intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần

Chia sẻ: Trần Nhựt Tiến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

218
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tuy nhiên trong chăn nuôi gia cầm thì để giải quyết vấn đề stress do nhiệt quả thật không phải là chuyện dễ dàng. Với phương thức chăn nuôi gia cầm theo mô hình chuồng hở và nuôi dưới nền có chất độn thì vấn đề mật độ lại càng được quan tâm. Nếu như mật độ quá cao thì gà...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần

  1. Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần
  2. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa tiếng việt Khoáng tổng số Ash Ca Canxi Xơ thô CF CP Protein thô Vật chất khô DM Kcal Kilocalo Khẩu phần cơ sở KPCS Lớn nhất Max Năng lượng trao đổi ME Nhỏ nhất Min P Photpho TĂ Thức ăn SVTH: Trần Nhựt Tiến 2
  3. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Pháp ...............7 Bảng 2.2: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Thái Lan ..........8 Bảng 2.3: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Việt Nam ........ 9 Bảng 2.4: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Trường Trung Học Kinh Tế - Kỹ Thuật Cần Thơ .........................................................................10 Bảng 5.1: Nhiệt độ dưới đèn úm lý tưởng .............................................................. 22 Bảng 5.2 : Thời gian chiếu sáng lý tưởng cho gà ................................................... 24 Bảng 5.3: Mật độ nuôi gà chuyên trứng (con/m2) .................................................25 Bảng 6.1: Những đặc điểm bên ngoài của gà mái hậu bị tốt và xấu ....................... 25 Bảng 6.2: Những đặc điểm bên ngoài của gà mái đẻ tốt và đẻ kém ....................... 26 Bảng 7: Quy trình phòng bệnh ..............................................................................27 Bảng 8: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown .......................................28 SVTH: Trần Nhựt Tiến 3
  4. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi DANH MỤC HÌNH Hình 2.1: Gà đẻ trứng thương phẩm Isa Brown ...................................................... 6 SVTH: Trần Nhựt Tiến 4
  5. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi CHƢƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, chăn nuôi đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp ở nước ta. Trong đó, chăn nuôi gia cầm ngày càng phát triển với n hiều tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên trong chăn nuôi gia cầm thì để giải quyết vấn đề stress do nhiệt quả thật không phải là chuyện dễ dàng. Với phương thức chăn nuôi gia cầm theo mô hình chuồng hở và nuôi dưới nền có chất độn thì vấn đề mật độ lại càng được quan tâm. Nếu như mật độ quá cao thì gà dễ bị stress do nhiệt, dễ mắc bệnh hơn và tăng trọng thấp, ngược lại nếu nuôi với mật quá thấp thì lãng phí diện tích chuồng gây thiệt hại về kinh tế. Bên cạnh mật độ thì yếu tố thức ăn cũng không kém phần quan trọng vì thức ăn chiếm từ 70 – 80% trong cơ cấu giá thành nên việc đưa ra phương thức cho ăn hợp lý là rất cần thiết để đem lại lợi nhuận cao nhất cho người chăn nuôi. Vì vậy nên em chọn chuyên đề môn chăn nuôi gia cầm A là: “Kỹ thuật nuôi gà đẻ trứng thƣơng phẩm Isabrown từ 6-11 tuần tuổi”. Mục tiêu của chuyên đề là nhằm tìm ra mật độ nuôi và chế độ cho ăn thích hợp nhất đối với giống gà thương phẩm Isabrown ở điều kiện khí hậu Đồng Bằng Sông Cửu Long. SVTH: Trần Nhựt Tiến 5
  6. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Giới thiệu chung về giống gà isa brown Theo Võ Bá Thọ (1996) thì Isa Brown là giống gà chuyên trứng đẻ trứng nâu của Viện chọn giống súc vật (Institut de selection animal) viết tắt là ISA của Pháp. Năm 1986, xí nghiệp liên hợp giống gia cầm I, thuộc liên hiệp xí nghiệp gia cầm, có nhận một số trứng gà Isa Brown do Việt kiều ở Pháp gởi về để ấp nuôi thử. Đàn gà này được nhận xét tốt do có màu trứng đẹp, vỏ trứng dày, năng suất đẻ cao, thích nghi với phương thức nuôi đơn giản ở Việt Nam. Cuối năm 1990 và giữa năm 1991, Công ty gia cầm thành phố Hồ Chí Minh đã nhập gà cha mẹ Isa Brown. Gà cha có màu lông nâu đỏ, gà mẹ có màu lông trắng. Gà con thương phẩm tự phân biệt giới tính qua màu lông: Con mái có màu nâu đỏ giống cha, con trống có màu trắng giống mẹ. Hình 2.1: Gà đẻ trứng thƣơng phẩm Isa Brown 2.1.1. Đặc tính sản xuất Theo tài liệu kỹ thuật của ISA (1993) thì một số chỉ tiêu của gà đẻ thương phẩm Isa Brown đạt như sau: Tỉ lệ nuôi sống từ 1 ngày đến 20 tuần tuổi là 98% và từ 20 tuần tuổi đến 78 tuần tuổi là 93,3% Sản lượng trứng thay đổi qua các tuần tuổi từ 20-72 tuần tuổi là 303 quả/ năm và từ 20-76 tuần tuổi là 320,6 quả/ năm Trọng lượng trứng cũng thay đổi qua các tuần tuổi, vào tuần tuổi thứ 24 là 56g/quả, tuần tuổi thứ 35 là 62g/quả và 72 tuần tuổi: 65g/quả. Trọng lượng gà mái lúc bắt đầu đẻ là 1, 7kg/con. Gà bắt đầu rớt hột vào tuần tuổi thứ 19, đẻ 50% vào tuần thứ 21, tỷ lệ đạt đỉnh cao (93%) tuần thứ 26 - 33, và tuần 76 còn lại 73% (Võ Bá Thọ, 1996). SVTH: Trần Nhựt Tiến 6
  7. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi 2.1.2. Đặc tính sinh trƣởng Theo Nguyễn Văn Quyên (2000) thì giống gà thương phẩm Isa Brown có thời gian sinh trưởng và phát dục chậm hơn các giống gà chuyên trứng khác khoảng 2 tuần. Theo tài liệu hướng dẫn chăn nuôi gà Isa Brown của Pháp thì thể trọng gà Isa Brown qua các tuần tuổi được nuôi thí nghiệm tại Pháp thể hiện qua bảng 2.1 như sau: Bảng 2.1: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Pháp Tuần tuổi Trọng lượng Thức ăn bình quân Lũy kế thức ăn Dinh dưỡng (g) (g/con/ngày) (g/con) 2.850 Kcal ME/ kgTĂ 18 % CP 2 130 18 210 4 290 28 567 6 450 38 1.064 8 620 48 1.701 10 795 58 2.485 2.700 Kcal ME/ kg TĂ 15 % CP 12 965 65 3.374 14 1.135 71 4.347 16 1.300 77 5.404 18 1.450 83 6.545 20 1.600 89 7.760 22 1.740 107 9.209 24 1.850 122 10.868 (ISA Management Guide, 1989) SVTH: Trần Nhựt Tiến 7
  8. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi Qua bảng 2.1 ta thấy gà Isa Brown trọng lượng bình quân lúc 10 tuần tuổi là 0,795 kg, tiêu tốn thức ăn là 2,485 kg. Tại Thái Lan, SINSAWAT (1988) đã khảo sát sự tăng trưởng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown kết quả được trình bày ở bảng 2.2 như sau: Bảng 2.2: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Thái Lan Tuần tuổi Trọng lượng Thức ăn bình quân Lũy kế thức ăn Dinh dưỡng (g) (g/con/ngày) (g/con) 2.750 Kcal ME/ kgTĂ 18,5 % CP 2 147 19 217 4 290 31 609 6 460 41 1.148 8 620 50 1.813 10 785 57 2.590 2.650 Kcal ME/ kg TĂ 14,5 % CP 12 950 63 3.451 14 1.120 70 4.403 16 1.285 76 5.446 18 1.460 82 6.573 20 1.640 90 7.805 22 1.780 100 9.470 (Tài liệu chăn nuôi gà đẻ trứng Isa Brown của CP Thái Lan, 1995) Qua bảng trên ta thấy ở 10 tuần tuổi trọng lượng gà bình quân 0,785 kg, tiêu tốn thức ăn là 2,590 kg. SVTH: Trần Nhựt Tiến 8
  9. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi Tại Việt Nam, gà Isa Brown được nuôi phổ biến ở Đồng Nai, Sông Bé, các tỉnh ĐBSCL…Sự tăng trưởng và tiêu tốn thức ăn được trình bày ở bảng 2.3 như sau: Bảng 2.3: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Việt Nam Tuần tuổi Trọng lượng Thức ăn bình quân Lũy kế thức ăn Dinh dưỡng (g) (g/con/ngày) (g/con) 2.850 Kcal ME/ kgTĂ 19 % CP 2 120 20 224 4 290 31 623 6 470 41 1.162 8 650 51 1.841 10 820 61 2.667 2.750 Kcal ME/ kg TĂ 15,5 % CP 12 1.000 67 3.584 14 1.170 73 4.585 16 1.350 79 5.670 18 1.530 86 6.846 20 1.650 89 8.092 22 1.750 100 9.464 (Tài liệu hướng dẫn chăn nuôi gà đẻ của proconco, 1997) Qua bảng trên ta thấy ở 10 tuần tuổi trọng lượng gà bình quân 0, 820 kg, tiêu tốn thức ăn là 2, 667 kg. SVTH: Trần Nhựt Tiến 9
  10. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi Tại Cần Thơ, gà Isa Brown cũng được nuôi tại Trại sản xuất thực nghiệm Trường Trung Học Kinh Tế - Kỹ Thuật tỉnh Cần Thơ. Sự tăng trọng và tiêu thụ thức ăn được biểu thị qua bảng 2.4 như sau: Bảng 2.4: Thể trọng và tiêu tốn thức ăn của gà Isa Brown nuôi tại Trƣờng Trung Học Kinh Tế - Kỹ Thuật Cần Thơ Tuần tuổi Trọng lượng Thức ăn bình quân Lũy kế thức ăn Dinh dưỡng (g) (g/con/ngày) (g/con) 3.000 Kcal ME/ kgTĂ 20 % CP 2 120 18 231 4 280 30 639 6 455 44 1.057 8 610 52 1.729 10 760 58 2.401 2.900 Kcal ME/ kg TĂ 17 % CP 12 915 67 3.227 14 1.120 75 4.212 16 1.260 82 5.262 18 1.445 85 6.130 20 1.600 90 7.465 22 1.730 102 9.426 (Nguyễn Vĩnh Thọ, 1998) Qua bảng trên ta thấy ở 10 tuần tuổi trọng lượng gà bình quân 0,760 kg, tiêu tốn thức ăn là 2, 401 kg. Như vậy, qua bảng 2.1; 2.2; 2.3 và 2.4 ta thấy giống gà Isa Brown nuôi ở Việt Nam giai đoạn hậu bị (0 – 22 tuần tuổi) với khẩu phần năng lượng trao đổi và protein thô cao hơn ở Pháp và ở Thái Lan nhưng tăng trọng và tiêu tốn thức ăn không cao hơn. SVTH: Trần Nhựt Tiến 10
  11. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi 2.1.3. Phƣơng thức nuôi Gà Isa Brown có thể nuôi theo 2 phương thức: Nuôi lồng và nuôi trên nền có lớp độn chuồng:  Nuôi lồng thì có lợi cho việc phòng trừ dịch bệnh và tăng được mật độ nuôi cũng như tốc độ tăng trưởng, đỡ tốn nhân công, thao tác lượm trứng dễ và ít bị bể, nhưng khuyết điểm là ngực gà có thể bị chai và chi phí xây dựng cao.  Nuôi trên nền thì chi phí cơ sở thiết bị ít nhưng mật đô nuôi thấp hơn, dễ đưa đến việc gà đè nhau gây chết khi hoảng sợ, dịch bệnh cũng dễ xay ra hơn nhất là bệnh cầu trùng (Nguyễn Văn Quyên, 2000). 2.2. VAI TRÕ VÀ TÁC DỤNG CỦA THỨC ĂN TRONG CHĂN NUÔI Thức ăn gia súc gồm 2 thành phần là phần nước và phần chất khô. Phần chất khô có 2 loại là chất hữu cơ và tro (còn gọi là chất khoáng). Chất hữu cơ gồm có chất đạm (protein), chất bột đường (carbohydrate), chất béo (lipid), chất xơ (cellulose) và vitamin. Chất khoáng gồm các nguyên tố đa lượng có nhiều trong cơ thể như canxi, phosphor và loại các nguyên tố vi lượng có rất ít trong cơ thể như sắt, đồng, Iod. Đối với cơ thể gia súc những chất dinh dưỡng trên có các nhiệm vụ khác nhau như nhiệm vụ cung cấp năng lượng do chất bột đường và chất béo đảm nhiệm được “đốt cháy” trong cơ thể sản sinh nhiệt, làm nóng cơ thể do đó cơ thể mới hoạt động được hay chất đạm và chất khoáng giữ nhiệm vụ kiến tạo nên cơ thể, trong đó thịt được cấu tạo chủ yếu từ chất đạm và bột xương được hình thành chủ yếu từ chất khoáng. Bên cạnh đó những chất như vitamin, men,..đóng vai trò điều hòa mọi hoạt động sống (như tiêu hóa, hấp thu, bài tiết và vận động) của gia súc. Như vậy, con vật có khoẻ mạnh, lớn lên, sinh đẻ và làm việc được thì thức ăn c ần có đầy đủ các loại dưỡng chất nêu trên, chỉ cần thiếu một loại là gây ảnh hưởng đến loại chất khác làm ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của gia súc, thậm chí có thể gây chết cho gia súc. Trong chăn nuôi, người ta còn sử dụng một loại thức ăn gọi là thức ăn bổ sung. Thức ăn bổ sung là những loại thức ăn chỉ dùng với số lượng nhỏ, nhưng có tác dụng làm cho khẩu phần được cân đối. Nó chỉ có tác dụng bổ sung chứ không giữ vai trò thay thế cho các loại thức ăn trên. Thức ăn là nguyên liệu để duy trì sự sống hàng ngày vừa là nguyên liệu cho sự sinh trưởng và phát triển của cơ thể tạo ra sản phẩm tiêu biểu cho mỗi loài, mỗi giống. Do vai trò quan trọng như vậy nên về mặt kinh tế thì nó bao giờ cũng chiếm tỉ lệ 70 – 80 % trong giá thành sản phẩm và là nhân tố quyết định lời lỗ của ngành chăn nuôi. Thức ăn và dinh dưỡng là một vấn đề tế nhị và phức tạp mà mỗi người làm SVTH: Trần Nhựt Tiến 11
  12. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi nghề nuôi gà cần phải hiểu biết càng sâu, càng có lợi (Lê Hồng Mận, Hoàng Hoa Cương, 1995). 2.2.1. Vai trò của năng lƣợng Năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống của cơ thể như tiêu hoá, tuần hoàn, hô hấp, sinh sản, bài tiết và trao đổi chất. Thức ăn năng lượng hay chất bột đường là thành phần dinh dưỡng chiếm tỉ lệ lớn nhất hơn 50% so với các chất dinh dưỡng khác trong thức ăn gia cầm. Nó là nguyên liệu ban đầu để chuyển hoá các chất béo, cung cấp bộ khung cacbon để tạo nên các acid amine và nhiều chất khác trong cơ thể (Dương Thanh Liêm, 1997). Khi nhiệt độ môi trường tăng cao gà có phản ứng tự nhiên để chống lại là điều tiết thân nhiệt bằng cách tăng tần số hô hấp, ăn ít, uống nhiều nước,...Khi ấy việc tăng năng lượng và protein trong khẩu phần là rất cần thiết để bù đắp hao tổn nói trên nhưng khi tiếp tục tăng quá 27oC cơ thể gà sẽ bị rối loạn. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng nữa thì cơ thể không bị mất năng lượng như trường hợp trên lúc này không nên tăng năng lượng trong thức ăn mà còn phải giảm xuống một cách hợp lí (Peter và Levis, 1996). Ngoài ra hàm lượng năng lượng của thức ăn gia tăng thì gà mái sẽ ăn ít đi. Quy luật là sự tiêu tốn thức ăn sẽ giảm 4% cho mỗi 50 kcal gia tăng. Nếu chỉ dựa trên sự gia tăng trọng lượng của gà mái không thể biết được mức độ thức ăn. Bởi lẽ một phần rất lớn năng lượng tiêu thụ được dùng vào việc tăng cường sản sinh nhiệt (North, 1984). 2.2.2. Vai trò của chất đạm Protein là cơ sở của sự sống, chúng thực hiện vai trò tạo hình và cấu tạo nên tế bào, hoormone, kháng thể. Protein là nguồn năng lượng duy trì trạng thái cân bằng acid - bazơ điều hoà và trao đổi chất trong cơ thể (Melekhin và Grindin, 1997). Giá trị sinh học của protein trong thức ăn được đánh giá bằng sự hiện diện của các acid amin mà cơ thể không tự tổng hợp được hoặc có tổng hợp được cũng không đáp ứng được yêu cầu của cơ thể. Trong các acid amine thiết yếu những acid amin thường thiếu trong thức ăn là acid amine giới hạn và nó quyết định mức độ tổng hợp protein trong cơ thể. Đối với gia cầm có các acid amine giới hạn là: lysine, methionine, tryptophan và threonine. Nếu protein có chứa tất cả các acid amine thiết yếu đáp ứng nhu cầu của cơ thể thì chúng là các protein có giá trị sinh học cao và ngược lại. Trong thức ăn chăn nuôi gia cầm cần chú ý các loại thực liệu có giá trị sinh học cao để cân đối các thực liệu có giá trị sinh học thấp. Đồng thời bổ sung các acid amin tổng hợp để có một khẩu phần cân đối hoàn chỉnh. Sản phẩm chăn nuôi gia cầm là thịt trứng là các sản phẩm có giá trị sinh học cao. Để tạo ra các sản phẩm này và đạt năng suất cao gia cầm phải có khẩu phần thức ăn tốt, cân bằng dinh dưỡng đầy đủ về chất lượng cũng như số lượng. Nếu cung cấp protein thừa trong SVTH: Trần Nhựt Tiến 12
  13. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi thức ăn sẽ lãng phí làm tăng giá thành sản phẩm. Mặt khác protein thừa không tiêu hoá sẽ gây lên men thối ở ruột già và có thể dẫn đến tình trạng tiêu chảy. Đồng thời sự dư thừa acid amine dẫn đến phản ứng về acid amine quá mạnh thải ra ure và acid uric có hại cho gan thận. Sự dư thừa protein làm cho nồng độ acid amine trong máu tăng, giảm tính thèm ăn của gia cầm, không cải thiện được tăng trọng mà còn làm giảm trọng lượng và sự ngộ độc protein sẽ xảy ra khi khẩu phần có chứa 30% protein. Ngược lại nếu không cấp đủ protein cơ thể sẽ thiếu nguyên liệu cho nhu cầu duy trì và tăng trưởng đồng thời sức đề kháng của gà cũng giảm. Thức ăn thiếu protein nhất là thiếu các acid amine giới hạn sẽ làm quá trình trao đổi chất bị phá huỷ, giảm khả năng chịu nóng và lạnh của gà, giảm sự tạo lông và thay lông không đúng quy luật và có thể xuất hiện hiện tượng cắn mổ nhau. Ngoài ra sự thiếu protein trong thức ăn làm cho gà ăn nhều hơn (Nguyễn Thị Đào, 1999). 2.2.3. Vai trò của chất béo trong dinh dƣỡng động vật Chất béo cần thiết cho sự sống của động vật và thực vật trong nhiều mặt. Chúng thường được biết đến như năng lượng từ thức ăn. Rất nhiều cơ quan trong cơ thể dự trữ thức ăn dưới dạng chất béo. Điển hình như các loại thực vật chứa đựng chất béo như một loại thức ăn trong thời kỳ phôi mầm. Ở ruột non nhờ tác dụng xúc tác của các enzyme lipase và dịch mật chất béo bị thuỷ phân thành các acid béo và glyxerol rồi được hấp thụ vào thành ruột. Chất béo kéo dài thời gian thức ăn ở dạ dày và đi qua đường tiêu hóa, tạo cảm giác no sau khi ăn. Mặt khác chất béo tạo cảm quan ngon lành cho thực phẩm. Mỗi dạng chất béo thể hiện một phần quan trọng trong màng tế bào của cơ thể, giúp bảo vệ các tế bào sống. Màng tế bào giống nhau bao quanh cơ thể cùng với tế bào, giúp cho mỗi tế bào trong cơ thể có thể làm công việc mà không cần đến sự can thiệp không cần thiết của các tế bào khác. Chất béo tham gia vào cấu trúc của tất cả các mô, là thành phần thiết yếu của tế bào, của các màng cơ thể và có vai trò điều hòa sinh học cao. Não bộ và các mô thần kinh đặc biệt giàu chất béo. Các rối loạn chuyển hóa chất béo ảnh hưởng đến chức phận nhiều cơ quan kể cả hệ thần kinh. Chất béo cung cấp các acid béo thiết yếu không no đa nối đôi, chuỗi dài là tiền chất của một loạt các chất có hoạt tính sinh học cao như prostaglandin, leukotrienes, thromboxanes… Các eicosanoids này là các chất điều hòa rất mạnh một số tế bào và chức năng như kết dính tiểu cầu, co mạch, đóng ống động mạch. Thiếu acid béo omega-3 dẫn đến ảnh hưởng khả năng nhận thức, khả năng nhìn...Trong cơ thể chất béo là nguồn dự trữ năng lượng lớn nhất. Ngoài ra, chất béo giúp cho các chuyển hoá các vitamin nhóm B và một số tổ chức như gan, não, tim, các tuyến sinh dục có nhu cầu cao về các acid béo chưa no, nên khi không được cung cấp đủ từ thức ăn thì các rối loạn sẽ xuất hiện ở các cơ quan này trước tiên. Các chất béo động vật và thực vật trong tự nhiên là các ester của glyxerin với các acid chất béo. Đặc tính của chất béo là không hòa tan với nước, nhưng chúng có khả năng hòa tan các chất khác như vitamin A, D, E, và K. SVTH: Trần Nhựt Tiến 13
  14. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi Trong thức ăn hổn hợp cho gà, thành phần chất béo không nhiều nhưng không thể thiếu được. Hầu hết các lọai lipid động vật và thực đều có chứa tỷ lệ khác nhau hai loại acid béo, là acid béo bảo hòa như: acid palmitic, acid srearic…. Trong các acid béo chưa bảo hòa có các acid béo quan trọng như: acid linoleic, acid linolenic, acid arachionic. Đó là những acid béo cần thiết cho cơ thể gà với tên chung là”các acid béo không thay thế hay acid béo thiết yếu”. Cơ thể gà không tổng hợp được các acid béo này, mà phải cho ăn cùng thức ăn ( Võ Bá Thọ, 1996). 2.2.4. Mối tƣơng quan giữa năng lƣợng và protein Việc tổng hợp protein trong cơ thể cần một năng lượng và khi năng lượng trong thức ăn thấp thì một phần protein trong thức ăn sẽ bị oxi hoá để tạo năng lượng. Như vậy một phần protein không được sử dụng cho mục đích tạo ra sản phẩm mà sử dụng cho mục đích tạo năng lượng (Trần Thị Kim Oanh, 1998). Yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu protein và năng lượng của gia cầm: nhu cầu này phụ thuộc vào trọng lượng của cơ thể và năng suất. Khi gà ở giai đoạn tăng trưởng nhanh thì nhu cầu protein và năng lượng cao hơn so với giai đoạn tăng trưởng thấp. Bên cạnh đó nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng và protein của gà, hàm lượng protein trong công thức thức ăn được điều chỉnh theo lượng thức ăn tiêu thụ, khi nhiệt độ môi trường thấp gà cần năng lượng để tạo nhiệt gà ăn nhiều thức ăn hơn nên tỉ lệ protein phải thấp. Khi nhiệt độ môi trường tăng cao gà ăn ít thì tỉ lệ protein trong thức ăn phải cao giúp cho gà nhận được đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho nhu cầu duy trì và sản xuất. Lượng thức ăn tiêu thụ phụ thuộc vào giống, thể trạng, giai đoạn sản xuất, nhiệt độ, môi trường. Nhiệt độ môi trường thuận lợi cho gà là 21-25oc ở giai đoạn này gà sử dụng chất dinh dưỡng trong thức ăn hiệu quả nhất (Trần Thị Kim Oanh, 1998). 2.2.5. Vai trò của chất khoáng Người ta phát hiện trong cơ thể động vật có tới 70 nguyên tố của bảng hệ thống tuần hoàn. Có 4% năng lượng cơ thể thuộc về tro chúng gồm các nguyên tố vi lượng, đa lượng tùy thuộc vào số lượng của chúng. Trong cơ thể các nguyên tố đa lượng bao gồm: Ca, P, K, Cl, Mg, S (1.01%). Các nguyên tố vi lượng: Fe, Co, Cu, Zn, Mn, I, Se và các nguyên tố khác (10-3-10-6%) (Melekhin và Gridin, 1997). Ca, P giữ vai trò dinh dưỡng khoáng quan trọng, trước hết nó là thành phần cấu trúc của xương, răng. P là thành phần của acid Nucleic, phospholipid, tham gia vào những phản ứng phosphoryl hóa và những phản ứng chuyển hóa năng lượng. Ca, Mg có vai trò quan trọng trong kích thích thần kinh hai nguyên tố này có tác dụng ức chế sự hưng phấn cho nên nếu thiếu chúng sẽ xuất hiện quá trình hưng phấn, nếu nghiêm trọng sẽ xuất hiện triệu chứng co giật (Vũ Duy Giảng, 1997). Do những vai trò như vậy nên khi thiếu Ca, P sẽ có những biểu hiện xấu đến khả SVTH: Trần Nhựt Tiến 14
  15. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi năng sinh sản, tốc độ sinh trưởng, khả năng sản xuất của vật nuôi. Đối với gà đẻ trứng Ca rõ ràng có ảnh hưởng quan trọng, một gà mái nặng 2kg có khoảng 135ml máu chứa 25mg Ca, trong 15 giờ calci hóa vỏ trứng nó sử dụng 100mg calci mỗi giờ. Như vậy cứ 15 phút calci huyết tương lại đổi một lần do gà mái đẻ có tốc độ chuyển đổi calci rất mạnh. Nếu không cung cấp đủ calci gà mái đẻ trứng có vỏ mỏng, dễ vỡ không đủ tiêu chuẩn trứng giống và thương phẩm. Cần cung cấp đầy đủ calci cho cho gà mái để phục hồi lại kho dự trữ xương. Có thể dự trữ calci dưới dạng carbonate calci (40% Ca), bột sò (30-35% Ca), bột xương (23% Ca) (Nguyễn Thị Đào, 1999). Muối ăn cần cho việc hình thành dịch vị tiêu hóa, duy trì pH ổn định, duy trì sự cân bằng các dịch thể, áp lực thẩm thấu bên trong cơ thể. Mangan cần cho cấu tạo xương, chống bệnh Perosis, tăng tỉ lệ ấp nở, tránh tình trạng phôi dị dạng. Iod cần cho tuyến giáp trạng tiết hoormone thyroxin, điều hòa trao đổi năng lượng, thiếu iod gà còi cọc giảm đẻ. Selen có quan hệ chặt chẽ đến trao đổi chất của vitamin E, dùng phòng bệnh thoái hóa cơ, tích nước xoang bụng do thiếu vitamin E (Võ Bá Thọ, 1989). 2.2.6. Vai trò của vitamin Vai trò của vitamin trong cơ thể là xúc tác nên chỉ cần lượng vitamin rất ít mà các chuyển hóa trong cơ thể cũng đạt tốc độ phản ứng nhanh và hiệu quả sử dụng cao (Vũ Duy Giảng, 1997). Vitamin A cần cho việc bảo vệ niêm mạc, nội mạc của cơ thể chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh. Thiếu vitamin A gà có biểu hiện khô lông, khô da, viêm kết mạc mắt, gà còi cọc, rối lọan thần kinh gà chết ồ ạt như bị dịch. Gà mái đẻ giảm,trứng ấp nở kém. Vitamin D cần thiết cho động vật hấp thụ và tích lũy canxi, là tác nhân chống còi xương. Thiếu D3 gà chậm lớn, xương bị biến dạng, gà giảm đẻ, vỏ trứng miềm, tỉ lệ ấp nở giảm. Vitamin E cần cho khả năng sinh sản. Thiếu vitamin E gà trống bị teo dịch hoàn, gà mái bị thoái hóa buồng trứng khả năng thụ tinh ấp nở giảm hoặc mất hẳn. Vitamin B1 là tác nhân chống phù thủng, viêm thần kinh đóng vai trò quan trọng trong trao đổi chất bột đường. Vitamin B2 là nhân tố quan trọng cho quá trình oxi hóa của tế bào, chống rối lọan thần kinh, đảm bảo tỉ lệ đẻ. Thiếu B2 gà bị què chân chậm lớn. Nếu bệnh nặng thì bị liệt, run rẩy và chết trong 3 tuần đầu tiên. Vitamin B3 thiếu sẻ làm cho gia cầm có hiện tượng mọc lông rời rạc. Vitamin B5 là một vitamin thiết yếu cho sự sinh trưởng và phát triển bình thường. SVTH: Trần Nhựt Tiến 15
  16. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi Nếu thiếu thì sinh trưởng kém, bị phình khớp chân và què. Vitamin B6 cần cho quá trình trao đổi chất đạm, chất béo để phát triển cơ thể, chống viêm da. Vitamin B12 rất quan trọng trong cấu tạo máu, tổng hợp các protit tế bào, thúc đẩy quá trình sinh trưởng bình thường của cơ thể, mọc lông, đảm bảo tỉ lệ ấp nở của trứng. Vitamin K là nhân tố làm đông máu, chống chảy máu. Vitamin C làm tăng sức đề kháng cho gia cầm đối với các yếu tố stress hoặc bị bệnh và tránh tình trạng vỏ trứng bị mỏng (Võ Bá Thọ, 1996). 2.2.7. Vai trò của nƣớc Nước là thành phần vô cùng quan trong đối với cơ thể động vật. Tuy nó không cung cấp năng lượng nhưng có vai trò quan trọng trong đời sống động vật. Gà nếu không được cung cấp đầy đủ nước sản lượng trứng sẽ giảm đi đáng kểu vài ngày. Nước trong cơ thể động vật chiếm từ 60- 70%, tùy theo tuổi mà tỷ lệ này giảm dần từ 80% lúc mới sinh và còn 45% lúc trưởng thành. Tỉ lệ cũng biến động theo thể trạng và các mô khác nhau (Vũ Duy Giãng, 1997). Nếu không có nước gia cầm sẽ bị chết nhanh hơn là bị đói hoàn toàn. Người ta biết rằng thiếu thức ăn gia cầm có thể sống được hơn 12 ngày, không có nước gà sẽ chết vào ngày thứ 3-4. Gia cầm càng non cơ thể càng chứa nhiều nước. Như vậy nước tỉ lệ với khối lượng của cơ thể (Bùi Thị Kim Dung, 1996). Nước cần cho việc phân giải protein, lipid, glucid. Nuớc tạo điều kiện để thấm hút các chất khoáng, các vitamin và các sản phẩm phân giải khác. Nước là môi trường cần thiết cho các quá trình lên men của trao đổi chất trong cơ thể cũng như đối với sự thẩm thấu và khuếch tán các chất. Nó vận chuyển các chất dinh dưỡng và các sản phẩm của trao đổi chất trong cơ thể (Melkhin và Gridin, 1977). Yêu cầu về nước uống là phải sạch và đầy đủ. Tiêu chuẩn về nước uống cho gà có thể áp dụng tiêu chuẩn nước uống cho người. Phải thường xuyên kiểm tra hệ thống cung cấp nước. Nước uống và thức ăn tiêu thụ sẽ nói lên tình trạng sức khỏe của con vật Phương pháp cung cấp nước cho gà là cho chúng tiếp xúc trực tiếp với nguồn nước để chúng được uống thỏa thích. Tuy nhiên cần chú ý đảm bảo những chỉ tiêu vệ sinh nước uống, nồng độ chất hòa tan không vượt quá 15g/1l. Nước tốt chứa 2g chất hòa tan/1l. Nacl không vượt quá 10g/1l, muối sulfat không quá 1g/1l. Muối nitrat tối đa 50- 100ppm. Không cho vật nuôi uống nước bị nhiễm tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, kí sinh trùng hoặc hóa chất độc hại (Vũ Duy Giảng, 1997). SVTH: Trần Nhựt Tiến 16
  17. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi 2.3. NHU CẦU DINH DƢỠNG GIA CẦM 2.3.1. Nhu cầu năng lƣợng 2.3.1.1. Nhu cầu duy trì Theo Bùi Xuân Mến (2007) thì nuôi gia cầm cho mục đích sản xuất, trước hết phải nuôi dưỡng để duy trì sự sống, mặc dù chúng có sản xuất hay không. Một lượng đáng kể thức ăn tiêu tốn của gia cầm là sử dụng cho duy trì sự sống. Nhu cầu năng lượng để duy trì của gia cầm bao gồm sự trao đổi cơ bản và hoạt động bình thường. Trao đổi cơ bản là sự tiêu phí năng lượng tối thiểu hoặc sự sinh nhiệt trong những điều kiện khi ảnh hưởng của thức ăn, nhiệt độ môi trường và hoạt động chủ động bị loại ra. Sự sinh nhiệt cơ bản thay đổi theo độ lớn của vật nuôi, nhìn chung thì độ lớn của vật nuôi tăng thì sự sinh nhiệt cơ bản trên một đơn vị thể trọng giảm. Sự sinh nhiệt cơ bản của gà con mới nở vào khoảng 5,5 calo trên một gam thể trọng trong một giờ, nhưng trái lại đối với gà mái trưởng thành thì chỉ cần phân nữa số năng lượng này. Năng lượng yêu cầu cho hoạt động có thể thay đổi đáng kể, thường được ước tính bằng khoảng 50% của sự trao đổi cơ bản. Điều này có thể bị ảnh hưởng bởi những điều kiện chuồng trại cũng như giống gia cầm được nuôi. Sử dụng chuồng lồng làm giới hạn các hoạt động sẽ dẫn đến sự tiêu phí năng lượng thấp hơn, cỡ khoảng 30% của sự trao đổi cơ bản so với nuôi nền. Mặc dù thực tế những động vật lớn hơn yêu cầu năng lượng duy trì thấp hơn trên một đơn vị thể trọng, nhưng tổng năng lượng cần cho những động vật lớn hơn lại cao hơn nhiều so với vật nhỏ hơn. Từ quan điểm thực tiễn cho thấy, một gà mái sản xuất trứng có độ lớn cơ thể nhỏ nhất, đẻ trứng lớn và sức sống cao sẽ có khả năng chuyển đổi thức ăn thành sản phẩm đạt hiệu quả nhất, vì tiêu phí năng lượng duy trì thấp. Chăn nuôi gà hoặc gà tây thịt đạt đến độ bán trong một thời gian ngắn nhất sẽ đạt hiệu quả nhất về biến đổi thức ăn thành sản phẩm, vì nếu kéo dài thời gian nuôi sẽ phải chi phí duy trì lớn hơn. Hầu hết gà đang đẻ trứng và gà thịt đang sinh trưởng đều được cho ăn tự do theo yêu cầu sản xuất. Lượng thức ăn gia cầm tiêu thụ có liên quan trước hết đến nhu cầu năng lương của gia cầm trong thời gian này. Khi các chất dinh dưỡng khác có đủ lượng trong thức ăn thì khả năng tiêu thụ thức ăn được xác định trước tiên dựa trên mức năng lượng của khẩu phần. Mức tiêu thụ năng lượng của gia cầm hang ngày có thể đo bằng kilocalo năng lương trao đổi thì chắc chắn sẽ ổn định hơn là tổng lượng thức ăn tiêu thụ, nếu trong khẩu phần có chứa các mức năng lượng khác nhau. 2.3.1.2. Nhu cầu sinh trưởng Trong hầu hết các trường hợp, nhu cầu năng lượng không được trình bày một cách chính xác như các nhu cầu về acid amine, vitamin và khoáng. Tốc độ tăng trưởng tốt có thể đạt được với một biên độ rộng của các mức năng lượng, bởi vì gia cầm có khả năng điều chỉnh lượng thức ăn ăn vào để duy trì một mức tiêu thụ năng SVTH: Trần Nhựt Tiến 17
  18. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi lượng khá ổn định. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng tối đa sẽ không đạt được với khẩu phần khởi động cho gà và gà tây con có mức năng lượng dưới 2640 kcal ME/kg. Gà thịt thường được cho ăn mức năng lượng cao hơn gà hậu bị thay thế. Trong sản xuất gà thịt, tốc độ tăng trọng tối đa là yêu cầu cần thiết để gà đạt trọng lượng bán trong thời gian ngắn nhất, nhưng với những gà hậu bị thay thế thì tốc độ tăng trưởng nhanh lại ít quan trọng hơn. Thực tế sản xuất cho thấy, khẩu phần khởi động cho gà con làm gà hậu bị thay thế có từ 2750 đến 2970 kcal/kg, ngược lại khẩu phần khởi động của gà thịt lại chứa mức năng lượng cao hơn, trong phạm vi từ 3080 đến 3410 kcal/kg (Bùi Xuân Mến, 2007). 2.3.2. Nhu cầu protein Theo Bùi Xuân Mến (2007) thì protein cần thiết cho duy trì tương đối thấp, vì thế yêu cầu protein trước hết tùy thuộc vào lượng cần thiết cho mục đích sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu protein thì các acid amine thiết yếu phải được cung cấp đủ lượng và tổng lượng nitơ trong khẩu phần phải đủ cao và ở dạng thích hợp để cho phép tổng lượng acid amine không thiết yếu. Một khi lượng protein tối thiểu được yêu cầu cung cấp cho sinh trưởng hoặc sản xuất trứng tối đa thì protein cần cộng thêm do bị oxy hóa thành năng lượng cũng phải tính đến. Protein cũng không được dự trữ trong cơ thể theo số lượng có thể đánh giá được. Thực tế sản xuất, protein luôn là thành phần thức ăn đắt nhất của một khẩu phần, sẽ không kinh tế nếu nuôi động vật quá mức protein . Vì lý do này mà mức protein trong khẩu phần cho vật nuôi luôn phải giữ gần với mức nhu cầu tối thiểu hơn là các chất dinh dưỡng khác. Nhu cầu protein và acid amine của gia cầm non đang sinh trưởng là đặc biệt quan trọng. Phần lớn nhất vật chất khô tăng lên với sự sinh trưởng là protein. Sự thiếu hụt của hoặc protein tổng số hoặc là một acid amine thiết yếu nào đó đều làm giảm tốc độ tăng trưởng. Sự tổng hợp protein yêu cầu tất cả các acid amine cần thiết làm thành protein cần phải có mặt trong cơ thể gần như cùng một lúc. Khi thiếu một acid amine thiết yếu thì không có sự tổng hợp protein. Những protein không hoàn chỉnh sẽ không bao giờ được tạo thành. Các acid amine không được sử dụng cho tổng hợp protein sẽ chuyển đổi thành carbohydrate hoặc mỡ, đồng thời nó có thể dễ dàng bị oxy hóa cho nhu cầu năng lượng trực tiếp hay được dự trữ dưới dạng mô mỡ. Thân thịt của những vật nuôi cho ăn khẩu phần thiếu protein hoặc các acid amine thường chứa nhiều mỡ hơn những vật được ăn khẩu phần đủ và cân đối protein. Điều cân nhắc quan trọng nhất trong việc biểu diễn nhu cầu các acid amine là lượng thức ăn tiêu thụ. Một lượng ổn định protein tổng số và acid amine thiết yếu trong thức ăn được yêu cầu để giúp cho tốc độ tăng trưởng mô cơ thể có thành phần không thay đổi. Tuy nhiên khi nhu cầu protein được biểu thị theo phần trăm trong khẩu phần thì mức protein ăn vào thực sự sẽ tùy thuộc vào sự tiêu thụ thức ăn. Mức năng lượng trong khẩu phần có thể là sự xem xét quan trọng nhất trong việc đánh giá lượng thức ăn ăn vào. Vì lý do này mà các nhu cầu được biểu diễn như phần trăm của khẩu phần luôn có liên quan đến mức năng lượng của khẩu SVTH: Trần Nhựt Tiến 18
  19. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi phần đó. 2.3.3. Nhu cầu vitamin và muối khoáng Ngày nay, hầu hết nhu cầu của gia cầm về vitamin và muối khoáng đã được biết chính xác, đặc biệt đối với các vitamin và khoáng chất biết chắc chắn là bị thiếu trong các khẩu phần sản xuất. Ngoại trừ một số ít các vitamin hoặc khoáng không biết chắc chắn là thiếu dưới những điều kiện sản xuất, các mức trong khẩu phần được khuyến cáo là sẽ cung cấp lượng đủ để cho phép gia cầm sản xuất hiệu quả. Không như protein, các yếu tố vitamin và khoáng vi lượng luôn được cung cấp vượt qua mức nhu cầu tối thiểu trong khẩu phần. Vì vậy, nhu cầu vitamin và khoáng vi lượng thường không được chỉ dẫn theo tỷ lệ thức ăn tiêu thụ hoặc mức năng lượng có trong thức ăn, từ đó số lượng đủ luôn trên mức nhu cầu tối thiểu được tính trong các khẩu phần cho gia cầm (Bùi Xuân Mến, 2007). 2.3.4 Nhu cầu canxi cho gà mái đẻ trứng Chất dinh dưỡng cần thiết chủ yếu trong khẩu phần của gia cầm mái đang đẻ là canxi. Cho mỗi trứng lớn gà mái đẻ ra cần 2 g canxi để thành lập vỏ trứng. Một gà mái đẻ 250 trứng một năm cần tích 500g canxi, chủ yếu ở dạng carbonate canxi (tương đương với 1300g). Canxi không được sử dụng hiệu quả đối với gà mái đẻ, có thể chỉ khoảng 50 – 60% lượng canxi ăn vào được giữ lại và chuyển vào trứng. Như vậy, để đảm bảo sản xuất ra vỏ trứng theo yêu cầu thì gà mái này cần tiêu thụ 2600g carbonate canxi trong một năm đẻ. Đây là lượng khoáng vượt quá cả thể trọng của gà mái. Qua sự đánh giá này cho thấy tầm quan trọng của sự trao đổi canxi phải diễn ra liên tục trong một gà mái đang đẻ và quá trình trao đổi này cũng lớn hơn bất kỳ loài vật nào khác. Nhu cầu canxi đối với gia cầm mái đang đẻ khó xác định được chính xác, bởi vì duy trì ở một tỷ lệ đẻ cao thì mức canxi trong thức ăn lại thấp hơn yêu cầu để tạo ra một vỏ trứng vừa ý. Thị trường hiện đại và những điều kiện quản lý trứng yêu cầu vỏ trứng bền, không bị nứt bể dễ dàng trong buôn bán. Khi gà mái đi vào kỳ cuối của năm đẻ thường cho những trứng có vỏ mỏng và chất lượng kém hơn trong thời kỳ đẻ đầu. Thời tiết nóng cũng làm cho gà đẻ trứng có vỏ mỏng hơn. Chất lượng vỏ trứng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh đường hô hấp, vì có thể bệnh này đã làm ảnh hưởng đến ống dẫn trứng nên gà đẻ ra trứng có vỏ không bình thường. Thực tế không phải tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vỏ trứng nêu trên có thể được sửa chữa bằng cách cho thêm canxi vào thức ăn. Sự tiêu thụ thức ăn cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nhu cầu canxi khi được tính toán như phần trăm trong khẩu phần (giống như cho nhu cầu của SVTH: Trần Nhựt Tiến 19
  20. Chăn nuôi gia cầm A Kỹ thuật nuôi gà Isabrown thương phẩm từ 6-11 tuần tuổi protein). Đối với những gà mái trong thời kỳ đẻ đầu, muốn cho gà sử dụng tốt canxi thức ăn để tạo ra vỏ trứng vừa ý thì mức canxi trong khẩu phần chỉ ở dưới mức 3%. Nhưng ở những điều kiện khác, ví dụ như thức ăn cho gà mái già trong thời tiết nóng thì mức canxi trong thức ăn gà đẻ phải tăng lên đến mức trên 4% để cố gắng cải thiện chất lượng vỏ trứng (Bùi Xuân Mến, 2007). 2.4 CHUỒNG TRẠI, THIẾT BỊ DỤNG CỤ CHĂN NUÔI 2.4.1 Địa thế xây dựng Khu vực chăn nuôi phải thuận tiện cho việc lưu thông và phải cách xa khu dân cư. Chuồng nuôi phải được xây dụng nơi khô ráo, nền chuồng phải cao vì gà không chịu được ẩm ướt. Nền chuồng phải cao hơn mặt đất là 50cm (Châu Bá Lộc , 1997). Để tránh vào mùa mưa nước đọng thì trước khi xây dựng phải đào mương, rãnh thoát nước trong khu vực chăn nuôi (Hồ Văn Giá, 1992). 2.4.2 Hƣớng chuồng Thông thường thì mưa bão từ hướng Tây - Nam bay đến, gió lạnh thì từ hướng Bắc thổi vào. Nên xây dụng hướng chuồng theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và cửa chuồng m ở theo hướ ng Đông Nam là tốt nhất vừa tránh được mưa bão vừ a sử dụng được ánh nắng buổi sáng có nhiều tia hồng ngoại chiếu vào chuồng (Võ Văn Sơn, 2002). 2.4.3 Phƣơng thức nuôi Đối với gà đẻ trứng thương phẩm có hai phương thức nuôi: nuôi dưỡng đồng pha và nuôi dưỡng lệch pha. 2.4.3.1 Nuôi dƣỡng đồng pha Nuôi gà trong chuồng: từ lúc nhỏ đến lớn và trong giai đoạn đẻ đều nuôi gà trên lồng. Gà không ăn lại phân khô nên không tự bổ sung vitamin B 12, khi thiếu chất sơ gà không tự bổ sung bằng cách ăn chất độn chuồng. Vì vậy cần bổ sung vào khẩu phần đầy đủ chất. Mặt khác gà mái đẻ nhốt trong lồng chật nên ít vận động, do đó dễ mập có hiện tượng ngán ăn nên ta cần giảm năng lượng thức ăn và tăng mức protein cao hơn nuôi nền. Gà nuôi trên lồng tuy vỏ trứng sạch nhưng vỏ trứng mỏng, dễ bể (Dương Thanh Liêm, 2002). Nuôi nền cần ít năng lượng 2750kcal/kg thức ăn và mức đạm là 18% thì nuôi lồng cần 2650kcal/kg thức ăn, mức protein là 19% (Phylaxia, 1978). SVTH: Trần Nhựt Tiến 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2