạt và các<br />
chất thải từ phương tiện giao thông. Tất cả các chất trong hàng tiêu dùng cuối cùng đều là<br />
những chất thải cho dù chúng có thể được tái chế trước đó. Đây chính là nguồn của phần<br />
lớn chất thải rắn cũng như các chất thải nguy hại như chất độc hóa học có trong thuốc bảo<br />
vệ thực vật, pin, sơn và dầu cặn.<br />
Trước hết chúng ta hãy xem xét vấn đề chất thải sản xuất và tiêu dùng từ quan điểm thuần<br />
vật lý sử dụng một mô hình đơn giản. Một mô hình là một cách để thể hiện cấu trúc và<br />
những mối quan hệ của các sự vật mà không đi sâu vào tất cả chi tiết phức tạp của nó. Hình<br />
2-1 thể hiện các thành phần của mô hình với các ký hiệu được gán cho chúng. Trong hình<br />
2-1, nguyên vật liệu và năng lượng (M) được lấy ra từ môi trường tự nhiên và các chất thải<br />
từ sản xuất và tiêu dùng (Rpd và Rcd) được thải trở lại vào môi trường. Theo quy luật nhiệt<br />
động học thứ nhất (first law of thermodynamics), một quy luật nổi tiếng về sự bảo toàn<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
4<br />
<br />
vật chất, khẳng định rằng, trong dài hạn, hai dòng vật chất này phải bằng nhau<br />
hiệu của hình 2-1 thì:<br />
<br />
(1)<br />
<br />
. Theo ký<br />
<br />
M = Rpd + Rcd<br />
Sở dĩ phải phát biểu trong dài hạn là vì nhiều lý do. Nếu hệ thống đang phát triển, nó có thể<br />
lưu giữ lại một tỷ lệ các đầu vào tài nguyên sử dụng cho việc gia tăng kích thước của hệ<br />
thống thông qua sự tăng trưởng dân số, sự tích lũy công cụ tư bản v.v. Các chất này sẽ bị<br />
thải nếu và khi hệ thống ngừng tăng trưởng và khi công cụ tư bản hư hỏng. Ngoài ra, tái<br />
chế có thể làm chậm quá trình thải các chất thải. Nhưng tái chế có thể không bao giờ hoàn<br />
hảo. Mỗi một chu trình phải mất một tỷ lệ nào đó vật chất được tái chế (2). Do đó, sự cân<br />
bằng vật chất cơ bản chỉ đạt được trong dài hạn. Điều này chứng tỏ một điều rất cơ bản là:<br />
Để giảm bớt khối lượng các chất thải ra môi trường tự nhiên, cần giảm bớt<br />
lượng nguyên vật liệu thô đưa vào hệ thống (3).<br />
Chúng ta có thể xem xét cẩn thận hơn những phương án lựa chọn trước khi muốn thay thế<br />
M. Theo biểu đồ dòng vật chất, lượng nguyên liệu thô (M) bằng với sản phẩm đầu ra (G)<br />
cộng với các chất thải từ sản xuất (Rp), trừ đi lượng được tái chế bởi nhà sản xuất (R’p) và<br />
người tiêu dùng (R’c). Biểu thức được trình bày:<br />
Rpd + Rcd = M = G + Rp - R’p - R’c<br />
Có ba cách cơ bản để giảm M, và do đó, giảm các chất thải được thải vào môi trường tự<br />
nhiên.<br />
<br />
<br />
Giảm G – Số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất. Nhiều người cho rằng đây<br />
là câu trả lời tốt nhất trong dài hạn cho sự suy thóai môi trường: giảm lượng sản<br />
phẩm xuất ra, hay ít nhất ngưng tốc độ tăng trưởng của nó lại, sẽ cho phép một sự<br />
thay đổi tương tự trong số lượng chất thải được thải ra. Một số người đã tìm kiếm<br />
giải pháp để đạt được mục tiêu này bằng cách ủng hộ “tốc độ phát triển dân số bằng<br />
không” (ZPG). Một sự tăng trưởng chậm hay giữ nguyên dân số có thể làm cho việc<br />
kiểm soát tác động môi trường dễ dàng hơn, nhưng cũng không đảm bảo kiểm soát<br />
được, do 2 nguyên nhân: Thứ nhất, một dân số ổn định vẫn có thể tăng trưởng về mặt<br />
kinh tế, do đó vẫn tăng nhu cầu sử dụng nguyên liệu thô. Thứ hai, tác động môi<br />
trường có thể kéo dài và tích lũy, do đó thậm chí dân số có ổn định vẫn có thể dần<br />
dần làm suy thoái môi trường. Nhưng rõ ràng rằng tăng trưởng dân số sẽ luôn luôn<br />
làm trầm trọng thêm các tác động môi trường trong một nền kinh tế. Ví dụ, trong nền<br />
kinh tế Canada, sự phát thải của chất ô nhiễm trên mỗi xe hơi đã giảm đáng kể trong<br />
vài thập niên gần đây thông qua công nghệ kiểm soát phát thải tốt hơn. Nhưng sự<br />
phát triển ồ ạt số lượng xe hơi trên xa lộ đã dẫn đến sự gia tăng tổng số lượng phát<br />
<br />
(1)<br />
<br />
Để các đại lượng này có thể so sánh trực tiếp được, tất cả các nguồn phải được biểu diễn dưới dạng khối<br />
lượng.<br />
(2)<br />
Đây là định luật thứ 2 của nhiệt động học, phát biểu rằng: khi sử dụng, vật chất sẽ giảm dần theo thời gian<br />
xuống một mức độ thấp hơn. Điều này cũng được biết với tên gọi “khái niệm entropy”. Giấy chỉ có thể được<br />
tái chế vài lần trước khi sợi của nó trở nên quá kém để có thể tái sử dụng. Sự tiêu dùng các nhiên liệu hóa<br />
thạch giải phóng năng lượng và các phó phẩm (CO2 và các khí khác), chúng không thể sử dụng lại như là<br />
những tài nguyên năng lượng được.<br />
(3)<br />
Lưu ý rằng G = Rc, nghĩa là mọi thứ được đưa vào lĩnh vực tiêu dùng thì rốt cuộc cũng sẽ kết thúc dưới<br />
dạng chất thải ra từ lĩnh vực này.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
5<br />
<br />