Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, ta bùi ngùi thương cảm cho kiếp sống béo bọt nổi lên trên mặt bể hiện tượng, rồi bị đánh chìm trong quên lãng nghìn đời, cảm thông cho những số phận con người cô đơn.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Lão Hạc - nỗi trăn trở cuối cùng của một kiếp người
- Lão Hạc - nỗi trăn trở cuối cùng
của một kiếp người
Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, ta bùi ngùi thương cảm cho kiếp sống
béo bọt nổi lên trên mặt bể hiện tượng, rồi bọ đánh chìm trong quên lãng nghìn đời.
Không ! Cái chết của Lão Hạc dù kết thảm bi thảm như thế nào, lão vẫn giữ lại
cho chúng ta bức thông điệp về nổi trăn trở của một con người trong niềm đau nhân
cách. Ta không đưa Lão Hạc đên tận huyệt mồ quên lãng, nhưng vẫn thấy sâu thẳm
huyệt lòng một niềm rưng rưng không nguôi.
Người cha “Thà chết chứ không chịu bán đi một sào…” cái mãnh vườn thân
yêu dành cho đứa con khốn khổ. Nam Cao lạnh lùng đẩy nấc thang đạo đức đến ranh
giới của thị phi, khiến chúng ta dầu không bắng lòng vẫn không giám vội vàng phê
phán.
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm và hiểu họ, thì
ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỏ ổi,,, toàn những cớ để cho ta tàn
nhẫn; không bao giớ ta thấy họ là những người đáng thương…” Nam Cao đã quá
- thương Lão Hạc. Cái đẹp và cái xấu xa bao giờ cũng là cánh tay của một thân thể,
không vì cánh tay trái xấu mà lại đem tay phải chặt đứt cánh tay trái đi, vì chặt đi thì
chính thân thể này đau chứ không phải cánh tay đau. Thứ từ bi đầy trí huệ này không
phải chỉ giành cho con người, mà đến cả một con chó. Một ngưởi đã khóc vì trót lừa
một con chó! Một người như thế có thể lừa được người đạo đức, lừa được cả tên ăn
trộm, nhưng tuyệt đối không lừa được chính bản thân mình. “Con người đáng kính ấy
bây giờ cũng theo gót binh. Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm
đáng buồn!”. Nam Cao tạm ngắt câu chuyện ở đó. Ta chưng hửng: thì ra Lão hạc
“cũng ta phết chứ chả vừa đâu”. Chính chung ta cũng bị lừa. Khi con người chưa về
với ba tấc đất tì mọi gia trị vẫn chưa xác định. Kẽ vội vàng hoặc ngợi ca, hoặc phê
phán. “Không! cuộc đời chưa hẳng đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn mà buồn thepo
nghĩa khác”. Theo nghĩa nào vậy” Đó là cái bi đát của thân phận con người? hay sự
bất công của Thượng đế? Nam Cao nói lững, không giải thích, không biện minh. Cái
văn phong lạnh lùng của hiện thực ấy lại có lúc triêt lý một cách siêu thực đến không
ngờ.
- Cũng như những nhân vật Thứ trong “Sống Mòn”, Chí Phèo ở làng Vũ Đại
trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh đặt sắc- đôi lúc đến dị
hợm- nhưng dều đáng thương, họ là những tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến,
họ có đời sống bần cùng, nhưng lại có phẩm chất cao đẹp. Cao đẹp chứ không phải
“cao thượng”, những cái dõm đáng, nặt thiệp, tế nhị dường như không có chổ đứng
trong tác phẩm của Nam Cao. Ông để cho nhân vật Lão Hạc của mình suy nghĩ một
cách tầm thường. Lấy vợ cho con mình thì “xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ
liệu, chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; lang này đã chết con g con gaiái đâu mà sợ”
Thương con đứt ruột nhưng lại bất lực khi thấy con ra đi. “Thẻ của nó người cha giữ.
Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người người
ta rồi, chứ đâu còn là con tôi”. Tiếng nấc nghẹn ngào bật ra từ đáy lòng của người cha
dường như không còn chút gì ấm ức, cam chịu. Lời lẽ ngậm ngùi đó khiến ta có cảm
tưởng của một bà mẹ hơn một người cha. Ở đây Nam Cao dựng lên một gười cha bị
cái đói khổ đến cùng cực kéo lão ra giữa vòng lẩn quẩn, và lão đã trụ lại một cách
- vững chãi trên mãnh đất nhân phẩm trơn tru và mờ nhạt, khó mà phân biệt ranh giới
của chúng. Tronh cái nền xám xịt âm u đó, Lão Hạc đã chọn cho mình một cái chết.
Chết nhưng không rơi vào đáy mồ hư vô chủ nghĩa. Ta lặng lẽ đi phúng điếu Lão Hạc,
và cũng ngậm ngùi đón nhận cái nghĩa cử thiêng liêng của lão giành cho người ở lại,
“Bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng”. Tình thương lão giành cho
người ở lại giường như đã vắt cạn hết lòng tự trọng của một con người, xoá sạch nổi
cao ngạo đối với một con chó, và đầy ắp nổi cưu mang đối với giá trị nhân phẩm trót
vời của nền luân lý Á Đông. Cái chết của Lão Hạc dù “vật vã trên giường… vật vã
đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”, nhưng ai hiều được cái bên trong tội nghiệp đến
rùng mình ấy còn tàn trử một hòn ngọc vô giá lấp lánh rạng ngời niềm vui tiếc hạnh.
Có hai người hiểu Lão: một ông giáo và một tên ăn trôm hàng xóm. Chỉ ở hai thái cực
luân lý này mới hiểu được con người trong xã hội thực dân nữa phong kiến đầy hư
danh thực lợi đó. Nam Cao đã từng trên quan điểm nhân bản của Thánh hiền, lặn sau
xuống đáy tột cùng của xã hội để hiểu một con người. Tình thương yêu và sự trong
sáng của ông đã được đền bù thoả đáng. Ông thông cảm cho cuộc đời, vì “một người
đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác
đâu”. Ở đây ông “chỉ buồn chứ không nở giận”, mà buồn là “… buồn theo một nghĩa
khác..” Trong cái bi đát của con người torng xã hội hỗn mang ấy, ông tìm ra một ý
nghĩ cho cuộc sống: Tình thuông yêu (Nhân) và lẽ sống cao đẹp (Nghĩa). Ý nghĩa đó
là ngôi sao Bắc đẩu lấp lánh rọi đường cho những nhân vật trong truyện của ông mò
mẫm đi giữa bối cảnh mờ mịt của chế độ phong kiến thực dân đương thời, nhờ đó họ
có thể ngẩng mặt sống trườn qua cơn trốt xoáy ác liệt của hư vô.
- Nước mắt ngậm ngùi làm nền cho bức tranh hiện thực, tình thương và nghĩa
sống là những nét chấm phá truyền thần trong dòng tư tưởng của Nam Cao, nhà văn
đã tạo ra một lực hấp dẫn cho hai hình ảnh- một người cha thương con và một ông lão
nghèo kiết xác nhưng vẫn tự trọng- đáng thương của cuộc sống. Những nhân cật của
Nam Cao đã chết, nhưng không phải chỉ trong thời đại của ông, mà hơn bao giờ hết,
chúng ta hôm nay cũng phải thắp hương thờ lạy lão già quê mùa đó, để mọi giá trị và
những nahn4 hiệu trinh tâm đuôc gom hết lại, ta cùng Nam Cao thẩm định lại và giữ
gìn những gì thiêng liêng nhất, những di sản quý bàu của cha ông, giữ gìn mãnh vườn
của Lão Hạc. “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt… Tôi sẽ cố giữ gín cho
lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn…”