intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kỹ nữ với hoạt động sáng tạo văn học cổ điển Trung Quốc

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

73
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kỹ nữ đã tham gia vào văn chương một cách tự nhiên và thể hiện mình trong những vai trò vô cùng đặc biệt. Văn học kỹ nữ Trung Quốc là minh chứng cho sự tài hoa của cá tính sáng tạo, sự phức tạp về tâm hồn và sự đóng góp to lớn của họ đối với nền văn học nghệ thuật dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kỹ nữ với hoạt động sáng tạo văn học cổ điển Trung Quốc

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế<br /> <br /> Tập 6, Số 2 (2016)<br /> <br /> KỸ NỮ VỚI HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC<br /> <br /> Phan Nguyễn Phước Tiên<br /> Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br /> Email: phannguyen.pt@gmail.com<br /> TÓM TẮT<br /> Kỹ nữ, ngay từ trong cách gọi tên, người Trung Quốc đã chỉ ra nguồn gốc và sự tồn tại của<br /> lớp người này không thể tách rời âm nhạc_nghệ thuật. Ca vũ là tài năng nổi bật nhất song<br /> không phải duy nhất của kỹ nữ. Sự tham thông của họ trên tất cả các lĩnh vực nghệ thuật<br /> đều để lại nhiều dấu ấn và thành tựu, đáng chú ý nhất trong các lĩnh vực ấy là văn chương.<br /> Kỹ nữ đã tham gia vào văn chương một cách tự nhiên và thể hiện mình trong những vai trò<br /> vô cùng đặc biệt. Văn học kỹ nữ Trung Quốc là minh chứng cho sự tài hoa của cá tính sáng<br /> tạo, sự phức tạp về tâm hồn và sự đóng góp to lớn của họ đối với nền văn học nghệ thuật<br /> dân tộc.<br /> Từ khóa: Kỹ nữ, văn học, văn học kỹ nữ, Trung Quốc.<br /> <br /> 1. KỸ NỮ - CHỦ THỂ SÁNG TẠO<br /> Kỹ nữ sáng tác văn chương trước hết vì yêu cầu nghề nghiệp. Âm luật là một trong<br /> những môn học mà kỹ nữ phải thạo để tùy lúc ứng đối với khách làng chơi. Bên cạnh đó, kỹ<br /> viện là nơi học giả - văn nhân thường xuyên tụ tập, uống rượu, ngắm hoa, thưởng trăng, tìm<br /> hứng làm thơ, viết khúc. Kỹ nữ trong những hoàn cảnh nhất định cũng phải góp vui bằng chút<br /> thi tứ, vài câu chữ hoặc cả một chương, một bài trọn vẹn.<br /> Nếu như văn chương nơi bàn rượu là cái nghiệp thì văn chương chốn cô phòng với kỹ<br /> nữ lại là cái duyên. Họ viết văn, làm thơ bấy giờ như một nhu cầu tự giãi bày, tự bộc lộ. Cái tôi<br /> của họ vốn đa sầu, đa cảm, thường rung động trước cái đẹp, cái bi, cái thế sự thăng trầm muôn<br /> nỗi quanh mình. Nghề kỹ nữ không cho phép họ sống thật với cảm xúc, luôn phải mạo hóa. Vì<br /> thân xác và tâm tình bị giày vò, dồn nén nên nhu cầu bày giãi tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng<br /> ở kỹ nữ mạnh mẽ gần như một khát khao. Niềm khao khát ấy mở đường cho họ tìm đến với thơ<br /> ca như một người tri kỉ, không câu nệ, không e ngại. Văn chương do kỹ nữ sáng tác vì vậy mà<br /> không hề kém cỏi.<br /> Kỹ nữ sáng tác ở nhiều thế loại, thơ, từ, khúc, kịch nghệ, tiểu thuyết... song nhiều nhất<br /> và thành công nhất vẫn ở hai thể loại chính là thơ và từ. Bài thơ đầu tiên của kỹ nữ là Vịnh hạng<br /> ca do sủng cơ của Hán Cao tổ là Thích phu nhân sáng tác được lưu trong sách Hán Thư. Phu<br /> 49<br /> <br /> Kỹ nữ với hoạt động sáng tạo văn học cổ điển Trung Quốc<br /> <br /> nhân trong hoàn cảnh cung kỹ của bản thân đã viết Vịnh hạng ca hay còn gọi là Xuân ca, phản<br /> ánh số phận bi thảm của kỹ nữ trong triều đời Hán. Đến thời Ngụy - Tấn Nam Bắc triều, kỹ nữ<br /> làm thơ ca không còn là điều hiếm thấy, rất nhiều tác phẩm giữ lại được đến ngày nay như Áo<br /> nùng ca của Lục Châu - vũ kỹ nổi tiếng thời Tây Hán; Ca nhất thủ của Tô Tiểu Tiểu thời Nam<br /> Triều; Cảm tỳ bà huyền của Phùng Thục Phu thời Bắc Tề... Đương thời, những bài thơ ấy từng<br /> khiến các thi gia khâm phục, điều đó cho thấy khả năng thơ ca của kỹ nữ thế kỷ III, IV đã đạt<br /> đến một trình độ nghệ thuật nhất định.<br /> Đến đời Đường, kỹ nữ đã cùng với phong khí chung của thời đại mở ra những bước<br /> ngoặt quan trọng cho văn học Trung Quốc. Theo thống kê, trong 49.403 bài thơ mà Toàn<br /> Đường thi thu thập được thì có 136 bài của kỹ nữ, nổi tiếng nhất là Đáp Hàn Hoằng của Liễu<br /> Thị; Ký Âu Dương Chiêm của Thái Nguyên; Xuân vọng từ tứ thủ của Tiết Đào; Yến Tử lâu tam<br /> thủ của Quan Miến Miến; Kim lũ y của Đỗ Thu Nương; La Hống khúc lục thủ của Lưu Thái<br /> Xuân; Ký cố nhân của Trương Yểu Điệu; Họa Lý Tiêu của Vương Tô Tô... “Đó đều là những<br /> thơ ca bày tỏ nỗi lòng, hoặc sầu oán, hoặc hào phóng, hoặc khéo léo, hoặc phong lưu, hoặc<br /> thanh nhã, rất được mọi người tán thưởng và đề cao, đến nay đọc lại vẫn cảm thấy tình cảm dạt<br /> dào, thỏa mãn lâm ly”[5, tr.265]. Lời nhận xét của Từ Quân vừa ngợi khen, vừa tả được cái hồn,<br /> lọc được cái tinh của thơ ca Đường kỹ. Thành tựu ấy là tiền đề để kỹ nữ đời sau dựa vào nâng<br /> cao bút lực, mở rộng hồn thơ và tham thông sang các thể loại khác.<br /> Đời Đường trở đi, kỹ nữ vẫn làm thơ và dành cho thơ rất nhiều tâm sự, song do tính chất<br /> nghề nghiệp, họ thường viết từ nhiều hơn. Từ vừa là thơ, lại vừa khác thơ ở chỗ có thêm phần<br /> nhạc cho nên nhìn từ nguồn gốc, từ quan hệ mật thiết với ca kỹ hơn thơ. Thêm vào đó, đặc trưng<br /> của từ là sự tự do, bay bổng, phóng khoáng, nó gần với cá tính, tâm hồn và tâm sự của kỹ nữ. Nếu<br /> như thơ chỉ nói được cái tình sâu kín, nói bằng con chữ lặng im thì từ là cái thanh âm dặt dìu, réo<br /> rắt của niềm hạnh phúc, của nỗi oán hờn, nhờ đó mời gọi con người cùng nhau vui buồn, sầu khổ.<br /> Kỹ nữ đời Đường đã bắt đầu soạn từ song đến đời Tống mới được văn nhân và kỹ nữ chú trọng.<br /> Kỹ nữ đời Tống xem từ là “cách thức mưu sinh” nên các sáng tác nhiều không kể xiết. Thành<br /> công nhất bấy giờ là các bài Mãn phương đình của Cầm Tháo; Tây giang nguyệt của Tô Lương;<br /> Bốc toán tử của Nhạc Uyển; Hồng bạch đào hoa của Nghiêm Nhụy; Tống Thái Thú của Bình<br /> Giang; Ngọc lâu xuân của Doãn Từ Khách; Giá cô thiên của Nhiếp Thắng Lương... “Các tác<br /> phẩm từ khúc này đều đạt đến trình độ sâu sắc, có khi không thua kém các bậc danh gia” [5,<br /> tr.277]. Đời Tống trở về sau, tuy từ không thịnh bằng song kỹ nữ vẫn tiếp tục sáng tác và biểu<br /> diễn. Theo ghi chép của Minh từ tổng thì đời Minh có tất cả 216 kỹ nữ viết từ. Nhiều bài trong đó<br /> có chất lượng như Ức Tần Nga của Vương Vi; Hải đường của Dương Uyển; Quá tần lâu của Cao<br /> Chi Tiên... đủ thấy từ quan trọng với kỹ nữ thế nào.<br /> Ngoài thơ, từ, kỹ nữ còn sáng tác tạp kịch - thể loại bắt đầu thịnh dưới thời Nguyên Minh. Song vai trò biểu diễn của họ quan trọng hơn nhiều so với vai trò sáng tác, cho nên ngày<br /> nay, người ta chỉ nhớ đến Châu Liêm Tú, Trại Liên Tú, Khúc Nga Tú, Uông Linh Linh, Trương<br /> Ngọc Liên... như là những diễn viên tài hoa, có khả năng thể hiện chân thực và sinh động các<br /> nhân vật, đặc biệt là đã truyền bá tác phẩm văn học dưới một hình thức mới, dễ tiếp nhận hơn và<br /> 50<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế<br /> <br /> Tập 6, Số 2 (2016)<br /> <br /> hiệu quả hơn. Nói như Triệu Dực: “Kịch bản lưu truyền vốn chẳng thông. Trong thôn con hát<br /> diễn tây đông. Lão phu bụng chứa ngàn muôn quyển. Phải nể tôi đòi chuyện cổ kim” [3, tr.221].<br /> Nghệ thuật tạp kỹ của kỹ nữ quả là đã kích thích người ta không chỉ tình cảm, lương tri mà còn<br /> làm giàu có vốn văn chương, văn hóa.<br /> Văn học do kỹ nữ sáng tác vì nhiều nguyên nhân, đến nay không còn nhiều. Hoặc thất<br /> lạc, hoặc bị tiêu hủy, hoặc còn mà không rõ danh phận... chúng tôi cho rằng sáng tác của kỹ nữ<br /> không ít ỏi như ngày nay chúng ta tìm thấy. Song chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để buộc người đời<br /> sau phải nhìn nhận lại tác giả - hình tượng nhân vật kỹ nữ một cách khách quan và công bằng<br /> hơn. Không chỉ nhận diện vai trò, ca ngợi công lao của họ mà còn phải chiêu tuyết cho họ thoát<br /> khỏi nỗi oan ức nhơ bẩn của định kiến muôn đời.<br /> Thơ ca kỹ nữ có đề tài vô cùng rộng mở. Có thể tìm thấy trong đó tất cả cuộc sống với<br /> muôn vàn sắc thái khác nhau, như cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp trong bài thơ của Ngư Huyền<br /> Cơ: “Liền bờ hoang màu biếc / Lầu xa sắc mây vào / Mặt nước xuân bóng chiếu / Hoa rơi đầu<br /> ông câu”; cái yên nhiên, thanh bình trong thơ Lý Hương Quân: “Gió tây hiu hắt lạnh trời cao /<br /> Như vẽ trong gương sông núi treo / Chẳng biết từ đâu ngư phủ đến / Gọi con trời hửng xuống<br /> thuyền câu” [8, tr.136]; cái lạnh lùng, tan tác của ngày đông trong thơ Tuệ Lan: “Sân buồn gió<br /> thổi cây rơi lá / Sông biếc trăng chìm ánh lịm mau... Cây ngô chưa định nơi dừng lại / Sẻ lượn<br /> rừng chiều chiếp chiếp kêu” [8, tr.95]. Cảnh sắc ấy cũng là tâm tình người ca kỹ. Khi vui, thực<br /> hồn nhiên như Cố Hoành Ba: “Thiếp vui hoa đèn biết / Quay xem hoa hai bên” [8, tr.261]; khi<br /> triết lý, thẳng thắn mà sâu sắc như Đỗ Thu Nương: “Áo kim lũ khuyên chàng mặc kệ / Tuổi trẻ<br /> chàng đừng để trôi qua / Bẻ hoa nên đúng thì hoa / Đừng đợi hoa hết vin hờ cành không” [8,<br /> tr.79], khi yêu đương, nồng nàn quyến luyến như Tiết Đào: “Cành mềm yếu xương bồ mọc lá /<br /> Xuân quá mùa hoa rụng ngoài khe / Ải Tần chưa chuyển chàng về / Trăng soi ngàn hộ tay che<br /> khóc oà”; khi bỏ đời tìm đạo thì nhẹ nhõm, an nhiên như Lâm Tứ Nương: “Đọc kỹ Liên Hoa<br /> dăm bảy kệ / Nhàn xem lá bối một vài thiên” [8, tr.240]. Cái tôi trữ tình trong thơ kỹ nữ mỗi<br /> khoảnh khắc là một nỗi riêng, mỗi người là một niềm riêng không dễ gì thấu hiểu. Song chỗ<br /> cùng thân phận với nhau, họ vẫn gặp nhau trong nhiều tâm sự, thường thấy nhất là cảm giác cô<br /> đơn, và tâm trạng ngóng trông một kẻ đồng tâm, một người tri kỷ. Tiết Đào, kỹ nữ đời Đường,<br /> có chùm Xuân vọng từ tứ thủ gồm bốn bài từ bày tỏ tấm lòng hoài vọng ấy, hay Quan Miến<br /> Miến với ba bài Yến tử lâu thổ lộ nỗi sầu “Thân hoang phế nhện, lưới se tro tàn”... Xin dẫn tiếp<br /> sau đây bài thơ của Ngư Huyền Cơ để thấy mối u tình đẹp đẽ của người kỹ nữ: “Hồ sen hoa đẹp<br /> cá bơi / Hòa theo tiếng sẻ bên trời véo von / Đời người một giấc vui buồn / Sao đây để được kết<br /> làm lứa đôi” [8, tr.98]. Kết đôi là mơ ước giản dị thường thấy của con người, nhưng với kỹ nữ,<br /> nó vừa là khát khao, vừa là niềm tuyệt vọng. Kỹ nữ trong tình yêu, hiếm khi đi đến được cái<br /> đích tận cùng. Đó cũng chính là cái dở dang và nỗi tủi sầu của những người tài hoa bạc phận.<br /> Thơ ca do kỹ nữ sáng tác trong rất nhiều nội dung, quan trọng nhất vẫn là việc khắc họa<br /> cái tôi trữ tình của người ca kỹ. Nhu cầu tự bộc đã biến thơ ca trở thành một tấm gương soi<br /> chiếu kỹ nữ từ phần tâm tư sâu kín ẩn tàng bên trong họ. Kỹ nữ như đã minh chứng ở trên, là<br /> những tâm hồn đa sầu, đa cảm, trước cái đẹp thì lay động, trước tình người thì trân trọng, khát<br /> 51<br /> <br /> Kỹ nữ với hoạt động sáng tạo văn học cổ điển Trung Quốc<br /> <br /> khao. Cái tôi trong thơ kỹ nữ tuy hiện hữu bằng nhiều cảm giác, nhiều tâm trạng, nhiều suy nghĩ<br /> nhưng cơ bản nhất vẫn là cái tôi mâu thuẫn - bi kịch. Sự mâu thuẫn là bản chất của số phận, thân<br /> phận kỹ nữ. Nó vừa có nguyên nhân khách quan, vừa có yếu tố chủ quan, nên bi kịch tâm hồn<br /> kỹ nữ là kiểu bi kịch tự thân, tất yếu, khó tránh khỏi.<br /> Không có nhân cách độc lập “cuộc sống của họ như đi cạnh vực sâu, bước trên băng<br /> mỏng”, bị ngược đãi, bị rẻ rúng, bị phụ bạc... chính họ cũng cảm thấy bản thân mình hèn hạ nên<br /> đời nào, thời nào cũng có người tự mình than khóc. Xin dẫn ra đây lời thê thiết của kỹ nữ Huyên<br /> Phong thời Tấn trong bài Oán thi: “Xuân xanh hoa thảy đẹp / Rơi rụng lúc thu sang / Đài nhụy<br /> vươn trên khói / Đâu hẹn lúc điêu tàn / Quế thơm nên bị ghét / Mày ngài ai vẻ vang / Lúc thơm<br /> nghĩ khao khát / Tiều tụy thẹn dung nhan” [6, tr.329]. Cái tao ngộ bất hạnh ấy của nàng Huyên<br /> Phong là tiếng oán than chung của người ca kỹ. Mỗi người bất hạnh theo mỗi kiểu nhưng chung<br /> quy lại, họ gặp nhau ở tư tưởng làm nên cái tôi thứ hai trong thơ ca của kỹ nữ - cái tôi cố giữ<br /> phần thiên lương, tấm chân tình giữa chốn lầu xanh, mà tâm sự đó, cố gắng đó sẽ được thơ ca<br /> ngâm vịnh kỹ nữ của văn nhân các đời thể hiện rất khách quan mà sâu sắc.<br /> Đề tài trong thơ ca kỹ nữ rất dạt dào, đời đời nối tiếp nhau không bao giờ cạn. Nhiều<br /> chỗ cùng một đề tài, một tứ thơ mà mỗi người một phong thái khác nhau, không ai giống ai. Ví<br /> như cùng là nỗi buồn, Quan Miến Miến thường thê lương ảm đạm; Tiết Đào lại có vẻ nhàn tản,<br /> mơ mòng; Đàm Ý Ca thì giản dị mà thực như gan ruột... Thi nhân các đời cũng thường dựa vào<br /> chỗ riêng biệt ấy mà bình phẩm, nhận xét từng tác phẩm, phân tài cao thấp từng người. Lịch đại<br /> danh viên thi từ của Lục Sưởng từng bình thơ các kỹ nữ như sau: “Thơ Liễu thị không nhiều lời<br /> nhưng ý tình vương vấn, trước sau đều tới. Câu chữ cũng chặt chẽ, cũng tuyệt diệu” [5, tr.271];<br /> thơ Thái Nguyên “ý tứ sâu xa, thấp thoáng có nước mắt, đó đúng là chân thi, không thể thêm<br /> bớt một chữ” [5, tr.271]; thơ Lý Dả “bút lực cứng đẹp, từ khí thanh sái, rất có phong thái danh<br /> sĩ” [5, tr.271]; thơ Đỗ Thu Nương “từ khí trong trẻo, lời lẽ tương ứng, đọc tới không thấy chán,<br /> có thể nói là tài giỏi”; thơ của Trương Yểu Điệu “bỏ được cái khí cách son phấn, lai láng tuôn<br /> trào, tự có sự đẹp đẽ sâu kín riêng” [5, tr.271]... Có thể thấy rằng, kỹ nữ sáng tạo thơ ca từ đời<br /> Đường trở đi đã trở thành một hoạt động nghệ thuật mang tính chuyên nghiệp. Nội dung phong<br /> phú, hình thức đa dạng, các thi kỹ thì tạo lập được phong cách riêng, không lẫn với người khác.<br /> Là nỗi lòng tự bày tỏ, là tiếng than thở với riêng mình, mảng văn học do kỹ nữ sáng tác không<br /> chỉ là tài sản to lớn của dân tộc mà còn bắc một chiếc cầu để người muôn đời có thể gặp gỡ,<br /> thấu hiểu và bao dung với họ.<br /> <br /> 2. KỸ NỮ - KHÁCH THỂ SÁNG TẠO<br /> Kỹ nữ là khách thể sáng tạo tức là nguồn cảm hứng, là hình tượng nhân vật trong sáng<br /> tác của thi nhân các đời, xưa nay nhiều không kể hết. Từ vần thơ đầu tiên (Kinh thi), người<br /> Trung Hoa đã nói đến những du nữ bên dòng sông Hán, liệt truyện về họ lại càng không thiếu.<br /> Đến thời Ngụy Tấn - Nam Bắc triều, việc làm thơ vịnh tả kỹ nữ trở nên phổ biến mà bấy giờ<br /> chủ yếu xưng tụng tài ca múa của họ. Đến đời Đường, thi nhân không những tìm được nguồn thi<br /> 52<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế<br /> <br /> Tập 6, Số 2 (2016)<br /> <br /> liệu không cạn ở kỹ nữ mà còn nhờ các tác phẩm viết về kỹ nữ mà nổi tiếng trên đời”. Hơn<br /> 2.000 bài thơ liên quan đến kỹ nữ trong tập Toàn Đường thi cho thấy thơ ca đề vịnh kỹ nữ là<br /> mảng sáng tác được thi nhân đời Đường coi trọng.<br /> Thơ ca kỹ nữ đời Đường lấy Trung Đường làm mốc phân chia thì trước - sau có sự đổi<br /> thay trong tình cảm và cách thi nhân thể hiện. Từ Trung Đường về trước, kỹ nữ vẫn chủ yếu<br /> được miêu tả trực quan như trong truyền thống. Các bài thơ Phú đắc kỹ của Trần Tử Lương, Ôn<br /> Tuyền Phùng của Trương Duyệt; Mỹ nhân phân hương của Mạnh Hạo Nhiên, Dạ quan kỹ của<br /> Trừ Quang Hy, Hàm Đan nam đình quan kỹ của Lý Bạch... đều tả kỹ nữ trong những buổi yến<br /> tiệc, chỉ chú trọng vẻ bên ngoài tươi tắn, lộng lẫy, áo múa, mày đỏ, ngón ngọc, dây xinh,...<br /> thường xa cách và không gửi gắm ý tình gì sâu kín. Từ Trung Đường trở đi, sau loạn Thiên Bảo<br /> năm 755, thi nhân viết về kỹ nữ bắt đầu có sự đổi khác, tình cảm gần gũi, tế nhị hơn, kỹ nữ từ<br /> chỗ là cái cớ thẩm mỹ đã trở thành đối tượng thẩm mỹ thực sự trong thơ Đường. Họ có hình hài,<br /> có thân phận, có tâm sự... Như Bạch Cư Dị trong Yến Tử lâu kỳ I đã vịnh tả nỗi sầu của Quan<br /> Miến Miến: “Phòng vắng đầy tràn ánh nguyệt sương / Đèn tàn lạnh lẽo ngập chăn giường / Một<br /> đêm Yến Tử lầu sương quạnh / Thu đến người xa nặng nhớ thương” [9]. Đó là cái u uẩn đằng<br /> sau vẻ hào nhoáng tươi vui thường thấy, đó là nỗi niềm riêng của kỹ nữ mà thi nhân đã mất<br /> không ít tháng năm để cảm thấy, thương xót và để đồng tâm.<br /> Thời Vãn Đường thơ viết về kỹ nữ đã tới mức tinh anh, câu chữ đẹp đẽ, hình tượng kiều<br /> diễm, cảm xúc tinh tế, song trong đó chứa chấp tư tưởng hưởng lạc, yếm thế, quay lưng lại với<br /> đời, như các bài Tặng mỹ nhân của Phương Can, Vịnh thủ nhị thủ của Triệu Quang Viễn... Loại<br /> thơ này thường lấy thân thể kỹ nữ làm đối tượng ca vịnh “từ nội dung tư tưởng mà nhìn thì khí<br /> cách bạc nhược, mềm yếu không xương, phản ảnh tình cảm chán chường của văn nhân thời<br /> loạn, tay trái ôm, tay phải khoác, hưởng lạc sống gấp” [6,tr.272]. Khiển hoài của Đỗ Mục có thể<br /> nói là bài thơ tiêu biểu, ở đó thi nhân cố tình tỏ ra trụy lạc công khai: “Mang rượu bơ thờ khắp<br /> núi sông / Trên tay gái Sở nhẹ lưng ong / Mười năm chơi hết tiền trong mộng / Mua ở lầu xanh<br /> tiếng phụ lòng”[6, tr.212]. Người đời vẫn vin vào Khiển hoài để quy cho Đỗ Mục cái tội tài hoa<br /> mà hư hỏng. Song nhờ cái hỏng đó của Đỗ mà văn học Trung Hoa có thêm hương sắc, và hình<br /> thức nghệ thuật của thơ ấy cũng không phải là vô giá trị. Cao Tự Thanh về Đỗ Mục và văn hóa<br /> kỹ viện đã từng nhận xét: “Lối cung ứng lạc thú toàn diện, tinh tế của loại thanh lâu cổ điển ấy<br /> đã tạo ra một mảng không gian văn hóa đặc biệt, nó chiếm lĩnh một phần cảm hứng và đề tài,<br /> đồng thời góp phần hun đúc tài năng và cá tính của nhiều nhà thơ. Có thể nói Đỗ Mục là một<br /> trong những người chịu ảnh hưởng khá nhiều của không gian ấy” [6, tr.213]. Nói chung đời<br /> Đường là một giai đoạn hoàng kim của thơ ca kỹ nữ. Từ Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung<br /> Đường đến Vãn Đường, văn nhân đối với kỹ nữ từ xa cách đến thâm tình, từ chỗ ngắm nhìn đến<br /> thấu hiểu. Vãn Đường trở đi, thơ ca về kỹ nữ không nhiều như trước song vẫn còn được thi<br /> nhân sáng tác. Nhìn chung, thành tựu không cao so với thơ giai đoạn trước và so với từ khúc<br /> nên ít được nhắc đến.<br /> Như đã nói, từ là một thể loại thích hợp với sinh hoạt kỹ viện hơn thơ nên dần thay thế vai<br /> trò của thơ ca trong dòng văn học kỹ nữ. Từ không chỉ liên quan đến kỹ nữ về mặt hình thức (diễn<br /> 53<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1